Tải bản đầy đủ (.doc) (89 trang)

Bình đẳng giới trong việc sử dụng các biện pháp kế hoạc hóa gia đình của các cặp vợ chồng tại xã đức đồng huyện đức thọ tỉnh hà tĩnh luận văn tốt nghiệp đại học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (445.43 KB, 89 trang )

Trờng đại học vinh
Khoa lịch sử
----------***---------

Mai thị ngọc hà

Khóa luận tốt nghiệp đại học

Bình đẳng giới trong việc sử dụng các biện pháp
Kế hoạch hóa gia đình của các cặp vợ chồng tại
XÃ Đức Đồng Huyện Đức Thọ - Tỉnh Hà Tĩnh

Chuyên ngành: công tác xà hội

Vinh - 2011


Lời cảm ơn!
Trong quá trình thực hiện bài luận văn tốt nghiệp chuyên ngành công
tác xã hội với đề tài “Bình đẳng giới trong việc sử dụng các biện pháp Kế
hoạch hóa gia đình của các cặp vợ chồng tại Xã Đức Đồng – Huyện Đức
Thọ - Tỉnh Hà Tĩnh”, bên cạnh sự nổ lực của bản thân, tôi đã nhận đựơc sự
giúp đỡ, động viên nhiệt tình của thầy cơ, gia đình và bạn bè.
Để hồn thành bài luận tốt nghiệp này, trước tiên tôi xin đựơc gửi lời
cảm ơn sâu sắc tới Cô giáo, Thạc sỹ: ĐẶNG THỊ MINH LÝ đã trực tiếp hướng
dẫn, chỉ bảo, động viên tơi trong suốt q trình thực hiện bài luận này.
Đồng thời tôi cũng xin chân thành cảm ơn Nhà trường cùng các Thầy,
Cô giáo trong tổ bộ môn công tác xã hội, ban Lãnh đạo xã Đức Đồng, đặc biệt
là UB DS – KHHGĐ xã đã tạo điều kiện hết sức thuận lợi cho tơi trong suốt
q trình thu thập tài liệu tại cơ sở
Khố luận khơng tránh khỏi những thiếu sót nhất định, tơi rất mong


nhận được những ý kiến đóng góp của Thầy cơ, các bạn và những người quan
tâm đến vấn đề này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Vinh, tháng 5 năm 2011
Sinh viên
Mai Thị Ngọc Hà

2


DANH MỤC VIẾT TẮT

KHHGĐ

:

Kế hoạch hóa gia đình

DS – KHHGĐ :

Dân số - Kế hoạch hóa gia đình

UBDS

:

Uỷ ban dân số

CNH – HĐH


:

Cơng nghiệp hóa – Hiện đại hóa

SKSS

:

Sức khỏe sinh sản

UBND

:

Uỷ ban nhân dân

CTV

:

Cộng tác viên

3


MỤC LỤC
Trang
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................................................79



PHẦN 1: MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cơng tác dân số kế hoạch hóa gia đình là một bộ phận quan trọng trong
chiến lược phát triển đất nước, là một trong những vấn đề kinh tế - xã hội
hàng đầu, là yếu tố nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân, là mục tiêu
hướng dẫn hàng đầu toàn Đảng, toàn dân, toàn dân tộc. Với một đất nước hơn
80 triệu dân hiện nay thì đây khơng phải là vấn đề đơn giản, đặc biệt trong lúc
cả thế giới đang đứng trước nguy cơ bùng nổ dân số, vì vậy cần đặt ra một
câu hỏi lớn địi hỏi sự quan tâm của tất cả mọi người, kêu gọi tất cả mọi người
hãy thực hiện “ KHHGĐ”. Đây là biện pháp hữu hiệu đối với chúng ta.
Chúng ta đã biết hậu quả của sự bùng nổ dân số đã ảnh hưởng rất lớn
tới đời sống, kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội, ảnh hưởng đến tất cả mọi
mặt của đời sống chúng ta, tới chất lượng cuộc sống, gây ra hậu quả bệnh tật,
nghèo đói, thất học vv….Vì vậy thực hiện kế hoạch hóa gia đình là một biện
pháp có vai trị rất quan trọng nhằm làm giảm sức ép của sự gia tăng dân số
để sớm ổn định dân số ở mức hợp lý, việc giải quyết đồng bộ, từng bước và
có trọng điểm từng yếu tố của chất lượng, cơ cấu dân số và phân bố dân số
nhằm phát triển nguồn nhân lực đáp ứng u cầu cơng nghiệp hóa – hiện đại
hóa đất nước là mục tiêu chiến lược Dân số việt nam giai đoạn 2001 – 2010.
Trong đó, chiến lược xác định : Cần xây dựng và thực hiện các chính
sách xã hội để nâng cao vị thế và quyền năng cho phụ nữ, khuyến khích nam
giới chia sẽ trách nhiệm trong chăm sóc sức khỏe sinh sản,sử dụng các biện
pháp kế hoạch hóa gia đình. Việc thu hút sự tham gia của nam giới vào các
vấn đề sức khỏe sinh sản đặc biệt là vào việc sử dụng các biện pháp KHHGĐ
là hết sức quan trọng, nó góp phần quan trọng trong việc cùng với vợ trao đổi
và gánh vác trách nhiệm trong quyết định về các biện pháp KHHGĐ sử dụng,

5



từ đó đi đến được việc điều tiết được số con, điều tiết sinh con, khoảng cách
sinh con, đảm bảo sức khỏe cho mọi người dân.
Tuy nhiên chúng ta biết hiện nay, vấn đề bất bình đẳng giới nam và
giới nữ trong việc sử dụng các biện pháp kế hoạch hóa gia đình cịn có nhiều
vấn đề bất cập.
Chương trình DS – KHHGĐ trong thời gian qua mới tập trung vào
giảm mức sinh thông qua KHHGĐ nhằm hạn chế tốc độ gia tăng quy mô dân
số, chứ chưa chú trọng nhiều đến các khía cạnh khác của vấn đề dân số như:
Sự tham gia của nam giới, bình đẳng giới trong việc sử dụng các biện pháp
KHHGĐ, thực tế khi nói đến việc nam giới chia sẽ với phụ nữ trong việc sử
dụng các biện pháp KHHGĐ khơng ít người cho rằng đó là “việc của chị em”,
vai trị của người đàn ông trong vấn đề này dường như mờ nhạt, thậm chí
nhiều người nghĩ họ vơ can.
Trước đây để thực hiện bình đẳng giới trong việc sử dụng các biện
pháp KHHGĐ chưa được quan tâm đúng mực. ngày nay, xã hội đã dành sự
chú ý nhiều hơn tới vấn đề này. Khoa học công nghệ đã không ngừng phát
triển tạo ra được các biện pháp KHHGĐ phong phú về các loại, hiện đại về
chức năng giúp cho cả nam và nữ giới sử dụng một cách dễ dàng và đem lại
hiệu quả cao. Tuy nhiên không phải mọi người dân đều nhận thức được vấn
đề đó, trên thực tế vẫn có khoảng cách về việc lơi cuốn nam giới chia sẽ với
phụ nữ trong việc sử dụng các biện pháp KHHGĐ. Đặc biệt là địa bàn mà
chúng tôi đang tiến hành nghiên cứu, khảo sát : Xã Đức Đồng – Huyện Đức
Thọ - Tỉnh Hà Tĩnh. Theo số liệu của Ban dân số Gia đình và trẻ em xã Đức
Đồng đến tháng 12 năm 2010, tồn xã có 764 cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh
đẻ sử dụng các biện pháp tránh thai trong đó nam giới chỉ tham gia 18 cặp.
Nhận thấy được thực trạng bất bình đẳng giới trong việc sử dụng các biện
pháp KHHGĐ ở địa bàn nghiên cứu rất bất cập, nhận thức của người dân về

6



vấn đề này cịn thấp. Vì vậy cần đưa ra những giải pháp kịp thời và phù hợp để
nhằm nâng cao sự bình đẳng giới trong việc sử dụng các biện pháp KHHGĐ
hơn nữa. Chúng ta biết bình đẳng giới trong việc sử dụng các biện pháp
KHHGĐ là một yếu tố cơ bản góp phần thực hiện thành cơng chính sách dân
số, nâng cao chất lượng cuộc sống, tuy nhiên nó lại chưa được người dân
Huyện Đức Thọ nói riêng và Tỉnh Hà Tĩnh nói chung quan tâm đúng mực.
Chính vì xuất phát từ thực tế như vậy, tơi đã chọn đề tài: “ Bình đẳng
giới trong việc sử dụng các biện pháp Kế hoạch hóa gia đình của các cặp vợ
chồng tại Xã Đức Đồng – Huyện Đức Thọ - Tỉnh Hà Tĩnh” làm đề tài khóa
luận của mình.
2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
2.1. Ý nghĩa khoa học
Kết quả nghiên cứu có ý nghĩa khoa học rõ ràng, điều này thể hiện:
Trước hết kết quả nghiên cứu giúp làm sáng tỏ các lý thuyết xã hội học,
cụ thể là giúp ta hiểu được rõ hơn các lý thuyết cấu trúc chức năng, lý thuyết
mâu thuẫn, lý thuyết bình đẳng giới,...được vận dụng xem xét trong gia đình
có những chức năng nào và khi thực hiện các chức năng đó nó ảnh hưởng như
thế nào tới Bình đẳng giới trong việc sử dụng các biện pháp KHHGĐ, vận
dụng lý thuyết mâu thuẫn từ đó thấy được trong gia đình có những mâu thuẫn
gì, trong q trình thực hiện các biện pháp KHHGĐ có những mâu thuẫn nào,
áp dụng lý thuyết Bình đẳng xem xét được vai trị, trách nhiệm và nhiệm vụ
của hai giới trong gia đình và trong việc sử dụng các biện pháp KHHGĐ để
nghiên cứu bình đẳng giới trong việc sử dụng các biện pháp KHHGĐ.
Thứ hai, kết quả nghiên cứu góp phần hinh thành nên những quan niệm
khoa học về vấn đề bình đẳng giới trong việc sử dụng các biện pháp KHHGĐ.
Cụ thể là quan niệm về việc sử dụng các biện pháp KHHGĐ đều phải do cả
nam giới và nữ giới cùng tham gia, chia sẽ với nhau trong việc sử dụng các
biện pháp. Đồng thời, nghiên cứu cũng giúp ta có những quan điểm mới mẻ


7


trong việc áp dụng bình đẳng giới đối với các cặp vợ chồng trong việc sử
dụng các biện pháp KHHGĐ. Đây là một quan điểm quen thuộc đã hình thành
từ lâu ở trên thế giới, ở các nước phát triển song ở Việt nam nó cịn mới mẻ.
Thứ ba, kết quả nghiên cứu đã góp phần bổ sung thêm các tài liệu, kiến
thức về lĩnh vực bình đẳng giới trong việc sử dụng các biện pháp KHHGĐ
làm tư liệu tham khảo cho các chuyên nghành như: chuyên nghành xã hội học
về giới, xã hội học gia đình.
2.2. Ý nghĩa thực tiễn.
Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra được thực trạng Bình đẳng giới trong việc
sử dụng các biện pháp KHHGĐ của các cặp vợ chồng tại Xã Đức Đồng –
Huyện Đức Thọ - Tỉnh Hà Tĩnh.
Kết quả nghiên cứu này góp phần nâng cao bình đẳng giới trong việc
sử dụng các biện pháp KHHGĐ tại xã Đức Đồng – Huyện Đức Thọ - Tỉnh Hà
Tĩnh.
Ngoài ra với kết quả nghiên cứu đã dưa ra được những giải pháp thiết
thực đối thực trạng này nhằm giảm bớt được những nguy cơ về bệnh tật, sức
khỏe sinh sản, nghèo đói, thất học mà do vấn đề dân số gây nên.
3. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Bình đẳng giới trong việc sử dụng các biện pháp Kế hoạch hóa gia đình.
3.2. Khách thể nghiên cứu.
20 cặp vợ chồng độ tuổi 18- 45 tuổi đối với nữ và 20 – 50 tuổi đối với
nam, các tổ chức cơ quan, đồn thể, chính quyền xã Đức đồng – Huyện Đức
Thọ - Tỉnh Hà Tĩnh.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Để nâng cao thực trạng bình đẳng giới trong việc sử dụng các biện
pháp KHHGĐ có hiệu quả, trong nghiên cứu này, cá nhân tôi với tư cách

người nghiên cứu khoanh vùng phạm vi của đề tài về khía cạnh nghiên cứu:

8


Bình đẳng giới trong việc sử dụng các biện pháp KHHGĐ cảu các cặp vợ
chồng tại xã Đức Đồng.
Phạm vi khảo sát:
- Không gian nghiên cứu: Xã Đức Đồng – Huyện Đức Thọ - Tỉnh Hà
Tĩnh.
- Thời gian nghiên cứu: 02/03/2011 đến 30/04/2011
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu thực trạng và qua đó giúp cho các cặp vợ chồng trong độ tuổi
sinh để thấy được tầm quan trọng của việc bình đẳng giới trong việc sử dụng
các biện pháp KHHGĐ. Từ đó nhằm nâng cao nhận thức của họ đối với vấn
đề này.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Mô tả được thực trạng sử dụng các biện pháp kế hoạch hóa gia đình.
Mơ tả được thực trạng bình đẳng giới đang diễn ra trong việc sử dụng các
viện pháp kế hoạch hóa gia đình, những khó khăn hạn chế liên quan đến bình
đẳng giới cịn tồn tại trong việc sử dụng các biện pháp kế hoạch hóa gia đình.
Tìm hiểu ngun nhân dẫn đến tình trạng bình đẳng giới và những hạn
chế, tồn tại liên quan đến bình đẳng giới trong việc sử dụng các biện pháp kế
hoạch hóa gia đình.
Đưa ra một số giải pháp nhằm phát huy những mặt tích cực đã đạt được
về bình đẳng giới và khắc phục những hạn chế cịn tồn tại có liên quan đến
bình đẳng giới trong việc sử dụng các biện pháp kế hoạch hóa gia đình.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận

Nghiên cứu này sử dụng phương pháp nghiên cứu khoa học nền tảng là
phương pháp duy vật biện chứng và phương pháp duy vật lịch sử: Mọi hiện

9


tượng, sự kiện trong báo cáo đều được phân tích, nhìn nhận dưới góc độ lịch
sử, đặt trong mối tương quan, liên hệ chặt chẽ với nhau.
- Sử dụng biện pháp duy vật biện chứng: để nghiên cứu sự tác động qua
lại lẫn nhau của vấn đề bình đảng giới trong việc sử dụng các biện pháp
KHHGĐ là những thành cơng của chính sách dân số: để nghiên cứu sự tác
động, vai trò trách nhiệm, sự tham gia của nam giới trong việc sử dụng các
biện pháp KHHGĐ.
- Sử dụng biện pháp duy vật lịch sử: Qua đó để nghiên cứu sự thay đổi
về cách thức, số lượng, hiệu quả của việc áp dụng các biện pháp KHHGĐ,
mức độ tham gia của nam giới trong công tác thực hiện KHHGĐ giữa nam
trước và năm sau, qua từng thời kỳ, từng giai đoạn phát triển của lịch sử, kinh
tế, mức độ sử dụng các biện pháp KHHGĐ cũng sẽ khác nhau.
5.2. Các phương pháp cụ thể
5.2.1. Phương pháp phỏng vấn sâu
Trực tiếp phỏng vấn 20 cặp vợ chồng, 2cán bộ dân số, 2cán bộ y tế Xã
Đức Đồng - Huyện Đức Thọ - Tỉnh Hà Tĩnh để tìm hiểu được tâm lý, thái độ
đánh giá của họ như thế nào đối với vấn đề “bình đẳng giới trong cơng tác
thực hiện KHHGĐ”.
5.2.2. Phương pháp quan sát
Là phương pháp thu thập thông tin về đối tượng nghiên cứu bằng cách
quan sát, ghi chép các yếu tố, vấn đề có liên quan đến đề tài:
- Phương pháp quan sát được vận dụng để quan sát nhiều đối tượng
khác nhau: các hoạt động, biểu hiện bình đẳng giới trong việc sử dụng các
biện pháp KHHGĐ của các cặp vợ chồng.

- Quan sát thực trạng vấn đề bình đẳng giới trong việc sử dụng các biện
pháp KHHGĐ ở xã Đức Đồng hiện nay như thế nào.
- Quan sát thái độ sử dụng các dịch vụ, các biện pháp KHHGĐ của các
cặp vợ chồng tại xã Đức Đồng như thế nào.

10


5.2.3. Phương pháp phân tích tài liệu
Trong suốt q trình làm bài khóa luận, phương pháp phân tích tài liệu
được sử dụng liên tục và rất cần thiết, quan trọng. Nó đưa ra những số liệu
chính xác – thống kê từ những nguồn tài liệu khác nhau để giúp phân tích tình
hình để có thể lựa chọn cách giải quyết một cách phù hợp.
Cụ thể là để tiến hành nghiên cứu này, rất nhiều loại và nhóm tài liệu
được sử dụng để phân tích:
Tài liệu khoa học: bao gồm những tài liệu khoa học đã được cơng nhận
trong và ngồi nước
Tài liệu nội bộ: Những nghiên cứu khoa học, báo cáo đánh giá, tổng kết
do ủy ban dân số gia đình và trẻ em xã Đức Đồng – Huyện Đức Thọ - Tỉnh
Hà Tĩnh lưu hành nội bộ.
Những tài liệu trên được sử dụng phân tích và trích dẫn trong nội dung
chính của nghiên cứu.
6. Giả thuyết nghiên cứu
- Nhận thức của các cặp vợ chồng về vấn đề Bình đẳng giới trong việc
sử dụng các biện pháp KHHGĐ còn nhiều hạn chế.
- Hoàn cảnh kinh tế, phong tục tập quán, hệ thống các dịch vụ trợ giúp
ảnh hưởng đến vấn đề Bình đẳng giới trong việc sử dụng các biện pháp
KHHGĐ.
- Bình đẳng giới trong việc sử dụng các biện pháp KHHGĐ chưa được
sự quan tâm đúng mức từ phía gia đình và người chồng.


11


PHẦN 2: NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Các lý thuyết làm cơ sở lý luận
Để đảm bảo tính khoa học trong nghiên cứu, bài khóa luận này sử dụng
những lý thuyết làm cơ sở lý luận nghiên cứu đó là: Lý thuyết cấu trúc chức
năng làm nền tảng để nhìn nhận và phân tích vấn đề.
1.1.1.1. Lý thuyết cấu trúc chức năng
Lý thuyết cấu trúc chức năng hay còn gọi là lý thuyết chức năng, lý
thuyết hệ thống, nó bao gồm nhiều bọ phận, nhiều cơ quan cùng liên kết chặt
chẽ với nhau cấu thành nên một chỉnh thể mà mỗi bộ phận đều có chức năng
nhất định góp phần đảm bảo sự tồn tại của chỉnh thể đó với tư cách là một cấu
trúc tương đối ổn định, bền vững.
Trong thuyết chức năng có 4 loại tiểu hệ thống nhỏ khác nhau, mỗi tiểu
hệ thống đảm nhận thực hiện những chức năng phù hợp cụ thể:
- Tiểu hệ thống thích ứng ( được gọi là tiểu hệ thống kinh tế): có chức
năng cung cấp các phương tiện, nguồn lực và năng lượng để thực hiện các
mục đích để xác định. Tiểu hệ thống này bao gồm: các doanh nghiệp, các
chương trình kinh tế được tổ chức để thực hiện chức năng thích ứng của xã
hội đối với môi trường khan hiếm các nguồn lực.
- Tiểu hệ thống hướng đích ( được gọi là tiểu hệ thống chính trị): có
chức năng xây dựng các mục tiêu và định hướng cho toàn bộ hệ thống vào
việc thực hiện mục đích đã xác định. Tiểu hệ thống này bao gồm: các tổ chức
đảng phái, các cơ quan chính quyền trung ương và chính quyền địa phương.
- Tiểu hệ thống liên kết ( được gọi là tiểu hệ thống pháp luật): thực hiện
chức năng gắn kết các cá nhân, các nhóm và tổ chức xã hội, đồng thời giám


12


sát xã hội. Tiểu hệ thống này bao gồm các cơ quan pháp luật, cơ quan hành
chính và bộ máy an sinh xã hội.
- Tiểu hệ thống bảo tồn ( được gọi là tiểu hệ thống văn hóa): thực hiện
chức năng kích thích, động viên các cá nhân và nhóm xã hội, đồng thời đảm
nhận chức năng quản lý và bảo trì các khn mẫu hành vi, ứng xử của các
thành viên. Tiểu hệ thống này bao gồm gia đình, nhà trường, tổ chức văn hóa,
tơn giáo, khoa học…
Theo đó, chúng ta thấy gia đình nằm trong tiểu hệ thống văn hóa, và gia
đình thực hiện những chức năng cụ thể riêng.
Theo như nhà xã hội học Murdock đã tiến hành một cuộc nghiên cứu
trong 250 xã hội khác nhau và rút ra được kết luận: Gia đình thực hiện 4 chức
năng cơ bản đó là:
- Chức năng tình dục: Đây là chức năng quan trọng, thỏa mãn nhu cầu
tâm lý – sinh lý tình cảm thể xác lẫn tinh thần giữa hai vợ chồng.
- chức năng sinh sản: Đây là chức năng cơ bản và riêng có của gia đình
vừa đáp ứng nhu cầu tự nhiên, tâm – sinh lý của con người và đồng thời mang
ý nghĩa xã hội.
- Chức năng kinh tế: Đây là chức năng cơ bản của gai đình nhằm đáp
ứng những nhu cầu cơ bản về vật chất cho các thành viên trong gia đình, thực
hiện chức năng này cịn là việc gia đình sử dụng nguồn thu nhập để mua sắm
những sản phẩm phục vụ cho đời sống vật chất cho gia đình, góp phần thúc
đấy nền sản xuất xã hội phát triển.
- Chức năng giáo dục: Đây là những chức năng rất quan trong trong gia
đình. Nội dung giáo dục gia đình là tương đối ổn định và toàn diện, cha mẹ có
nghĩa vụ thương u, ni dưỡng con cái, chăm lo việc học tập và sự phát
triển lành mạnh của con cái cả về thể chất lẫn tinh thần để con cái trở thành

những cơng dân có ích cho xã hội.

13


Khi áp dụng để phân tích vấn đề nghiên cứu bình đẳng giới trong việc
sử dụng các biện pháp KHHGĐ, chúng ta áp dụng cơ bản chức năng tình dục
và chức năng sinh sản của gia đình để xem xét mối liên hệ giữa chức năng mà
gia đình đó thực hiện là chức năng tình dục và chức năng sinh sản nó tác
động, ảnh hưởng như thế nào tới sự bình đẳng giới trong việc sử dụng các
biện pháp KHHGĐ.
Xem xét khi gia đình thực hiện chức năng tình dục, thì trong q trình
thực hiện chức năng này có tác động ảnh hưởng tích cực hoặc hạn chế đến sự
bình đẳng giới trong việc sử dụng các biện pháp KHHGĐ như thế nào?
Xem xét khi gia đình thực hiện chức năng sinh sản, nó có tác động, ảnh
hưởng tới sự bình đẳng giới trong việc sử dụng các biện pháp KHHGĐ như
thế nào, tác động ảnh hưởng tới mức độ nào.
Thực hiện Bình đẳng giới trong việc sử dụng các biện pháp KHHGĐ
chính là thực hiện chức năng ổn định dân số và xã hội, thực hiện chức năng
làm giảm nguy cơ gây ảnh hưởng mà dân số gây ra, giúp xã hội ổn định hơn,
giảm sự kìm hãm phát triển của đất nước.
1.1.1.2. Lý thuyết mâu thuẫn
Lý thuyết mâu thuẫn được hình thành từ thế kỷ XIX bằng những cơng
trình nghiên cứu của K. Marx, lý thuyết này nó khơng nhấn mạnh tính ổn
định, trật tự, cân bằng mà nó nhấn mạnh sự mâu thuẫn, sự xung đột và biến
đổi xã hội, sự căng thẳng xã hội cùng với sự mâu thuẫn cạnh tranh, xung đột
nó nghiên cứu đến nhứng mâu thuẫn giữa các thành viên, cá nhân, nhóm
trong xã hội với nhau. Nguyên nhân là do sự khan hiếm các nguồn lực, do sự
phân công lao động và sự bất bình đẳng trong phân bổ nguồn lực nên quan hệ
giữa các cá nhân, các nhóm xã hội ln nằm trong tình trạng mâu thuẫn, cạnh

tranh với nhau vì lợi ích.

14


Vận dụng lý thuyết mâu thuẫn vào đề tài nghiên cứu: trong gia đình
xảy ra những mâu thuẫn giữa các thành viên về mọi mặt, cụ thể là mâu thuẫn
giữa vợ và chồng trong việc thực hiện các biện pháp KHHGĐ, đó là mâu
thuẫn về ai là người sử dụng các biện pháp KHHGĐ, mâu thuẫn ai là người
quyết định sử dụng các biện pháp nào, mâu thuẫn ai là người quyết định sinh
con, khoảng cách sinh con, mâu thuẫn trong việc chia sẻ khó khăn trong việc
sử dụng các biện pháp KHHGĐ, mâu thuẫn trong việc thực hiện các biện
pháp KHHGĐ, mâu thuẫn giữa việc lựa chọn các biện pháp KHHGĐ, có
những biện pháp KHHGĐ này người vợ thích sử dụng nhưng người chồng
khơng thích và ngược lại từ đó xảy ra mâu thuẫn.
Ngồi ra cịn có mâu thuẫn về lợi ích và nhu cầu của hai bên khi sử
dụng các biện pháp KHHGĐ, mâu thuẫn về lợi ích sức khỏe, nhu cầu tâm lý,
nhu cầu đáp ứng sinh lý. Đó là mâu thuẫn khi sử dụng các biện pháp KHHGĐ
ảnh hưởng đến lợi ích sức khỏe của người vợ hoặc người chồng, khi sử dụng
có thể gây những khó khăn như dị ứng hay khơng phù hợp cho vợ hoặc chồng
từ đó dẫn đến mâu thuẫn trong việc thực hiện các biện pháp. Nó ảnh hưởng
rất lớn tới cơng tác thực hiện bình đẳng giới trong việc sử dụng các biện pháp
KHHGĐ của các cặp vợ chồng.
Áp dụng lý thuyết mâu thuẫn vào phân tích, chúng ta nhận thấy được
nếu như có sự mâu thuẫn giữa các cặp vợ chồng về việc sử dụng các biện
pháp KHHGĐ thì sẽ dẫn đến tình trạng bất bình đẳng trong việc sử dụng các
biện pháp KHHGĐ, từ đó chúng ta rút ra được những kinh nghiệm, giải pháp
giải quyết được những mâu thuẫn đó nhằm nâng cao bình đẳng giới trong việc
sử dụng các biện pháp KHHGĐ của các cặp vợ chồng.
1.1.1.3 Lý thuyết bình đẳng giới

Bình đẳng giới đó là sự bình đẳng về cơ hội về quyền tham gia, quyền
thảo luận, quyền quyết định và quyền hưởng lợi từ các thành quả của sự phát

15


triển, nam và nữ có thể trải nghiệm những điều kiện bình đẳng để phát huy
đầy đủ các tiềm năng của họ, hưởng lợi như nhau.
Lý thuyết bình đẳng giới nhấn mạnh đến quyền bình đẳng của nam giới
và nữ giới ở tất cả mọi mặt trong đời sống xã hội, trong sự phân công lao
động, trong lĩnh vực gia đình..vv.
Nội dung lý thuyết chỉ rõ: nam và nữ giới tuy họ có cơ cấu sinh lý giới
tính khác nhau song họ có quyền lợi ngang bằng nhau trong việc hưởng lợi
các thành quả của sự phát triển, có quyền ngang bằng nhau trong việc tiếp cận
các cơ hội trong đời sống xã hội, cụ thể trong gia đình thì lý thuyết cho rằng
phụ nữ và nam giới đều có quyền bình đẳng trong phân cơng lao động, trong
giáo dục con cái, trong vấn đề chăm sóc sức khỏe cả tinh thần lẵn thể chất,
tham gia các hoạt động xã hội..vv. Và lý thuyết bình đẳng giới cịn chỉ rõ các
vai trị, nhiệm vụ mỗi giới đảm nhận cơng bằng nhau trong mọi lĩnh vực.
Áp dụng lý thuyết bình đẳng giới vào đề tài nghiên cứu đó là vận dụng
xem xét các vai trò, chức năng, nhiệm vụ của nam giới và nữ giới trong việc
sử dụng các biện pháp KHHGĐ. Cụ thể nam giới và nữ giới có vai trò, nhiệm
vụ, chức năng như thế nào trong việc sử dụng các biện pháp KHHGĐ; nam
giới và nữ giới có vai trò, nhiệm vụ, chức năng như thế nào trong việc quyết
định sử dụng các biện pháp KHHGĐ nào; nam giới và nữ giới có vai trị,
nhiệm vụ, chức năng như thế nào trong việc chia sẻ những khó khăn, thuận
lơi trong việc sử dụng các biện pháp KHHGĐ; đó là xem xét mối quan hệ các
chức năng, vai trò, từ đó thấy được kết quả của việc nam giới và nữ giới bình
đẳng thực hiện đúng vai trị nhiệm vụ của mình trong việc tham gia vào việc
thực hiện bình đẳng giới trong việc sử dụng các biện pháp KHHGĐ, thây

được việc bình đẳng giữa nam và nữ trong việc sử dụng các biên pháp
KHHGĐ thì nó tác động, ảnh hưởng tới hậu quả của việc thực hiện KHHGĐ

16


tốt hoặc xấu, nó tác động ảnh hưởng đến cuộc sống, sức khỏe, tinh thần cho
mọi người như thế nào.
1.1.2. Các khái niệm cơng cụ
1.1.2.1. Khái niệm bình đẳng giới
Có những quan niệm khác nhau về bình đẳng giới, như một vài định
nghĩa sau đây:
“ Một thuật ngữ phản ánh một sự chia sẻ bình đẳng về quyền lợi giữ
nam và nữ giới, trong sự tiếp cận bình đẳng của họ về giáo dục, sức khỏe,
quản lý và lãnh đạo, bình đẳng về tiền lương, về số đại biểu quốc hội và về
những cái khác” ( World Food Programme, 2001: 32).
“ Bình đẳng giới … xem xét theo nghĩa bình đẳng về luật pháp, cơ hội
– bao gồm sự bình đẳng trong việc tiếp cận các nguồn nhân lực, vốn và các
nguồn lực sản xuất khác, bình đẳng trong trả lương/ thù lao cơng việc và trong
tiếng nói ( WB, 2001: tr.37).
“ Bình đẳng giới: Là sự thừa nhận và coi trọng như nhau các đặc điểm
giống và khác nhau giữa phụ nữ và nam giới. Nam giới và phụ nữ có cùng vị
thế bình đẳng và được tơn trọng nhu nhau. Phụ nữ và nam giới cùng:
- Có điều kiện để phát huy hết khả năng và thực hiện các mong muốn
của mình
- Có có hội bình đẳng để tham gia, đóng góp và thụ hưởng từ các nguồn
lực của xã hội và quá trình phát triển.
- Được hưởng tự do và chất lượng cuộc sống bình đẳng.
- Được hưởng thành quả bình đẳng trong mọi lĩnh vực của xã hội”
( Uỷ ban Quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam; 2004;2).

Bình đẳng giới: Là việc nam, nữ có vị trí vai trị ngang nhau, được tạo
điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng

17


đồng, của gia đình và thụ hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển đó
( Điều 5, Luật Bình đẳng giới).
1.1.2.2. Khái niệm về KHHGĐ và các biện pháp KHHGĐ
Hiện nay có rất nhiều định nghĩa khác nhau về kế hoạch hố gia đình.
- “Kế hoạch hố gia đình là việc lập kế hoạch khi nào có trẻ em, và việc
sử dụng kiểm soát sinh sản và các kỹ thuật khác để thực hiện các kế hoạch đó
các kỹ thụât khác thường được sử dụng gồm Giáo dục giới tính, ngăn chặn và
quản lý các bệnh lây chuyền qua đường tình dục, tư vấn trước khi mang thai, và
quản lý vơ sinh.
Kế hoạch hố gia đình thỉnh thoảng được sử dụng như một thuật ngữ
đồng nghĩa với kiểm sốt sinh sản, dù nó thường có nội hàm lớn hơn. Nó chủ
yếu được áp dụng với một cặp nam - nữ muốn hạn chế số lượng trẻ em họ có
hay kiểm sốt thời gian mang thai (cũng được gọi là giãn cách sinh sản)” ,
(Theo khái niệm của tổng cục dân số Việt Nam: 2002; 18)
- “Kế hoạch hoá gia đình là nỗ lực của nhà nước, xã hội để mỗi cá nhân,
mỗi cặp vợ - chồng tự nguyện chủ động quyết định: Khi nào nên có con, khoảng
cách giữa hai lần sinh, số con mong muốn, khi nào thì thơi khơng sinh nữa…
nhằm bảo vệ sức khoẻ, ni dạy con có trách nhiệm, phù hợp với chuẩn mực xã
hội và điều kiện sống của mỗi gia đình.
Mâu thuẫn về ai là nghười quyết định sinh con, quyết định khoảng cách
sinh con, ai là người chịu trách nhiệm thực hiện các biện pháp KHHGĐ,
ngồi ra cịn những mâu thuẫn về nhu cầu, lợi ích và việc sinh con như là chủ
trương sinh 2 con nhưng do mâu thuẫn về nhu cầu, lợi ích của gia đình khác
nhau, họ muốn sinh 3 con chẳng hạn, nó sẽ có ảnh hưởng tới công tác thực

hiện KHHGĐ của các cặp vợ chồng”, (Theo Pháp lệnh dân số: 2005; 5).

18


Khái niệm về các biện pháp KHHGĐ
“Các biện pháp Kế hoạc hóa gia đình là bao gồm các biện pháp ngăn ngừa,
nhằm điều chỉnh các khoảng cách sinh con phù hợp, đáp ứng được nhu cầu tránh
thai, kế hoạch hóa gia đình cho các cặp vợ chồng, bao gồm các biện pháp:
* Biện pháp dùng hooc môn như: uống thuốc tránh thai, thuốc tiêm tránh
thai, cấy ghép dưới da.
* Biện pháp không dùng hooc môn: dụng cụ tử cung, triệt sản tự nguyện,
thắt và cắt ống dẫn tinh, thắt và cắt vòi dẫn trứng, dùng bao cao su.
* Biện pháp tự nhiên: xuất tinh ngồi âm đạo, tính vịng kinh, đo thân nhiệt,
theo dõi chất nhầy ở cổ tử cung”.( Bộ y tế, UBDS Gia đình và trẻ em; 2002; 61).
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
Bình đẳng giới trong việc sử dụng các biện pháp KHHGĐ là vấn đề quan
trọng, nó nằm trong chương trình kế hoạch hướng tới thực hiện tốt hơn mục tiêu
của chính sách dân số ở nước ta. Do nó có ảnh hưởng tác động sâu sắc đến nhiều
lĩnh vực như: công tác dân số, sự phát triển kinh tế, chăm sóc sức khỏe, sự phát
triển và hội nhập của đất nước. Nên vấn đề này đang ngày càng thu hút được sự
quan tâm đặc biệt của mọi người.
Để hiểu được lịch sử vấn đề nghiên cứu, trong phần này xin tóm lược đến
những đề tài, báo cáo khoa học có liên quan đến vấn đề này.
Đối với vấn đề: Bình đẳng giới trong việc sử dụng các biện pháp KHHGĐ
là một vấn đề cịn khá mới mẻ, ít nghiên cứu chuyên sâu. Những đề tài, báo cáo
khoa học dưới đây có mức độ liên quan khác nhau tới đề tài của nghiên cứu này,
hầu như khơng có đề tài nào trùng khớp hoàn toàn với đề tài mà nghiên cứu này
đang triển khai, cụ thể:

Các giáo trình chuyên nghành khoa học xã hội quan tâm đến vấn đề này
như quyển: “ Xã hội học về giới” của tác giả Hoàng Bá Thịnh ( NXB, ĐHQG Hà

19


Nội). Trong đó vấn đề Bình đẳng giới chiếm một mục nhỏ trong tồn bộ giáo
trình, nó đề cập đến những đặc điểm, thực trạng, biện pháp khắc phục nâng cao
bình đẳng giới.
Đề tài nghiên cứu khoa học: “ Nghiên cứu về vấn đề bình đẳng giới trong
tổ chức cuộc sống gia đình ở Bình Định- Thực trạng và giải pháp”, của Thạc sỹ
Nguyễn Thanh Thụy, Hội liên hiệp phụ nư Bình Định thực hiện trong năm 20022003. Đề tài này đã đưa ra được 7 giải pháp nhằm thực hiện bìnhđẳng giới trong
tổ chức đời sống gia đình. Trong đó nhấn mạnh đến vai trị cơng tác tun truyền
làm chuyển biến nhận thức và nâng cao ý thức thực hiện bình đẳng giới trong gia
đình về mọi mặt trong đó có mặt về y tế, chăm sóc sức khỏe sinh sản, KHHGĐ .
Giải pháp nêu rõ để tạo được sự bình đẳng giới trong việc thực hiện KHHGĐ cần
có sự truyền thông nâng cao nhận thức cho mọi người dân, giúp cho người dân
nhận thức được tầm quan trọng của việc thực hiện KHHGĐ đối với gia đình, nhà
nước và xã hội.
Nguyễn Thị Tuyết, 2007: “ Xây dựng chiến lược tăng cường bình đẳng
giới trong cơng tác thực hiện KHHGĐ ở Hà Nội” ( Tạp chí khoa học, ĐHQG Hà
nội, Khoa học xã hội và nhân văn, tập 23, số 3). Đề tài nghiên cứu đã đưa ra được
các chiến lược quan trọng nhằm tăng cường sự bình đẳng giới trong công tác thực
hiện KHHGĐ tại Hà Nội: Xây dựng các chiến lược cụ thể như: chiến lược phát
triển kinh tế làm địn bẫy nâng cao bình đẳng giới trong công tác thực hiện
KHHGĐ, xây dựng chiến lược tuyên truyền, truyền thong nâng cao nhận thức về
vấn đề bình đẳng giới trong công tác thực hiện KHHGĐ ở Hà Nội.
Trong báo cáo : “ Đánh giá tình hình giới ở Việt Nam ( 12/ 2006) được
thực hiện bởi các nhà tài trợ như: Ngân hàng thế giói, Ngân hàng phát triển Châu
Á, cơ quan phát triển kinh tế Canada và vụ phát triển quốc tế Vương quốc Anh đã

có nhận định: “ Việt Nam có những chính sách phù hợp nhằm đảm bảo quyền
bình đẳng cho phụ nữ và nam giới và đã có những tiến bộ đáng kể nhằm giảm

20


khoảng cách về giới trong lĩnh vực y tế, giáo dục cũng như cải thiện tình hình của
phụ nữ nói chung”.
“ Giới và bình đẳng giới trong chính sách dân số ở Việt Nam”, ( Hồng Bá
Thịnh, 2003, Tạp chí tư tưởng văn hóa số 11/ 2003). Nội dung của nghiên cứu nói
về đặc điểm thực trạng về vấn đề giới, bình đẳng giới trong các chính sách về dân
số ở Việt Nam, thực hiện rõ được sự bình đẳng giới trong các chính sách phát
triển dân số.
Nghiên cứu: “ Tình trạng dân số thế giới năm 2005, lời hứa cơng bằng,
bình đẳng giới, sức khỏe sinh sản và các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ”
( UNFPA – 2006). Với nghiên cứu này đã thể hiện được nội dung đưa ra của các
chiến lược nâng cao bình đẳng giới trong việc phát triển dân số, bình đẳng giới
trong việc chăm sóc và bảo vệ sức khỏe sinh sản, đó là nội dung phát triển của
thiên niên kỷ, nghiên cứu đã chỉ ra được tầm quan trọng của vấn đề bình đẳng giới
trong phát triển dân số.
Pháp lệnh dân số: “ Quyền và nghĩa vụ về sức khỏe sinh sản của cơng
dân”( Hồng Bá Thịnh, 2003, Tạp chí lý luận chính trị 7/2003). Trong nội dung
này đã làm nổi bật được quyền và nghĩa vụ của công dân về vấn đề sức khỏe sinh
sản bao gồm những quy định về các quyền được thực hiện liên quan đến sức khỏe
sinh sản và nghĩa vụ phải thực hiện đối với vấn đề về sức khỏe sinh sản.
Đánh giá tiến trình giới ở Việt Nam, Nghị Quyết số 11- NQ/TƯ của Bộ
chính trị về công tác phụ nữ trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa – hiện đại
hóa đất nước, đã khẳng định: “ Phụ nữ được tơn trọng và bình đẳng hơn, địa vị
của người phụ nữ trong xã hội và gia đình ngày càng được cải thiện. Bình đẳng
giới ở Việt Nam được liên hợp quốc đánh giá là điểm sáng trong thực hiện các

mục tiêu thiên niên kỹ”.( Báo Nhân dân 3/5/2007).
Tóm lại qua phần lịch sử vấn đề nghiên cứu, ta thấy được rằng đã có nhiều
nghiên cứu, báo cáo… nghiên cứu về vấn đề bình đẳng giới, KHHGĐ, chăm sóc

21


sức khỏe sinh sản. Tuy nhiên những nghiên cứu về bình đẳng giới trong việc sử
dụng các biện pháp KHHGĐ khơng nhiều. Từ đó, ta nhận thấy rằng những nghiên
cứu trên chỉ liên quan một phần đến đề tài nghiên cứu này. Chưa có nghiên cứu
nào trùng khớp hồn tồn về đề tài và phạm vi nghiên cứu. Do đó nghiên cứu này
sử dụng những nghiên cứu trên như tài liệu tham khảo, cơ sở để so sánh, đối chiếu
với vấn đề thực thiễn nghiên cứu.
Nghiên cứu về“ Bình đẳng giới trong việc sử dụng các biện pháp KHHGĐ
của các cặp vợ chồng” là sự đóng góp trên một khía cạnh nhỏ phạm vi cấp địa
phương là : Xã Đức Đồng – Huyện Đức Thọ - Tỉnh Hà Tĩnh về khía cạnh bình
đẳng giới và khía cạnh bình đẳng giới trong việc sử dụng các biện pháp KHHGĐ.
1.2.2. Quan điểm của Đảng, Nhà Nước ta về bình đẳng giới, Kế hoạch
hóa gia đình và bình đẳng giới trong việc sử dụng các biện pháp Kế hoạch hóa
gia đình.
1.2.2.1. Quan điểm của Đảng và Nhà Nước ta về bình đẳng giới
“ Bình đẳng giới: Là sự thừa nhận và coi trọng như nhau các đặc điểm
giống và khác nhau giữa phụ nữ và nam giới. Nam giới và phụ nữ có cùng vị
thế bình đẳng và được tơn trọng nhu nhau. Phụ nữ và nam giới cùng:
- Có điều kiện để phát huy hết khả năng và thực hiện các mong muốn
của mình
- Có có hội bình đẳng để tham gia, đóng góp và thụ hưởng từ các nguồn
lực của xã hội và quá trình phát triển.
- Được hưởng tự do và chất lượng cuộc sống bình đẳng.
- Được hưởng thành quả bình đẳng trong mọi lĩnh vực của xã hội”

( Uỷ ban Quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam; 2004;2).
Ngay từ khi mới thành lập, trong Luận cương chính trị của Đảng đã
quan tâm đến sự nghiệp giải phóng phụ nữ. Quan điểm bình đẳng nam nữ
được thực hiện xuyên suốt trong các giai đoạn cách mạng của dân tộc. Kể từ

22


Hiến pháp đầu tiên 1946 với tuyên ngôn: “ Đàn bà ngang quyền với đàn ông
trên mọi phương diện” đã đánh dấu bước ngoặt quan trọng về chính sách, luật
pháp của Đảng về bình đẳng nam nữ và chống phân biệt đối xử với phụ nữ.
Các văn bản tiếp theo đều kế thừa quan điểm về quyền bình đẳng của phụ nữ
so với nam giới từ hiến pháp đầu tiên.
- Trong Hiến pháp nước CHXHCNVN 1992
Hiến pháp cũng đã thể hiện rõ quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về
Bình đẳng giới cụ thể tại:
Điều 63: của Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 1992 đã quy
định: Công dân nữ và nam có quyền ngang nhau về mọi mặt chính trị, kinh tế,
văn hố, xã hội và gia đình. Nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt đối xử với
phụ nữ, xúc phạm nhân phẩm phụ nữ... Nhà nước và xã hội tạo điều kiện để
phụ nữ nâng cao trình độ mọi mặt, khơng ngừng phát huy vai trị của mình
trong xã hội..
Điều này đã tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc thực hiện quyền bình
đẳng nam nữ trong xã hội Việt Nam.
Trong thời kỳ đổi mới, chủ trương của Đảng về cơng tác phụ nữ và
bình đẳng giới được thực hiện xuyên suốt trong nghị quyết đại hội Đảng, các
chỉ thị nghị quyết của TƯ Đảng, Bộ Chính trị, Ban bí thư về cơng tác quần
chúng, cơng tác vận động phụ nữ, công tác cán bộ phụ nữ. Nhà nước đã ban
hành nhiều chính sách cụ thể nhằm tạo điều kiện để phụ nữ phát triển và thúc
đẩy bình đẳng giới. Lần đầu tiên, trong các văn kiện của Đảng khi đề cập đến

vấn đề phụ nữ, thuật ngữ “ giới” chính thức được sử dụng trong văn kiện Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng, được nhắc đến hai lần “ Đối với
phụ nữ, thực hiện tốt luật pháp và chính sách bình đẳng giới” và thiết thực
chăm lo sự bình đẳng giới, sự tiến bộ của phụ nữ”,( NXB Chính trị QG, HN,
2001, tr.18) và được khẳng định lại trong đại hội đại biểu toàn quốc lần X : “

23


Đối với phụ nữ, nâng cao trình độ mọi mặt trong đời sống vật chất, tinh thần,
thực hiện bình đẳng giới” ( 2006; 120).
- Ngoài ra quan điểm của Đảng và Nhà Nước ta về bình đẳng giới cịn
được thể hiện rõ trong Luật bình đẳng giới:
Luật bình đẳng giới của quốc hội khoá XI, kỳ họp thứ 10 số
73/2006/QH ngày 29/11/2006
Điều 18: Bình đẳng giới trong gia đình
Vợ - chồng bình đẳng nhau trong quan hệ dân sự và các quan hệ khác
liên quan đến hơn nhân gia đình.
Vợ - chồng bình đẳng nhau trong việc bàn bạc, quyết định lựa chọn và
sử dụng các biện pháp kế hoạch hố gia đình phú hợp, sử dụng thời gian nghỉ,
chăm sóc con ốm theo qui định của pháp luật.
Con trai – gái được chăm sóc, giáo dục và tạo điều kiện như nhau để
học tập, lao động, vui chơi giải trí và phát triển.
( Luật bình đẳng 2007; NXB Chính trị QG;2007; 16).
Việc xây dựng và ban hành luật bình đẳng giới nhằm đảm bảo quyền
lợi của phụ nữ một cách tập trung và đầy đủ trong gia đình mới là một biểu
hiện của một bước tiến mới trong việc thực thi quan điểm Bình đẳng giới của
Đảng và Nhà nước.
- Quan điểm của Đảng và Nhà Nước ta về Bình đẳng giới cịn được
thể hiện ở trong Luật Hơn nhân và gia đình năm 2000.

Trong điều 2 - chương I - Những quy định chung thể hiện rõ về vấn đề
Bình đẳng giới tại:
Điều 2: Những nguyên tắc cơ bản của chế độ hơn nhân và gia đình.
1. Hơn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình
đẳng.

24


2. Hôn nhân giữa công dân Việt Nam thuộc các dân tộc, các tôn giáo,
giữa người theo tôn giáo với người không theo tôn giáo, giữa công dân Việt
Nam với người nước ngồi được tơn trọng và được pháp luật bảo vệ.
3. Vợ chồng có nghĩa vụ thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hố gia
đình.
4. Nhà nước và xã hội không thừa nhận sự phân biệt đối xử giữa các con,
giữa con trai và con gái, con đẻ và con nuôi, con trong giá thú và con ngồi giá thú.
5. Nhà nước và xã hội có trách nhiệm bảo vệ phụ nữ, trẻ em, giúp đỡ
các bà mẹ thực hiện tốt các chức năng cao quý của người mẹ.
Trong điều 19, chương 3 của luật hôn nhân và gia đình năm 2000 cũng
khẳng định: “ Quan hệ giữa vợ và chồng – Bình đẳng về nghĩa vụ và quyền
giữa vợ và chồng. Vợ, chồng bình đẳng với nhau, có nghĩa vụ và quyền ngang
nhau về mọi mặt trong gia đình”.
( Luật hơn nhân và gia đình 2000, NXB Lao động; 2000; 16).
-

Trong Pháp lệnh dân số 2003:

Theo điều 23: trong pháp lệnh dân số 2003 quy định về quyền bình
đẳng giới:
1. Tuyên truyền về bình đẳng giới, xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối

xử dựa trên cơ sở giới tính, tạo điều kiện cho nữ giới chủ động thực hiện
chăm sóc SKSS, KHHGĐ và được tiếp cận bình đẳng giới về giáo dục đào
tạo, nâng cao trình độ mọi mặt và tham gia các hoạt động xã hội, nam giới
phải có trách nhiệm thực hiện KHHGĐ.
2. Loại bỏ mọi sự phân biệt đối xử với trẻ em gái, bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của trẻ em gái trong sinh hoạt, khám và chữa bệnh, học tập vui
chơi, giải trí và phát triển tồn diện.
( Pháp lệnh dân sơ; 2003; 19).

25


×