Tải bản đầy đủ (.doc) (123 trang)

Các kiểu câu tỉnh lược trong tiểu thuyết chu lài luận văn thạc sỹ ngữ văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (504.33 KB, 123 trang )

Bộ giáo dục và đào tạo
Trờng đại học vinh

Hoàng ngọc tĩnh

Các kiểu câu tỉnh lợc trong tiểu thuyết
chu lai
CHUYÊN NGàNH: NGÔN NGữ HọC
Mã số: 60.22.01

LUậN VĂN THạC Sĩ NGữ VĂN
Ngời hớng dẫn khoa học:
pgs. ts. Phan mậu cảnh


2

Vinh - 2011


3
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi đã tham khảo vận dụng lí
luận cũng như thành tựu nghiên cứu về Chu Lai của các tác giả đi trước. Với
khuôn khổ một luận văn thạc sĩ, những vấn đề nêu ra chỉ giải quyết được ở
một chừng mực nhất định, không thể tránh khỏi thiếu sót, hạn chế, mong
được sự góp ý, chỉ bảo chân tình.
Trong quá trình học tập và làm luận văn, chúng tôi nhận được
quan tâm, giúp đỡ quý báu của các thầy cô, các bạn đồng nghiệp, ng ười
thân, đặc biệt là thầy giáo PGS – TS Phan Mậu Cảnh người trực tiếp
hướng dẫn đề tài. Chúng tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đối với


tất cả quý thầy cô và các bạn!
Vinh, tháng 12 năm 2011
Tác giả
Hoàng Ngọc Tĩnh


MỤC LỤC
Trang
QUY ƯỚC TRÌNH BÀY
NGOÀI TẤT CẢ CÁCH THỨC TRÌNH BÀY THEO QUY ĐỊNH CHUNG
LUẬN VĂN CÓ MỘT SỐ QUY ƯỚC RIÊNG
1. Ký hiệu
Ø:

Ký hiệu trống, chỉ lược ngữ (Yếu tố bị tỉnh lược)

2. Chữ viết tắt
C:
V:
B:
Đ:
CN:
LN:

Chủ ngữ
Vị ngữ
Bổ ngữ
Định ngữ
Chủ ngôn
Lược ngôn



5
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1.1. Câu trong văn bản nói chung, văn bản nghệ thuật nói riêng, trong
đó có câu trong tiểu thuyết Việt Nam, đang có xu hướng biến đổi linh hoạt.
Một trong những biến đổi đó là hiện tượng câu tỉnh lược. Đây là một hiện
tượng rất phổ biến trong giao tiếp, thể hiện ở việc lược bỏ lâm thời các yếu tố
đã xuất hiện. Xét về mặt cấu trúc hình thức, nhiều khi ta có cảm giác những
phát ngôn có hiện tượng tỉnh lược thiếu một cái gì đó, nhưng trên bình diện
ngữ nghĩa và thông báo thì không ảnh hưởng gì, thậm chí còn mạng lại hiệu
quả cao. Do đó, tỉnh lược là một phương thức thuộc trong bình diện tổ chức
một diễn ngôn hay một văn bản.
Trong văn bản phi nghệ thuật, hiện tượng tỉnh lược được sử dụng nhằm
tránh lặp lại, tạo cho văn bản có sự ngắn gọn, cô đúc, chặt chẽ. Còn trong văn
bản nghệ thuật, ngoài những ý nghĩa đó tỉnh lược còn được xem như là một
cách thể hiện tạo nên sự độc đáo, mang màu sắc tu từ, biểu cảm.
1.2. Chu Lai là một nhà văn đã để lại ấn tượng khá rõ trong người đọc
qua những tác phẩm viết về chiến tranh - người lính. Trong quá trình sáng tác,
Chu Lai đã thành công qua nhiều thể loại như truyện ngắn, kịch bản sân khấu,
kịch bản phim, hồi ký, bút ký… Nhưng tiểu thuyết là một thể loại mà Chu Lai
gặt hái được nhiều thành tựu nhất. Nó là một minh chứng cho sự lao động
sáng tạo không mệt mỏi của ông. Với hơn chục cuốn tiểu thuyết viết về chiến
tranh, trong đó số phận người lính được khắc hoạ trên nhiều phương diện,
Chu Lai thực sự là một hiện tượng văn học nổi bật trong và sau chiến tranh.
Trong đó, cái nhìn về hiện thực được nhà văn khai thác ở chiều sâu mới phức
tạp hơn, từ điểm nhìn sử thi chuyển sang điểm nhìn hết sức đời tư, nhiều vấn
đề mới được phát hiện và đề cập. Tất cả tạo nên một diện mạo hoàn chỉnh về



6
phong cách nghệ thuật cũng như phong cách ngôn ngữ của ông. Trong dấu ấn
phong cách về ngôn ngữ, hiện tượng câu tỉnh lược là rất đáng được tìm hiểu
khi nghiên cứu về tiểu thuyết của Chu Lai.
1.3. Việc nghiên cứu “Các kiểu câu tỉnh lược trong tiểu thuyết
Chu Lai” góp phần giúp chúng ta tìm hiểu kĩ hơn về nghệ thuật viết tiểu
thuyết của nhà văn, qua đó góp phần khẳng định tài năng nghệ thuật và
công lao của Chu Lai trong tiến trình đối mới văn học sau 1975, trong
việc sử dụng nghệ thuật ngôn từ trong tác phẩm văn học.
Mặt khác nghiên cứu các kiểu câu tỉnh lược còn góp phần vào việc xác
định, định hướng cho sự phân tích rèn luyện ngữ pháp trong nhà trường, làm
rõ sự hành chức của ngôn ngữ trong hoạt động giao tiếp.
2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
2.1. Lịch sử nghiên cứu câu tỉnh lược.
Câu tỉnh lược là hiện tượng sử dụng ngôn ngữ nói chung, ngữ pháp nói
riêng trong thực tiễn giao tiếp, vượt qua giới hạn của những câu chuẩn mực
thông thường. Trong số những bài viết về ngữ pháp tiếng Việt, có một số
công trình ở những mức độ khác nhau đã đề cập đến loại câu này với nhiều
tên gọi khác nhau: Câu rút gọn, câu đơn phần, câu dưới bậc, câu tỉnh lược,
ngữ trực thuộc. Một số tác giả đã trực tiếp đề cập tới hiện tượng này như:
Diệp Quang Ban, Nguyễn Kim Thản, Cao Xuân Hạo, Hoàng Trọng Phiến,
Trần Ngọc Thêm, Phan Mậu Cảnh, Phạm Văn Tình…
Quan điểm thống nhất chung ở các tác giả là nếu xem xét hiện tượng ở
bình diện câu, thì một câu chỉ được coi là câu tỉnh lược khi một trong hai
(hoặc cả hai) thành phần nòng cốt của câu bị lược bỏ (có thể là nòng cốt chủ –
vị hay nòng cốt đề–thuyết). Tuy nhiên, việc tiếp cận các đối tượng lại được
nghiên cứu theo nhiều hướng khác nhau. Có thể quy về hai hướng như sau:



7
a – Hướng xếp câu tỉnh lược vào kiểu câu thuộc song phần
Hoàng Trọng Phiến quan niệm: về mặt ý nghĩa thì câu có chủ ngữ rút
gọn tương ứng với câu có chủ ngữ hiện hữu [30,15]
Các tác giả khác cũng có quan niệm tương tự. Nguyễn Kim Thản cho
rằng: "Câu tỉnh lược là một loại câu mà người ta có thể dựa vào hoàn cảnh mà
khôi phục lại bộ mặt hoàn chỉnh của nó, khác với câu một thành phần" (ví dụ:
Vào đi. Ăn cơm rồi.)[33,231]
Các tác giả “Giáo trình ngữ pháp tiếng Việt” lại quan niệm: “câu rút
gọn không phải là một câu riêng biệt mà chỉ là giả thức khác (giả thức rút
gọn) của loại câu có chủ ngữ và vị ngữ” [10,204].
Nhìn chung, do xem xét phát ngôn tỉnh lược là một dạng nằm trong
kiểu câu song phần nên các nhà nghiên cứu thường xem nhẹ đặc trưng, cấu
tạo, ý nghĩa cũng như các hoạt động hành chức của nó trong các hoàn cảnh
giao tiếp.
b – Hướng coi câu tỉnh lược thuộc câu riêng
Hướng này không xếp phát ngôn tỉnh lược vào câu song phần mà tách
chúng thành một kiểu riêng.
Cao Xuân Hạo (1991) cho rằng, có hiện tượng tỉnh lược đưa đến loại
câu chỉ có một phần thuyết trên bề mặt (câu không đề). Câu không đề không
phải là câu đặc biệt. “đó là loại câu hoàn toàn bình thường và thông dụng” và
được tác giả xếp vào một loại câu riêng khác với ba loại câu: câu trần thuật
(có đề thuyết), câu ghép và câu đặc biệt. [17,148-153]
Trần Ngọc Thêm xem tất cả những phát ngôn không hoàn chỉnh về cấu
trúc là ngữ trực thuộc. Những phát ngôn tỉnh lược nòng cốt (chủ ngữ, vị ngữ)
được gọi là ngữ trực thuộc tỉnh lược. Ví dụ: Hai ba người đuổi theo nó. Rồi
ba bốn người, sáu bảy người. [41;223,224 ]


8

Diệp Quang Ban cho rằng: “Câu tỉnh lược là những biến thể dưới bậc
của câu, gọi tắt là câu dưới bậc”. Ông gọi câu tỉnh lược là loại: “câu có tính
vị ngữ tự thân (hay là câu đơn hai thành phần vắng chủ ngữ)”
Ví dụ: Ông có xe hơi, có nhà lầu, đồn điền, lại có trang trại ở nhà quê.
Vậy thì chính là người giàu đứt đi rồi. [5;196 ]
Cùng chung quan điểm này, Phạm Văn Tình cho rằng hiện tượng tỉnh
lược là ngữ trực thuộc tỉnh lược trong văn bản liên kết. Ông chia tỉnh lược ra
ba tiểu loại ngữ trực thuộc:
- Ngữ trực thuộc tỉnh lược chủ ngữ.
- Ngữ trực thuộc tỉnh lược vị ngữ.
- Ngữ trực thuộc tỉnh lược chủ ngữ + vị ngữ.
Như vậy, chúng ta đã điểm qua các xu hướng nghiên cứu ngữ pháp khi
đề cập đến loại câu tỉnh lược từ trước đến nay. Đây là một hiện tượng ngôn
ngữ đáng chú ý, mặc dù quan điểm nhìn nhận có những chỗ khác nhau và các
ý kiến, quan niệm mới chỉ dừng lại ở những nét phác thảo gợi ý ban đầu
nhưng điều quan trọng là, những tiền đề lí thuyết mà họ đưa ra có ý nghĩa vô
cùng quan trọng đối với ngôn ngữ học và ngữ pháp học.
2.2. Lịch sử nghiên cứu, đánh gía, tìm hiểu về tiểu thuyết Chu Lai.
Chu Lai là một gương mặt mới so với những cây bút kỳ cựu như:
Nguyễn Trung Thành, Nguyễn Minh Châu… Những năm gần đây người ta
bắt đầu quan tâm nhiều hơn về một nền văn học hậu chiến thì Chu Lai là một
cây bút được đề cập khá nhiều. Đã có rất nhiều bài báo, bài viết công trình
nghiên cứu khoa học về tiểu thuyết Chu Lai. Năm 1963, báo Độc lập đăng tác
phẩm đầu tay của Chu Lai, truyện ngắn có tên “Hũ muối người Mơ Nông”.
Đến năm 1978, tập truyện “Người im lặng” ra mắt thì ông mới tạo được dấu
ấn trong lòng người đọc. Nhưng phải đợi 14 năm sau khi tiểu thuyết “Ăn mày
dĩ vãng” xuất bản thì các nhà nghiên cứu, phê bình mới quan tâm nhiều đến


9

Chu Lai. Năm 1992, Chu Lai xuất hiện nhiều trong các bài phê bình, bình
luận đăng trên các báo, tạp chí. Những nhà nghiên cứu đã đánh giá một cách
khá toàn diện những vấn đề mà tác phẩm của ông đã đề cập đến; từ đề tài, bút
pháp, nghệ thuật viết văn, kết cấu truyện ngắn, ngôn ngữ… tựu trung lại, ý
kiến của các nhà nghiên cứu tập trung ở những điểm sau:
Tác giả bài viết “Nhà văn Chu Lai - viết để neo tâm hồn vào cuộc đời”.
(6/4/2004) nhận xét “Với anh, chiến tranh là một siêu
đề tài, hình ảnh người lính là một siêu nhân vật, đề tài chiến tranh như một
mỏ quặng, càng vào sâu càng màu mỡ”.
Trong một bài viết tác giả Hồng Diệu khẳng định rằng: “Chu Lai là
nhà văn thuỷ chung với đề tài chiến tranh, anh có nhiều tác phẩm viết về tài
người lính trên cả ba mặt trận: văn học - sân khấu - điện ảnh”.
Bùi Việt Thắng đưa ra những ý kiến khá bao quát về mọi khía cạnh
trong sáng tác của Chu Lai: “Truyện ngắn Chu Lai phần lớn viết về những
chiến sĩ đặc công” [35,89]. Trong bài “Một đề tài không cạn kiệt”, nhận thấy
“nhân vật Chu Lai được thể hiện như những con người tâm linh. Họ sống bởi
những ám ảnh ảo giác, hối thúc bởi sự sám hối, luôn tìm kiếm sự giải thoát.
Đó là những con người trở về sau chiến tranh bị mất thăng bằng, khó tìm
được sự yên ổn trong tâm hồn. Họ sống trong cảm giác không bình yên… đi
vào ngõ ngách đời sống tâm linh con người, Chu Lai đã làm người đọc bất
ngờ vì những khám phá nghệ thuật của mình… Nhân vật Chu Lai thường tự
soi tỏ mình, khám phá mình, khám phá một bản ngã hay là một người trong
con người”[37,104], “Chu Lai nghiêng về bút pháp nghiêm nhặt trong cách
thể hiện đời sống của người chiến sĩ. Bút pháp này tạo nên tính sâu sắc trong
truyện ngắn của anh”, “Anh có sự tìm tòi hình thức biểu hiện. Đó là sự kết
hợp của tiếng nói bên trong và tiếng nói bên ngoài của bản sắc tinh thần
người chiến sĩ. Trong cái vươn lên khôn cùng của khả năng khi con người


10

đang cố gắng phấn đấu về nhiều mặt. Sự khám phá này tạo nên một đặc thù
mới của thời gian nghệ thuật truyện ngắn… là thời gian giả định, hay còn gọi
là thời gian tâm lý”[37,102].
Xuân Thiều cũng đồng quan điểm với mọi người khi viết:
“Tác phẩm của Chu Lai đầy chất lính, giọng văn băm bổ, sôi động, các
thứ tình cảm suy tư được đẩy đến tận cùng”[43,04]
Nhà phê bình văn học Lý Hoài Thu nhận xét: “Về bút pháp, Chu Lai
đã tạo ra được sự đa dạng về màu sắc thẩm mĩ, đa chiều về thời gian, không
gian, đa thanh về giọng điệu, âm hưởng. Bên cạnh sắc thái trữ tình của Phố
vắng, Dòng sông yên ả là những xung đột gắt gao, là tiết tấu dồn dập đầy
kịch tính của Phố nhà binh. Bên cạnh dòng sông tâm tưởng triền miên của
Người không đi qua hoàng cung là những lời lẽ sâu sắc mà thấm thía của
Người cha nhu nhược…”; “Văn Chu Lai rất gần với ngôn ngữ điện ảnh. Có
cảm giác như ngòi bút của anh “lướt”, cũng “lia” từ nhiều góc độ, cũng tiến
cận cảnh, cũng lùi xa viễn cảnh như ống kính của người quay phim…có lẽ
anh quan tâm nhiều đến phương diện tạo hình của ngôn ngữ mà ít chú ý đến
chiều sâu tâm lí của nó?... về kết cấu anh vận dụng nhiều thủ pháp đồng hiện
và coi đó là một trục chính, là mối giao lưu giữa quá khứ và hiện tại”[44,95].
Lê Tất Cứ trong một bài báo đã cho rằng:
“Chu Lai xây dựng được cốt truyện hấp dẫn phù hợp với ý đồ tư tưởng
mà anh muốn gửi tới người đọc. Đó là số phận mỗi con người trong cuộc
chiến và sau cuộc chiến, những nỗi đau thậm chí là cả sự bất công đến vô lý
vẫn ngang nhiên tồn tại”.
Trả lời cho câu hỏi của bạn chát trên trang
(22/12/2003) hỏi: "Điều gì khiến anh thoả mãn nhất khi cầm bút viết về chiến
tranh?”, Chu Lai đã tâm sự rằng: “Là được đi đến tận cùng, bước vào chiến
tranh, con người ta bộc lộ tất cả tính cách, chiến tranh giống như một loại


11

dung dịch đặc biệt khiến cho tất cả những gì chạm tới đều phải lên hết màu,
hết nét, từ sự giả dối thấp hèn đến cao thượng, thánh thiện. Chính vì thế,
trong chiến tranh các số phận nhân vật có quyền đẩy lên tận cùng của mọi
niềm vui”.
Ngoài ra, ở một số bài khác Chu Lai đã trao đổi với bạn đọc những trăn
trở, suy tư về nghề viết như: “Nhà văn Chu Lai hướng văn chương đến độc
giả trẻ ”, (1/6/2005); “Nhà văn Chu Lai và
những ám ảnh của người viết”, . (12/12/2003); “Đại tá Nhà văn Chu Lai"

“Công phá vào đạo lý dân tộc nghĩa là ngòi bút anh đã

chết”, .
Bên cạnh những ý kiến khẳng định sự thành công của Chu Lai cũng có
một vài ý kiến đánh giá mặt tồn tại trong tiểu thuyết Chu Lai. Tác giả Ngô
Vĩnh Bình trong bài: “Chu Lai với Dòng sông xa”, Tạp chí Văn nghệ Quân
đội, số 4/1989 nhận xét: “Tuy tác giả đã có những trăn trở, những suy nghĩ
mới, tạo ra lối viết mới nhưng đây đó vẫn còn chưa vượt hẳn lên mình. Đây
đó lối kể chuyện còn lộ ý, thiếu tự nhiên, suôn sẻ"[6,103 ]. Nhà phê bình Trần
Ngọc Vương khi nhận xét về cách xây dựng nhân vật ở Cuộc đời dài lắm lại
cho rằng: “Nhà văn chưa “truy bức” nhân vật của mình đến cùng chưa nhập
cuộc với các khả năng mà nhân vật có thể bộc lộ cả cái xấu với cái tốt, cả
người xấu lẫn người tốt”. Các tác giả Thiếu Mai, Lê Thành Nghị… trong
cuộc trao đổi về tiểu thuyết Ăn mày dĩ vãng đều có chung đánh giá: văn hơi
nhiều lời, ngôn ngữ chưa thật chọn lọc công phu, giọng văn quyết liệt bỗ bã
nhưng hơi ồn ào… tạo ra sự cường điệu trong xử lý tình tiết, sự lộng ngôn
trong câu văn.
Tuy nhiên, nhìn một cách tổng quát, phần lớn các ý kiến, các bài báo,
bài viết, công trình nghiên cứu khoa học hoặc cụ thể, trực tiếp khẳng định
những đóng góp mới của tiểu thuyết Chu Lai hoặc đặt tác phẩm của ông trong



12
sự vận động, phát triển, trong xu hướng đổi mới của tiểu thuyết Việt Nam từ
sau 1975 đến nay; phần lớn chỉ dừng lại ở nhận xét, đánh giá tác phẩm dưới
góc độ lý luận phê bình chứ rất ít có các công trình đi sâu tìm hiểu ở bình diện
ngôn ngữ.
Ở đề tài này, tiếp thu tất cả các ý kiến đánh giá của giới nghiên cứu,
phê bình, đây là những nguồn tư liệu quý báu định hướng cho đề tài của
chúng tôi. Với cố gắng của mình, chúng tôi mong muốn đóng góp một phần
nhỏ bé vào việc nghiên cứu tiểu thuyết Chu Lai qua việc khảo sát “Các kiểu
câu tỉnh lược trong tiểu thuyết Chu Lai”. Qua luận văn, có thể thấy được vị
trí, vai trò và những đóng góp của Chu Lai không chỉ ở bình diện văn học mà
cả ở bình diện ngôn ngữ học. Kết quả nghiên cứu sẽ làm sáng tỏ thêm bút
pháp, phong cách ngôn từ của Chu Lai trong tác phẩm.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu.
Chu Lai sáng tác trên nhiều thể loại từ tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch,
đến hồi ký, bút ký… nhưng tiểu thuyết thể hiện được ưu điểm và tài năng độc
đáo của ông về nghệ thuật sáng tác. Trong phạm vi đề tài này, chúng tôi
không có điều kiện để khảo sát toàn bộ sáng tác của nhà văn Chu Lai mà chỉ
đi sâu khảo sát, nghiên cứu một vấn đề cụ thể, đó là: “Các kiểu câu tỉnh lược
trong tiểu thuyết Chu Lai”.
Đề tài người lính vốn rộng lớn, phong phú; ở đề tài này, chúng tôi tập
trung nghiên cứu các kiểu câu tỉnh lược được Chu Lai sử dụng trong 5 cuốn
tiểu thuyết sau:
1. Nắng đồng bằng (1978)
2. Gió không thổi từ biển (1984)
3. Sông xa (1986)
4. Bãi bờ hoang lạnh (1990)
5. Ăn mày dĩ vãng (1991)



13
3.2. Nhiệm vụ
Luận văn hướng tới ba nhiệm vụ chính:
- Tìm hiểu đặc điểm của câu tỉnh lược xét về mặt cấu tạo và ý nghĩa
trong chỉnh thể ngôn bản tiểu thuyết mà nhà văn Chu Lai thể hiện.
- Rút ra những nhận xét khái quát về các kiểu câu tỉnh lược của Chu
Lai trong các tiểu thuyết.
- Đánh giá về vai trò, ý nghĩa của các kiểu câu tỉnh lược trong việc thể
hiện nội dung tiểu thuyết Chu Lai.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Trong luận văn này chúng tôi chỉ chú ý đến các kiểu câu tỉnh lược mà
tác giả sử dụng trong tiểu thuyết là một đối tượng khảo sát. Do đó, khi nghiên
cứu chúng tôi phải tách câu tỉnh lược trong tiểu thuyết thành đơn vị riêng và
quy chúng về dạng mô hình.
Trong quá trình thực hiện đề tài chúng tôi sử dụng đồng thời nhiều
phương pháp trong đó có một số phương pháp chính sau:
4.1. Phương pháp khảo sát và thống kê
Chúng tôi thống kê các câu tỉnh lược trong 5 cuốn tiểu thuyết của nhà
văn Chu Lai để lấy đó làm cơ sở phân loại, tìm tỷ lệ khi khảo sát ở các kiểu
câu tỉnh lược khác nhau.
4.2. Phương pháp miêu tả, phân tích tổng hợp
Trên cơ sở kết quả khảo sát, thống kê, phân loại, luận văn miêu tả, phân
tích từng kiểu câu tỉnh lược mà Chu Lai thể hiện theo những cách thức khác
nhau, từ đó, luận văn sẽ khái quát đặc điểm câu tỉnh lược và tìm ra hiệu quả
nghệ thuật mà nó truyền tải.
4.3. Phương pháp so sánh đối chiếu
Chúng tôi vận dụng phương pháp này để tiến hành so sánh đối chiếu
giữa các kiểu câu tỉnh lược với nhau trong tiểu thuyết, từ đó rút ra những



14
nhận xét về câu tỉnh lược trong văn bản nó chung và trong tiểu thuyết Chu
Lai nói riêng.
5. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN VĂN
Đây là luận văn đầu tiên nghiên cứu một cách tương đối đầy đủ “Các
kiểu câu tỉnh lược trong tiểu thuyết Chu Lai”, chỉ ra những đặc điểm nổi bật
nhất về mặt cấu tạo, cách tổ chức câu văn tỉnh lược cũng như giá trị ngữ nghĩa
do cấu trúc nó truyền tải để qua đó chứng minh được nét đặc sắc, sức sáng tạo
đầy tinh tế trong phong cách nghệ thuật Chu Lai - một tác giả có những đóng
góp quan trọng cho sự phát triển của nền văn xuôi Việt Nam sau năm 1975.
6. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung luận văn
gồm có 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý thuyết liên quan đến đề tài.
Chương 2: Các kiểu câu tỉnh lược trong tiểu thuyết Chu Lai.
Chương 3: Một số đặc điểm về câu tỉnh lược và vai trò của câu tỉnh
lược trong tiểu thuyết Chu Lai.


15
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Khái niệm câu
1.1.1. Định nghĩa
Theo các ý kiến, các quan niệm đã nghiên cứu, đề cập về câu của giới
ngôn ngữ học ở trên thế giới và trong nước thì có thể thấy: từ trước đến nay
có rất nhiều nhà nghiên cứu, nhiều tài liệu đưa ra những định nghiã khác nhau
về câu, đến nay đã có trên 300 định nghĩa về câu (theo thống kê của bà A.

Akhmanôva – Từ điển thuật ngữ ngôn ngữ học). Nhưng cho đến nay khái
niệm về câu vẫn chưa đạt được một sự thống nhất. Các nhà nghiên cứu về câu
có thể quy về các hướng cụ thể như sau:
1.1.1.1. Hướng định nghĩa câu dựa vào mặt ý nghĩa
Các định nghĩa câu theo tiêu chí về mặt ý nghĩa từ lâu đã được các nhà
ngôn ngữ học đặc biệt lưu ý và quan tâm. Ngay từ những thế kỷ III - II TCN,
một nhà học phái ngữ pháp Alechxandri đã nêu định nghĩa như sau: “Câu là
sự tổng hợp của các từ biểu thị một tư tưởng trọn vẹn” [24,138]. Đây là khái
niệm thể hiện về mặt chức năng và ý nghĩa của câu. Mặt khác, định nghĩa này
có tính chất đơn giản, dễ hiểu và khá hoàn chỉnh. Chính vì điều đó mà cho
đến ngày nay định nghĩa này vẫn được sử dụng một cách khá phổ biến. Từ
thời cổ đại Hy Lạp (thế kỷ V, TCN) Aarrixtôt đã cho rằng: “Câu là một âm
phức hợp có ý nghĩa độc lập mà mỗi bộ phận riêng biệt trong đó cũng có ý
nghĩa độc lập”. [33,100].
Ở Việt Nam, từ thời kỳ đầu của ngữ pháp tiếng Việt, các nhà nghiên
cứu phần lớn mô phỏng sách ngữ pháp của tiếng Pháp do đó vấn đề định
nghĩa về câu thực sự chưa có gì thay đổi. Tác giả Trần Trọng Kim viết: “Câu
lập thành do một mệnh đề có ý nghĩa lọn hẳn hoặc hai hay nhiều mệnh đề”.


16
[24,27]. Còn tác giả Nguyễn Lân thì cho rằng: “Nhiều từ hợp lại mà biểu thị
một ý dứt khoát về động tác, tình hình hoặc tính chất của sự vật thì gọi là một
câu”. [21,19].
Còn ngược lại, tác giả Nguyễn Kim Thản đã không đưa ra một định
nghĩa trực tiếp về câu mà chọn định nghĩa về câu của V.Vvinogradov: “Câu
là đơn vị hoàn chỉnh của lời nói được hình thành về mặt ngữ pháp theo các
qui luật của một ngôn ngữ nhất định, làm công cụ quan trọng để cấu tạo,
biểu thị tư tưởng. Trong câu, không phải chỉ có sự truyền đạt hiện thực mà
còn có cả mối quan hệ của người nói với hiện thực”.[33,65].

Ủy ban Khoa học Xã hội cũng đưa ra định nghĩa về câu tương tự: “Câu
là đơn vị dùng từ hay đúng hơn là dùng ngữ pháp mà cấu tạo nên trong qúa
trình tư duy, thông báo; nó có nghĩa hoàn chỉnh, có cấu tạo ngữ pháp và có
tính chất độc lập”[46,167].
Như vây, hướng định nghĩa này đã quan tâm đến mặt nội dung ý nghĩa
của câu nhưng lại bỏ qua mặt hình thức biểu thị của câu.
1.1.1.2. Hướng định nghĩa câu dựa vào phương diện hình thức
Nhà nghiên cứu L. C.Thompson đã đưa ra định nghĩa câu về phương
diện hình thức mà đã bỏ qua mặt nội dung: “Ở trong tiếng Việt, các câu được
tách ra khỏi nhau bởi ngữ diệu kết thúc. Một đoạn có một hay nhiều nhóm
nghỉ kết thúc bằng một hay nhiều ngữ điệu kết thúc hay đằng sau một sự im
lặng hay tiếp một đoạn khác cũng như vậy là một câu. Sự độc lập của những
yếu tố như vây, được phù điệu hoá trong chữ viết bởi cách dùng một chữ hoa
ở đầu câu và một dấu kết thúc (dấu chấm, dấu hỏi, dấu chấm than) ở cuối
câu” [224,101].
Cũng như L.C.Thompson, tác giả F.F.Fortunatov đã đưa ra định nghĩa
tương tự như sau: “câu là một tổ hợp từ với ngữ điệu kết thúc”[24,101].


17
Các định nghĩa này thực chất mới chỉ dựa vào phương diện hình thức
mà chưa chú ý đúng mức tới phần quan trọng là ý nghĩa, cũng như cấu trúc
của câu.
1.1.1.3. Hướng định nghĩa câu dựa vào phương diện hoạt động giao tiếp
Lấy mục đích là cơ sở giao tiếp, theo quan điểm này có tác giả là
Trương Văn Chình. Trong cuốn “Khảo luận về ngữ pháp pháp Việt Nam”,
ông đã chọn định nghĩa về câu của Mây- e nêu như sau: “Câu là một tổ hợp
tiếng dùng để diễn tả một sự tình hay nhiều sự tình có quan hệ với nhau; tổ
hợp ấy tự nó tương đối đầy đủ ý nghĩa và không phụ thuộc về ngữ pháp và
một tổ hợp nào khác” [13,476].

Với định nghĩa này tác giả đã chú trọng, quan tâm đến mặt sự tình, tức nội
dung do câu biểu thị nhưng lại chưa đề cập tới mặt cấu tạo ngữ pháp của câu.
1.1.1.4. Hướng định nghĩa câu dựa vào phương diện hành động phát ngôn
Tác giả E.Sapir (1921) đã đưa ra một định nghĩa với nội dung như sau:
“Câu là một hành động ngôn ngữ diễn đạt một hành đồng của tư duy” [17,72].
Về định nghĩa câu dựa trên định hướng triển khai của tư duy đã dẫn đến
việc phân loại câu theo cấu trúc ngữ nghĩa, cấu trúc đề – thuyết. Tư duy đã
chọn cái gì làm xuất phát điểm thì đó là phần đề, còn tư duy triển khai vấn đề
gì thì đó gọi là phần thuyết. Tác giả Cao Xuân Hạo đã chọn cách phân loại
này để phân loại câu theo cấu trúc.
1.1.1.5. Hướng định nghĩa câu dựa đồng thời vào hai mặt cấu trúc và ý nghĩa.
Vào những năm cuối thế kỷ XX, các nhà ngữ pháp học đã nhận thấy
những hạn chế của các hướng nghiên cứu về câu. Các tác giả chỉ dựa vào tiêu
chí hình thức hoặc có thể là phương diện ý nghĩa hoặc phân loại câu. Chính
bởi lẽ đó, mà các đại biểu đã đi theo một hướng nghiên cứu hoàn toàn mới so
với các tác giả khác. Đó là họ dựa đồng thời vào cả hai tiêu chí cấu trúc và ý
nghĩa khi nghiên cứu về câu. Theo hướng này có các tác giả tiêu biểu:


18
Nguyễn Kim Thản, Hồ Lê, Diệp Quang Ban, Hoàng Văn Thung, Hoàng
Trọng Phiến, Lê Cận, Hữu Quỳnh, Đỗ Thị Kim Liên…
Luận văn chỉ đưa ra một số định nghĩa về câu của các tác giả tiêu biểu
để chứng minh, làm rõ hướng định nghĩa trên như sau:
Diệp Quang Ban định nghĩa: “Câu là đơn vị của nghiên cứu ngôn ngữ
có cấu tạo ngữ pháp (bên trong và bên ngoài) tự lập và ngữ điệu kết thúc,
mang một ý nghĩa tương đối trọn vẹn hay thái độ, sự đánh giá của người nói
hoặc có thể kèm theo thái độ, sự đánh giá của người nói, giúp hình thành và
biểu hiện, truyền đạt tư tưởng, tình cảm. Câu đồng thời là đơn vị thông báo
nhỏ nhất bằng ngôn ngữ”[2,107].

Tác giả Nguyễn Kim Thản cũng đưa ra định nghĩa về câu: “Câu không
phải là những đơn vị có sẵn của ngôn ngữ, nó là những tổ hợp được thành lập
khi con người sử dụng ngôn ngữ để tư duy, giao tiếp hay truyền đạt tư tưởng,
tình cảm, thái độ. Sự vận dụng ngôn ngữ như thế chính là lời nói” [33,138].
Còn tác giả Hoàng Trọng Phiến cũng đưa ra định nghĩa về câu tương
tự: “Với tư cách là đơn vị bậc cao của hệ thống các đơn vị ngôn ngữ, câu là
một ngữ tuyến được hoàn thành về ngữ pháp và về ngữ nghĩa với một ngữ
điệu theo quy tắc của một ngôn ngữ nhất định, là phương diện để biểu đạt tư
tưởng, thái độ của người nói với hiện thực”[30,85].
Các định nghĩa về câu trên đây đã đáp ứng nhu cầu đầy đủ cả hai mặt
nội dung và hình thức cấu tạo nên câu, tuy nhiên còn rườm rà, chưa đáp ứng
được tính ngắn gọn, súc tích của định nghĩa. Trong luận văn này, chúng tôi
dựa vào định nghĩa về câu của tác giả Đỗ Thị Kim Liên như sau:
“Câu là đơn vị dùng từ đặt ra trong quá trình suy nghĩ, được gắn với
ngữ cảnh nhất định nhằm mục đích thông báo hay thể hiện thái độ đánh giá.
Câu có cấu tạo ngữ pháp độc lập, có ngữ điệu kết thúc”[24,107].


19
1.1.2. Đặc điểm của câu
Theo Đỗ Thị Kim Liên, câu còn những đặc điểm cơ bản sau đây:
1.1.2.1. Câu có chức năng thông báo
Có thể nói, câu không phải là đơn vị có sẵn như từ mà được thành lập khi
con người vận dụng ngôn ngữ để tư duy nhằm mục đích giao tiếp hay bày tỏ
thái độ. Chính vì thế, về mặt chức năng, câu là đơn vị có khả năng thông báo.
Nhờ đặc điểm này, ta có thể phân biệt câu với đơn vị bậc dưới câu là từ.
Mặc dù, trong thực tế có những câu chỉ gồm một từ, chẳng hạn: Mưa. Cháy!
nhưng đó còn là một từ đơn thuần trong từ điển nữa, mà được phát âm với
một ngữ điệu nhất định và đồng thời báo một tin nhất định, bộc lộ một tình
cảm hay cảm xúc nhất định của người nói. Mà khả năng thông báo về hiện

thực khách quan hay về tình cảm chủ quan của người nói được gọi là tính tình
thái của câu. Tính tình thái được thể hiện bằng những phương tiện ngôn ngữ
nhất định như ngữ điệu, từ hình thái (bao gồm các động từ tình thái như “dám,
muốn, định”… và một số phó từ có ý nghĩa tình thái như “lắm, rất, quá”…
đồng thời các trợ từ như “à, ư, nhỉ, nhé”…, và dạng thức nhân xưng của động
từ . Nhờ các phương tiện này mà ta nghe xong một câu có thể biết điều nói
trong câu là có thực hay giả định, nghi vấn.
Tóm lại, chức năng thông báo của câu được thể hiện và khái quát như sau:
- Câu mang nội dung thông tin.
- Câu được dùng để bày tỏ cảm xúc, thể hiện, thái độ, tình cảm.
- Câu được dùng để tác động đến hành động, nhận thức của người nghe.
Chẳng hạn:
1. Hôm nay trời sẽ rất lạnh. -> Mục đích thông báo.
2. Trời ơi là trời! -> bày tỏ thái độ.
3. Giơ hai tay lên! -> Tác động đến hành động người nghe.
4. Trái đất xoay xung quanh mặt trời. -> Tác động đến nhận thức.


20
1.1.2.2. Câu có cấu tạo ngữ pháp độc lập
Câu có cấu tạo ngữ pháp độc lập thể hiện là câu thường có cấu trúc CV. Và ngoài ra cấu còn có cấu trúc đặc biệt, đó là loại câu chỉ có một thành
phần (chủ ngữ hay vị ngữ, trạng ngữ, bổ ngữ, định ngữ, đề ngữ, liên ngữ…)
hay còn gọi là câu đơn phần.
Về quy tắc ngữ pháp của tiếng việt có những đặc điểm chung nhưng
vẫn có những đặc thù riêng, khác biệt với các ngôn ngữ khác trên thế giới
như: về quy tắc ngữ pháp của tiếng việt đòi hỏi khi danh từ đặt sau “những”
thì nhất thiết phải có định ngữ đi sau danh từ:
Chẳng hạn:
- Tôi yêu những con người.
Câu trên người nghe dường như vẫn đang chờ đợi một cái gì đó như

(chăm chỉ, hiền lành, ngoan, lễ độ, phúc đức…). Trong khi đó đối với các
ngôn ngữ biến hình thì với câu trên đã hoàn chỉnh.
1.1.2.3. Câu có ngữ điệu kết thúc
Cuối câu bao giờ cũng có ngữ điệu kết thúc câu. Đi kèm với ngữ điệu
kết thúc, câu thường có các yếu tố tình thái đánh dấu kết thúc câu như là: “à,
ư, nhé, nhỉ…”. Việc nghiên cứu ngữ điệu kết thúc câu cần phải được xem xét
trong hoạt động lời nói trên hình thức chữ viết, có thể sử dụng những dấu câu
tương ứng như dấu chấm ( . ) và dấu chấm hỏi ( ? )…
Chẳng hạn:
Sao anh không về chơi thôn vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền?
(Đây thôn Vĩ Giạ-Hàn Mặc Tử)


21
Ngoài ra trong nhiều ngôn ngữ, ngữ điệu dùng để phân biệt các mục
đích phát ngôn khác nhau của các câu có cùng thành phần từ vựng và trật tự
sắp xếp các từ. Các câu này nhờ sự khác nhau về độ cao hay thấp, độ mạnh
hay yếu, độ nhanh hay chậm mà phân biệt là câu tường thuật hay nghi vấn
hoặc cảm thán.
Chẳng hạn:
- Bố đã về. (câu tường thuật)
- Bố đã về? (câu nghi vấn)
- Bố đã về! (Câu cảm thán)
1.1.2.4. Câu được gắn với một ngữ cảnh nhất định
Câu - với tư cách là đơn vị của hệ thống ngôn ngữ, được sử dụng với
mục đích giao tiếp giữa con người với con người trong một cộng đồng xã hội.
Vì lẽ đó cho nên câu bao giờ cũng gắn với một ngữ cảnh nhất định đó là luôn

gắn với một không gian và thời gian cụ thể. Mỗi một câu nói có thể sẽ đúng
trong hoàn cảnh này nhưng ngược lại cũng cùng một câu nói đó lại hoàn toàn
sai khi chúng ta đặt nó trong hoàn cảnh khác, thậm chí còn trở lên ngớ ngẩn
và gây cười.
1.1.3. Cấu trúc ngữ pháp của câu
Câu là đơn vị có nhiều mặt nên việc phân loại câu trong ngôn ngữ học
hiện nay khá phức tạp, dựa vào những tiêu chuẩn khác nhau. Cho đến nay,
việc nghiên cứu ngôn ngữ thường gặp các cách phân loại câu sau:
- Phân loại câu dựa vào cấu trúc ngữ pháp.
- Phân loại câu dựa vào lô gíc – mục đích nói.
Trong luận văn này, chúng tôi chỉ bàn đến việc phân loại câu về mặt
cấu tạo ngữ pháp, nghĩa là sự phân loại dựa vào cấu trúc ngữ pháp, các mô
hình để làm tiền đề cho việc nghiên cứu các kiểu câu tỉnh lược trong tiểu
thuyết Chu Lai.


22
Về cấu tạo ngữ pháp, câu được phân chia thành hai loại: câu đơn và
câu ghép.
1.1.3.1. Câu đơn
Trước hết, câu đơn là câu chỉ có một nòng cốt C-V, ứng với một thông
báo. Loại câu này xuất hiện thường xuyên trong mọi hoàn cảnh giao tiếp.
Ví dụ:
- Trời nắng.
- Biển năm nay ấm. (Nguyễn Thị Thu Huệ)
Trong câu đơn lại được chia thành hai loại: câu đơn bình thường và câu
đơn đặc biệt.
+ Câu đơn bình thường là loại câu có hai thành phần chủ ngữ và vị ngữ
gắn bó chặt chẽ với nhau thông qua mối quan hệ ngữ pháp C- V, tạo nên một
chỉnh thể thống nhất. Hiểu cách khác, câu đơn hai thành phần là câu đơn có

một cụm C-V duy nhất làm thành nòng cốt câu.
- Câu đơn hai thành phần chiếm một vị trí trung tâm và chủ yếu trong
việc miêu tả ngữ pháp về câu. Nó được sử dụng rộng rãi và cũng đồng thời
làm cơ sở, tiền đề cho những kiểu câu có cấu tạo lớn hơn như câu đơn mở
rộng nòng cốt câu, câu ghép.
- Câu đơn bình thường có những đặc điểm:
* Về ý nghĩa: Câu đơn bình thường có biểu đạt một ý nghĩa tương đối
trọn vẹn.
* Về ngữ pháp: Câu đơn bình thường thường có tính chất độc lập về
ngữ pháp, có đầy đủ nòng cốt C- V, đồng thời có ngữ điệu kết thúc.
- Câu đơn bình thường có biểu hiện đó là: Câu đơn bình thường có chủ
ngữ là danh từ (hoặc cụm danh từ) và thành phần vị ngữ là động từ, tính từ
(hoặc cụm đồng từ, cụm tính từ).


23
Chẳng hạn:
- Cái ghế này/ bằng gỗ.
- Em về/ khiến anh vui mừng.
+ Câu đơn đặc biệt được làm thành từ một từ hoặc một cụm từ (cụm
danh từ, cụm động từ, cụm tính từ) - trừ cụm chủ - vị.
Câu đơn đặc biệt được phân thành hai nhóm chính: câu đơn đặc biệt
là do danh từ hoặc cụm danh từ (đẳng lập và chính phụ) đảm nhận và câu đơn
đặ biệt do vị từ là động từ, tính từ hay cụm động từ, cụm tính từ (đẳng lập và
chính phụ) đảm nhận.
Chẳng hạn:
Câu đơn đặc biệt do danh từ (cụm danh từ) đảm nhận như:
- Cái kẹo! -> câu đặc biệt có cấu tạo là một danh từ dùng để gọi tên sự vật.
- Mậu Thân 1968! -> câu đặc biệt giới thiệu thời gian.
- Chửi. Kêu. Đấm. Đá. Thụi. Bịch. (Bữa no đòn - Nguyễn Công Hoan)

-> câu đơn đặc biệt do động từ đảm nhận nhằm diễn tả hành động.
1.1.3.2. Câu ghép
Theo Diệp Quang Ban thì: “Câu ghép (hay hợp thể câu) là một cấu tạo
gồm từ hai dạng câu trở lên, mỗi dạng câu trong đó có tính tự lập tương đối,
giữa chúng có những kiểu quan hệ nhất định và được diễn đạt bằng những
cách nhất định. Mỗi câu trong câu ghép là một vế câu, hay một “dạng câu”
không bị bao”[3,292].
Tác giả Đỗ Thị Kim Liên cũng định nghĩa về câu ghép một cách tương
tự như tác giả Diệp Quang Ban: “Câu ghép gồm hai hoặc hơn hai kết cấu C-V
(hoặc hai trung tâm vị ngữ tính) trở lên, trong đó C-V này không bao hàm CV kia. Giữa chúng luôn có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ thành một thể thống
nhất về ý nghĩa” [24,124].


24
Ví dụ:
- Khi anh vắng, bàn tay em biết nhớ.
(Xuân Quỳnh)
- Bởi tôi ăn uống điều độ và làm việc có chừng mực nên tôi chóng lớn
lắm
(Tô Hoài)
Thông qua định nghĩa về câu ghép trên ta có thể rút ra một số đặc điểm
về câu ghép như sau:
+ Chất liệu để làm lên câu ghép đó là các đơn vị có hai kết cấu C-V hoặc là
hai trung tâm vị ngữ tính trở lên.
+ Các kết cấu C-V (hoặc trung tâm vị ngữ tính) không tồn tại riêng lẻ, rời rạc
mà giữa chúng luôn có sự gắn kết chặt chẽ với nhau thành một thể thống nhất
về ý nghĩa, mặt khác chúng ta không thể tự tiện bỏ đi một trong những vế đó
của câu.
+ Về mặt hình thức, là giữa các nòng cốt C-V có quan hệ từ hoặc ngữ điệu
liên kết.

Trong câu ghép bao gồm: theo ngữ pháp truyền thống người ta vẫn chia
thành câu ghép đẳng lập và câu ghép chính phụ. Câu ghép đẳng lập gồm tất cả
các loại câu không có quan hệ từ hoặc có quan hệ từ đẳng lập: và, hay,
hoặc…; còn câu ghép chính phụ gồm những câu ghép có quan hệ từ chính
phụ (hay gọi là quan hệ qua lại) như: vì… nên, tuy… nhưng, dù… nhưng,
bởi… nên…;
Trên thực tế, loại câu không có quan hệ từ và phó liên từ liên kết thì ý
nghĩa của chúng không xác định, bởi thiếu phương tiện hình thức để xếp
chúng là quan hệ chính phụ hay quan hệ đẳng lập. Do đó, chúng tôi xếp
những câu có quan hệ từ đẳng lập hay chính phụ vào một kiểu, những câu
không có từ liên kết thành một kiểu khác. [24,125].


25

Chúng ta có thể tóm tắt các bước phân loại thành lược đồ sau đây:
Câu ghép (CG)

CG có quan hệ từ

CG

CG

đẳng lập

chính phụ

CG không có quan hệ từ


CG có cặp phó từ

CG không
có cặp phó từ

CG chặt

CG lỏng

(Theo Đỗ Thị Kim Liên [24,125]).
1.1.4. Các thành phần của câu
1.1.4.1. Các thành phần của câu
Thành phần câu được hiểu là những thành tố tham gia cấu tạo nên câu.
Đó là những bộ phận được xây dung dựa trên những mối quan hệ về ý nghĩa
và về ngữ pháp trong một ngôn ngữ nhất định.
Trong lịch sử nghiên cứu thành phần câu của nền ngôn ngữ học nói
chung, vấn đề phân tích ngữ pháp luôn luôn là một vấn đề hết sức phức tạp và
khó khăn. Nó phản ánh ở sự nhìn nhận trong những góc độ, phương diện của
rất nhiều trường phái khác nhau, thậm chí còn trái ngược nhau.
Mặt khác, mỗi trường phái, mỗi tác giả lại xuất phát từ những quan
điểm với nhiều cách giải thích khác nhau. Chính vì vậy mà cho đến nay quan


×