Tải bản đầy đủ (.doc) (68 trang)

Dấu hiệu định tội của tội trộm cắp tài sản theo quy định của bộ luật hình sự việt nam năm 1999 một số vấn đề lý luận v

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (491.55 KB, 68 trang )

MỤC LỤC
Trang
A. MỞ ĐẦU
1
Tình thế cấp thiết của đề tài: 1
2. Lịch sử nghiên cứu của đề tài:
2
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài: 2
4. Phương pháp nghiên cứu: 3
5. Ý nghĩa nghiên cứu của đề tài:
3
6. Bố cục của đề tài:
3
B. NỘI DUNG
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN THEO
QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 1999
4
1.1. Khái niệm : 4
1.1.1.Tội trộm cắp tài sản theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm
1985 4
1.1.2. Tội trộm cắp tài sản theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm
1999 5
1.2. Dấu hiệu pháp lý của tội trộm cắp tài sản theo quy định của Bộ luật hình sự
Việt Nam năm 1999
6
1.2.1. Khách thể của tội trộm cắp tài sản
7
1.2.2. Mặt khách quan của tội trộm cắp tài sản
11
1.2.3. Mặt chủ quan của tội trộm cắp tài sản


15
1.2.4. Chủ thể của tội trộm cắp tài sản
18
1.3. Đồng phạm và các giai đoạn thực hiện tội trộm cắp tài sản 19
1.3.1. Đồng phạm trộm cắp tài sản 19
1.3.2. Các giai đoạn thực hiện tội trộm cắp tài sản 22
1.4. Phân biệt dấu hiệu định tội của tội trộm cắp tài sản với một số tội xâm phạm
sở hữu khác
26
1.4.1.Phân biệt dấu hiệu định tội của tội trộm cắp tài sản với tội công nhiên
chiếm đoạt tài sản 26
1.4.2.Phân biệt dấu hiệu định tội của tội trộm cắp tài sản với tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản 28
1.4.3. Phân biệt dấu hiệu định tội của tội trộm cắp tài sản với tội cướp giật tài
sản 31


1.5. Trách nhiệm hình sự của người phạm tội trộm cắp tài sản 33
1.5.1. Trách nhiệm hình sự của người phạm tội trộm cắp tài sản theo khoản 1
Điều 138 BLHS 34
1.5.2. Trách nhiệm hình sự của người phạm tội trộm cắp tài sản theo khoản 2
Điều 138 BLHS 44
1.5.3. Trách nhiệm hình sự của người phạm tội trộm cắp tài sản theo khoản 3, 4
Điều 138 BLHS 48
Chương 2
TÌNH HÌNH TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN QUỲ HỢP
VÀ MỘT SỐ KIẾN GIẢI KHẮC PHỤC 51
2.1. Tình hình tội trộm cắp tài sản diễn ra trên địa bn huyn Qu Hp trong
thi gian gn õy. .
51

2.1.1. Đặc điểm địa bàn huyện Qùy Hợp 51
2.1.2. Tình hình tội phạm hình sự trên địa bàn huyện Qùy Hợp 51
2.1.3. Tình hình tội phạm trộm cắp trên địa bàn huyện Qu Hp .
53
2.2. Nguyên nhân phạm tội trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Quỳ Hợp 59
2.2.1. Nguyên nhân về kinh tế, xà hội
59
2.2.2. Nguyên nhân về công tác giáo dục 60
2.2.3. Nguyên nhân về quản lý xà hội
61
2.2.4. Nguyên nhân về quản lý tài sản của chủ sở hữu, ngời có trách nhiệm quản
lý tài sản 61
2.3. Điều kiện phạm tội trộm cắp tài sản
62
2.4. Mt số kiến nghị và giải pháp nhằm hạn chế tội trộm cắp tài sản trên địa bàn
huyện Quỳ Hợp 62
2.4.1. Một số biện pháp phòng ngừa tội phạm trộm cắp trên địa bàn huyện Quỳ
Hợp 62
2.4.2. Một số kiến nghị về nâng cao hiệu quả hoạt động của công tác phòng ngừa
tội trộm cắp trên địa bàn huyn Qựy Hp – Tỉnh Nghệ An
C. KẾT LUẬN 68
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 70

A. MỞ ĐẦU
2

65


1.Tình thế cấp thiết của đề tài:

Trong những năm qua tình hình tội phạm ở Việt Nam diễn biến ngày càng phức
tạp, nhiều vụ án xảy ra với tính chất, hậu quả rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm
trọng không ngừng gia tăng. Tình hình an ninh quốc gia trở nên bức thiết, việc
phòng và chống tội phạm được đẩy mạnh cũng như được sự quan tâm chỉ đạo
sát sao của Đảng và nhà nước, được sự quan tâm ủng hộ của nhân dân.
Mặt khác trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, Nhà nước ta có nhiệm vụ
bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của Nhà nước cũng như của nhân dân. Với vai trò
là nền tảng kinh tế xã hội của quốc gia, chế độ sở hữu là một trong những vấn đề
trọng yếu được Nhà nước bảo vệ bằng mọi biện pháp trong đó biện pháp pháp lý
hình sự thể hiện kiên quyết nhất ý chí quyền lực Nhà nước trong xử lý các hành
vi xâm phạm tới chế độ sở hữu. Trong số các tội xâm phạm sở hữu, tội trộm cắp
tài sản là tội xâm phạm trực tiếp tới quyền sở hữu tài sản và xảy ra khá phổ biến.
Ở mỗi giai đoạn phát triển, Nhà nước đều có những quy định về tội trộm cắp tài
sản và biện pháp xử lý nhằm đấu tranh loại bỏ tội phạm khỏi đời sống xã hội.
Những năm gần đây tội trộm cắp tài sản diễn biến phức tạp gây hậu quả ngày
càng nghiêm trọng, ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội . Đặc biệt là trên
địa bàn huyện Quỳ Hợp vấn đề về tội trộm cắp tài sản diễn ra ngày càng phức
tạp mà nguyên nhân chủ yếu vì đây là địa bàn miền núi, với sự đa dạng về thành
phần dân cư, trình độ dân cư còn thấp…
Tuy nhiên trong những năm qua nhờ sự phối hợp chặt chẽ của các cơ quan bảo
vệ pháp luật, hoạt động xét xử của ngành toà án từng bước được nâng cao, số
lượng các bản án bị huỷ đã giảm, song bên cạnh đó vẫn cịn nhiều hạn chế cần
phải khắc phục. Có thể nhận định một trong những nguyên nhân chính là do các
cơ quan bảo vệ pháp luật không đánh giá đúng bản chất của hành vi phạm tội
dẫn đến xác định sai tội danh, hoặc xử oan hoặc bỏ lọt tội phạm. Để khắc phục
tình trạng trên thì vấn đề cốt lõi đầu tiên là phải nắm vững các quy định pháp
luật về tội phạm, nhận thức đúng bản chất của hành vi phạm tội từ đó có đường
lối xử lý đúng đắn đảm bảo sự công bằng, nghiêm minh của pháp luật.
Nhận thức được điều đó, tác giả đã mạnh dạn chọn đề tài: “ Dấu hiệu định tội
của tội trộm cắp tài sản theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm

3


1999 - Một số vấn đề lí luận và thực tiễn trên địa bàn huyện Quỳ Hợp” làm
khoá luận tốt nghiệp cho mình với hy vọng giúp có được cái nhìn tồn diện,
đúng đắn về tội trộm cắp tài sản.
2. Lịch sử nghiên cứu của đề tài:
Đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về tội trộm cắp tài sản, trước hết phải kể đến
Giáo trình Luật hình sự của Trường Đại học Luật Hà Nội, Trường Đại học Quốc
Gia Hà Nội, Bình luận khoa học BLHS phần Các tội xâm phạm sở hữu đã phân
tích các dấu hiệu pháp lý của tội trộm cắp tài sản, tiếp đó là các cơng trình
nghiên cứu cá nhân như tác giả Vũ Thiện Kim với “Trách nhiệm hình sự đối với
các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa, tài sản của công dân”, tác giả Thân
Như Thành với luận văn thạc sĩ luật học “Đấu tranh phòng chống tội trộm cắp
tài sản trên địa bàn thành phố Hà Nội”, tác giả Nguyễn Ngọc Chí với “Trách
nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu” cùng nhiều cơng trình nghiên
cứu khác. Song các cơng trình nghiên cứu đó hoặc là về các tội xâm phạm sở
hữu nói chung hoặc là đi sâu nghiên cứu về mặt đấu tranh phòng chống tội
phạm, chưa có cơng trình nào nghiên cứu chun sâu về tội trộm cắp tài sản.
Khoá luận này đi vào nghiên cứu những dấu hiệu đặc trưng pháp lý để định tội
trộm cắp tài sản, đồng thời nghiên cứu về thực trạng và đưa ra một số kiến giải
nhằm khắc phục tình trạng tội trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Quỳ Hợp.
3.Mục đích nghiên cứu của đề tài:
Đề tài đi vào nghiên cứu dấu hiệu định trộm cắp tài sản, nhằm làm rõ dấu hiệu
đặc trưng pháp lý của tội trộm cắp tài sản với các tội xâm phạm sở hữu khác.
Ngồi ra đề tài cịn nghiên cứu về thực trạng và đưa ra một số kién giảinhằm
khắc phục tình trạng tội trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Quỳ Hợp.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Để đạt được mục tiêu đề ra, trong quá trình nghiên cứu tác giả đã sử dụng
phương pháp nghiên cứu duy vật biện chứng, duy vật lịch sử và phương pháp so

sánh, phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp . Nghiên cứu tội trộm cắp
tài sản trong sự vận động nội tại phát triển của nó, trong mối quan hệ với các
quy định khác của luật hình sự như: chế định đồng phạm, chế định các giai đoạn
thực hiện tội phạm... thấy rõ và phân biệt được dấu hiệu định tội của tộ trộm cắp
4


tài sản với các tội danh khác được quy định trong bộ luật hình sự.
5.Ý nghĩa nghiên cứu của đề tài:
Khố luận có ý nghĩa về mặt lý luận cũng như thực tiễn, những kết quả nghiên
cứu của khoá luận có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong cơng tác nghiên
cứu khoa học pháp luật hình sự, đồng thời có thể phục vụ thiết thực cho cơng tác
đấu tranh phòng chống tội phạm trên địa bàn huyện Quỳ Hợp . Đề tài cũng góp
phần nâng cao hiểu biết cho mọi người về việc phân định tội trộm cắp tài sản
với các tội danh khác, và cung cấp một cái nhìn tồn diện về tội trộm cắp tài
sản .
6. Bố cục của đề tài:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về tội trộm cắp tài sản theo quy định của Bộ
luật hình sự Việt Nam năm 1999.
Chương 2: Tình hình tội trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Quỳ Hợp và một số
kiến giải khắc phục

5


B.NỘI DUNG

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN THEO QUY
ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 1999

1.1. Khái niệm :
1.1.1.Tội trộm cắp tài sản theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm
1985
Từ những văn bản tản mạn riêng lẻ, BLHS năm 1985 được Quốc hội khố VII
thơng qua ngày 27-6-1985, thể hiện dưới hình thức bộ luật - một hình thức lập
pháp cao, đã trình bày có hệ thống, tồn diện phần chung cũng như phần các tội
phạm có tính bao quát về tất cả các hành vi nguy hiểm cho xã hội có tác dụng
bảo vệ thành quả cách mạng, an ninh quốc gia, trật tự xã hội, quyền và lợi ích
hợp pháp khác của cơng dân. BLHS 1985 về các tội xâm phạm sở hữu rất tiêu
biểu cho thời kì quá độ xây dựng nền kinh tế kế hoạch hố tập trung, theo đó chỉ
có hai loại hành vi xâm phạm sở hữu là hành vi xâm phạm sở hữu XHCN và
hành vi xâm phạm sở hữu của công dân quy định ở hai chương: Các tội xâm
phạm sở hữu XHCN và Các tội xâm phạm sở hữu của công dân.
Điều 132 BLHS 1985 quy định tội trộm cắp tài sản XHCN như sau:
“1. Người nào trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa thì bị phạt cải tạo không giam
giữ đến hai năm hoặc bị phạt tù từ sáu tháng đến năm năm. 2. Phạm tội thuộc
một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ ba năm đến mười hai năm: a.
Có tổ chức hoặc có tính chất chun nghiệp; b. Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy
hiểm; c. Hành hung để tẩu thoát; d. Chiếm đoạt tài sản có giá trị lớn; đ. Tái
phạm nguy hiểm. 3. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị
phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình”.
Điều 155 BLHS 1985 quy định tội trộm cắp tài sản của công dân như sau:
“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác thì bị phạt cải tạo khơng giam
giữ đến một năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến một năm. 2. Phạm tội thuộc
một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ hai năm đến mười năm: a.
Có tổ chức hoặc có tính chất chuyên nghiệp; b. Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy
6


hiểm, hành hung để tẩu thoát; c. Chiếm đoạt tài sản có giá trị lớn hoặc gây hậu

quả nghiêm trọng khác; d. Tái phạm nguy hiểm. 3. Phạm tội trong trường hợp
đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ bảy năm đến hai mươi năm”.
BLHS 1985 đã trở thành một cơ sở pháp lý quan trọng trong việc xử lý người
phạm tội, song vẫn còn sự phân biệt giữa tội trộm cắp tài sản XHCN và tội trộm
cắp tài sản của cơng dân, theo đó người phạm tội trộm cắp tài sản XHCN bị xử
lý nghiêm khắc hơn người phạm tội trộm cắp tài sản của công dân, điều đó thể
hiện đường lối xử lý của Nhà nước ta đối với người phạm tội trộm cắp tài sản.
Qua bốn lần sửa đổi bổ sung, BLHS 1985 khơng cịn là một chỉnh thể thống
nhất cần có một BLHS mới thay thế, vì vậy BLHS 1999 đã ra đời thay thế
BLHS 1985 trên cơ sở có kế thừa và phát triển cho phù hợp với điều kiện xã hội.
1.1.2. Tội trộm cắp tài sản theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm
1999
Với chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định
hướng XHCN, các thành phần kinh tế bình đẳng trước pháp luật địi hỏi phải
xem xét rà sốt lại một cách tồn diện các tội phạm về kinh tế, về sở hữu để có
những sửa đổi bổ sung thích hợp cả về mặt dấu hiệu pháp lý cũng như chính
sách xử lý nhằm đáp ứng yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm
trong giai đoạn mới. Ngày 21-12-1999 Quốc hội khoá X đã thơng qua BLHS
của nước Cộng hồ xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1999 ( có hiệu lực từ ngày
1-7-2000). Bộ luật có quy định rất cụ thể về nhóm tội xâm phạm sở hữu nói
chung và tội trộm cắp tài sản nói riêng. Điều 138 BLHS 1999 quy định tội trộm
cắp tài sản như sau:
“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ năm trăm nghìn
đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới năm trăm nghìn đồng nhưng gây
hậu quả nghiêm trọng, hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt,
hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt chưa được xố án tích mà cịn vi phạm thì bị
phạt cải tạo khơng giam giữ đến ba năm hoặc bị phạt tù từ sáu tháng đến ba
năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ hai
năm đến bảy năm: a. Có tổ chức; b. Có tính chất chun nghiệp; c. Tái phạm
nguy hiểm; d. Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm; đ. Hành hung để tẩu thoát;

7


e. Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu
đồng; g. Gây hậu quả nghiêm trọng. 3. Phạm tội thuộc một trong các trường
hợp sau đây thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm: a. Chiếm đoạt tài sản
có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng; b. Gây hậu quả
rất nghiêm trọng. 4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị
phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân: a. Chiếm đoạt
tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên; b. Gây hậu quả đặc biệt
nghiêm trọng. 5. Người phạm tội cịn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến
dưới năm mươi triệu đồng”.
Đối với nhóm tội xâm phạm sở hữu nói chung và tội trộm cắp tài sản nói riêng,
BLHS 1999 đã có những thay đổi đáng kể so với BLHS 1985 khi chỉ xây dựng
một chương: Các tội xâm phạm sở hữu, bao quát tất cả các hình thức sở hữu đã
được BLDS quy định, bảo đảm vị trí bình đẳng của các thành phần kinh tế đồng
thời vẫn thể hiện được sự đề cao vai trò của sở hữu Nhà nước khi quy định hành
vi “xâm phạm sở hữu của Nhà nước” là một tình tiết tăng nặng TNHS tại Điều
48 BLHS . Đối với tội trộm cắp tài sản, BLHS 1999 khơng cịn quy định thành
hai tội trộm cắp tài sản XHCN và tội trộm cắp tài sản của công dân mà quy định
thống nhất thành tội trộm cắp tài sản, vấn đề định lượng giá trị tài sản bị chiếm
đoạt là tình tiết định tội và định khung hình phạt là những điểm thay đổi cơ bản
của BLHS 1999 so với BLHS 1985.
1.2. Dấu hiệu pháp lý của tội trộm cắp tài sản theo quy định của Bộ luật hình sự
Việt Nam năm 1999
Ở mỗi giai đoạn lập pháp hình sự, Nhà nước đều ban hành các quy định về tội
trộm cắp tài sản và đường lối xử lý người phạm tội, song các văn bản pháp luật
đều không đưa ra khái niệm về tội trộm cắp tài sản, như vậy cần tìm hiểu thế nào
là tội trộm cắp tài sản.
Theo từ điển Bách khoa Công an nhân dân Việt Nam, trộm cắp tài sản được hiểu

là “hành vi lén lút bí mật đối với người quản lý tài sản để chiếm đoạt tài sản”.
Cũng có cách hiểu trộm cắp tài sản là “hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của
người khác” . Như vậy trộm cắp tài sản là hành vi chiếm đoạt tài sản, tính chất
của hành vi là lén lút bí mật và đối tượng là tài sản đang có người quản lý.
8


Trên cơ sở khái niệm tội phạm được quy định tại Điều 8 BLHS: “Tội phạm là
hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có
năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vơ ý...”, có thể đưa
ra khái niệm về tội trộm cắp tài sản như sau: Tội trộm cắp tài sản là hành vi lén
lút chiếm đoạt tài sản của người khác, do người có năng lực trách nhiệm hình
sự thực hiện với lỗi cố ý, xâm phạm tới quyền sở hữu tài sản được pháp luật bảo
vệ.
Trên đây là khái niệm chung nhất về tội trộm cắp tài sản, để hiểu được tính chất
nguy hiểm cho xã hội của tội trộm cắp tài sản cần nghiên cứu về các dấu hiệu
pháp lý của nó. Tội phạm là thể thống nhất của bốn yếu tố: khách thể, mặt khách
quan, mặt chủ quan, chủ thể. Tội trộm cắp tài sản cũng bao gồm bốn yếu tố cơ
bản trên, trước hết cần nghiên cứu về khách thể của tội phạm
1.2.1. Khách thể của tội trộm cắp tài sản
Khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị
tội phạm xâm hại. Bất kì tội phạm nào cũng đều xâm hại đến một hoặc một số
quan hệ xã hội nhất định được luật hình sự bảo vệ bằng cách gây thiệt hại hoặc
đe dọa gây thiệt hại cho những quan hệ xã hội đó. Những đối tượng được xác
định cần bảo vệ bởi các quy phạm pháp luật hình sự bao gồm: “Độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, chế độ chính trị, chế độ kinh tế,
nền văn hố, quốc phịng, an ninh, trật tự an tồn xã hội, quyền lợi ích hợp
pháp của tổ chức, tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các
quyền lợi ích hợp pháp khác của cơng dân, những lĩnh vực khác của trật tự
pháp luật xã hội chủ nghĩa” (Điều 8 BLHS). Tội trộm cắp tài sản thuộc nhóm

tội xâm phạm sở hữu, khách thể của tội trộm cắp tài sản là quan hệ sở hữu tài
sản. “Sở hữu”, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin là tổng thể các quan hệ
xã hội phát sinh trong quá trình sản xuất và phân phối của cải vật chất giữa con
người với nhau trong xã hội. Quan hệ sở hữu tài sản là quan hệ xã hội trong đó
quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản được pháp luật tôn trọng và bảo vệ.
Pháp luật dân sự Việt Nam quy định một người được coi là chủ sở hữu tài sản
khi người đó có đầy đủ ba quyền năng: quyền chiếm hữu là quyền quản lý, chi
phối tài sản; quyền sử dụng là quyền khai thác các lợi ích vật chất và tinh thần từ
9


tài sản; quyền định đoạt là quyền quyết định số phận của tài sản như bán, cho
thuê... Khi có hành vi trộm cắp tài sản (hành vi chiếm đoạt tài sản) làm cho chủ
sở hữu tài sản khơng có khả năng thực hiện được các quyền năng đó của mình
trên thực tế, nghĩa là quyền sở hữu tài sản của họ bị xâm phạm.
Đối với hành vi trộm cắp tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của chủ tài sản
thì khách thể của tội trộm cắp tài sản là quan hệ sở hữu tài sản, vậy đối với
những tài sản không thuộc quyền sở hữu hợp pháp của chủ tài sản như: tài sản
do chiếm hữu bất hợp pháp, tài sản do phạm tội mà có... thì những tài sản mà
người bị chiếm đoạt có được khơng được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Luật
hình sự đã khẳng định khách thể của tội phạm phải là quan hệ xã hội được luật
hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại, vì vậy trong trường hợp này khách thể
của tội trộm cắp tài sản không phải là quan hệ sở hữu tài sản. Hành vi phạm tội
trộm cắp tài sản là hành vi nguy hiểm cho xã hội bị pháp luật nghiêm cấm, bị xã
hội lên án, nó ảnh hưởng đến tình hình trật tự, an tồn xã hội. Do đó, trong
trường hợp này khách thể của tội trộm cắp tài sản là quan hệ xã hội liên quan
đến trật tự an toàn xã hội. Nếu cho rằng khách thể của tội trộm cắp tài sản chỉ là
quan hệ sở hữu tài sản thì trường hợp trên sẽ không cấu thành tội phạm, điều này
bất hợp lý và dẫn đến bỏ lọt tội phạm khi hành vi trộm cắp tài sản hợp pháp thì
phạm tội cịn hành vi trộm cắp tài sản bất hợp pháp thì khơng phạm tội. Vì vậy

khi có hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác, dù tài sản đó có thuộc quyền
sở hữu hợp pháp của chủ tài sản hay khơng thì vẫn là trộm cắp tài sản.
Khi nghiên cứu khách thể của tội phạm khơng thể khơng tìm hiểu đối tượng tác
động của tội phạm vì mỗi tội phạm đều xâm hại tới khách thể nhất định thông
qua việc tác động đến một đối tượng cụ thể. Là quan hệ xã hội nên khách thể
của tội phạm được cấu thành bởi ba bộ phận là chủ thể của quan hệ xã hội (con
người), đối tượng của quan hệ xã hội (các vật, hiện tượng tồn tại khách quan),
nội dung của quan hệ xã hội (sự hoạt động bình thường của các chủ thể). Khách
thể của tội phạm không tách rời các bộ phận cấu thành, vì vậy khi xâm hại tới
khách thể thì hành vi phạm tội phải tác động đến các bộ phận cấu thành nên
khách thể làm biến đổi tình trạng bình thường của các bộ phận đó. Các bộ phận
cấu thành nên khách thể bị hành vi phạm tội tác động nhằm gây thiệt hại hoặc đe
10


dọa gây thiệt hại cho khách thể bảo vệ của luật hình sự gọi là đối tượng tác động
của tội phạm. Đối với tội trộm cắp tài sản, hành vi phạm tội là hành vi chiếm
đoạt tài sản của người khác, đó là sự dịch chuyển một cách trái pháp luật tài sản
của người khác thành tài sản của mình làm biến đổi tình trạng bình thường của
tài sản. Vì vậy đối tượng tác động của tội trộm cắp tài sản là tài sản, nhưng
không phải mọi tài sản đều có thể trở thành đối tượng tác động của tội trộm cắp
tài sản, để trở thành đối tượng tác động của tội trộm cắp tài sản thì tài sản đó
phải có những đặc điểm nhất định. Trước hết tài sản đó phải là tài sản của người
khác, đang có sự quản lý. Hành vi lấy đi tài sản của mình, do mình quản lý hoặc
tài sản khơng cịn nằm trong sự quản lý của chủ tài sản như tài sản bị bỏ quên,
đánh rơi, tài sản vô chủ, hoặc tài sản mà chủ sở hữu đã từ bỏ quyền sở hữu thì
khơng phải là hành vi trộm cắp tài sản mà có thể cấu thành tội khác như tội
chiếm giữ trái phép tài sản (Điều 141 BLHS). Tài sản là đối tượng tác động của
tội trộm cắp tài sản phải được thể hiện dưới dạng vật chất cụ thể có giá trị và giá
trị sử dụng, Điều 163 BLDS 2005 quy định: “Tài sản gồm vật, tiền, giấy tờ có

giá và các quyền tài sản”.
“Vật” có thể trở thành đối tượng tác động của tội trộm cắp tài sản nếu nó nằm
trong sự chiếm hữu của con người, “tiền” bao gồm tiền Việt Nam và tiền nước
ngoài đang được lưu hành trên thị trường, “giấy tờ có giá” gồm hai loại là giấy
tờ có giá ghi danh có ghi tên chủ sở hữu và giấy tờ có giá vơ danh khơng ghi tên
chủ sở hữu, ai nắm giữ nó thì có quyền sở hữu nó, vì vậy chỉ có giấy tờ có giá
vơ danh mới có thể trở thành đối tượng tác động của tội trộm cắp tài sản vì khi
lấy nó người phạm tội mới thực hiện được quyền của chủ sở hữu, cịn với giấy
tờ có giá ghi danh chỉ có chủ sở hữu mới có thể thực hiện được quyền sở hữu
của mình nó khơng thể bị dịch chuyển một cách trái phép bởi hành vi chiếm
đoạt. Đối với tài sản là “quyền tài sản” như quyền địi nợ..., nó tồn tại dưới
dạng vơ hình khơng nhìn thấy sờ thấy nó gắn liền với một chủ thể nhất định,
trình tự xác lập thực hiện quyền sở hữu đối với tài sản đó tuân theo quy định
pháp luật và không thể bị dịch chuyển trái phép bởi hành vi chiếm đoạt nên
“quyền tài sản” cũng không phải là đối tượng tác động của tội trộm cắp tài sản.
Tài sản là đối tượng tác động của tội trộm cắp tài sản phải tồn tại dưới dạng một
11


động sản theo quy định của BLDS. Những tài sản thuộc loại bất động sản có
tính chất vật lý cố định không di dời được như đất đai, nhà cửa... không là đối
tượng tác động của tội trộm cắp tài sản. Tuy nhiên có một số tài sản nếu tách
riêng thì nó là động sản nhưng luật dân sự quy định là bất động sản do cơng
dụng của nó như cánh cửa gắn liền với ngôi nhà, cây cối trồng trên đất... vẫn có
thể là đối tượng tác động của tội trộm cắp tài sản. Cần lưu ý là, đối với tài sản
đặc thù pháp luật có quy định riêng như: tàu bay, tàu thuỷ, vũ khí quân dụng,
phương tiện kĩ thuật quân sự, đất đai, chiến lợi phẩm... không thể là đối tượng
tác động của tội trộm cắp tài sản dù nó có bị hành vi phạm tội xâm hại tới, mà
nó sẽ là đối tượng tác động của các tội phạm khác như tội chiếm đoạt tàu bay,
tàu thuỷ (Điều 221 BLHS), tội chiếm đoạt vũ khí quân dụng phương tiện kĩ

thuật quân sự (Điều 230 BLHS)...
Nghiên cứu đối tượng tác động của tội phạm có ý nghĩa quan trọng vì thực tiễn
chỉ ra rằng một trong những nguyên nhân dẫn đến việc xử lý chưa đúng người
đúng tội là do chưa xác định đúng đối tượng tác động của tội phạm, còn nhầm
lẫn giữa đối tượng tác động của tội này với đối tượng tác động của tội khác. Vì
vậy để đấu tranh phịng chống tội phạm có hiệu quả thì phải xác định đúng đối
tượng tác động của tội phạm.
Để tìm hiểu về những biểu hiện bên ngoài của tội trộm cắp tài sản cần nghiên
cứu mặt khách quan của tội phạm với những dấu hiệu pháp lý của nó.
1.2.2. Mặt khách quan của tội trộm cắp tài sản
Mặt khách quan của tội phạm là những biểu hiện ra bên ngoài của tội phạm bao
gồm: Hành vi (khách quan) nguy hiểm cho xã hội, hậu quả nguy hiểm cho xã
hội, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi khách quan và hậu quả nguy hiểm; cũng
như những biểu hiện bên ngoài khác liên quan đến việc thực hiện tội phạm như:
công cụ phương tiện, địa điểm, thời gian phạm tội...
Biểu hiện thứ nhất thuộc mặt khách quan của tội phạm là hành vi phạm tội.
BLHS quy định tội phạm phải được thể hiện bằng hành vi, theo đó hành vi
khách quan của tội phạm là những biểu hiện của con người ra bên ngoài thế giới
khách quan được ý thức kiểm sốt và ý chí điều khiển, có tính nguy hiểm cho xã
hội và được quy định trong BLHS. Theo cách hiểu truyền thống từ xưa đến nay
12


cũng như thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm, hành vi khách quan của tội
trộm cắp tài sản là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác. “Chiếm
đoạt” dưới góc độ pháp lý là việc cố ý chuyển dịch một cách trái pháp luật tài
sản của người khác thành tài sản của mình, làm cho chủ tài sản khơng có khả
năng thực hiện được quyền chủ sở hữu đối với tài sản đó trên thực tế mặc dù về
mặt pháp lý không làm cho chủ sở hữu mất đi quyền sở hữu tài sản của mình.
Hành vi chiếm đoạt trong tội trộm cắp tài sản phải có tính chất lén lút (được

thực hiện bằng thủ đoạn lén lút). “Lén lút” được hiểu là hành vi cố ý giấu diếm,
vụng trộm khơng để lộ ra do có ý gian [15, tr.467]. “Lén lút” chiếm đoạt tài sản
trong tội trộm cắp tài sản là hành vi của một người cố ý thực hiện một việc làm
bất minh, vụng trộm, giấu diếm không để lộ ra cho người khác biết nhằm chiếm
đoạt tài sản của người khác, nó có đặc điểm khách quan là “lén lút” và ý thức
chủ quan của người phạm tội cũng là “lén lút”. Hành vi chiếm đoạt được coi là
“lén lút” nếu được thực hiện bằng hình thức có khả năng khơng cho phép chủ
tài sản biết khi hành vi này xảy ra, ví dụ: lợi dụng lúc chủ nhà đi vắng, người
phạm tội đã đột nhập vào nhà lấy trộm tài sản; ý thức chủ quan của người phạm
tội là “lén lút” nếu khi thực hiện hành vi chiếm đoạt người này có ý thức che
giấu hành vi mình đang thực hiện. Việc che giấu này chỉ đòi hỏi với chủ tài sản
còn với những người khác người phạm tội có thể “lén lút” hoặc công khai thực
hiện hành vi phạm tội. Trong thực tế, hành vi “lén lút” chiếm đoạt tài sản có thể
được thực hiện dưới những hình thức khác nhau: có thể người phạm tội thực
hiện hành vi chiếm đoạt một cách giấu diếm vụng trộm, che giấu toàn bộ sự việc
phạm tội, ví dụ: Nguyễn Thị H là người giúp việc cho gia đình anh N. Nhân lúc
chủ nhà đi vắng H đã lấy trộm tài sản nhà anh N rồi bỏ đi; có thể người phạm tội
thực hiện hành vi chiếm đoạt cơng khai, trắng trợn khơng có ý che đậy giấu
diếm hành vi phạm tội, họ chỉ che giấu hành vi phạm tội với chủ tài sản: hoặc là
công khai sự vi phạm pháp luật cuả hành vi phạm tội như: người phạm tội ngang
nhiên móc trộm ví của chủ tài sản ngay trước sự chứng kiến của những người
xung quanh nhân lúc chủ tài sản không để ý, hoặc là công khai thực hiện hành vi
chiếm đoạt nhưng bản chất chiếm đoạt đã được che đậy, ví dụ: người phạm tội
đóng giả là nhân viên chở hàng của công ty đã ngang nhiên chở hàng ra khỏi
13


công ty trước sự chứng kiến của các nhân viên trong công ty.
Như vậy, dù là hành vi chiếm đoạt được thực hiện cơng khai hay giấu diếm thì
đều có chung bản chất là “lén lút” chiếm đoạt đối với chủ tài sản. Trường hợp

hành vi chiếm đoạt được thực hiện cơng khai trước mắt những người khơng có
trách nhiệm đối với tài sản hoặc không hiểu bản chất của hành vi thì vẫn là trộm
cắp tài sản. Thực tiễn đấu tranh phòng chống tội trộm cắp tài sản cho thấy, tuy
người khác có mặt tại nơi xảy ra hành vi trộm cắp tài sản nhưng họ khơng hiểu
đó là hành vi trộm cắp tài sản, khơng biết đó là người trộm cắp hay chủ tài sản
nên không để ý đến việc lấy tài sản đi nơi khác. Hiện tượng này xảy ra phổ biến
vì người có mặt tại nơi xảy ra hành vi trộm cắp tài sản tưởng rằng người trộm
cắp là khách quen hoặc chủ tài sản, do đó người phạm tội chỉ có ý thức che giấu
hành vi phạm tội của mình với chủ tài sản chứ khơng có ý thức che giấu đối với
những người khác.
Trên đây đã đề cập đến hành vi trộm cắp tài sản, đó là hành vi “lén lút” chiếm
đoạt tài sản đối với chủ tài sản, chủ tài sản có thể là chủ sở hữu tài sản hoặc
người có trách nhiệm đối với tài sản (gọi là người quản lý tài sản). Chủ sở hữu
tài sản theo quy định của pháp luật dân sự là người có đầy đủ ba quyền năng:
quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản, những quyền năng
này được pháp luật ghi nhận bảo vệ và không bị giới hạn, gián đoạn. Đối với
người quản lý tài sản, trước hết “quản lý” được hiểu là trơng coi giữ gìn theo
những u cầu nhất định (Theo Từ điển tiếng Việt - Viện ngôn ngữ học, Nhà
xuất bản Đà Nẵng, 2003). Như vậy, người quản lý tài sản là người đang nắm
giữ, trông coi, bảo vệ tài sản nhưng không phải chủ sở hữu và khơng có quyền
định đoạt tài sản đó; người quản lý tài sản có thể là người trực tiếp quản lý tài
sản khi tài sản đang nằm trong sự chi phối trực tiếp của họ hoặc là người quản lý
gián tiếp khi họ không trực tiếp nắm giữ tài sản nhưng do tính chất cơng việc
nên họ có trách nhiệm trơng coi bảo vệ tài sản (ví dụ: tiền của cơ quan do thủ
quỹ trực tiếp quản lý nhưng hết giờ làm việc bảo vệ có trách nhiệm trơng coi số
tài sản đó) hoặc khi tài sản đó là của cơ quan nhà nước nhưng để ở nơi công
cộng phục vụ sinh hoạt chung như: công tơ điện do người trông coi trạm biến áp
quản lý nhưng được đặt ở các cột điện bên đường. Người quản lý tài sản cũng có
14



thể là người quản lý trong trường hợp bình thường khi được chủ sở hữu giao
quản lý tài sản thông qua hợp đồng trông giữ tài sản, hoặc là người quản lý tài
sản trong trường hợp đặc biệt khi có sự kiện pháp lý xảy ra sẽ phát sinh trách
nhiệm quản lý tài sản (thực tế thường là trường hợp người đó tự nguyện đứng ra
trơng coi quản lý tài sản cho chủ sở hữu, ví dụ: khi chủ nhà đi vắng thì nhà bị
cháy, hàng xóm đã dập đám cháy và bảo vệ tài sản cho chủ nhà chờ khi chủ nhà
về sẽ giao lại tài sản, hoặc khi chủ sở hữu khơng có điều kiện bảo vệ tài sản của
mình. Trong những trường hợp trên, bất kể đó là chủ sở hữu hay người quản lý
tài sản, người quản lý trực tiếp hay gián tiếp, người quản lý trong trường hợp
bình thường hay trường hợp đặc biệt thì người phạm tội muốn chiếm đoạt tài sản
đều phải “lén lút” với những người này.
Nghiên cứu tính chất của hành vi chiếm đoạt tài sản có ý nghĩa quan trọng, giúp
phân biệt tội trộm cắp tài sản với một số tội phạm khác nhất là tội công nhiên
chiếm đoạt tài sản, ví dụ sau đây sẽ làm sáng tỏ vấn đề trên: A và B đang cùng
nhau đi trên đường thì bị tai nạn giao thơng, A bị thương nặng nên ngất đi, B bị
thương nhưng vẫn tỉnh táo, lúc này phát sinh trách nhiệm quản lý tài sản của B.
Người phạm tội muốn trộm cắp tài sản thì phải “lén lút” với B, nếu lợi dụng
tình trạng B bị thương khơng có điều kiện để bảo vệ tài sản mà người phạm tội
công khai lấy tài sản trước mặt B thì là cơng nhiên chiếm đoạt tài sản. Cịn đối
với trường hợp cả A và B bị thương đều ngất đi khơng có ai đứng ra bảo vệ tài
sản cho họ mà người phạm tội công khai lấy tài sản trước sự chứng kiến của
những người xung quanh thì vẫn là trộm cắp tài sản, người phạm tội vẫn “lén
lút” đối với chủ tài sản là A và B khi thực hiện hành vi chiếm đoạt [20, tr.26].
Nội dung biểu hiện thứ hai thuộc mặt khách quan của tội trộm cắp tài sản là quả
hậu nguy hiểm cho xã hội của tội phạm. Hậu quả nguy hiểm của tội phạm là
thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra cho những quan hệ xã hội là khách thể bảo
vệ của luật hình sự, được thể hiện thơng qua sự biến đổi tình trạng bình thường
của các bộ phận cấu thành nên khách thể (đối tượng tác động của tội phạm). Bất
kì tội phạm nào cũng có thể gây ra những hậu quả nguy hiểm cho xã hội nhưng

dấu hiệu hậu quả của tội phạm không được phản ánh trong tất cả các yếu tố cấu
thành tội phạm. Dấu hiệu này chỉ được mơ tả khi hành vi chỉ có tính nguy hiểm
15


cho xã hội nếu đã gây ra hậu quả nhất định cho xã hội. Tính chất và mức độ của
hậu quả được xác định bởi tính chất và mức độ biến đổi tình trạng bình thường
của đối tượng tác động của tội phạm. Với những tội phạm mà dấu hiệu hậu quả
nguy hiểm được phản ánh trong cấu thành tội phạm thì tội phạm đó sẽ có cấu
thành vật chất.
Đối với tội trộm cắp tài sản, hậu quả nguy hiểm cho xã hội thể hiện qua sự biến
đổi tình trạng bình thường của tài sản được gọi là thiệt hại về tài sản, thể hiện
dưới dạng tài sản bị chiếm đoạt. Trong cấu thành tội trộm cắp tài sản, hậu quả
của tội phạm là tài sản bị chiếm đoạt có giá trị ở mức nhất định (từ năm trăm
nghìn đồng trở lên- trong trường hợp thông thường), dựa vào mức giá trị tài sản
bị chiếm đoạt điều luật đã phân chia thành các khung hình phạt tương ứng với
các mức độ hậu quả đó.
Nội dung biểu hiện thứ ba thuộc mặt khách quan của tội phạm là mối quan hệ
nhân quả giữa hành vi và hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Theo nguyên tắc của
luật hình sự Việt Nam: một người chỉ phải chịu TNHS về hậu quả nguy hiểm
cho xã hội do chính hành vi của họ gây ra, tức là giữa hành vi phạm tội và hậu
quả có mối quan hệ nhân quả với nhau. Luật hình sự Việt Nam không quy định
thế nào là mối quan hệ nhân quả, nhưng dựa vào cặp phạm trù nhân - quả của
phép biện chứng duy vật có thể xác định được mối quan hệ nhân quả đó là hành
vi nguy hiểm cho xã hội phải có trước, là nguyên nhân gây nên hậu quả nguy
hiểm cho xã hội; đồng thời hậu quả đó chính là kết quả của hành vi nguy hiểm
cho xã hội. Đối với tội trộm cắp tài sản, hậu quả thiệt hại về tài sản (mất tài sản)
chính là kết quả của hành vi trộm cắp tài sản.
Khi nghiên cứu mặt khách quan của tội phạm khơng thể khơng tìm hiểu về mặt
chủ quan của tội phạm bởi lẽ tội phạm là sự thống nhất giữa mặt khách quan và

mặt chủ quan, giữa những biểu hiện bên ngoài và hoạt động tâm lý bên trong.
1.2.3. Mặt chủ quan của tội trộm cắp tài sản
Mặt chủ quan của tội phạm là những diễn biến tâm lý bên trong của tội phạm
bao gồm: lỗi của người phạm tội, mục đích phạm tội, động cơ phạm tội; trong
đó lỗi là yếu tố được phản ánh trong tất cả các cấu thành tội phạm.
Điều 8 BLHS quy định: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy
16


định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện
một cách cố ý hoặc vô ý...”. Nguyên tắc lỗi là nguyên tắc cơ bản trong luật hình
sự Việt Nam, một người chỉ phải chịu TNHS về hành vi nguy hiểm cho xã hội
khi họ có lỗi trong khi thực hiện hành vi đó. Người thực hiện hành vi bị coi là có
lỗi nếu họ có sự tự do lựa chọn thực hiện hành vi đó trong khi họ có đủ điều kiện
lựa chọn xử sự khác phù hợp với đòi hỏi của xã hội. Do vậy, lỗi được hiểu là
thái độ tâm lý của người phạm tội đối với hành vi và hậu quả nguy hiểm cho xã
hội, được thực hiện dưới hình thức cố ý hoặc vơ ý.
Về mặt hình thức, lỗi gồm hai yếu tố cấu thành là yếu tố lý trí (thể hiện khả năng
nhận thức của chủ thể) và yếu tố ý chí (thể hiện khả năng điều khiển hành vi của
chủ thể). Căn cứ vào đặc điểm cấu trúc tâm lý của hai yếu tố đó người ta chia lỗi
thành hai loại là lỗi cố ý và lỗi vô ý. Lỗi cố ý là trường hợp người phạm tội nhận
thức rõ hành vi của mình nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi
và mong muốn hậu quả xảy ra (lỗi cố ý trực tiếp), hoặc thấy trước hậu quả có
thể xảy ra tuy khơng mong muốn nhưng có ý thức để mặc hậu quả xảy ra (lỗi cố
ý gián tiếp); lỗi vô ý là trường hợp người phạm tội do cẩu thả mà không thấy
trước khả năng gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội mặc dù phải thấy trước và
có thể thấy trước (lỗi vô ý do cẩu thả), hoặc tuy thấy trước hành vi của mình có
thể gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội nhưng cho rằng hậu quả khơng xảy ra
hoặc có thể ngăn ngừa được (lỗi vơ ý vì quá tự tin). Đối với tội trộm cắp tài sản,
lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý trực tiếp. Về mặt lý trí, người phạm tội nhận

thức rõ hành vi phạm tội của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả
nguy hiểm có thể xảy ra; về mặt ý chí: người phạm tội mong muốn hậu quả xảy
ra, mong muốn chiếm đoạt được tài sản, hậu quả này người phạm tội đã thấy
trước và nó hồn tồn phù hợp với mục đích của người phạm tội. Việc xác định
nhận thức chủ quan của người phạm tội để xác định lỗi của họ là rất quan trọng:
nếu người phạm tội biết rõ tài sản bị chiếm đoạt đang có người quản lý thì sẽ
phạm tội trộm cắp tài sản, cịn nếu họ thực sự có sai lầm cho rằng tài sản đó là
của mình (ví dụ như cầm nhầm tài sản...) hoặc tài sản đó khơng có chủ thì sẽ
khơng phạm tội trộm cắp tài sản. Trong thực tế có trường hợp một người đã lầm
tưởng tài sản của người khác là tài sản của mình nên lấy đi, trường hợp này
17


khơng phạm tội trộm cắp tài sản, ví dụ: cơ quan yêu cầu các cán bộ phải mặc
đồng phục, khi có người cởi áo để trong phịng làm việc người này tưởng đó là
áo của mình nên đã lấy đi... Nhưng nếu sau đó người này biết đó khơng phải là
tài sản của mình mà lấy đi, giữ lại hoặc tự ý định đoạt tài sản thì phải coi đó là
hành vi trộm cắp tài sản. Như vậy, khi người phạm tội thực hiện hành vi trộm
cắp tài sản, họ biết rõ tài sản đó là của người khác mà vẫn chiếm đoạt. Đối với
việc xác định ý thức chủ quan của người phạm tội trong trường hợp “xâm phạm
tài sản của Nhà nước” được quy định là tình tiết tăng nặng TNHS cịn có nhiều
quan điểm khác nhau, có quan điểm cho rằng việc áp dụng tình tiết tăng nặng đó
phụ thuộc vào ý thức chủ quan của người phạm tội, nếu họ biết rõ tài sản đó là
của Nhà nước mà vẫn chiếm đoạt thì áp dụng tình tiết tăng nặng đó, cịn nếu họ
khơng thể biết hoặc thực sự có sai lầm cho rằng tài sản đó là của cơng dân thì
khơng áp dụng tình tiết tăng nặng đó, có quan điểm cho rằng cứ có hành vi
“xâm phạm tài sản của Nhà nước” là áp dụng tình tiết tăng nặng khơng cần xác
định ý thức chủ quan của người phạm tội. Theo tác giả, việc xác định ý thức chủ
quan của người phạm tội trong trường hợp này là điều cần thiết, nếu người phạm
tội biết rõ tài sản đó là của Nhà nước mà vẫn chiếm đoạt thì áp dụng tình tiết

tăng nặng “xâm phạm tài sản của Nhà nước”, nếu người phạm tội không thể
biết tài sản đó là của Nhà nước hoặc họ thực sự có sai lầm cho rằng tài sản đó
khơng phải của Nhà nước thì khơng áp dụng tình tiết tăng nặng đó, cịn trong
trường hợp khi chiếm đoạt người phạm tội khơng cần biết tài sản đó là của Nhà
nước hay của cơng dân thì nếu tài sản đó là của Nhà nước sẽ áp dụng tình tiết
tăng nặng “xâm phạm tài sản của Nhà nước”, nếu tài sản đó khơng phải là tài
sản của Nhà nước thì khơng áp dụng tình tiết tăng nặng đó, với cách hiểu như
vậy sẽ hợp lý hơn đồng thời có tác dụng răn đe những người biết rõ tài sản đó là
của Nhà nước, có ý nghĩa quan trọng đối với xã hội mà vẫn chiếm đoạt.
Biểu hiện thứ hai thuộc mặt chủ quan của tội trộm cắp tài sản là mục đích phạm
tội. Mục đích phạm tội được hiểu là kết quả mà người phạm tội hướng tới, nhằm
đạt được khi thực hiện tội phạm. Mục đích của người phạm tội trộm cắp tài sản
là mục đích chiếm đoạt. Người phạm tội mong muốn chiếm đoạt được tài sản
của người khác biến nó thành tài sản của mình. Hành vi trộm cắp tài sản là hành
18


vi chiếm đoạt tài sản, hành vi này đã thể hiện được mục đích của người phạm
tội, tuy nó khơng được nhà làm luật quy định trong cấu thành tội phạm nhưng nó
là dấu hiệu bắt buộc, mục đích này luôn được đặt ra trước khi người phạm tội
thực hiện tội phạm. Ngồi ra cịn phải kể đến động cơ phạm tội, đó là động lực
bên trong thúc đẩy người phạm tội thực hiện tội phạm. Động cơ phạm tội trong
tội trộm cắp tài sản là động cơ vụ lợi, nhưng đó khơng phải là dấu hiệu bắt buộc
trong cấu thành tội trộm cắp tài sản.
Để tìm hiểu tồn diện về tội trộm cắp tài sản, cần tìm hiểu về độ tuổi và năng lực
TNHS của người thực hiện hành vi phạm tội.
1.2.4. Chủ thể của tội trộm cắp tài sản
Theo quy định của BLHS: “Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật hình
sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự ” (Điều 2 BLHS) và “Tội phạm
là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự do người

có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện...” (Điều 8 BLHS), có thể thấy theo
luật hình sự Việt Nam, chủ thể của tội phạm chỉ có thể là con người cụ thể đã
thực hiện hành vi phạm tội được quy định trong BLHS. Chủ thể của tội phạm
theo luật hình sự Việt Nam phải là cá nhân, nhưng không phải ai cũng có thể trở
thành chủ thể của tội phạm. Tội phạm theo luật hình sự Việt Nam phải có tính
có lỗi, do vậy chỉ những người có lỗi trong khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho
xã hội mới có thể là chủ thể của tội phạm, đó là người có năng lực TNHS và đạt
độ tuổi luật định. Năng lực TNHS là khả năng nhận thức và điều khiển hành vi
của mình theo địi hỏi của xã hội, người có năng lực TNHS là người khi thực
hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có khả năng nhận thức được tính chất nguy
hiểm cho xã hội và có khả năng điều khiển được hành vi đó, do đó chỉ những
người có năng lực TNHS mới có thể trở thành chủ thể của tội phạm. Luật hình
sự Việt Nam khơng quy định thế nào là người có năng lực TNHS mà chỉ quy
định những trường hợp được coi là không có năng lực TNHS và tuổi chịu
TNHS, theo đó một người khi đạt độ tuổi luật định và không thuộc trường hợp
khơng có năng lực TNHS thì đương nhiên được coi là người có năng lực TNHS.
Điều12 BLHS quy định: “Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm
hình sự về mọi tội phạm, người từ đủ 14 tuổi nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu
19


trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc
biệt nghiêm trọng”.
Khoản 3 Điều 8 BLHS quy định: “Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây
nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy
là đến mười lăm năm tù, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy
hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy
là trên mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình”.
Ngồi hai dấu hiệu năng lực TNHS và tuổi chịu TNHS, một số tội cịn địi hỏi
chủ thể phải có những dấu hiệu đặc biệt gọi là chủ thể đặc biệt của tội phạm. Đối

với tội trộm cắp tài sản, chủ thể của tội phạm là chủ thể bình thường, đó là người
có năng lực TNHS và đạt độ tuổi luật định. Theo đó, người từ đủ 14 tuổi nhưng
chưa đủ 16 tuổi phải chịu TNHS về tội trộm cắp tài sản theo khoản 3, 4 Điều138
BLHS; người từ đủ 16 tuổi phải chịu TNHS về tội trộm cắp tài sản trong mọi
trường hợp phạm tội.
Như vậy, chủ thể của tội trộm cắp tài sản là người từ đủ 14 tuổi trở lên, có năng
lực TNHS đã thực hiện hành vi trộm cắp tài sản được quy định tại Điều 138
BLHS.
1.3. Đồng phạm và các giai đoạn thực hiện tội trộm cắp tài sản
1.3.1. Đồng phạm trộm cắp tài sản
Tội phạm nói chung cũng như tội trộm cắp tài sản nói riêng khơng chỉ thực hiện
bởi một người mà có thể được thực hiện bởi nhiều người mà giữa họ đã có sự
thống nhất ý chí cùng thực hiện một tội phạm, trường hợp phạm tội đặc biệt này
trong khoa học luật hình sự gọi là đồng phạm.
“Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội
phạm” (Điều 20 BLHS), do đó đồng phạm trộm cắp tài sản là trường hợp có hai
người trở lên cố ý cùng thực hiện tội trộm cắp tài sản. Từ khái niệm trên có thể
rút ra một số dấu hiệu về đồng phạm trộm cắp tài sản như sau:
Thứ nhất, dấu hiệu về mặt khách quan: đồng phạm trộm cắp tài sản phải có từ
hai người trở lên và những người này có đủ điều kiện là chủ thể của tội phạm (từ
đủ 14 tuổi trở lên và không thuộc trường hợp khơng có năng lực TNHS), ví dụ:
A 17 tuổi và B 19 tuổi đã cùng nhau thực hiện hành vi trộm cắp tài sản có giá trị
20


10 triệu đồng; dấu hiệu thứ hai là những người đồng phạm đó cùng thực hiện tội
trộm cắp tài sản.
Họ có thể tham gia thực hiện tội trộm cắp tài sản với một trong các hành vi sau:
hành vi thực hành tội trộm cắp tài sản, người có hành vi này gọi là người thực
hành; hành vi tổ chức việc thực hiện tội trộm cắp tài sản, người có hành vi này

gọi là người tổ chức; hành vi xúi giục người khác thực hiện tội trộm cắp tài sản,
người có hành vi này là người xúi giục; hành vi giúp người khác thực hiện tội
trộm cắp tài sản, người có hành vi này là người giúp sức, ví dụ: A có ý định
trộm cắp tài sản nên bàn với B và nhờ B đánh hộ chìa khố để mở cửa vào nhà
người khác trộm cắp tài sản. Trong trường hợp này A và B là đồng phạm trộm
cắp tài sản, A là người thực hành còn B là người giúp sức.
Thứ hai, dấu hiệu về mặt chủ quan: trước hết lỗi của những người đồng phạm
trộm cắp tài sản là lỗi cố ý, mỗi người đồng phạm không chỉ cố ý với hành vi
của mình mà cịn biết và mong muốn sự cố ý tham gia của những người đồng
phạm khác (về lý trí, mỗi người đồng phạm biết hành vi của mình là nguy hiểm
cho xã hội và đều biết những người khác cũng có hành vi nguy hiểm cùng với
mình, mỗi người đồng phạm cịn thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội do
hành vi của mình gây ra và hậu quả chung của tội phạm mà họ tham gia thực
hiện; về ý chí: những người đồng phạm cùng mong muốn có hoạt động chung và
cùng mong muốn hậu quả xảy ra); mục đích của những người đồng phạm khi
thực hiện tội trộm cắp tài sản là mục đích chiếm đoạt tài sản.
Trong thực tế, đồng phạm trộm cắp tài sản được thể hiện dưới những hình thức
khác nhau như đồng phạm có thơng mưu trước và đồng phạm khơng có thơng
mưu trước, đồng phạm giản đơn và phạm tội có tổ chức trong đó phạm tội trộm
cắp tài sản có tổ chức là hình thức đồng phạm rất phổ biến, gây thiệt hại lớn cho
xã hội. Phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm mà giữa những người đồng
phạm có sự câu kết chặt chẽ với nhau, có phân cơng nhiệm vụ cụ thể, phân hố
vai trị rõ ràng, có sự chuẩn bị chu đáo cho việc thực hiện tội phạm cũng như che
giấu tội phạm do đó có khả năng cho phép thực hiện tội phạm trong thời gian
dài, liên tục gây hậu quả rất lớn, đặc biệt lớn cho xã hội. Ở hình thức đồng phạm
này, những người đồng phạm có sự thống nhất ý chí, quyết tâm thực hiện tội
21


phạm cao, ý chí thực hiện tội phạm đến cùng và khơng có trường hợp tự ý nửa

chừng chấm dứt việc phạm tội.
Hiện nay, xuất hiện rất nhiều các băng, ổ nhóm chuyên trộm cắp tài sản có
người tổ chức lên kế hoạch cho việc thực hiện tội phạm gây thiệt hại lớn cho xã
hội, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự xã hội, ví dụ vụ án Trần Văn A
và Hoàng Văn B thường trú tại Hà Nội đã thành lập băng nhóm chuyên trộm cắp
tài sản là máy vi tính với địa bàn hoạt động chủ yếu là phường Tân Mai và
Hoàng Văn Thụ, chúng đã phân công cho đàn em điều tra nghiên cứu kĩ mục
tiêu, lên kế hoạch chu đáo cho việc thực hiện tội pham vì vậy chỉ trong khoảng
thời gian ngắn chúng đã liên tiếp thực hiện được nhiều vụ trộm cắp máy tính với
tổng trị giá tài sản lên đến vài trăm triệu đồng.
Chính vì tính nguy hiểm cao hơn của hình thức đồng phạm này so với hình thức
đồng phạm thơng thường nên điều luật quy định tình tiết “phạm tội có tổ chức”
là tình tiết định khung tăng nặng.
Đối với đồng phạm trộm cắp tài sản, không chỉ có đồng phạm hành động mà cịn
có đồng phạm khơng hành động, đó là trường hợp những người đồng phạm trộm
cắp tài sản khơng hành động phạm tội, ví dụ: A đã thoả thuận với B là bảo vệ
của cơ quan khơng khố cửa kho để đến đêm A vào kho lấy trộm tài sản của cơ
quan. Trong trường hợp này A và B là đồng phạm trộm cắp tài sản, A là người
thực hành còn B là người giúp sức (không hành động phạm tội).
1.3.2. Các giai đoạn thực hiện tội trộm cắp tài sản
Tội phạm không phải lúc nào cũng được thực hiện đến cùng mà có thể được
thực hiện ở những mức độ khác nhau do nhiều nguyên nhân, trong khoa học luật
hình sự gọi là các giai đoạn thực hiện tội phạm.
Nghiên cứu các giai đoạn thực hiện tội phạm giúp xác định đúng TNHS của
người phạm tội, ở mỗi giai đoạn phạm tội BLHS có quy định khác nhau về
TNHS của người phạm tội. Để nghiên cứu tội trộm cắp tài sản một cách toàn
diện, cần nghiên cứu về các giai đoạn thực hiện tội trộm cắp tài sản.
Theo đó, các giai đoạn thực hiện tội phạm là các mức độ thực hiện tội phạm cố ý
bao gồm chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn thành.
1.3.2.1. Chuẩn bị phạm tội trộm cắp tài sản

22


Chuẩn bị phạm tội là giai đoạn người phạm tội có hành vi tạo ra những điều kiện
cần thiết cho việc thực hiện tội phạm nhưng chưa bắt đầu thực hiện tội phạm.
Thời điểm sớm nhất của giai đoạn này là khi người phạm tội bắt đầu có hành vi
tạo ra những điều kiện vật chất hay tinh thần giúp cho việc thực hiện tội phạm
có thể xảy ra hoặc xảy ra thuận lợi hơn, thời điểm muộn nhất của giai đoạn này
là trước khi người phạm tội bắt đầu thực hiện hành vi phạm tội được phản ánh
trong cấu thành tội phạm. Tất cả những hành vi được thực hiện trong giai đoạn
này đều chưa trực tiếp làm biến đổi tình trạng bình thường của tài sản là đối
tượng tác động của tội trộm cắp tài sản để gây thiệt hại cho quan hệ sở hữu là
khách thể của tội phạm. Hành vi chuẩn bị phạm tội trộm cắp tài sản có thể là
những hành vi sau: hành vi chuẩn bị cơng cụ phương tiện phạm tội (ví dụ như
người phạm tội đã chuẩn bị sẵn kìm để cậy cửa đột nhập vào nhà người khác lấy
trộm tài sản), hành vi chuẩn bị kế hoạch, thăm dò địa điểm phạm tội hay thăm
dò làm quen nạn nhân, người bị hại (ví dụ: người phạm tội đóng giả là khách lạ
qua đường làm quen chủ nhà và xin ngủ nhờ qua đêm với ý định nửa đêm chờ
chủ nhà ngủ say sẽ lấy trộm tài sản). Ở giai đoạn này người phạm tội chưa có
hành vi chiếm đoạt tài sản nên họ chỉ phải chịu TNHS về tội trộm cắp tài sản rất
nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng (theo quy định tại Điều 17 BLHS).
Đối với tội trộm cắp tài sản có thể khơng có giai đoạn chuẩn bị phạm tội mà
nhiều trường hợp người phạm tội lợi dụng sơ hở, chủ quan của chủ tài sản nên
nảy sinh ý định trộm cắp chứ họ khơng có sự chuẩn bị từ trước cho việc thực
hiện tội phạm, ví dụ: A đang đi chơi về thì nhìn thấy có chiếc xe đạp dựng ngồi
cổng nên đã dắt chiếc xe đó đi..
1.3.2.2. Phạm tội trộm cắp tài sản chưa đạt
Phạm tội chưa đạt là giai đoạn cố ý thực hiện tội phạm nhưng khơng thực hiện
được đến cùng vì những ngun nhân ngoài ý muốn của người phạm tội.
Người phạm tội đã bắt đầu thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản được mô tả

trong cấu thành tội phạm nhưng đã không thực hiện được đến cùng, hành vi
phạm tội chưa thoả mãn hết các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của cấu thành
tội phạm, có thể người phạm tội mới thực hiện được hành vi đi liền trước hành
vi khách quan như người phạm tội đang mở khoá định đột nhập vào nhà lấy
23


trộm tài sản thì bị chủ nhà phát hiện, hoặc người phạm tội đã thực hiện hành vi
chiếm đoạt tài sản nhưng chưa thực hiện được đến cùng chưa gây thiệt hại tài
sản, ví dụ: người phạm tội đang giấu tài sản vừa chiếm đoạt được thì bị chủ tài
sản phát hiện thu giữ..., ở đây người phạm tội không thực hiện được tội phạm
đến cùng là do nguyên nhân ngoài ý muốn chứ bản thân người phạm tội muốn
thực hiện tội phạm đến cùng nhằm chiếm đoạt được tài sản, do đó họ phải chịu
TNHS về tội phạm đó (theo quy định tại Điều 18 BLHS)
1.3.2.3. Tội trộm cắp tài sản hoàn thành
Tội phạm hoàn thành là giai đoạn phạm tội mà hành vi phạm tội đã thoả mãn hết
các dấu hiệu được mô tả trong cấu thành tội phạm. Khi tội phạm hoàn thành đã
thể hiện đầy đủ bản chất nguy hiểm cho xã hội.
Tội trộm cắp tài sản là tội phạm có cấu thành vật chất, tội phạm hoàn thành khi
đã gây ra hậu quả là thiệt hại tài sản. Nhưng trên thực tế việc xác định thời điểm
hồn thành của tội trộm cắp tài sản khơng đơn giản, cịn nhiều ý kiến khác nhau.
Có ý kiến cho rằng tội phạm hoàn thành khi người phạm tội đã tạo ra được khả
năng thực hiện các quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản cho mình, cịn
có ý kiến cho rằng tội phạm hoàn thành khi chủ sở hữu mất khả năng thực hiện
các quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của mình trên thực tế. Có thể
thấy rằng, hành vi chiếm đoạt tài sản là quá trình tạo khả năng chiếm hữu, sử
dụng, định đoạt tài sản cho người phạm tội đồng thời làm mất việc thực hiện các
quyền năng đó trên thực tế của chủ sở hữu, song hai q trình này khơng phải
lúc nào cũng diễn ra đồng thời, mà có khi người phạm tội đã làm mất khả năng
thực hiện quyền sở hữu của chủ sở hữu nhưng chưa tạo ra được khả năng thực

hiện các quyền đó cho mình, ví dụ: người phạm tội đã lấy trộm được một số
máy móc của xí nghiệp nhưng do q cồng kềnh nên còn giấu vào một nơi chưa
mang được về nhà. Khi chủ sở hữu mất đi khả năng thực hiện các quyền của
mình đối với tài sản thì quyền sở hữu của họ đã bị xâm phạm, vì vậy thời điểm
hồn thành của tội trộm cắp tài sản là kể từ khi chủ sở hữu mất khả năng thực
hiện các quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của mình trên thực tế,
không cần biết người phạm tội đã thực hiện được các quyền đó hay chưa.
Từ thực tiễn xét xử, có thể xác định thời điểm hồn thành tội trộm cắp tài sản
24


dựa vào tính chất của tài sản bị chiếm đoạt như sau: nếu tài sản nhỏ gọn dễ cất
giấu thì thời điểm hoàn thành tội phạm là kể từ khi người phạm tội đã cất giấu
được tài sản đó, nếu tài sản cồng kềnh và có khu vực bảo quản riêng thì tội
phạm hồn thành kể từ khi người phạm tội đã mang tài sản ra khỏi khu vực bảo
quản đó, nếu tài sản cồng kềnh và khơng có khu vực bảo quản riêng thì tội phạm
hồn thành từ khi người phạm tội đã dịch chuyển tài sản khỏi vị trí ban đầu. Nếu
căn cứ vào giá trị tài sản bị chiếm đoạt thì tội trộm cắp tài sản hồn thành ở một
trong các thời điểm sau: khi người phạm tội đã chiếm đoạt được tài sản có giá trị
từ năm trăm nghìn đồng trở lên, khi người phạm tội đã chiếm đoạt được tài sản
có giá trị dưới năm trăm nghìn đồng nhưng đã “gây hậu quả nghiêm trọng”,
hoặc “đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt”, hoặc “đã bị kết án về
tội chiếm đoạt chưa được xố án tích”.
Đối với tội trộm cắp tài sản, đồng phạm và các giai đoạn thực hiện tội phạm có
mối quan hệ với nhau, hiện đang có những quan điểm khác nhau xung quanh
việc xác định đồng phạm ở giai đoạn tội phạm hồn thành, có quan điểm cho
rằng ở giai đoạn tội phạm hồn thành khơng cịn đồng phạm, có quan điểm lại
cho rằng tội phạm hồn thành vẫn có thể có đồng phạm. Theo tác giả, khi tội
trộm cắp tài sản đã hoàn thành nhưng chưa kết thúc vẫn có thể có đồng phạm
bởi vì vấn đề cịn có thể tham gia tiếp là người đồng phạm hay khơng khơng phụ

thuộc vào thời điểm tội phạm hồn thành mà phụ thuộc vào thời điểm tội phạm
kết thúc, hơn nữa đối với đồng phạm trộm cắp tài sản những người đồng phạm
đều hướng tới mục đích chung là chiếm đoạt được tài sản, biến tài sản đó thành
tài sản của mình chứ họ khơng chỉ muốn dừng lại ở việc hồn thành tội phạm,
song mục đích này trên thực tế khơng dễ gì đạt được, những người đồng phạm
vẫn cần phối hợp hành động để chiếm được và kiểm sốt được tài sản đó, ví dụ:
A đã lấy trộm được một số tài sản của một cơ quan nhưng sợ bị phát hiện nên đã
đem giấu vào một nơi mà chưa mang về nhà (tội trộm cắp tài sản đã hồn thành
nhưng chưa kết thúc), hơm sau A gọi B đến giúp mình mang số tài sản đó về nhà
rồi bán đi chia nhau, ở đây A và B là đồng phạm trộm cắp tài sản ở giai đoạn tội
phạm đã hoàn thành nhưng chưa kết thúc.
Như vậy, qua việc tìm hiểu dấu hiệu pháp lý của tội trộm cắp tài sản có thể thấy:
25


×