TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
KHOA LỊCH SỬ
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Đề tài:
GIẢNG DẠY NỘI DUNG KHOA HỌC KỸ
THUẬT TRONG KHÓA TRÌNH LỊCH SỬ
THẾ GIỚI HIỆN ĐẠI TỪ 1945 – 2000
(LỊCH SỬ 12, BAN CƠ BẢN)
Giáo viên hướng dẫn
Sinh viên thực hiện
VINH – 2011
: ThS. Nguyễn Thị Duyên
: Trần Thị Hường
LỜI CẢM ƠN
Đầu tiên, em xin chân thành cảm ơn cô giáo – Thạc sĩ Nguyễn Thị
Duyên - người đã trực tiếp hướng dẫn, tận tình giúp đỡ em thực hiện đề tài
này.
Đồng thời, em cũng xin cảm ơn các thầy cô, bạn bè và gia đình đã giúp
đỡ nhiệt tình, tạo mọi điều kiện giúp đỡ để em hoàn thành khóa luận tốt
nghiệp của mình. Cho phép em được gửi lời chúc sức khỏe, hạnh phúc tới
thầy cô và các bạn.
Mặc dù có cố gắng song khóa luận cũng không thể tránh khỏi những
thiếu sót. Em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến từ thầy cô và các bạn.
Tác giả
Trần Thị Hường
1
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
GV
Giáo viên
HS
Học sinh
THPT
Trung học phổ thông
SGK
Sách giáo khoa
GTVT
Giao thông vận tải
TTLL
Thông tin liên lạc
NXBĐHSP
Nhà xuất bản Đại học sư phạm
NXBCTQG
Nhà xuất bản chính trị quốc gia
NXBKH&KT
Nhà xuất bản khoa học và kĩ thuật
NXBVHTT
Nhà xuất bản văn hóa thông tin
MỤC LỤC
Trang
LỜI CẢM ƠN ................................................................................................ 1
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ................................................................ 0
MỤC LỤC ..................................................................................................... 0
MỞ ĐẦU....................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài........................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................ 2
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu ............................................ 3
4. Nhiệm vụ của đề tài.................................................................................... 3
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu .......................................... 4
6. Cấu trúc của đề tài...................................................................................... 4
NỘI DUNG ................................................................................................... 5
Chương 1: VẤN ĐỀ GIẢNG DẠY NỘI DUNG KHOA HỌC KĨ THUẬT
TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ Ở TRƯỜNG PHỔ THÔNG HIỆN NAY. 5
1.1. Cơ sở lý luận ........................................................................................... 5
1.1.1. Mục tiêu, nhiệm vụ bộ môn .................................................................. 5
1.1.2. Khái niệm khoa học kĩ thuật ................................................................. 8
1.2. Cơ sở thực tiễn ........................................................................................ 9
1.2.1. Thực trạng môn học lịch sử nói chung.................................................. 9
1.2.2. Thực trạng của việc giảng dạy nội dung khoa học kĩ thuật.................. 11
Chương 2: MỘT SỐ NỘI DUNG KHOA HỌC KĨ THUẬT CẦN KHAI
THÁC TRONG KHÓA TRÌNH LỊCH SỬ THẾ GIỚI HIỆN ĐẠI TỪ
1945 – 2000.................................................................................................. 13
2.1. Vị trí, ý nghĩa của khóa trình ................................................................. 13
2.2. Nội dung chủ yếu của khóa trình ........................................................... 14
2.3. Các kiến thức khoa học kĩ thuật cần giảng dạy trong khóa trình ............ 17
Chương 3: HÌNH THỨC, MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIẢNG DẠY NỘI
DUNG KHOA HỌC KĨ THUẬT TRONG KHÓA TRÌNH LỊCH SỬ
THẾ GIỚI HIỆN ĐẠI TỪ 1945 – 2000..................................................... 34
3.1. Nguyên tắc, yêu cầu giảng dạy nội dung khoa học kĩ thuật trong khóa
trình Lịch sử thế giới hiện đại từ 1945- 2000................................................ 34
3.1.1. Nguyên tắc ......................................................................................... 34
3.1.1.1. Nguyên tắc đảm bảo tính vừa sức .................................................... 34
3.1.1.2. Nguyên tắc trực quan sinh động....................................................... 36
3.1.1.3. Nguyên tắc phát triển....................................................................... 36
3.1.2. Yêu cầu .............................................................................................. 37
3.1.2.1. Đảm bảo đặc trưng môn học ............................................................ 37
3.1.2.2. Đảm bảo kiến thức cơ bản ............................................................... 38
3.1.2.3. Kết hợp các hình thức tổ chức dạy học ............................................ 38
3.2. Các biện pháp cụ thể.............................................................................. 39
3.2.1. Biện pháp miêu tả kết hợp với việc sử dụng đồ dùng trực quan .......... 39
3.2.1.1. Miêu tả toàn cảnh ............................................................................ 39
3.2.1.2. Miêu tả có phân tích ........................................................................ 42
3.2.2. Biện pháp kể chuyện về các phát minh, sáng chế từ 1945 - 2000........ 43
3.2.3. Biện pháp tạo biểu tượng nhân vật về các nhà khoa học ..................... 52
3.3. Thực nghiệm sư phạm ........................................................................... 58
3.3.1. Mục đích thực nghiệm ........................................................................ 58
3.3.2. Đối tượng thực nghiệm....................................................................... 59
3.3.3. Nội dung thực nghiệm ........................................................................ 59
3.3.4. Phương pháp thực nghiệm .................................................................. 59
3.3.5. Giáo án đối chứng .............................................................................. 59
3.3.6. Giáo án thực nghiệm........................................................................... 65
3.3.7. Kết quả thực nghiệm........................................................................... 75
KẾT LUẬN................................................................................................. 76
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................... 78
PHỤ LỤC.................................................................................................... 80
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nhân loại đang bước vào một thời đại mới: thời đại của công nghệ thông
tin, của “kinh tế tri thức”. Cách mạng khoa học kĩ thuật và công nghệ hiện đại
gắn liền với sự xuất hiện một nền văn minh mới “văn minh thứ ba” hay “văn
minh trí tuệ”. Toàn cầu hóa, khu vực hóa đã trở thành xu thế chung của các
quốc gia dân tộc. Việt Nam cũng đang chuyển mình để hội nhập vào dòng
chảy chung của nhân loại. Trong nền “văn minh trí tuệ” tri thức vừa là của
cải, vừa là công cụ để sáng tạo ra của cải vật chất, là chìa khóa của tiến bộ
kinh tế - văn hóa - xã hội. Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng, lãnh
đạo đang đặt ra cho nền giáo dục Việt Nam cần phải đào tạo ra con người
Việt Nam mới thông minh, sáng tạo, nhanh nhạy để nắm bắt tri thức khoa học
và công nghệ, tránh nguy cơ tụt hậu và có thể cạnh tranh hiệu quả với thế
giới. Do đó, việc giảng dạy nội dung khoa học kĩ thuật cần phải đặc biệt lưu
tâm hơn. Môn Lịch sử ở trường THPT có nhiều ưu thế trong việc giáo dục
cho học sinh những nội dung khoa học kĩ thuật để các em nắm bắt và tiếp thu
được những thành tựu mà nhân loại đã đạt được.
Trên bước đường hội nhập và phát triển, từ việc nhận thức về thời cơ và
thách thức do bối cảnh quốc tế và tình hình trong nước của Đảng và Nhà nước
ta đã xác định chiến lược phát triển đất nước là “lấy con người là trung tâm”
vì con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế - xã
hội. Trên cơ sở đó sự nghiệp giáo dục đào tạo được coi trọng. “Luật giáo dục”
điều 24.2 đã ghi: Phương pháp giáo dục phổ thông phải phải phát huy tính
tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc điểm của
từng lớp, môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận
1
dụng vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui hứng thú học tập
cho học sinh” [7;12].
Xuất phát từ những yêu cầu của giáo dục đào tạo trong nước, xu hướng
cải cách đổi mới giáo dục trên thế giới bộ môn lịch sử cũng đã đổi mới về
nhiều mặt đặc biệt là phương pháp dạy học: lấy học sinh làm trung tâm, dạy
học nêu vấn đề, phát triển tư duy học sinh. Tuy nhiên những biểu hiện trên
không phải diễn ra thường xuyên, liên tục trong dạy học lịch sử vẫn còn tồn
tại kiểu dạy học phổ biến: giáo viên truyền thụ những nội dung trong sách
giáo khoa, học sinh nghe và ghi chép. Học sinh được tổ chức làm việc chung
theo cả lớp, ít được tổ chức theo nhóm và cá nhân. Điều đó làm giảm hứng
thú, sự tập trung chú ý của học sinh, ảnh hưởng đến chất lượng bài học và rõ
ràng là không đáp ứng yêu cầu phát triển của giáo dục.
Khoa học kĩ thuật là nội dung quan trọng trong khóa trình lịch sử thế giới
hiện đại từ 1945 – 2000. Tuy nhiên trên thực tế do thời gian trên lớp học có
hạn, lại phải trình bày nhiều nội dung cùng một lúc. Những nội dung khoa
học kĩ thuật rất quan trong đặc biệt đối với thời đại ngày nay với sự bùng nổ
của công nghệ thông tin nhưng do thời gian có hạn mà không được đi sâu
nghiên cứu. Vì vậy, đặt ra yêu cầu đưa những phương pháp dạy học hiệu quả
cho từng bài, từng chương đặc biệt là nội dung khoa học kĩ thuật. Vì thế, tôi
chọn đề tài “Giảng dạy nội dung khoa học kĩ thuật trong khóa trình lịch sử
thế giới hiện đại từ 1945 -2000”(Lịch sử 12, Ban cơ bản) làm khóa luận tốt
nghiệp.
2. Lịch sử vấn đề
- Công trình nghiên cứu về lý luận dạy học bộ môn:
+ Hội Giáo dục Lịch sử, Đổi mới việc dạy học lịch sử lấy “Học sinh làm
trung tâm”, Nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội, 1996.
+ Từ đổi mới nghiên cứu đến đổi mới giảng dạy, Tạp chí Nghiên cứu lịch
sử 3/1993.
2
- Tài liệu hướng dẫn giảng dạy và sách giáo viên như: Đairi,
Chuẩn bị giờ học lịch sử như thế nào? Nhà xuất bản Giáo dục Hà Nội,
1973.
- Phan Ngọc Liên (chủ biên), Phương pháp dạy học lịch sử (Tập 1,
tập 2), Nhà xuất bản Đại học Sư phạm
- Nguyễn Thị Thạch, Thiết kế bài giảng lịch sử lớp 12 (Tập một),
Nhà xuất bản Hà Nội, 2007.
Nhưng hiện nay chưa có công trình nghiên cứu nào đi sâu, cụ thể
về nội dung khoa học kĩ thuật trong việc dạy học khóa trình lịch sử thế
giới hiện đại 1945 đến 2000 nhằm nâng cao hiệu quả bài học, góp phần
phát triển toàn diện học sinh
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
- Nghiên cứu việc giảng dạy lịch sử thế giới ở trường THPT
3.2. Phạm vi nghiện cứu
- Nghiên cứu việc dạy học nội dung khoa học kĩ thuật trong khóa trình
lịch sử thế giới hiện đại 1945 - 2000 ở lớp 12, ban cơ bản.
4. Nhiệm vụ của đề tài
- Nghiên cứu lí luận chung về phương pháp dạy học lịch sử
- Xác định các nội dung khoa học kĩ thuật có thể tiến hành giảng dạy
khóa trình lịch sử thế giới hiện đại 1945 - 2000 ở lớp 12, ban cơ bản.
- Đề xuất những biện pháp tối ưu cho việc dạy học các nội dung khoa
học kĩ thuật đó.
- Tiến hành thực nghiệm sư phạm để đánh giá tính khả thi của đề tài.
3
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở phương pháp luận
- Dựa vào lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
quan điểm, đường lối của Đảng, Nhà nước về lịch sử, giáo dục lịch sử.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
+) Nghiên cứu lý thuyết
- Các tài liệu về tâm lý học, giáo dục học.
- Công trình về lý luận dạy học lịch sử.
- Sách giáo khoa lịch sử, sách giáo viên, các tài liệu hướng dẫn giảng dạy
và các tài liệu lịch sử có liên quan.
+) Nghiên cứu thực tiễn
- Điều tra thực tế dạy học lịch sử ở trường THPT bằng nhiều hình thức:
dự giờ, quan sát, tổng kết kinh nghiệm sư phạm.
- Tiến hành thực nghiệm qua một bài học cụ thể của khóa trình để khẳng
định tính khả thi của việc sử dụng nội dung khoa học kĩ thuật vào giảng dạy
khóa trình lịch sử thế giới hiện đại 1945 – 2000 góp phần nâng cao hiệu quả
bài học lịch sử.
6. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục, Tài liệu tham khảo, Mục lục, đề
tài gồm có 3 chương:
Chương 1: Vấn đề giảng dạy nội dung khoa học kĩ thuật trong dạy học
lịch sử ở trường phổ thông hiện nay
Chương 2: Một số nội dung khoa học kĩ thuật cần khai thác trong khóa
trình lịch sử thế giới hiện đại từ 1945 – 2000
Chương 3: Hình thức, một số biện pháp giảng dạy nội dung khoa học kĩ
thuật trong khóa trình lịch sử thế giới hiện đại 1945 – 2000
4
NỘI DUNG
Chương 1: VẤN ĐỀ GIẢNG DẠY NỘI DUNG KHOA HỌC KĨ
THUẬT TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ Ở TRƯỜNG PHỔ THÔNG
HIỆN NAY
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Mục tiêu, nhiệm vụ bộ môn
Mục tiêu bộ môn lịch sử ở trường phổ thông được xây dựng trên cơ sở lý
luận và thực tiễn, thể hiện tập trung ở việc quán triệt mục tiêu chung của giáo
dục phổ thông, thông qua chức năng, nhiệm vụ đặc trưng, nội dung của môn
học và tình hình, nhiệm vụ cụ thể của đất nước trong những điều kiện cụ thể.
Mục tiêu giáo dục phổ thông phải quán triệt đường lối, chính sách của Đảng
và Nhà nước về giáo dục, yêu cầu của từng giai đoạn phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước đối với giáo dục.
Mục tiêu của môn lịch sử ở trường trung học phổ thông phải thực hiện
những nhiệm vụ cơ bản như sau:
Về mặt giáo dưỡng: Cung cấp những kiến thức cơ bản của khoa học lịch
sử trên cơ sở củng cố, phát triển nội dung kiến thức lịch sử đã học ở trung học
cơ sở, hợp thành nội dung giáo dục lịch sử của bậc trung học phổ thông. Giáo
viên phải cung cấp cho học sinh một cách hệ thống, toàn diện về mọi mặt: về
sự kiện, hiện tượng lịch sử, về tình hình kinh tế, chính trị, văn hóa, ngoại
giao….Trong đó nội dung khoa học kĩ thuật là một “mảng” kiến thức quan
trọng trong khóa trình đặc biệt là trong thời đại bùng nổ thông tin ngày nay
việc giảng dạy những nội dung khoa học kĩ thuật càng có ý nghĩa lớn lao.
Qua việc giảng dạy đó giúp học sinh nâng cao và hoàn chỉnh những nhận
thức mácxit- lêninnit về lịch sử. Lịch sử là lịch sử của sản xuất, của các
phương thức sản xuất kế tiếp nhau một cách hợp quy luật và khi xã hội phân
chia thành giai cấp đối kháng thì lịch sử còn là lịch sử của đấu tranh giai cấp.
Nhận thức được sự thắng lợi tất yếu của chủ nghĩa tư bản, sự sụp đỏ không
5
tránh khỏi của chủ nghĩa tư bản. Học sinh trung học phổ thông còn được cung
cấp những kiến thức sơ giản về phương pháp tìm hiểu, nghiên cứu lịch sử để
nâng cao, cải tiến phương pháp học tập, phát huy tính tích cực trong học tập
lịch sử.
Như vậy, nhiệm vụ giáo dưỡng trong mục tiêu của môn lịch sử ở trường
trung học phổ thông là cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản bao
gồm: các sự kiện lịch sử cơ bản, các khái niệm, thuật ngữ, tình hình về chính
trị,kinh tế, quân sự, ngoại giao, khoa học kĩ thuật…
Về mặt giáo dục: Tri thức lịch sử không chỉ có tác dụng giáo dục trí tuệ
mà cả tình cảm, tư tưởng, góp phần đào tạo con người Việt Nam toàn diện.
Qua đó giáo dục, bồi dưỡng những nội dung như:
- Lòng yêu nước xã hội chủ nghĩa, lòng yêu quê hương- một biểu hiện
của lòng yêu nước.
- Tinh thần đoàn kết quốc tế, tình hữu nghị với các dân tộc đấu tranh
cho độc lập, tự do, văn minh, tiến bộ xã hội, hòa bình dân chủ.
- Niềm tin vào sự phát triển hợp quy luật của xã hội loài người và dân
tộc, dù trong tiến trình lịch sử có những bước quanh co, khúc khuỷu…
- Có ý thức làm nghĩa vụ công dân, sẵn sàng thực hiện nghĩa vụ quốc tế.
- Những phẩm chất cần thiết trong cuộc sống cộng đồng.
- Giáo dục cho các em ý thức được tính cấp thiết cần phải tiếp thu
những thành tựu khoa học kĩ thuật tiên tiến của nhân loại phục vụ công cuộc
xây dựng đất nước mà các em sau này sẽ là những chủ nhân tương lai của đất
nước để tránh nguy cơ tụt hậu, nghèo nàn.
Về nhiệm vụ phát triển: Cần rèn luyện cho các em học sinh năng lực tư
duy và thực hành trên cơ sở hoàn chỉnh và nâng cao những năng lực đã được
hình thành. Hình thành tri thức cho học sinh bắt đầu từ việc cung cấp các sự
kiện lịch sử.
6
- Tư duy biện chứng trong nhận thức và hành động, biết phân tích, đánh
giá, liên hệ.
- Kỹ năng học tập và thực hành bộ môn, sử dụng sách giáo khoa và tài
liệu tham khảo; khả năng trình bày nói, viết; làm và sử dụng một số đồ dùng
trực quan nhất là đồ dùng trực quan quy ước, những hoạt động ngoại khóa
môn học.
- Vận dụng những kiến thức đã học vào cuộc sống hiện nay.
Tóm lại, mục tiêu bộ môn lịch sử ở trường trung học phổ thông là cung
cấp kiến thức cơ bản, có hệ thống về lịch sử phát triển hợp quy luật của dân
tộc và xã hội loài người. Trên cơ sở đó giáo dục lòng yêu nước và tự hào dân
tộc, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, rèn luyện năng lực
tư duy và thực hành. Thực hiện một cách hoàn chỉnh các nhiệm vụ giáo
dưỡng, giáo dục và phát triển.
Các nhiệm vụ trên được hình thành vầ củng cố, tạo ra năng lực chủ yếu
nhằm đáp ứng mục tiêu giáo dục và phát triển con người trong thời kì công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Bốn năng lực cần hình thành cho học sinh
đó là: “năng lực hành động; năng lực thích ứng; năng lực giao tiếp, ứng xử;
năng lực tự khẳng định” [9;91].
Đây cũng là năng lực phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của
khu vực và toàn cầu khi bước vào thế kỷ XXI. Yêu cầu này đòi hỏi phải đào
tạo thế hệ trẻ có “4 trụ cột một nền giáo dục” mà UNESCO nêu ra: “Học để
biết, học để làm, học để chung sống và học để khẳng định mình” [9;91].
Việc nhận thức lịch sử cần phải được nhận thức một cách toàn diện.
Không chỉ nhìn thấy những cái đã đi qua (quá khứ) mà còn phải nhận thức
được những cái đang xảy ra ở hiện tại. Còn phải nhận thức được lịch sử trên
quan điểm lịch sử có sự phát sinh, phát triển và kết thúc của sự kiện, nhân vật
lịch sử. Trên cơ sở đó cần phải nhận thức một cách toàn diện, có hệ thống trên
tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, quân sự, văn hóa, ngoại giao, khoa học
7
kĩ thuật… Mỗi một lĩnh vực đều có những đóng góp riêng cho lịch sử, là bộ
phận cấu thành nên lịch sử. Trong đó khoa học kĩ thuật là một nội dung quan
trọng và cần thiết phải giảng dạy cho học sinh trong khóa trình lịch sử thế giới
1945- 2000, đặc biệt trong thời đại ngày nay cùng với sự bùng nổ của công
nghệ thông tin với tốc độ như “vũ bão”. Việc tiếp thu những kiến thức khoa
học kĩ thuật lại trở thành một yêu cầu cấp thiết hơn bao giờ hết. Hiện nay, khi
khoa học kĩ thuật đã trở thành lực lượng trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất
thì những nội dung khoa họa kĩ thuật lại càng có ý nghĩa quan trọng trong
việc tiếp thu những thành tựu của khoa học công nghệ, tránh nguy cơ tụt hậu
phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Đặc biệt khi nước ta
đang phấn đấu đến năm 2020 trở thành một nước công nghiệp theo hướng
hiện đại.
1.1.2. Khái niệm khoa học kĩ thuật
Theo Từ điển Tiếng Việt: “Khoa học” là một hệ thống tri thức tích lũy
trong qua trình lịch sử và được thực tiễn chứng minh, phản ánh những quy
luật khách quan của thế giới loài người cũng như hoạt động tinh thần của con
người, giúp con người có khả năng cải tạo thế giới hiện thực.
“Khoa học kĩ thuật” nói cách tổng quát nhất đó là các ngành khoa học
có liên quan trực tiếp đến sản xuất và các ngành kĩ thuật [16;484,485].
“Cách mạng khoa học kĩ thuật”: Đó là bước nhảy vọt về chất trong cơ
cấu và trong quá trình phát triển của lực lượng sản xuất bắt đầu vào giữa thế
kỷ XX, một sự xây dựng lại triệt để các cơ sở kỹ thuật cuẩn xuất vật chất.
Cách mạng khoa học kĩ thuật đó là một hiện tượng xã hội phức tạp, một quá
trình lịch sử lâu dài và có những đặc điểm sâu đây: Tính chất toàn cầu, tính
chất quốc tế vì nó bao trùm toàn bộ thế giới. Tính chất bao quát vì nó tác động
đến tất cả các lĩnh vực sinh hoạt xã hội. Tính chất tổng hợp vì những biến đổi
cách mạng xảy ra trong lĩnh vực khoa học kĩ thuật mà trước đó được thực
hiện một cách riêng lẻ, nay gắn với nhau một cách hữu cơ và tác động lẫn
8
nhau. Cái cốt lõi của cách mạng khoa học kĩ thuật là khoa học phát triển vượt
lên trước và biến thành lực lượng sản xuất trực tiếp, còn bản thân sản xuất thì
biến thành việc áp dụng một cách triệt để khoa học hiện đại và các quy trình
công nghệ. Các tri thức khoa học được vật chất hóa, được thực hiện trong các
yếu tố vật chất của các lực lượng sản xuất trong kĩ thuật, trong quy trình công
nghệ của sản xuất, các hình thức tổ chức sản xuất tương ứng. Các tri thức
khoa học được sử dụng ngày càng nhiều trong hoạt động của người sản xuất
khi họ thực hiện các chức năng lao động khoa học đóng vai trò cơ sỏ lý luận
của mọi quy trình sản xuất. Cách mạng khoa học kĩ thuật kéo theo sự biến đổi
về chất cơ sở quy trình công nghệ của sản xuất, các công cụ và các phương
tiện lao động, các phương pháp và các đối tượng gia công , nó ảnh hưởng đến
việc tổ chức lao động, sản xuất và quản lý dẫn đến sự biến đổi cơ bản địa vị
và vai trò của con người trong quy trình sản xuất, chức năng của những người
lao động nói lên bước chuyển từ sự phát triển sản xuất theo chiều rộng sang
sự phát triển theo chiều sâu [26;21,22].
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Thực trạng môn học lịch sử nói chung
Những năm gần đây việc dạy học lịch sử ở trường phổ thông đã có nhiều
tiến bộ về nhận thức lịch sử, nội dung và phương pháp dạy học nhưng bên
cạnh đó nó vẫn còn những vấn đề yếu kém như: giáo viên nhận thức được
điểm mấu chốt của việc đổi mới phương pháp dạy học là phải thay đổi quan
niệm cũ trước đây: chuyển từ vai trò thầy là trung tâm sang trò là trung tâm
của quá trình dạy học. Giáo viên là người hướng dẫn điều khiển quá trình
nhận thức của học sinh. Muốn vậy, phải phát huy các năng lực nhận thức độc
lập, phát triển tính tích cực học tập của các em. Song về biện pháp phát huy
tính tích cực nhận thức của học sinh thì chưa tốt. Thường giáo viên quan niệm
rằng đặt nhiều câu hỏi là đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực.
Vì vậy, giờ học biến thành một giờ “hỏi - đáp” quá căng thẳng, khô khan làm
9
cho học sinh không có hứng thú học tập. Bởi vì, hỏi – đáp chỉ là một cách,
muốn phát huy cách dạy học này phải kết hợp với các phương pháp khác đặc
biệt là những phương pháp bộ môn.
Tuy nhiên, nhất là ở các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa…ít được cập
nhật thông tin khoa học, chưa nhận thức được tầm quan trọng của việc đổi
mới phương pháp dạy và học hiện nay và chưa hiểu rõ nội dung của công việc
này. Vì vậy trong giờ học lịch sử, thầy làm việc là chủ yếu,trò thụ động ghi
chép còn khá phổ biến. Thậm chí hiện tượng đọc chép còn tràn lan. Mặt khác,
một số giáo viên tuy nhận thức được được vấn đề đổi mới phương pháp dạy
học nói chung, dạy học lịch sử nói riêng nhưng lại lấy nguyên nhân học sinh
yếu kém không thể vận dụng các biện pháp đổi mới nhằm phát huy tính tích
cực của học sinh được, cũng chỉ đọc chép, nhồi nhét kiến thức cho học sinh,
cho nên không chỉ rèn luyện cho các em năng lực tự chiếm lĩnh kiến thức và
trang bị phương pháp học tập tốt. Đây là một thực tế đáng buồn hiện nay dẫn
tới tình trạng học sinh không thích học lịch sử.
Hiện nay sách giáo khoa lịch sử đã được biên soạn theo tinh thần đổi mới
được sử dụng đại trà, trừ cấp trung học phổ thông còn tiến hành thí điểm.
Thực tiễn sử dụng sách giáo khoa mới ở trường phổ thông cho thấy phương
pháp dạy học của giáo viên chưa kịp việc đổi mới nội dung của sách. Bài viết
trong sách trình bày ngắn gọn có tính gợi mở thì giáo viên chưa có đủ độ sâu
về kiến thức để hướng dẫn học sinh tìm ra những kiến thức chìm trong sách
(ví dụ: nguyên nhân thắng lợi, ý nghĩa lịch sử của sự kiện, đánh giá nhân vật,
kênh hình tăng lên so với sách cũ rất nhiều nhằm làm đa dạng nguồn nhận
thức bài học, học sinh học tập nhẹ nhàng hơn. Song nhiều giáo viên chưa hiểu
hết nội dung kênh hình, hiệu quả sử dụng chưa cao, vẫn còn nhiều nhiều giáo
viên quan niệm: hỏi thật nhiều là đổi mới phương pháp dạy học, cho nên nó
chủ yếu chỉ sử dụng câu hỏi mà không khai thác triệt để các nguồn kiến thức
khác.
10
Ở các trường phổ thông hiện nay giáo viên mới chỉ tập trung vào các giờ
lên lớp, chưa quan tâm đến các hoạt động ngoài lớp.
Một thực trạng đáng buồn là hiện nay ở trường phổ thông tâm lý coi nhẹ
môn lịch sử, coi môn lịch sử chỉ là môn phụ. Điều đó đã ảnh hưởng không
nhỏ tới chất lượng dạy và học môn lịch sử. Thời đại ngày nay, học sinh hiểu
biết nhiều về những trò chơi điện tử, phim viễn tưởng và đặc biệt là biết nhiều
lịch sử thế giới hơn là lịch sử Việt Nam. Đơn giản là vì các em xem nhiều
phim lịch sử dài tập của Trung Quốc, Hàn Quốc với sự dàn dựng công phu ,
tình tiết phim hấp dẫn, đội ngũ diễn viên trẻ, đẹp. Lịch sử nước ta không thiếu
những anh hùng hào kiệt, những nhà văn hóa lớn nhưng các bộ phim về
những nhân vật lịch sử, sự kiện lịch sử lại rất ít.
Chất lượng giảm sút trong dạy học lịch sử đây là một thực tế báo động về
sự lạc hậu về phương pháp dạy học lịch sử cũng là nguyên nhân chủ yếu dẫn
đến tình trạng đó. Cách dạy học phổ biến hiện nay vẫn rất đơn điệu, thiếu ví
dụ minh họa, sử dụng ít đồ dùng trực quan đặc biệt là lối truyền thụ một
chiều, áp đặt đối với học sinh. Học sinh học nhiều sự kiện mà vẫn không hiểu,
không nắm được bản chất của nó.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng yếu kém của dạy học lịch sử ở
trường phổ thông. Ngoài những hạn chế từ phía giáo viên thì việc đổi mới
phương pháp, phương tiện dạy học cũng hết sức quan trọng.
1.2.2. Thực trạng của việc giảng dạy nội dung khoa học kĩ thuật
Lịch sử thế giới hiện đại từ 1945 - 2000 là một khóa trình có nhiều sự
kiện quan trọng, phản ánh đầy đủ sự phát triển trên các lĩnh vực kinh tế, chính
trị, văn hóa, ngoại giao…
Khoa học kĩ thuật là một nội dung được chú trọng nhưng chưa nhiều.
Trong thời đại ngày nay việc chú trọng nội dung khoa học kĩ thuật trở nên cần
thiết. Bộ môn lịch sử ở trường phổ thông hiện nay có ý nghĩa quan trọng
trong việc giáo dục học sinh, giúp các em tiếp cận được những thành tựu của
11
cách mạng tiên tiến. Nhân loại đang bước vào nền kinh tế tri thức, sự phát
triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, của xu hướng khu vực hóa, toàn cầu
hóa đã tạo ra những thời cơ và thách thức lớn cho các dân tộc. Khoa học kĩ
thuật ngày càng phát triển và dần dần trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
Điều đó đòi hỏi giáo viên phải tăng cường nội dung này trong dạy học bộ
môn.
Một số giáo viên có năng lực, tâm huyết với nghề nghiệp và dạy học ở
những môi trường thuận lợi đã cố gáng đi sâu vào các nội dung khoa học kĩ
thuật trong dạy học lịch sử. Họ đã cố gắng lồng ghép nội dung này vào những
thời điểm khác nhau của bài học trên lớp cũng như vận dụng các hình thức
hoạt động ngoại khóa khác để khơi gợi sự ham mê, yêu thích tìm hiểu bộ môn
nói chung và nội dung về khoa học kĩ thuật nói riêng. Tuy nhiên, những cố
gắng đó chưa nhiều và chưa đạt được kết quả mong muốn.
Phần lớn, do sức ép về thời gian lên lớp có hạn nên nói chung các nội
dung môn học chỉ được giảng dạy sơ lược, chưa sâu sắc. Các nội dung khoa
học kĩ thuật cũng chỉ được nhắc đến một cách chung chung – đề cập nhanh.
Học sinh không nắm vững nội dung, không ghi nhớ những nhân vật, những
nhà phát minh, nhà khoa học…Điều đó làm giảm sút hứng thú học tập của
học sinh, không tạo hiệu quả giáo dục cao, toàn diện. Vấn đề đặt ra là trong
những điều kiện sư phạm hiện nay, cần phải tìm ra những giải pháp để nang
cao chất lượng dạy học lịch sử. Đối với những khóa trình đặc thù, ví dụ phần
Lịch sử thế giới hiện đai từ 1945 - 2000 có nhiều nội dung khoa học kĩ thuật
thuật thì cần biết cách khai thác nội dung và chỉ ra phương pháp, biện pháp tối
ưu để giảng dạy chúng có hiệu quả nhất.
12
Chương 2: MỘT SỐ NỘI DUNG KHOA HỌC KĨ THUẬT CẦN KHAI
THÁC TRONG KHÓA TRÌNH LỊCH SỬ THẾ GIỚI HIỆN ĐẠI TỪ
1945 – 2000
2.1. Vị trí, ý nghĩa của khóa trình
Chương trình lịch sử (Lớp 12, Ban cơ bản) gồm 2 phần: Lịch sử thế giới
và lịch sử Việt Nam. Trong đó phần Lịch sử thế giới gồm có 6 chương và 11
bài.
Phần một: Lịch sử thế giới hiện đại từ 1945 đến 2000
Chương I: Sự hình thành trật tự thế giới sau chiến tranh thế giới thứ hai
(1945- 1949)
Bài 1: Sự hình thành trật tự thế giới sau chiến tranh thế giới thứ hai
(1945- 1949)
Chương II: Liên Xô và các nước Đông Âu (1945- 1991) - Liên bang Nga
(1991- 2000)
Bài 2: Liên Xô và các nước Đông Âu( 1945- 1991)
Chương III: Các nước Á, Phi, Mĩ la tinh (1945- 2000)
Bài 3: Các nước Đông Bắc Á
Bài 4: Các nước Đông Nam Á và Ấn Độ
Bài 5: Các nước Châu Phi và châu Mĩ la tinh
Chương IV: Mĩ, Tây Âu, Nhật Bản ( 1945- 2000)
Bài 6: Nước Mĩ
Bài 7: Tây Âu
Bài 8: Nhật Bản
Chương V: Quan hệ quốc tế ( 1945- 2000)
Bài 9: Quan hệ quốc tế trong và sau thời kỳ chiến tranh lạnh
Chương VI: Cách mạng khoa học công nghệ và xu thế toàn cầu hóa
13
Bài 10: Cách mạng khoa học - công nghệ và xu thế toàn cầu hóa nửa sau
thế kỷ XX
Bài 11: Tổng kết lịch sử thế giới hiện đại từ 1945 - 2000
Đây là một khóa trình với những vấn đề quan trọng tái hiện những biến
động của nhân loại: chiến tranh kết thúc, sự bùng nổ của cách mạng khoa học
công nghệ… Những biến động đó ảnh hưởng không nhỏ đến lịch sử các dân
tộc trên thế giới cũng như có tác động sâu sắc đến Việt Nam đặc biệt là khi xu
thế toàn cầu hóa, khu vực hóa phát triển mạnh mẽ.
Khóa trình lịch sử thế giới hiện đại từ 1945 - 2000 có nhiều nội dung
phong phú, diễn biến phức tạp với nhiều biến động và thay đổi to lớn. Đáp
ứng được thực tế dạy học lịch sử và đặc điểm nhận thức của học sinh cuối
cấp, chương trình sách giáo khoa đã lựa chọn nội dung, xác định những vấn
đề cơ bản đưa vào chương trình nhằm cung cấp cho học sinh những hiểu biết
toàn diện về bước phát triển của xã hội loài người và thời hiện đại.
Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc đã mở ra một giai đoạn mới của lịch
sử thế giới hiện đại. Trong lịch sử thế giới hiếm có giai đoạn nào như giai
đoạn nửa sau thế kỷ XX mà loài người mới trải qua. Chỉ trong vòng nửa thế
kỷ, tình hình thế giới đã thật sự sôi động với bao diễn biến dồn dập, đem lại
những thay đổi to lớn và cả những đảo lộn đầy bất ngờ.
2.2. Nội dung chủ yếu của khóa trình
Một là, sau chiến tranh thế giới thứ hai, một trật tự thế giới mới đã được
xác lập. Đó là trật tự hai cực Ianta với đặc trưng nổi bật là thế giới bị chia
thành hai phe: tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa do hai siêu cường là Mĩ
và Liên Xô đứng đầu mỗi phe. Đặc trưng hai cực – hai phe đó là nhân tố hàng
đàu chi phối nền chính trị thế giới và các quan hệ quốc tế trong phần lớn thời
gian nửa sau thế kỷ XX.
Hai là, với thắng lợi của các cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở
các nước Đông Âu chủ nghĩa xã hội đã vượt ra khỏi phạm vi một nước, trở
14
thành hệ thống thế giới. Thắng lợi của cách mạng Việt Nam (1945); cách
mạng Trung Quốc (1949) và cách mạng Cuba (1959) đã mở rộng không gian
địa lý của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa. Một rải đất rộng lớn trải dài từ
phía đông Châu Á qua Liên bang Xô Viết tới gần phía đông châu Âu và lan
sang vùng biển Caribe thuộc khu vực Mỹ Latinh. Trong nhiều thập niên, hệ
thống chủ nghĩa đã trở thành một lực lượng hùng hậu về chính trị, quân sự và
kinh tế, chiếm lĩnh nhiều đỉnh cao của khoa học kĩ thuật thế giới.
Do những sai lầm nghiêm trọng trong đường lối, chính sách và sự chống
phá của các thế lực đế quốc, phản động quốc tế, chế độ xã hội đã tan rã ở các
nước Đông Âu (vào cuối những năm 80) và Liên bang Xô Viết (1991). Đây là
một tổn thất nặng nề của phong trào cộng sản và hong trào công nhân quốc tế,
để lại những hậu quả nghiêm trọng cho cuộc đấu tranh của các dân tộc vì hòa
bình, ổn định, độc lập, chủ quyền và tiến bộ xã hội.
Ba là, ngay sau chiến tranh thế giới thứ hai, “một cao trào giải phóng
dân tộc giấy lên mạnh mẽ” ở các nước Á, Phi, Mĩ latinh. Hệ thống thuộc địa
và chế độ phân biệt chủng tộc (Apacthai) kéo dài từ nhiều thế kỷ đã bị sụp đổ
hoàn toàn. Thắng lợi có ý nghĩa lịch sử đã dẫn đến sự ra đời của hơn 100 quốc
gia độc lập trẻ tuổi. Bản đồ chính trị thế giới có những biến đổi to lớn và sâu
sắc. Các quốc gia độc lập ngày càng tích cực tham gia và có vai trò quan
trọng trong đời sống chính trị thế giới với ý chí chống chủ nghĩa thực dân, vì
hòa bình thế giới, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội. Sau khi giành được độc
lập nhiều nước Á, Phi, Mĩ latinh đã đạt được những thành tựu to lớn về kinh
tế - xã hội trong công cuộc xây dựng đất nước.
Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân bản đồ chính trị của các nước Á, Phi,
Mĩ latinh cũng còn không ít những mảng ảm đạm với các cuộc xung đột, chia
rẽ kéo dài và cả những cuộc cải cách kinh tế - xã hội chưa mấy thành công.
Bốn là, nửa sau thế kỷ XX, hệ thống đế quốc chủ nghĩa đã có những biến
chuyển quan trọng
15
+ Từ sau chiến tranh,Mĩ vươn lên trở thành đế quốc giàu mạnh nhất. Với
sức mạnh kinh tế, tài chính và quân sự vượt trội giới cầm quyền Mĩ đã ráo riết
thực hiện các chiến lược toàn cầu nhằm thống trị thế giới, đã dính líu và can
thiệp vào nhiều nơi trên thế giới. Nhưng Mĩ cũng chấp nhận không ít thất bại,
tiêu biểu là thất bại trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam (1954 - 1975).
+ Nhờ có sự tự điều chỉnh kịp thời, nền kinh tế các nước tư bản đã tăng
cường khá liên tục, đưa lại những thay đổi về chất trong cơ cấu cũng như xu
hướng phát triển và hình thành nên các trung tâm kinh tế lớn của thế giới.
+ Dưới tác động to lớn của cách mạng khoa học kĩ thuật, nhất là sự phát
triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất, các nước tư bản ngày càng có xu
hướng liên kết kinh tế khu vực. Tiêu biểu là sự ra đời và phát triển trong hơn
40 năm qua của cộng dồng kinh tế châu Âu (EEC) mà ngày nay là liên minh
châu Âu (EU). Mĩ, EU, Nhật Bản đã trở thành ba trung tâm kinh tế lớn của
thế giới.
Năm là, so với các giai đoạn lịch sử thế giới trước đây chưa bao giờ các
quan hệ quốc tế được mở rộng và đa dạng như trong nửa sau thế kỷ XX.
Những nét nổi bật của quan hệ quốc tế từ sau chiến tranh thế giới thứ hai là:
Tình trạng đối đầu gay gắt giữa hai siêu cường hai phe mà đỉnh cao là
tình trạng chiến tranh lạnh kéo dài tới hơn 4 thập niên.
Tuy nhiên, phần lớn các quốc gia trên thế giới vẫn cùng tồn tại hòa bình,
vừa đấu tranh, vừa hợp tác. Cả hai siêu cường cũng như các nước khác đều có
ý thức về những hiểm họa khủng khiếp không lường hết được của một cuộc
chiến tranh hạt nhân. Hơn thế nữa, ý chí đấu tranh giữ gìn nền hòa bình của
các dân tộc đã được đề cao hơn bao giờ hết, bởi họ vừa mới trải qua hai cuộc
chiến tranh thế giới chỉ trong vòng chưa đầy nửa thế kỷ. Cuối cùng, chiến
tranh lạnh chấm dứt, thế giới chuyển dần sang xu thế hòa dịu, đối thoại, hợp
tác và phát triển. Nhưng rõ ràng, đó đây vẫn còn những “di chứng” của chiến
16
tranh lạnh với nguy cơ bùng nổ các cuộc xung đột do những mâu thuẫn về sắc
tộc, tôn giáo và tranh chấp lãnh thổ.
Sáu là, từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, một cuộc cách mạng khoa học
kĩ thuật (vào đầu những năm 70 được gọi là cuộc cách mạng công nghệ) đã
diễn ra với quy mô, nội dung và nhịp điệu chưa từng thấy cùng với những hệ
quả về nhiều mặt là vô cùng to lớn. Đặc điểm nổi bật của cuộc cách mạng
khoa học kĩ thuật hiện đại là khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực
tiếp, đáp ứng những đòi hỏi mới về công cụ sản xuất, những nguồn năng
lượng mới và những vật liệu mới của cuộc sống ngày càng có chất lượng cao.
Mặt khác, cách mạng khoa học kĩ thuật đã đặt ra trước các dân tộc nhiều vấn
đề cần phải giải quyết như việc đào tạo con người, cho nguồn nhân lực chất
lượng cao của thời đại “văn minh trí tuệ”. Vấn dề bảo vệ môi trường sinh thái
trên Trái Đất và cả trong vũ trụ, sự cân bằng giữa tăng trưởng kinh tế và công
bằng xã hội.
Trong sự phát triển của cách mạng khoa học kĩ thuật, xu thế toàn cầu hóa
đã diễn ra như một làn sóng nhanh ra toàn thế giới. Có thể nói xu thế toàn cầu
hóa đòi hỏi các quốc gia phải có lời giải đáp và sự thích ứng để vừa kịp thời,
vừa khôn ngoan nắm bắt thời cơ, tránh việc bỏ lỡ cơ hội và tụt hậu.
2.3. Các kiến thức khoa học kĩ thuật cần giảng dạy trong khóa trình
Bài 2: Liên Xô và các nước Đông Âu (1945 - 1991) - Liên bang Nga
(1991-2000)
Liên Xô:
- Khoa học kĩ thuật phát triển nhanh chóng:
Năm 1949 Liên Xô đã chế tạo thành công bom nguyên tử. Bom nguyên
tử là loại bom dùng nguyên lý phản ứng tan vỡ của hạt nhân nguyên nặng,
phóng ra năng lượng lớn, có sức sát thương và phá hoại mạnh gấp nhiều lần
bom thông thường [16;70,71].
+ Năm 1949 Liên Xô đã chế tạo thành công bom nguyên tử
17
Với việc chế tạo thành công bom nguyên tử Liên xô đã phá võ thế độc
quyền vũ khí nguyên tử của Mĩ (Vũ khí nguyên tử năm 1945 Mĩ thử thành
công bom nguyên tử → độc quyền).
+ Từ năm 1950 đến nửa đầu những năm 70 Liên Xô đã trở thành cường
quốc công nghiệp thứ hai trên thế giới. Đi đầu trong công nghiệp vũ trụ, công
nghiệp điện hạt nhân.
- Từ những năm 50 đến nửa đầu những năm 70 Liên Xô trở thành cường
quốc công nghiệp thứ hai thế giới.
Sản lượng công nghiệp của Liên Xô chiếm 20% sản lượng công nghiệp
toàn thế giới. Đi đầu trong các ngành công nghiệp vũ trụ: là ngành công
nghiệp chế tạo các loại thiết bị khám phá những bí ẩn của khoảng không gian
nơi chứa các thiên hà.
+ 1957: Liên Xô phóng thành công vệ tinh nhân tạo.
- Năm 1957: Liên Xô phóng thành công vệ tinh nhân tạo. Vệ tinh nhân
tạo là loại khí cụ bay trong vũ trụ được đưa vào quỹ đạo quanh một hành tinh
(Trái Đất) hay quay quanh một vệ tinh thiên nhiên (Mặt trăng) do con người
chế tạo [16;1073]
+ 1961: Phóng tàu vũ trụ.
- Năm 1961: Liên Xô phóng thành công “tàu vũ trụ”. Tàu vũ trụ là một
phương tiện vận tải dùng để bay trong vũ trụ [16;861]. Với việc phóng
thành công tàu vũ trụ đã đưa nhà du hành vũ trụ Gagarin bay vòng quanh
Trái Đất, mở đầu kỉ nguyên chinh phục vũ trụ của loài người
Bài 3: Các nước Đông Bắc Á
- Khoa học kĩ thuật: Bom nguyên tử
- Đây là loại bom dùng nguyên lý tan vỡ của hạt nhân nguyên tử, phóng
ra năng lượng lớn có sức sát thương và phá hoại gấp nhiều lần so với bom
thông thường. Năm 1964 Trung Quốc thử thành công bom nguyên tử.
Chương trình thám hiểm không gian được thực hiện từ năm 1992. Từ tháng
18
11/1999 đến 3/2003 Trung Quốc đã phóng 4 con tàu “Thần Châu” với chế độ
tự động và ngày 15/10/2003, con tàu “Thần Châu 5” cùng nhà du hành vũ trụ
Dương Lợi Vĩ đã bay vào không gian vũ trụ. Sự kiện này đưa Trung Quốc trở
thành quốc gia thứ 3 trên thế giới (sau Nga, Mĩ có tàu cùng với con người bay
vào vũ trụ).
- Ngày 16/10/1964 Trung Quốc đã thành công trong cuộc thử nghiệm vụ
nổ bom nguyên tử đầu tiên. Tiếp đó ngày 17/06/1965 lại thành công trong
việc nghiên cứu bom khinh khí, mở đường cho Trung Quốc trở thành cường
quốc hạt nhân.
Ngày 24/02/1970 Trung Quốc đã thử thành công vệ tinh nhân tạo đầu
tiên, đến nay Trung Quốc đã phóng 30 vệ tinh nhân tạo các loại, trng đó có 7
vệ tinh nghiên cứu khoa học, 7 vệ tinh nghiên cứu kĩ thuật, 16 vệ tinh ứng
dụng. Về số lượng vệ tinh, Trung Quốc đứng hàng thứ 4 thế giới [17;31].
Bài 4: Các nước Đông Nam Á và Ấn Độ
Ấn Độ
+ Cách mạng xanh
- Cách mạng xanh: Thuật ngữ dùng để chỉ những cải tiến to lớn trong
nông nghiệp, đưa dến sự tiến bộ trong việc tăng sản lượng ngũ cốc. Cuộc
“cách mạng xanh” diễn ra vào giữa những năm 60 đến đầu những năm 80 ở
một số nước như Ấn Độ, Pakixtan, Mê hi cô… Bắt đầu từ những năm 80 nhân
loại đang bước vào giai đoạn 2 của cuộc cách mạng xanh hay còn gọi là
“chương trình nông nghiệp toàn cầu” nhằm tập trung vào phát triển, lai tạo
các giống mới có năng suất cao, xây dựng hệ thống tưới tiêu hiện đại, tăng
luân canh và tìm ra nhiều loại hóa chất mới đảm bảo cho cây trồng phát triển
và bảo vệ môi trường sinh thái [11;66]. Nhờ tiến hành cuộc cách mạng xanh
trong nông nghiệp mà từ giữa những năm 70 của thế kỷ XX, Ấn Độ đã tự túc
được lương thực và từ năm 1995 là nước xuất khẩu gạo thứ 3 trên thế giới
19
Cũng trong những năm 70, Ấn Độ đã sử dụng năng lượng hạt nhân vào
sản xuất điện. Trong những năm 80, Ấn Độ đứng hàng thứ 10 trong những
nước sản xuất công nghiệp lớn nhất thế giới. Ấn Độ đã chế tạo được máy
móc, thiết bị ngành dệt, hóa chất máy bay, tàu thủy, đầu máy xe lửa, tivi màu.
+ Công nghệ phần mềm
Ấn Độ cũng có những bước tiến nhanh chóng và hiện nay đang cố gắng
vươn lên hàng các cường quốc về công nghệ phần mềm (Công nghệ phần
mềm là các phương pháp gia công chế tạo các chương trình được sử dụng trên
máy tính điện tử).
+ Công nghệ hạt nhân: Các phương pháp gia công, chế tạo làm thay đổi
trạng thái, tính chất phần trung tâm của nguyên tử, nơi tập trung hầu hết khối
lượng mang điện tích dương, phục vụ cho mục đích của con người.
+ Công nghệ vũ trụ: Các phương pháp gia công, chế tạo những thiết bị
để khám phá những bí ẩn của không gian nơi chứa các thiên hà..
+ Công nghệ chất xám: Chỉ trí thức, tri tuệ, óc sáng tạo. Với cuộc “cách
mạng chất xám” đã đưa Ấn Độ trở thành một cường quốc sản xuất công nghệ
phần mềm lớn nhất thế giới.
Không những thế, năm 1974 Ấn Độ thử thành công bom nguyên tử.
Năm 1975 phóng thành công vệ tinh nhân tạo lên quỹ đạo Trái Đất bằng tên
lửa của mình. Đến năm 2002 Ấn Độ đã có 7 vệ tinh nhân tạo hoạt động trong
vũ trụ.
Bài 6: Nước Mĩ
Nước khởi đầu cách mạng khoa học kĩ thuật và đạt được nhiều thành tựu
trong các lĩnh vực chế tạo công cụ sản xuất mới.
+ Máy tính điện tử: Máy tính làm bằng các thiết bị điện tử để giải các
bài toán theo chương trình [16;296].
20