Tải bản đầy đủ (.doc) (161 trang)

Cảm hứng trào lộng trong văn xuôi nguyễn quang lập luận văn thạc sỹ ngữ văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (618.68 KB, 161 trang )

MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1.1. Sau năm 1975 tình hình đất nước có những thay đổi lớn lao. Bước ra từ
hai cuộc chiến tranh kéo dài 30 năm để chuyển sang thời kì hậu chiến, mọi mặt của
đời sống xã hội đều có sự biến chuyển phức tạp, nhất là trong lĩnh vực tinh thần.
Bên cạnh niềm vui chiến thắng, niềm hạnh phúc vô biên đất nước được hoà bình,
thống nhất thì những lo lắng, khủng hoảng, bất an cũng là trạng thái tinh thần có
thực của xã hội trước những khó khăn, tổn thất nặng nề mà chiến tranh để lại. Mặt
khác, cơ chế quản lý quan liêu, bao cấp của nhà nước đã tỏ ra lỗi thời trước tình
hình mới, rồi chính sách cấm vận của Mĩ với Việt Nam, chiến tranh ở biên giới Tây
Nam chưa thực sự chấm dứt...tất cả tạo nên một hiện thực ngổn ngang, bộn bề,
phức tạp mà mỗi cá nhân khi phải đối diện với nó đều không khỏi cảm thấy lúng
túng, vụng về, ngơ ngác, bất ổn giống như tâm trạng của nhà thơ Nguyễn Trọng
Tạo: “Thời tôi sống có bao nhiêu câu hỏi. Câu trả lời thật không dễ dàng chi” (Tản
mạn thời tôi sống)
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) đã khẳng định đường lối lãnh đạo
sáng suốt của Đảng trước tình hình mới. Phương châm đổi mới toàn diện đất nước
trên tinh thần dân chủ, nhìn thẳng vào sự thật và đổi mới vì con người trên tinh thần
nhân văn, nhân bản của đại hội Đảng không chỉ là tư tưởng chính trị mà còn là hạt
nhân cốt lõi tạo nên sự biến đổi mạnh mẽ của đời sống xã hội trong đó có văn học
trên mọi phương diện từ đề tài, chủ đề, quan niệm, cảm hứng...đến hình thức nghệ
thuật. Cũng từ đây ý thức cá nhân được giải phóng, ý thức cá tính được đề cao
trong văn chương. Đó là cơ sở cho sự xuất hiện trở lại và nở rộ của tiếng cười (yếu
tố hầu như vắng bóng trong nền văn học cách mạng, văn học “sử thi” 1945-1975
trước đó). Có thể nói, cảm hứng trào lộng đã tạo thành một dòng chảy mạnh mẽ
trong văn học Việt Nam sau 1975 với những sắc thái, những cung bậc, những giai
điệu khác nhau.
1


1.2. Là một nhà văn đã từng có thời gian tham gia quân đội và có một số


sáng tác thời kỳ này nhưng Nguyễn Quang Lập chỉ thực sự bước chân vào làng văn
trong không khí dân chủ, đổi mới của toàn xã hội nói chung và trong văn chương
nói riêng. Vì vậy, nhà văn có các điều kiện cần và đủ để “thoả sức khai vỡ” mảng
hiện thực đầy bộn bề, ngổn ngang của đời sống xã hội. Bằng những kinh nghiệm
mang tính cá nhân với cái nhìn tinh nhạy, thẳng thắn, không né tránh trước cuộc
đời Nguyễn Quang Lập đã phát hiện ra những vấn đề gai góc, thô nháp nhưng
mang tính bản chất của cuộc sống đời thường với tính muôn mặt, đa chiều của nó.
Đó là cơ sở cho sự xuất hiện của tiếng cười lúc hóm hỉnh, tếu táo, lúc cợt nhả, mỉa
mai, lúc lại chua chát, đầy dằn vặt ẩn chứa tinh thần nhân văn, nhân bản của nhà
văn đối với con người, cuộc đời.
Theo dõi tiến trình văn xuôi Nguyễn Quang Lập từ những tập truyện ngắn
đầu tay như Một giờ trước lúc rạng sáng (1986), Tiếng gọi phía mặt trời lặn
(1989)...đến ấn phẩm gần đây nhất là Kí ức vụn (2009), Bạn văn (2011) và Chuyện
đời vớ vẩn (2011) chúng tôi nhận thấy tiếng cười xuất hiện ngày càng nhiều, càng
trở nên đậm nét và thực sự đã trở thành một khuynh hướng sáng tác, một dòng cảm
hứng nổi bật, rất đáng chú ý.
Chọn đề tài: Cảm hứng trào lộng trong văn xuôi Nguyễn Quang Lập,
chúng tôi hi vọng góp phần tìm hiểu và minh định một phương diện cảm hứng quan
trọng trong bức tranh đa sắc độ của nhà văn được dư luận đánh giá là cũng “lắm tài
và nhiều tật” này.
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Vài năm gần đây, cư dân mạng biết đến Nguyễn Quang Lập như một trong
những blogger hot nhất Việt Nam với giọng văn vừa lịch lãm, trải đời, vừa phóng
túng, bông phèng, bỗ bã. Ngót 30 năm cầm bút ở nhiều lĩnh vực: thơ, văn xuôi,
kịch bản phim, kịch bản điện ảnh...nhà văn đã “đứng” được trong lòng công chúng
khá vững vàng với một giọng điệu riêng, độc đáo không dễ lẫn với bất kì ai, nhất là
trong mảng văn xuôi.
2



Ngay từ những truyện ngắn đầu tay Nguyễn Quang Lập đã được dư luận
quan tâm chú ý. Xung quanh tác phẩm của nhà văn có rất nhiều những ý kiến,
những nhận xét, những đánh giá khá thú vị của bạn đọc, bạn văn, cũng như các nhà
nghiên cứu, phê bình. Theo định hướng nghiên cứu của đề tài chúng tôi có thể điểm
lược những ý kiến đánh giá sau đây.
Quan tâm và sớm phát hiện tài năng văn chương của Nguyễn Quang Lập,
đặc biệt là khả năng hài hước, trào lộng của nhà văn đầu tiên phải kể đến những
người bạn thân, bạn văn của ông. Với nhà thơ Thanh Thảo, ấn tượng sâu sắc nhất
lại là:

“Nguyễn Quang lập là nhà văn rất có duyên trong văn và hài hước trong

đời”. Ngay khi đọc tác phẩm đầu tiên của Lập, Thanh Thảo đã bị hấp dẫn bởi “Khi
đọc tiểu thuyết Những mảnh đời đen trắng của Nguyễn Quang Lập thì tôi vừa đọc
vừa...cười,vì nó hài hước không chịu được, vui không chịu được, mặc dù ai cũng
biết thủ pháp hài hước là nhiều khi phải “nói quá lên một chút”. Cái hài của Lập rất
có duyên, nó “phối kết hợp” giữa cái hài dân gian với cái hài của một nhà văn đủ
sức nắm vững và “đánh đu với con chữ” để cho ra những đoạn văn khiến độc giả
“cười muốn chết” [28]. Rồi đến khi đọc những bài viết của Lập trên blog – sau này
một số được tập hợp lại và in thành Kí ức vụn- nhà thơ thực sự bị thuyết phục bởi
“cái hài hước rất riêng của anh đã được phát huy “tới bến”, điều khiến một số
người quen thân của anh phiền lòng khi anh viết về họ mà không theo giọng “hùng
ca” hay “hoan ca” mà là “hài ca”. Rõ ràng ngay từ đầu Thanh Thảo đã nhận ra sự
xuất hiện khá đậm nét của tiếng cười và cảm hứng trào lộng trong văn xuôi Nguyễn
Quang Lập.
Khi đọc Ký ức vụn, nhà văn Bảo Ninh lại cảm thấy “bất thường” với cách
viết của Nguyễn Quang Lập: “viết lách nhẹ như không, như chơi mà cuốn ngay lập
tức”, cái cách viết khiến người đọc không thể dừng lại để rồi lại bị ám ảnh mãi
không thôi. Và Bảo Ninh nhận xét: “Ký ức vụn, nếu là trong một mâm nhậu vài ba
thằng đọc to lên với nhau chắc phải phát sặc lên vì cười, và cả tức nữa, đến muốn

đập chén chửi vang. Nhưng một mình nằm đọc thì chẳng thấy buồn cười. Chẳng
thấy tục. Chẳng thấy bỗ bã. Đây là một tác phẩm sâu nặng buồn vui. Buồn nhiều
3


hơn vui. Những mảnh ký ức khía vào tim người đọc. Càng khía sâu bởi cách viếttôi không biết gọi sao cho đúng cách viết ấy: thảo khấu, cười cợt, báng bổ, làm
loạn, trêu ngươi?- khiến chữ nghĩa tương phản với nội dung. Đấy là cách viết của
sự “trên tài”. Một tác phẩm bi kịch đời người mà chữ nghĩa lại gây cười thì trên tài
hơn hẳn những nỗi buồn cao sang nhưng thô thiển, ầm ĩ và lồ lộ ra trên các trang
sách tràn ngập những tính từ bi ai” [28]. Có thể thấy, Bảo Ninh đã không chỉ nhận
ra chất hài hước, cười cợt trong cách viết của Nguyễn Quang Lập mà điều quan
trọng hơn là nỗi đau đời, là chiều sâu của sự suy tư, trải nghiệm trước những “buồn
vui một thuở”.
Còn với Hoàng Phủ Ngọc Tường lại đặc biệt ấn tượng về mảng văn xuôi
viết về đề tài chiến tranh của Nguyễn Quang Lập. Từ những truyện ngắn Cây sến
lửa, Đò ơi, Tiếng gọi phía mặt trời lặn...đến tiểu thuyết Những mảnh đời đen trắng.
Theo Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Quang Lập là “người thuốc thang cho vết
thương chiến tranh”, Quang Lập “viết về chiến tranh không để ca ngợi chiến công,
mà để bày tỏ lo lắng về vết thương”. Cái cách mà Lập sử dụng là “dùng giọng hài
hước dân dã để chế ngự bớt nỗi đau đớn”. Như vậy, có thể thấy, ít nhiều Hoàng
Phủ Ngọc Tường đã nhận ra cái “tạng riêng” của văn xuôi Nguyễn Quang Lập đặc
biệt là giọng hài hước mang đậm sắc thái dân gian [67].
Không chỉ giành được sự quan tâm của những người bạn văn, bạn thân, văn
xuôi Nguyễn Quang Lập đặc biệt là Kí ức vụn,Bạn văn và Chuyện đời vớ vẩn còn
thu hút sự chú ý của rất nhiều công chúng bạn đọc, giới nghiên cứu, phê bình. Hầu
hết các ý kiến đều thống nhất ở sự hài hước, hóm hỉnh, mang đậm tính khẩu văn,
thậm chí rất tục, bậy...trong văn Nguyễn Quang Lập. Tiêu biểu là các ý kiến:
Theo Lê Thiếu Nhơn: “Sau tiểu thuyết Những mảnh đời đen trắng, đúng 20
năm sau, Nguyễn Quang Lập mới trở lại văn đàn bằng tập tản văn Ký ức vụn. Vẫn
là một Nguyễn Quang Lập giễu nhại, hóm hỉnh nhưng đã ngoặc sang ngã rẽ khẩu

văn”[48]. Trong một bài viết khác, Lê Thiếu Nhơn lại nhận xét: “Thỉnh thoảng vẫn
có người dùng khẩu văn vào các bài viết nho nhỏ, nhưng không ai dùng khẩu văn
một cách dày đặc như Nguyễn Quang Lập. Nhất là tiếng địa phương vùng Bình Trị
4


Thiên được anh sử dụng rất đắc địa. Đi kèm với những chi tiết phúng dụ, bao giờ
Nguyễn Quang Lập cũng kéo thêm câu cửa miệng “Ua chầu chầu” [56].
Trong bài viết của mình trên báo Người lao động, Tiểu Quyên lại cho rằng
“20 năm trước, tác giả của tập truyện ngắn Tiếng gọi phía mặt trời lặn khiến người
đọc chùng lòng. 20 năm sau, vẫn là những góc đời buồn, nhưng Nguyễn Quang
Lập đã thả vào Kí ức vụn những nụ cười hài hước nhưng đầy ưu tư, suy ngẫm” và
người viết cũng đã nhận ra giọng văn Nguyễn Quang Lập “khác hơn, dí dỏm hơn,
và ngôn ngữ cũng tự do, phóng khoáng hơn”.
Tác giả Minh Thương cũng nhận xét khi đọc Kí ức vụn: “Nguyễn Quang Lập
là người có tài trong cách kể chuyện sử dụng khẩu ngôn linh hoạt và dân dã”, “anh
cũng khéo kết hợp sử dụng lối kể chuyện dân gian trong tiếu lâm, sự hóm hỉnh và
trào lộng, tính thông tấn trong các bài viết” [28].
Trong bài viết Một vài cảm nhận về Ký ức vụn của Nguyễn Quang Lập
(2010), nhà nghiên cứu Phạm Tuấn Vũ đã đề cập một cách tương đối đầy đủ những
vấn đề đáng chú ý của ấn phẩm từ phương diện thể loại đến nội dung, từ quan niệm
“đậm màu sắc dân gian hiện đại của tác giả về con người và cuộc đời” đến tài năng
khắc họa nhân vật và thủ pháp “nhại” được sử dụng một cách thường xuyên. Đặc
biệt trong bài viết này, nhà nghiên cứu Phạm Tuấn Vũ đã đề cập đến hình tượng tác
giả với những nét mới so với văn xuôi truyền thống của nước ta “ Đó là hình tượng
một con người chân thực giãi bày tư tưởng tình cảm, kể cả những điều mà theo
chuẩn mực hiện thời là tục, là khiếm nhã. Hình tượng ấy ít được xây dựng bằng
những ước lệ nghệ thuật phổ biến” [68, 73]
Với Kim Sen thì “Văn Ký ức vụn rất tục, giống giọng người ta thường nói
khi ngồi chén chú chén anh”, vì vậy đọc nó khiến “nhiều người cười nghiêng ngả vì

cái tục, cái thanh được hòa vào làm một”. Không dừng lại ở đó, Kim Sen còn nhận
ra được đằng sau “tiếng cười buông lơi” Ký ức vụn còn làm “cuộc sống hiện lên
hơn cả những cảm xúc thông thường – buồn vui, chua xót hay tiếc nuối”. Và vì thế,
chân dung của các nhân vật dù nổi tiếng hoặc ít nổi tiếng, dù có thật hay hư cấu,
5


phiếm chỉ đều được hiện lên “rất người”, “đầy công bằng với những thói hư, tật xấu
và sự đáng yêu không phân biệt chỗ đứng trong đời” [61].
Trong khóa luận tốt nghiệp đại học Đặc điểm ngôn ngữ tạp văn Nguyễn
Quang Lập (2010), tác giả Nguyễn Thị Nga cũng đi sâu nghiên cứu và đưa ra kết
luận rất có ý nghĩa: “Tạp văn Nguyễn Quang Lập vô cùng phong phú, đa dạng hầu
như đề cập đến mọi con người ông đã gặp, có thanh, có tục, có chuyện vui, chuyện
buồn...nhưng truyện nào ông cũng nói một cách sòng phẳng, trắng phớ chứ không
phải úp úp mở hay làm dáng một cách điệu đà”, “sức hấp dẫn đặc biệt của tạp văn
Nguyễn Quang Lập tỏa ra từ nghệ thuật ngôn từ đặc sắc”, và trong các lớp từ, biện
pháp tu từ mà tác giả sử dụng “lớp từ địa phương, lớp từ thông tục, từ láy, từ xưng
hô là một biểu hiện nổi trội trong ngôn ngữ nghệ thuật truyện Nguyễn Quang Lập”
[40, 45]
Trong lời giới thiệu cuốn Bạn văn, Phạm Xuân Nguyên với tư cách là một
bạn đọc, bạn văn, bạn của tác giả đã đưa ra lời cảnh báo đối với những người đọc
hoặc thích sự nghiêm trang, nghiêm túc, nghiêm trọng, hoặc vốn quen thần tượng
các nhà văn, nhà thơ, hoặc vốn tin vào những chi tiết trong văn là hoàn toàn có thực
trong đời, hoặc vốn thích và ái mộ Nguyễn Quang Lập...khi đọc cuốn sách này đều
phải cân nhắc, e ngại, dè chừng, đắn đo. Bởi vì, hơn ai hết Phạm Xuân Nguyên
nhận ra được tính mới mẻ, độc đáo, phá vỡ khuôn mẫu truyền thống trong lối viết,
lối dựng chân dung, lối tự trào của tác giả. Đó chính là thành công và cũng là điểm
cốt yếu làm nên sức hấp dẫn của cuốn sách với Phạm Xuân Nguyên nói riêng và
bạn đọc nói chung.
Nhận xét về Bạn văn Vũ Quỳnh Trang cũng cho rằng: “Với lối viết hí hoạ,

hài hước, trào lộng mặc dù hấp dẫn song cuốn sách của Nguyễn Quang Lập chưa
hẳn đã thuận mắt với những bạn đọc vốn thích đọc văn chương một cách...nghiêm
trang” [66]. Ý kiến của Vũ Quỳnh Trang cũng thừa nhận tính trào lộng và cách viết
chân dung độc đáo, phá vỡ chuẩn mực thông thường, thậm chí “nghịch nhĩ” của
Nguyễn Quang Lập.
6


Mới đây nhất khi tác phẩm Chuyện đời vớ vẩn của nhà văn được công bố,
cuốn sách tiếp tục nhận được sự quan tâm của đông đảo công chúng bạn đọc. Đa số
các ý kiến đều thừa nhận tính hài hước, trào lộng, cách kể chuyện có duyên và khả
năng khắc hoạ chân dung chân thực, sống động của Nguyễn Quang Lập.
Mặc dù sự thống kê của chúng tôi về những bài viết, những ý kiến, đánh giá
xung quanh tác phẩm văn xuôi của Nguyễn Quang Lập là chưa đầy đủ, nhưng có
thể nhận thấy, các bài viết đều đề cập đến ngôn ngữ, giọng văn, cách nhìn con
người, cuộc đời, cách xây dựng chân dung nhân vật rất “thật”, rất hài hước và rất
đáng chú ý trong tác phẩm của ông. Tuy nhiên, các bài viết chủ yếu dừng lại ở
những cảm nhận, những nhận xét mang tính riêng lẻ mà chưa đi sâu nghiên cứu
một cách hệ thống, nhất là ở phương diện cảm hứng trào lộng và sự chi phối của nó
đến các phương tiện nghệ thuật thể hiện. Vì vậy, luận văn của chúng tôi đã lựa
chọn hướng tiếp cận còn bỏ ngỏ này.
3. ĐỐI TƯỢNG, NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU VÀ PHẠM VI VĂN BẢN
KHẢO SÁT
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là cảm hứng trào lộng được thể hiện
trong văn xuôi Nguyễn Quang Lập
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Với đề tài Cảm hứng trào lộng trong văn xuôi Nguyễn Quang Lập, luận
văn của chúng tôi tập trung tìm hiểu những biểu hiện riêng, độc đáo của cảm hứng
trào lộng trong văn xuôi của tác giả này trong bức tranh chung của cảm hứng trào

lộng trong văn xuôi Việt Nam sau 1975. Đặc biệt, luận văn đi sâu nghiên cứu, tìm
hiểu cái nhìn trào lộng trong văn xuôi của ông được thể hiện trong cái nhìn về con
người, về thế sự và sự chi phối của nó tới các phương tiện nghệ thuật thể hiện: từ
nghệ thuật xây dựng tình huống, tính cách hài đến cách sử dụng ngôn ngữ, giọng
điệu trần thuật và hệ thống thể loại.

7


3.3. Phạm vi văn bản khảo sát
Khảo sát các tác phẩm văn xuôi của Nguyễn Quang Lập mà ở đó có sự xuất
hiện tiếng cười, chúng tôi chủ yếu tập trung vào mảng truyện ngắn, tiểu thuyết và
tạp văn, đặc biệt là các tác phẩm ra đời trong không khí đổi mới như: Một giờ
trước lúc rạng sáng (Tập truyện ngắn-1986), Tiếng gọi phía mặt trời lặn (Tập
truyện ngắn-1987), Những mảnh đời đen trắng (tiểu thuyết –1989), Mười tám
truyện ngắn Nguyễn Quang Lập (1997), Kí ức vụn (Tạp văn – 2009), Bạn văn,
Chuyện đời vớ vẩn (2011).
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Trong quá trình nghiên cứu và triển khai đề tài, chúng tôi chủ yếu sử dụng
các phương pháp sau:
- Phương pháp thống kê
- Phương pháp phân tích tác phẩm văn học
- Phương pháp tiếp cận hệ thống
- Phương pháp so sánh văn học
5. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
Trên cơ sở tiếp thu, kế thừa những thành tựu của người đi trước; với
phương pháp làm việc khoa học, chúng tôi hy vọng luận văn sẽ đưa ra được một
hướng tiếp cận, một cách kiến giải về văn xuôi Nguyễn Quang Lập trên phương
diện cảm hứng trào lộng và sự chi phối của nó đến nghệ thuật trào lộng trong văn
xuôi của ông.

6. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN
Luận văn của chúng tôi gồm có ba phần: Mở đầu, Nội dung chính và Kết
luận. Phần nội dung chính được triển khai theo ba chương sau:
Chương 1: Khái niệm cảm hứng trào lộng và sự trỗi dậy của cảm hứng trào
lộng trong văn xuôi Việt Nam sau 1975
Chương 2: Tiếng cười trào lộng trong văn xuôi Nguyễn Quang Lập
Chương 3: Nghệ thuật trào lộng trong văn xuôi Nguyễn Quang Lập
8


Chương 1
KHÁI NIỆM CẢM HỨNG TRÀO LỘNG
VÀ SỰ TRỖI DẬY CỦA CẢM HỨNG TRÀO LỘNG
TRONG VĂN XUÔI VIỆT NAM SAU 1975
1.1. Khái niệm “cảm hứng trào lộng”
Là một yếu tố của bản thân nội dung nghệ thuật, của thái độ tư tưởng, xúc
cảm của người nghệ sĩ đối với thế giới được mô tả trong tác phẩm, tuy nhiên khái
niệm “cảm hứng trào lộng” hầu như chưa được định nghĩa, chưa được lý giải một
cách trực tiếp. Khảo sát một số công trình Từ điển văn học, Từ điển thuật ngữ văn
học, 150 thuật ngữ văn học, chúng tôi nhận thấy đa số các từ điển đều mới chỉ
dừng lại ở việc đưa ra các khái niệm cảm hứng, cảm hứng chủ đạo, hay trào lộng là
gì.
Đề cập đến thuật ngữ cảm hứng, Từ điển thuật ngữ văn học đưa ra khái
niệm cảm hứng chủ đạo. Theo các tác giả, khái niệm này được hiểu là: “Trạng thái
tình cảm mãnh liệt, đắm say xuyên suốt tác phẩm nghệ thuật, gắn liền với một tư
tưởng xác định, một sự đánh giá nhất định, gây tác động đến cảm xúc của những
người tiếp nhận tác phẩm”. Đồng thời, các tác giả cũng cho rằng: “cảm hứng chủ
đạo thống nhất với đề tài và tư tưởng của tác phẩm. Cảm hứng chủ đạo đem lại cho
tác phẩm một không khí xúc cảm tinh thần nhất định”. Họ cũng đưa ra cách phân
loại cảm hứng chủ đạo (gọi tắt là cảm hứng) theo nghiên cứu của văn học hiện đại

thành: bi kịch, chính kịch, anh hùng, cảm thương, lãng mạn, trữ tình, trào lộng,
châm biếm...[13, 44-45]
Cùng hướng này, Henri Bénac trong cuốn Dẫn giải ý tưởng văn chương đã
giải thích khái niệm cảm hứng: “Về nguồn gốc từ, đó là sự tiếp nhận một hơi thở
của thần linh làm nảy sinh hứng khởi sáng tạo. Nói rộng ra, cảm hứng có thể là
năng khiếu của nhà văn, khiến nhà văn phát minh ra cái mà không một kỹ thuật văn
chương nào, chỉ có mình nó, có thể khám phá ra được (những từ đồng nghĩa theo
các thời đại: Hứng khởi, mê say, điên loạn, cuồng say, quỷ ám, thi hứng, cao
9


hứng...)” [5, 442]. Đồng thời, khi đề cập đến mối quan hệ cảm hứng và nghệ thuật
Henri Bénac cũng đã dẫn ra ý kiến của F. Le Lionnaire, Oulipo trong cuốn Văn học
tiềm năng: “Bất cứ tác phẩm văn học nào cũng được xây dựng bắt đầu từ một cảm
hứng nào đó (ít ra đấy cũng là điều mà tác giả thường để lộ ra cho chúng ta biết),
cảm hứng ấy bắt buộc phải thích ứng một cách vừa phải với một chuỗi ràng buộc
và những thủ tục” [5, 445].
Có thể thấy, dù phát biểu cách này hay cách khác, các nhà nghiên cứu đều
khẳng định cảm hứng là trạng thái cảm xúc mãnh liệt, là điều kiện không thể thiếu
của việc sáng tạo ra những tác phẩm nghệ thuật đích thực mà nhờ đó người nghệ sĩ
có thể khẳng định “nghệ thuật riêng của mình”.
Về khái niệm “trào lộng”, Henri Bénac đã diễn giải một cách cụ thể, rõ ràng
hơn. Theo tác giả, trào lộng bắt nguồn từ tiếng La Tinh burla, “đùa bỡn”, “chỉ là
một hình thức đặc biệt của lối diễn đạt có trong tất cả các nghệ thuật có ngay từ
thời cổ đại trong văn học”, “trào lộng về căn bản là nói bằng những lời lẽ thô tục và
cổ lỗ về những chuyện nghiêm túc”, vì thế từ này cũng để chỉ thể loại trái ngược
“thể loại nói bằng những lời đẹp đẽ, chau chuốt về những sự vật thô thiển, tầm
thường” [5, 110].
Cũng theo tác giả, trong khi hài hước giữ sự tiếp xúc với con người, thì trào
lộng linh hoạt hơn, “trước hết dựa trên nguyên tắc giả trang nên làm sai lệch, bóp

méo bản chất người (về điểm này trào lộng đối lập với chủ nghĩa hiện thực). Nhưng
mặt khác trào lộng đòi hỏi một sự hư cấu tổ chức mang tính thẩm mĩ cao của hình
ảnh, của động tác và của nhịp điệu, làm cho nó trở thành thích hợp với thơ ca, với
câu chuyện được kể hay với điện ảnh”, “trào lộng cũng khác gây cười ở sự kì cục,
lố bịch, trò này đòi hỏi sự lố lăng do khác lạ, do giả mạo bắt chước tự nhiên” [5,
111]. Vì thế, những thủ pháp gây cười của trào lộng dựa trên: giả trang qua từ ngữ
(chuyển đổi), giả trang qua miêu tả (hình thái, cử chỉ, động tác), những thủ pháp
tổng quát hơn thuộc về phạm vi của bông lơn và đặc biệt của tính hài trong sử dụng
từ ngữ, của châm biếm hay nói nhại, giễu cợt. Mục đích của trào lộng do vậy, cũng
10


mở rộng hơn, không chỉ để mua vui, chế nhạo bằng nhại tiếng mà còn châm biếm
xã hội, và làm con người thay đổi bản chất bằng cách điệu hóa.
Có thể thấy, ở một phương diện nào đó trào lộng rất gần với khái niệm trào
phúng. Tuy nhiên giữa chúng có sự khác nhau về mức độ, mục tiêu. Nếu trào
phúng sử dụng các yếu tố của tiếng cười (mỉa mai, châm biếm, phóng đại, khoa
trương, hài hước...) để chế nhạo, chỉ trích, tố cáo, phản kháng những cái tiêu cực,
xấu xa, lỗi thời, độc ác trong xã hội, nghĩa là nó mang tính công kích bút chiến một
cách mạnh mẽ những khiếm khuyết, những thói hư, tật xấu...thì trào lộng uyển
chuyển, mềm mại và linh hoạt hơn trong mức độ và mục tiêu sử dụng tiếng cười.
Khởi nguồn trào lộng là một trò vui nó cung cấp cho một trong nhiều yếu tố của
bông lơn, một yếu tố làm cho người ta vui vẻ. Trong quá trình phát triển, mục đích
của trào lộng được mở rộng hơn, có khi dùng để mua vui, cười đùa, có khi dùng để
chế nhạo, châm biếm hoặc làm thay đổi bản chất người bằng cách điệu hóa...
Trên cơ sở những tiền đề giới thuyết nêu trên, luận văn của chúng tôi sử
dụng khái niệm “cảm hứng trào lộng” với ý nghĩa là một yếu tố, một phương diện
quan trọng của bản thân nội dung tác phẩm nghệ thuật. Khái niệm này gắn liền với
cách nhìn đời sống mang tính dân chủ, cởi mở của cá nhân người nghệ sĩ và quan
niệm đa chiều về cuộc sống ấy. Khởi nguyên từ cái hài – một phạm trù mĩ học

“phản ánh hiện tượng phổ biến của thực tế đời sống vốn có khả năng tạo ra tiếng
cười ở những cung bậc và sắc thái khác nhau. Đó là sự mâu thuẫn, sự không tương
xứng mà người ta có thể cảm nhận được về phương diện xã hội” [13, 42]. Cảm
hứng trào lộng thể hiện sự quan tâm đặc biệt, niềm hứng thú đặc biệt của nhà văn
trong việc phát hiện tính mâu thuẫn, sự không tương xứng, lệch pha, lệch chuẩn của
thực tại xã hội, của con người để làm bật lên tiếng cười với nhiều sắc thái, nhiều
cung bậc phong phú, đa dạng: cười thiện cảm, cười khinh bỉ, cười chua chát, chán
nản, cười nghiêm khắc, cười vui, cười đùa...Và như vậy, hệ quả tất yếu của cảm
hứng trào lộng là tiếng cười và đối tượng mà nó hướng tới là con người hoặc những
gì liên quan đến con người bởi “cười là đặc tính của con người” (Rabơle). Tuy
nhiên, tiếng cười chỉ bộc lộ khi chủ thể phát hiện ra đối tượng gây cười; tiếng cười
11


nổ ra như là dấu hiệu của sự thân mật, “suồng sã” với đối tượng. Theo M.Bakhtin:
“Tiếng cười xóa bỏ nỗi sợ hãi và thái độ tôn kính trước khách thể, trước thế giới,
biến nó thành đối tượng của sự tiếp xúc thân mật và bằng cách đó, chuẩn bị cho
việc nghiên cứu nó một cách hoàn toàn tự do” [3, 50]. Do đó, cảm hứng trào lộng
chỉ thực sự xuất hiện và phát triển khi tư duy văn học mang đậm tinh thần dân chủ,
tự do của một ý thức cá nhân hoàn toàn được giải phóng.
Với ý nghĩa đó luận văn của chúng tôi tập trung tìm hiểu Cảm hứng trào
lộng trong văn xuôi Nguyễn Quang Lập theo hướng khám phá tiếng cười với
những biểu hiện phong phú, đa dạng trong văn xuôi của ông, hệ quả tất yếu của
cách nhìn, cách tiếp cận con người và đời sống theo một góc độ riêng, một lăng
kính riêng với những thủ pháp gây cười tinh quái, tài tình của văn “Bọ Lập”.
1.2. Cảm hứng trào lộng trong văn xuôi Việt Nam trước 1975
Dễ nhận thấy cảm hứng trào lộng đã tạo thành một dòng chảy tương đối
mạnh mẽ và xuyên suốt văn học Việt Nam từ xưa đến nay nhất là trong mảng văn
xuôi. Tuy nhiên, tùy từng giai đoạn, từng thời kỳ lịch sử mà cảm hứng này có
những biểu hiện không giống nhau, với những mức độ, mục đích khác nhau.

1.2.1. Cảm hứng trào lộng trong truyện dân gian
Là những tác phẩm nghệ thuật ngôn từ truyền miệng, được hình thành, tồn
tại, phát triển nhờ tập thể và gắn bó mật thiết với các sinh hoạt khác nhau trong đời
sống cộng đồng, văn học dân gian không chỉ là kho tri thức vô cùng phong phú về
đời sống của các dân tộc Việt Nam mà còn là nơi gửi gắm, chia sẻ tâm tư, tình cảm,
ước mơ, khát vọng, niềm tin về con người, cuộc sống, về lao động sản xuất...của
nhân dân lao động. Nói cách khác, văn học dân gian bộc lộ một cách đầy đủ, trọn
vẹn nhất vẻ đẹp tâm hồn quần chúng: giàu tình yêu thương, luôn vui vẻ, lạc quan
trước mọi hoàn cảnh, căm ghét những thói hư, tật xấu...Như một hệ quả tất yếu,
cảm hứng trào lộng xuất hiện và phát triển một cách mạnh mẽ trong văn học dân
gian đặc biệt là trong truyện dân gian bởi với nhân dân lao động, tiếng cười là
phương tiện, là cứu cánh để giúp họ đối diện, vượt lên và chiến thắng hoàn cảnh
12


sống vốn dĩ còn lắm gian truân, nhọc nhằn, vất vả, đầy rẫy những bất công, ngang
trái.
Trong hệ thống thể loại phong phú của truyện dân gian, cảm hứng trào lộng
được thể hiện tập trung và rõ nét nhất trong truyện cười (còn gọi là truyện tiếu
lâm). Lẽ dĩ nhiên, ở các thể loại khác của văn xuôi dân gian không phải không có
sự xuất hiện tiếng cười. Tuy nhiên ở những thể loại này tiếng cười chỉ xuất hiện với
vai trò điểm xuyết làm cho truyện thêm đậm đà, chứ không chiếm vị trí trung tâm,
không phải là mục đích chính của thể loại. Nhìn chung, tiếng cười trong truyện dân
gian được sản sinh một cách trực tiếp ngay trong đời sống lao động sản xuất và
sinh hoạt hằng ngày nên nó vừa mang tính bộc phát, hồn nhiên, đậm hơi thở của
cuộc sống – hệ quả của tâm lý thích đùa cợt, châm chọc, thích trào lộng của nhân
dân – vừa có tính chiến đấu, đả kích mạnh mẽ những thói tật xấu xa, những nghịch
lý, bất công, ngang trái trong xã hội đương thời. Ở phương diện này tiếng cười có ý
nghĩa xã hội sâu sắc.
Được sản sinh từ cảm hứng trào lộng, tiếng cười trong các truyện tiếu lâm

dân gian mang nhiều sắc độ khác nhau. Có lúc tiếng cười hài hước được sử dụng để
tạo nên giọng bông lơn, cười cợt, trêu chọc nhau qua đó phản ánh bản chất lạc
quan, yêu đời, ham sống trong cái nhìn và hành động của nhân dân trên mọi lĩnh
vực khác nhau của đời sống xã hội có thể thấy qua truyện Tay ải tay ai...Có lúc
tiếng cười lại mang ý nghĩa khôi hài, mua vui kèm theo một cái nhìn thông cảm,
thậm chí một niềm thiện cảm với những ngây thơ, sai lầm, thiếu sót của con người.
Truyện Cháy là một ví dụ cụ thể. Rõ ràng trong câu chuyện không ai có lỗi cả: ông
bố thì cẩn thận, em bé thì thật thà, người khách có đủ lý do để lo lắng. Tiếng cười
bật ra do sự mâu thuẫn: Ông nói gà, bà nói vịt. Em bé thì nói về mảnh giấy, ông
khách lại đang nghĩ về người bạn vắng mặt. Tiếng cười vì thế, thể hiện cái nhìn
thông cảm, đầy thiện cảm trước sự ngây thơ, thực thà của em bé.
Tuy nhiên, trong văn học dân gian nói chung và trong truyện dân gian nói
riêng, các tác phẩm sử dụng tiếng cười như một phương tiện để đấu tranh xã hội
thường chiếm dung lượng lớn. Không phải là tiếng cười khôi hài, châm chọc mà là
13


tiếng cười trào phúng, đả kích giai cấp thống trị, đả kích những mặt tiêu cực, những
thói tật xấu xa trong đời sống xã hội. Ở phương diện này, tiếng cười là vũ khí đắc
lực và hiệu quả để tống tiễn những thứ lạc hậu, độc ác, xấu xa, giả dối xuống mồ
một cách vui vẻ, do đó, giúp cho sự toàn thắng của những gì tiên tiến, tốt đẹp, trung
thực.
Mang ý nghĩa đấu tranh xã hội, cảm hứng trào lộng được thể hiện tập trung ở
các truyện cười phê phán, đả kích. Tiếng cười có khi nhằm vào những thói tật,
những biểu hiện xấu ngay trong chính nội bộ nhân dân. Đối tượng bị cười cũng rất
phong phú, đa dạng. Đó có khi là tính lười biếng, ỷ lại, tính tham ăn, thói vô tích
sự, hoặc tính khoe khoang, khoác lác, thói nịnh bợ, giấu dốt của một bộ phận nhân
dân lao động như trong một loạt các truyện cười: Con vịt hai chân, Lợn cưới áo
mới, Con rắn vuông, Nhưng nó phải bằng hai mày, Tam đại con gà...Tất nhiên
trong loại tác phẩm này tiếng cười thường vừa mang ý nghĩa châm biếm, vừa có ý

nghĩa giáo dục thấm thía, sâu sắc, ít mang thái độ phủ định, tố cáo một cách cay
độc như trong các tác phẩm hướng vào đối tượng là tầng lớp phong kiến thống trị kẻ thù của nhân dân lao động. Các tác phẩm thuộc chủ đề này đặc biệt phát triển
trong thời kỳ suy vong của giai cấp phong kiến (khoảng thế kỷ thứ XVI trở đi nhất
là thời Lê mạt và thời Nguyễn), bởi vì khi ấy, giai cấp này tiêu biểu cho cái lỗi thời,
cái phản động, cái xấu xa. Đó là đối tượng chủ yếu của tiếng cười trào lộng dân
gian. Đáng chú ý là hệ thống các truyện cười được lưu truyền một cách rộng rãi
như truyện Trạng Lợn, Trạng Quỳnh, Xiển Bột, Ba Giai Tú Xuất...với nội dung
chống phong kiến sâu sắc, nó thể hiện tinh thần đấu tranh không khoan nhượng đối
với kẻ thù giai cấp của nhân dân.
Rõ ràng đã xuất hiện và tồn tại một dòng chảy mạnh mẽ của cảm hứng trào
lộng trong truyện dân gian, nó không chỉ thể hiện đời sống tâm hồn phong phú của
nhân dân mà còn góp phần thể hiện trí tuệ dân gian trong việc sử dụng các thủ
pháp, biện pháp gây cười. Đó có thể là việc sử dụng một lời nói, một cử chỉ, một
tình huống...đáng cười hay những yếu tố bất ngờ gây xúc cảm mạnh mẽ cho người
đọc. Có lúc yếu tố tục được sử dụng khá đậm đặc trong các truyện cười không chỉ
14


với vai trò là phương tiện nghệ thuật mà còn mang ý nghĩa xã hội sâu sắc – đưa
những cái tầm thường, tục tĩu vào những cái nghiêm trang, đạo mạo, những chuẩn
mực “khuôn vàng thước ngọc” của lễ giáo phong kiến để thể hiện tinh thần phản
phong mạnh mẽ. Dù sử dụng biện pháp nghệ thuật gì, với mục đích nào, xét đến
cùng tiếng cười trong văn học dân gian nói chung và trong truyện dân gian nói
riêng cũng góp phần thể hiện khát vọng của nhân dân về một cuộc sống tốt đẹp,
lành mạnh, luôn vui vẻ, lạc quan.
1.2.2. Cảm hứng trào lộng trong văn xuôi Việt Nam giai đoạn X – XIX
Văn học Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX (còn gọi là văn học trung
đại) là nền văn học tồn tại và phát triển trong lòng xã hội phong kiến. Dưới sự tác
động mạnh mẽ của truyền thống dân tộc, tinh thần thời đại và những ảnh hưởng từ
nước ngoài (chủ yếu từ Trung Quốc), văn học giai đoạn này đã đạt được những

thành tựu rực rỡ cả về mặt nội dung và nghệ thuật. Theo dõi diễn trình của văn học
trung đại Việt Nam dễ dàng nhận thấy có sự xuất hiện và phát triển mạnh mẽ của
cảm hứng trào lộng, đặc biệt là từ sau thế kỉ XVIII – khi chế độ phong kiến Việt
Nam đi từ khủng hoảng đến suy thoái, những giá trị, những chuẩn mực đạo đức bị
đổ vỡ, đảo lộn. Đó là mảnh đất để tiếng cười xuất hiện và phát triển.
Nếu văn học dân gian là tiếng nói hồn nhiên, tự nhiên của tâm hồn người
bình dân xưa thì văn học trung đại chủ yếu được dùng để tải đạo, để bày tỏ khát
vọng, hùng tâm tráng chí của vua, quan, tăng lữ hay các nho sĩ (Văn dĩ tải đạo, thi
dĩ ngôn chí) nhằm mục đích giáo huấn. Vì thế, chủ nghĩa yêu nước gắn liền với tư
tưởng “trung quân ái quốc” và chủ nghĩa nhân đạo luôn là những nội dung lớn,
xuyên suốt qúa trình tồn tại, phát triển của văn học trung đại Việt Nam. Tuy nhiên,
bên cạnh đó, trong văn học vẫn tồn tại những nội dung, những dòng cảm hứng
khác. Từ cuối đời Trần (thế kỷ XIV), cảm hứng thế sự đã được biểu hiện khá đậm
nét. Văn học hướng vào đời sống hiện thực để phơi bày thực trạng xã hội, để phản
ánh thế thái nhân tình, phản ánh cuộc sống đau khổ của nhân dân. Đặc biệt trong
hai thế kỷ XVIII, XIX, khi hoàn cảnh đất nước có nhiều biến động bởi nội chiến
phong kiến, bão táp của phong trào nông dân khởi nghĩa và cuộc xâm lăng của thực
15


dân Pháp, cảm hứng thế sự càng phát triển mạnh mẽ trong văn học. Nhiều tác giả
hướng ngòi bút của mình vào hiện thực xã hội để ghi lại “những điều trông thấy”.
Từ đó mà các tác giả đã phát hiện ra vô số những mặt, những hiện tượng, những
tình huống mang bản chất hài. Đó là “sự mâu thuẫn, sự không tương xứng mà
người ta có thể cảm nhận được về phương diện xã hội thẩm mĩ” hay đó là “sự trống
rỗng, sự vô nghĩa bên trong được che đậy bằng một cái vỏ huênh hoang tự cho rằng
có nội dung và ý nghĩa thực sự” (Séc-nư-sép-xki) [13, 42] - những hiện tượng phổ
biến của thực tế đời sống xã hội vốn có khả năng tạo ra tiếng cười với những sắc độ
khác nhau. Đó cũng chính là đối tượng của cảm hứng trào lộng trong sáng tác của
văn học thời kỳ này. Trong thơ có thể kể đến một số tác giả tiêu biểu như: Nguyễn

Bỉnh Khiêm, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến, Tú Xương...Ở
văn xuôi có thể thấy trong sáng tác của Nguyễn Dữ, Phạm Đình Hổ, Lê Hữu Trác,
Ngô Gia văn phái...
Mặc dù không phải là nội dung lớn và xuyên suốt của văn học trung đại
nhưng cảm hứng trào lộng của văn học giai đoạn này được biểu hiện khá phong
phú, đa dạng và mang ý nghĩa xã hội sâu sắc.
Nếu trong thơ, tiếng cười trào lộng được biểu hiện khá phong phú, đa dạng
trong sáng tác của các tác giả mà ở họ ý thức cá nhân, cá tính phát triển tương đối
mạnh mẽ. Đó là tiếng cười chua xót, mỉa mai, chế giễu của Trạng Trình Nguyễn
Bỉnh Khiêm trước sự băng hoại đạo đức, sự “đổi trắng thay đen” của lòng người
bởi sức mạnh của đồng tiền. Là tiếng cười phê phán, đả kích mạnh mẽ giống như
một cái tát thẳng thừng, không hề nể nang, sợ hãi vào mặt bọn phong kiến thống trị
trong thơ Hồ Xuân Hương. Rồi tiếng cười lúc hóm hỉnh, nhẹ nhàng, lúc mỉa mai
đầy phẫn uất trong thơ Nguyễn Công Trứ, tiếng cười trào phúng thâm trầm mà sâu
sắc trong thơ cụ Tam Nguyên hay tiếng cười sắc nhọn, cay độc, bốp chát khi tố cáo,
đả kích hoặc hài hước, dí dỏm, nhân hậu khi tự trào trong thơ Tú Xương...Thì đến
văn xuôi, chủ yếu là trong các thể loại văn xuôi tự sự như truyện truyền kỳ, ký, tuỳ
bút, tiểu thuyết chương hồi...tiếng cười trào lộng thường mang ý nghĩa phê phán, tố
cáo xã hội (các thể loại văn chính luận như hịch, chiếu, biểu...không có sự xuất
16


hiện của nội dung cảm hứng này). Có thể kể đến một loạt các tác phẩm tiêu biểu
như: Truyền kỳ mạn lục (Nguyễn Dữ), Thượng kinh kí sự (Lê Hữu Trác), Vũ trung
tuỳ bút (Phạm Đình Hổ), Hoàng Lê nhất thống chí (Ngô Gia văn phái)...
Dù không được biểu hiện tập trung với mức độ đậm đặc giống như trong thơ
nhưng ở bộ phận văn xuôi, cảm hứng trào lộng cũng rất đáng chú ý. ỞTruyền kỳ
mạn lục thông qua các cốt truyện cổ và các truyền thuyết lịch sử, dã sử được lưu
truyền trong dân gian Nguyễn Dữ không chỉ phản ánh khát vọng phá bỏ bất công,
ngang trái, vươn lên kiếm tìm hạnh phúc mà còn thể hiện cảm hứng phê phán

những tệ nạn xã hội, những suy thoái đạo đức của con người bằng tiếng cười mỉa
mai, chế giễu. Tác phẩm vì thế mang đậm yếu tố hiện thực và chất nhân văn sâu
sắc. Trong Thượng kinh kí sự và Vũ trung tuỳ bút, bằng lối văn ghi chép sự việc
vừa cụ thể, chân thực, vừa sinh động, hấp dẫn các tác giả đã phản ánh được đời
sống xa hoa, trụy lạc của vua chúa, sự nhũng nhiễu, bạo ngược của bọn quan lại
thời Lê - Trịnh mà ẩn đằng sau đó qua cách miêu tả, cách sử dụng ngôn ngữ, lời
bình luận của người viết...người đọc vẫn nhận ra thái độ phê phán, nụ cười châm
biếm, giễu nhại của các tác giả trước những thói tật, những hư danh phù phiếm
chốn quan trường. Đặc biệt ở Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô Gia văn phái, tác
phẩm không chỉ tái hiện được một cách chân thực, sống động một giai đoạn lịch sử
quan trọng với những biến cố, những sự kiện trọng đại, có ý nghĩa lớn lao, nhất là
cuộc khởi nghĩa của phong trào nông dân Tây Sơn mà còn cho ta thấy được bút
pháp nghệ thuật phong phú với những sắc điệu thẩm mĩ đa dạng. Tính chất trào
phúng, khôi hài có khi châm biếm sâu cay được các tác giả rất dụng công khi xây
dựng chân dung bọn vua chúa, quan lại của triều đình Lê - Trịnh. Tiếng cười vì vậy
được bật lên từ những chi tiết, những cử chỉ, những hành động trái khoáy, ngược
đời, lố bịch của nhân vật hay từ cách sử dụng ngôn ngữ, hình ảnh, cách miêu tả, so
sánh...của các tác giả, qua đó người đọc cảm nhận được đầy đủ thái độ đánh giá của
họ. Chẳng hạn đây là đoạn văn miêu tả cảnh lên ngôi của chúa Trịnh Tông sau loạn
kiêu binh: “Trong lúc gấp vội không có kỷ sập, phải dùng tạm chiếc mâm vẫn bày
cỗ lộc làm ghế, đặt thế tử ngồi lên, rồi tám người kề vai vào khiêng. Chốc chốc họ
17


lại nâng bỗng chiếc mâm lên đầu mà đội, đầu mỏi lại hạ xuống vai, rồi vai mỏi lại
nâng lên đầu. Cứ thế lên lên xuống xuống giống y như người ta giỡn quả cầu hoặc
rước pho tượng phật. Mỗi lần thế tử được nhô lên cao, quân lính lại vỗ tay reo hò
vang lên một chập. Những kẻ buôn bán ở các phường phố đều tranh nhau kéo đến
xem chúa, sân phủ đông như họp chợ” [37, 253].
Rõ ràng mọi sự tôn nghiêm, trang trọng của việc lên ngôi đã bị bóc trần trong

dáng vẻ lố bịch nhất của tiếng cười trào lộng. Người đọc dễ dàng nhận ra thái độ
cười nhạo, phê phán không giấu giếm của người viết đối với chúa Trịnh Tông. Việc
hắn được bọn kiêu binh lập lên ngôi chúa chỉ giống như một tấn hề chèo, một trò
múa rối nực cười góp vui cho thiên hạ và bản thân hắn cũng trở thành con rối,
thằng hề, thành “pho tượng phật” vô dụng mà thôi. Người đọc buồn cười bởi chi
tiết chiếc mâm vẫn bày cỗ lộc được thay thế cho ngai vàng uy quyền, sang trọng,
càng buồn cười hơn ở ý nghĩa ẩn đằng sau đó - Trịnh Tông cũng là một thứ cỗ lộc
“thủ gà, má lợn” mà người ta vẫn bày cúng trên mâm, và những so sánh, ví von đầy
ý vị của các tác giả. Tất cả làm nên bút pháp trào lộng, giễu nhại tài tình, sâu sắc
của văn phái Ngô Gia.
Như vậy có thể khẳng định rằng, dù không phải nội dung lớn và xuyên suốt
của văn học trung đại Việt Nam nhưng cảm hứng thế sự, cảm hứng trào lộng cũng
đã xuất hiện và phát triển một cách mạnh mẽ trong văn học giai đoạn này, đặc biệt
là ở hai thế kỷ XVIII, XIX. Nó góp phần làm nên bức tranh đa sắc của văn học dân
tộc với những cá tính sáng tạo độc đáo trong thơ cũng như trong văn xuôi.
1.2.3. Cảm hứng trào lộng trong văn xuôi Việt Nam giai đoạn đầu XX 1975
Bước sang thế kỷ XX, dưới tác động của chính sách cai trị và bóc lột của
thực dân Pháp, xã hội Việt Nam có những biến chuyển và xáo trộn mạnh mẽ trên
mọi phương diện từ chính trị, kinh tế, kết cấu xã hội đến đời sống và tâm trạng của
con người. Hàng hoá, tiền bạc phá vỡ các quan hệ luân thường. Kinh tế tư bản chủ
nghĩa ở thành thị làm cho con người trở thành những cá nhân, cá thể riêng biệt, tình
nghĩa lép vế trước lợi nhuận. Xã hội trở thành phức tạp, cuộc sống trở nên rộn rịp,
18


gấp rút, thay đổi nhiều hình, nhiều vẻ. Cùng với sự xuất hiện của con người cá
nhân, ý thức cá nhân, thị hiếu văn học cũng thay đổi. Văn học không còn gắn với
sử, với triết, văn học cũng thoát khỏi sự ràng buộc của đạo lý để nói về những con
người thực, về cuộc sống bình thường. Nói cách khác văn học Việt Nam buộc phải
hiện đại hoá. Đó là quá trình “xoá bỏ quan niệm xã hội luân thường với con người

đạo đức và chức năng, hình thành quan niệm xã hội, quan niệm con người, quan
niệm cuộc sống chi phối việc thay đổi đề tài văn học...cuộc sống trong văn học
cũng dần dần phức tạp, đa dạng, nhiều màu sắc như cuộc sống thực” [50, 25].
Trong điều kiện xã hội mới, cảm hứng trào lộng trong văn học càng có
điều kiện phát triển mạnh mẽ bởi cười đùa, vui vẻ là một nhu cầu tất yếu của cuộc
sống. Mặt khác, biểu thị thái độ phản kháng, phủ định những cái chướng tai, gai
mắt, những cái xấu xa, phi lý, phi nghĩa cũng là một nhu cầu không thể thiếu của
con người.
Những năm đầu thế kỷ XX, văn học trào phúng đã phát triển thành một
dòng với sự tiếp nối không dứt (chủ yếu là trong thơ ca) mà những người khởi
xướng chính là Nguyễn Khuyến, Tú Xương đến thơ trào phúng của Nguyễn Thiện
Kế, Kép Trà, Phan Điện...và ở giai đoạn sau là sự kế tục, phát triển của Tú Mỡ, Đồ
Phồn.
Những năm 1930 – 1945 là thời kỳ đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp
hết sức gay gắt. Trong văn học, cũng là cuộc đấu tranh, đồng thời là sự tác động
qua lại giữa các bộ phận văn học: văn học cách mạng, văn học hiện thực, văn học
lãng mạn tiến bộ và văn học lãng mạn tiêu cực, bảo thủ. Sự phân hoá phức tạp
thành nhiều khuynh hướng, nhiều thành phần của văn học thời kỳ này một mặt tạo
nên sự đa dạng, phong phú của đời sống văn học, mặt khác nó đáp ứng được yêu
cầu phản ánh bức tranh cuộc sống bộn bề, phức tạp với những biểu hiện muôn mặt,
đa chiều.
Nổi lên như một khuynh hướng chủ đạo trong văn học, cùng với khuynh
hướng lãng mạn, khuynh hướng hiện thực không chỉ đáp ứng yêu cầu đấu tranh xã
hội trong thời kỳ lịch sử đầy sôi động mà còn phản ánh quá trình vận động của các
19


hệ tư tưởng, những tác động qua lại của các hình thái ý thức trong kiến trúc thượng
tầng. Ở bộ phận văn học này, cảm hứng trào lộng, phê phán những ung nhọt thối
tha của xã hội, những trò lố lăng, đồi bại của đời sống thực dân nửa phong

kiến...được phát triển một cách mạnh mẽ nhất là ở văn xuôi, đặc biệt là trong sáng
tác của các nhà văn tiêu biểu như Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất
Tố, Nam Cao...Các tác giả đã rất nhạy bén trong việc phát hiện ra những bất công,
phi lý, những mâu thuẫn hài hước trong các sự vật, hiện tượng, những tình huống
trái khoáy, ngược đời để làm bật lên tiếng cười trào lộng vừa sảng khoái, vừa sâu
sắc.
Trước hết, đáng chú ý ở thời kỳ này là những truyện ngắn trào phúng của
Nguyễn Công Hoan. Có thể nói, nhà văn đã vạch cho mình một con đường riêng
trong văn học: nhìn thẳng vào hiện thực, bằng tiếng cười trào phúng phơi ra những
mặt trái của xã hội đầy bất công, thối nát, kẻ giàu thì sống sa hoa, phè phỡn, vô đạo
đức, còn người nghèo thì bị ức hiếp, bị chà đạp, đói khổ cùng cực. Có thể kể đến
những truyện ngắn đặc sắc như: Răng con chó của nhà tư bản, Báo hiếu: trả nghĩa
mẹ; báo hiếu: trả nghĩa cha, Mất cái ví, Tinh thần thể dục, Thịt người chết, Đồng
hào có ma...Tiếng cười trào phúng trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan thường
giòn giã, sảng khoái, ném thẳng vào mặt kẻ thù, nó vừa có cái hóm hỉnh, thông
minh, sắc sảo của một trí thức tiểu tư sản, vừa có cái khoẻ khoắn, lạc quan, giàu
tính chiến đấu của truyện cười dân gian Việt Nam và truyền thống trào phúng của
văn học dân tộc.
Với Vũ Trọng Phụng, hướng vào việc “tả chân” và tố cáo xã hội, nhà văn
đã thể hiện sự táo bạo, xông xáo trong việc lật mặt trái bẩn thỉu, dơ dáy của cái xã
hội thuộc địa đen tối, thối nát thời đó. Ngòi bút trào phúng cay độc của ông đã tung
hoành thoải mái để đả kích trực diện vào toàn bộ xã hội mục ruỗng, nhố nhăng. Từ
những sinh hoạt trụy lạc đến thói giả dối, bịp bợm, từ những phong trào thể thao,
âu hoá, văn minh rởm đến sự băng hoại, suy đồi về đạo đức...tất cả đều trở thành
đối tượng của lăng kính trào lộng, giễu nhại. Có thể thấy, tiếng cười trào phúng của
Vũ Trọng Phụng được kết tinh và thể hiện tập trung nhất trong tỉểu thuyết Số đỏ.
20


Cả tác phẩm là một tràng cười dài với những cung bậc khác nhau thể hiện thái độ

phê phán, tinh thần đấu tranh không khoan nhượng của nhà văn đối với xã hội
đương thời. Tác phẩm còn cho thấy ngòi bút trào phúng đặc sắc của nhà văn mà ít
ai đạt được.
Ở Ngô Tất Tố, chúng ta bắt gặp nghệ thuật châm biếm sắc sảo vừa giàu tính
chiến đấu, vừa đậm đà màu sắc dân tộc. Nhà văn không chỉ hướng ngòi bút vào phê
phán sự mục nát của chế độ khoa cử phong kiến - trường thi như một sân khấu
tuồng, các quan giám khảo thì giống hệt phường chèo còn những ông tiến sĩ vinh
quy bái tổ thì chẳng khác gì những tiến sĩ giấy trong ngày tết trung thu, mà còn đả
kích trực diện vào bè lũ thực dân, bọn quan lại, địa chủ, tư sản, nghị viên và các tổ
chức bịp bợm của chúng. Qua các tác phẩm như: Lều chõng, Việc làng...hay một
loạt tiểu phẩm như: Ông Thống Sứ với trận mưa hôm nọ, Bãi nước bọt trên mặt
ông tuần phủ, Cái ăn trong ngày nước ngập...Ngô Tất Tố đã “chiến đấu”, đã đánh
địch bằng nghệ thuật trào phúng sâu sắc, phong cách nghệ thuật trào phúng, châm
biếm của nhà văn là “sự kết hợp hài hoà cái thâm thuý của một nhà nho trí thức với
cái vui, hồn hậu, lạc quan, tính chiến đấu mạnh khoẻ của văn học dân gian” [50,
400].
Trong tác phẩm của Nam Cao, người đọc lại bắt gặp nụ cười mỉa mai, đau
xót. Đọc các truyện: Trẻ con không được ăn thịt chó, Quên điều độ, Một chuyện
Xuvơnia, Một bữa no...người đọc cảm nhận thấm thía nỗi đau đớn, xót xa, cười ra
nước mắt của nhà văn trước sự tha hoá, biến chất của con người bởi cái đói và
miếng ăn. Vì vậy, mỗi tác phẩm của Nam Cao giống như một hồi chuông báo động,
kêu cứu đối với nhân tính, lương tri của con người.
Từ 1945 – 1975 trong điều kiện cả đất nước bước vào cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc vô cùng ác liệt kéo dài suốt ba mươi năm, sự kiện đó đã tác động
mạnh mẽ, sâu sắc đến toàn bộ đời sống vật chất và tinh thần của dân tộc trong đó
có văn học nghệ thuật. Nếu ở giai đoạn trước văn học phân hoá phức tạp thành
nhiều khuynh hướng, nhiều thành phần, vừa đấu tranh với nhau lại vừa bổ sung cho
nhau thì đến giai đoạn này văn học thống nhất chặt chẽ dưới sự lãnh đạo của Đảng,
21



chủ yếu vận động theo hướng cách mạng hoá, gắn bó sâu sắc với vận mệnh chung
của đất nước. Nói cách khác, khuynh hướng tư tưởng chủ đạo của văn học giai
đoạn này là tư tưởng cách mạng, văn học trước hết phải là một thứ vũ khí phục vụ
sự nghiệp cách mạng, nhà thơ, nhà văn cũng đồng thời là chiến sĩ trên “mặt trận
văn hóa nghệ thuật” theo tinh thần của chủ tịch Hồ Chí Minh:
Nay ở trong thơ nên có thép
Nhà thơ cũng phải biết xung phong
(Cảm tưởng đọc thiên gia thi)
Trong hoàn cảnh đó, văn học không thể là tiếng nói riêng của mỗi cá nhân
mà tất yếu phải là tiếng nói chung của cả cộng đồng, của toàn dân tộc.Vì thế, văn
học 1945 – 1975 là nền văn học mang đậm chất sử thi. Cũng chính khuynh hướng
sử thi đòi hỏi người cầm bút không chỉ nhìn con người và cuộc đời bằng con mắt
của cá nhân mà chủ yếu bằng con mắt có tầm bao quát của lịch sử, dân tộc và thời
đại, là “con mắt Bạch Đằng – con mắt Đống Đa” theo cách nói của Chế Lan Viên.
Với cái nhìn sử thi mang tính chiêm bái, ngưỡng mộ, tôn vinh về những vấn đề
trang nghiêm, cao cả của dân tộc, của thời đại nên nhìn chung điểm nhìn của các
tác giả đều mang tính thống nhất, không có sự mâu thuẫn, vênh lệch. Vì vậy, trong
văn học 1945 – 1975 hầu như không thấy sự xuất hiện và thể hiện của cảm hứng
trào lộng, của cái hài, bởi lẽ cái hài là sự lệch chuẩn gây cười, sự mâu thuẫn, không
tương xứng. Cái hài chỉ xuất hiện bởi cách nhìn khác nhau, cách đánh giá không
giống nhau về đời sống của kinh nghiệm cá nhân, còn kinh nghiệm cộng đồng,
điểm nhìn sử thi không có chỗ cho cái hài. Nói cách khác, dù ở giai đoạn trước cảm
hứng trào lộng đã phát triển và tạo thành một dòng chảy mạnh mẽ thì đến giai đoạn
1945 – 1975 do những điều kiện đặc biệt của đất nước, dân tộc, của thời đại nên
văn học lại vận động và phát triển trong trạng thái “trang nghiêm”, “mực thước”,
thiếu vắng bóng dáng tiếng cười. Nhưng trạng thái đó chỉ mang tính chất tạm thời
để đến giai đoạn sau, khi đất nước trở lại hoà bình, thống nhất, đời sống bước vào
quỹ đạo bình thường của nó, ý thức cá nhân được giải phóng, cá tính sáng tạo được
đề cao thì tiếng cười lại nở rộ và trỗi dậy mạnh mẽ hơn.

22


1.3. Sự trỗi dậy của cảm hứng trào lộng và sự hình thành “loại hình”
văn xuôi trào lộng trong văn học Việt Nam sau 1975
1.3.1. Sự trỗi dậy mạnh mẽ của cảm hứng trào lộng trong văn xuôi Việt
Nam sau 1975
Ngày 30-4-1975 cuộc chiến tranh ái quốc vĩ đại chống đế quốc Mĩ kết thúc
thắng lợi, lịch sử dân tộc mở ra kỉ nguyên mới: Kỉ nguyên độc lập - tự do và thống
nhất đất nước. Tuy nhiên hậu quả nặng nề của cuộc chiến tranh khốc liệt kéo dài ba
mươi năm khiến đất nước rơi vào tình trạng hết sức khó khăn. Nghị quyết của Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) đã chỉ rõ: đổi mới là “nhu cầu bức thiết”, là
“vấn đề có ý nghĩa sống còn” của toàn dân tộc. Từ năm 1986, đất nước bước vào
công cuộc đổi mới một cách mạnh mẽ, toàn diện, sâu sắc. Văn học cũng không
nằm ngoài sự vận động đó. Nhìn chung văn học Việt Nam từ sau năm 1975, đặc
biệt là từ sau năm 1986 đã vận động theo khuynh hướng dân chủ hóa, mang tính
nhân bản, nhân văn sâu sắc. Văn học phát triển đa dạng hơn về đề tài, chủ đề;
phong phú và mới mẻ hơn về thủ pháp. Văn học giai đoạn này cũng đề cao cá tính
sáng tạo của nhà văn, đổi mới cách nhìn nhận, cách tiếp cận con người và hiện thực
đời sống, đã khám phá con người trong những mối quan hệ đa dạng, phức tạp, thể
hiện con người ở nhiều phương diện của đời sống, kể cả đời sống tâm linh.
Sự quan tâm nhiều hơn tới số phận cá nhân trong những hoàn cảnh phức
tạp, bộn bề của cuộc sống đời thường khiến cho nội dung cảm hứng của văn học
giai đoạn này có sự thay đổi quan trọng. Cùng với cảm hứng sử thi (vẫn tiếp tục
vận động theo quán tính của văn học giai đoạn trước trong khoảng mười năm sau
hòa bình), cảm hứng về cái bi, sự trỗi dậy của cảm hứng trào lộng đã làm thay đổi
căn bản diện mạo văn xuôi thời kỳ đổi mới. Người đọc không thể không nhận ra sự
“phục sinh” của tiếng cười - được sinh ra từ cảm hứng trào lộng, sinh ra từ cái
“hài” – như một đặc điểm nổi bật của sáng tác văn xuôi nước ta sau 1975. Điều này
là hoàn toàn tự nhiên dù đã có một thời gian dài (ba mươi năm) cái hài hầu như

vắng bóng và không được nhận thức trong văn học. Tiếng cười luôn đem lại hiệu
quả thẩm mĩ và thỏa mãn lòng yêu cái đẹp của con người. Sức sống của nó là bất
23


diệt. Vì thế, người đọc dễ dàng nhận ra có sự trỗi dậy và tiếp nối một cách liên tục,
mạnh mẽ của cảm hứng trào lộng trong văn xuôi Việt Nam sau năm 1975 và hình
thành nên một “loại hình” văn xuôi mới - văn xuôi trào lộng. Nó lan truyền từ các
cây bút đã có vị trí đáng kể, đã được khẳng định chắc chắn trên văn đàn đến những
cây bút mới xuất hiện, từ lớp “già” đến lớp trẻ. Có thể kể ra các gương mặt tiêu
biểu như: Ma Văn Kháng, Nguyễn Khải, Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài,
Nguyễn Thị Thu Huệ, Hồ Anh Thái, Đoàn Lê...
Đi sâu khảo sát, nghiên cứu, chúng ta sẽ thấy được sự đa dạng, nhiều màu
vẻ về đặc điểm cũng như tính chất của tiếng cười trào lộng trong sáng tác của các
tác giả này. Chính điều đó góp phần làm nên sức hấp dẫn cũng như nhiều giá trị
nhân văn mới của văn học trong công cuộc đổi mới.
1.3.2. Đặc điểm, tính chất của tiếng cười trào lộng trong sáng tác của
một số tác giả tiêu biểu
Sự phục sinh của cảm hứng trào lộng không chỉ đáp ứng nhu cầu đổi mới,
tự cởi trói của văn học và góp phần làm cho diện mạo của văn học Việt Nam sau
1975có những chuyển biến mạnh mẽ nhất là sự hình thành loại hình văn xuôi trào
lộng mà còn là điểm tựa, là điều kiện cần thiết để thức tỉnh ý thức cá nhân, cá tính
sáng tạo của người cầm bút, giúp họ có bản lĩnh, có dũng khí hơn trong cách nhìn
nhận, miêu tả, đánh giá...sự vật, hiện tượng, con người trong đời sống xã hội. Từ đó
mà các giá trị của đời sống được nhận thức lại, đánh giá lại theo những chuẩn mực
riêng của kinh nghiệm cá nhân và bộc lộ những vênh lệch, sự không tương hợp so
với những chuẩn mực cũ từ kinh nghiệm cộng đồng. Tiếng cười trào lộng, vì thế
càng có điều kiện phát triển một cách mạnh mẽ. Sự biểu hiện của nó trong sáng tác
của các tác giả cũng trở nên đa sắc thái, nhiều màu vẻ và sâu sắc hơn. Các nhà văn
hướng ngòi bút vào mọi vấn đề của đời sống xã hội kể cả những vấn đề lâu nay

được chôn sâu cất kĩ hoặc được tránh né vì ngại va chạm để vạch trần những phi lý,
bất cập, những sai lầm, lệch lạc của nó và làm bật lên tiếng cười với những sắc thái
thẩm mĩ đa dạng, tinh tế. Qua đó các tác giả giúp cho người đọc nhận chân các giá
trị thật - giả, tốt - xấu, cao cả - thấp hèn...của đời sống xã hội trong thời đại mới.
24


Cũng cần phải nói thêm rằng từ sau công cuộc đổi mới của Đảng, đời sống
vật chất của toàn xã hội đã thay đổi vô cùng nhanh chóng theo chiều hướng tốt đẹp
hơn. Tuy thế chuyển từ chế độ bao cấp sang cơ chế thị trường, bậc thang của nhiều
giá trị bị thay đổi, sự phân hoá giàu nghèo ngày càng rõ ràng, đặc biệt đồng tiền đã
bộc lộ vai trò ma quái và “sức mạnh vạn năng” của nó. Đồng tiền len lỏi vào mọi
ngõ ngách, mọi mối quan hệ thiêng liêng nhất trong đời sống xã hội để xâu xé và
làm biến dạng, chúng. Đó là mặt trái của cơ chế thị trường và cũng là mảng hiện
thực bộn bề, phức tạp để tiếng cười xuất hiện và phát triển trong văn học nhất là
văn xuôi.
Nhìn trên đại thể có thể thấy tiếng cười trào tiếu, giễu nhại đã thực sự trở
thành tiếng nói nghệ thuật của văn xuôi thời kỳ đổi mới. Nó thể hiện sự chiếm lĩnh
các giá trị đời sống một cách dân chủ, cởi mở của các nhà văn. Tiêu biểu như trong
sáng tác của: Ma Văn Kháng, Nguyễn Khải, Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài,
Hồ Anh Thái…Tuy nhiên, xuất hiện và phát triển trong môi trường đời sống thị
dân Việt Nam cuối thế kỷ XX với sự bất cập, xuống cấp của cơ chế quản lý xã hội,
sự suy thoái của các giá trị đạo đức, tinh thần do tác động tiêu cực của cơ chế thị
trường và hậu quả nặng nề của chiến tranh để lại, vì thế, tiếng cười trào lộng trong
văn xuôi thời kỳ này chủ yếu mang âm hưởng phê phán, châm biếm, đả kích mạnh
mẽ. Dường như các tác giả muốn thông qua tiếng cười để “cảnh tỉnh nhân loại và
báo hiệu trước những tai họa” (Nguyễn Minh Châu). Đó cũng chính là giá trị sâu
sắc của tiếng cười.
Đi sâu vào sáng tác của các nhà văn dễ nhận ra sự đa dạng và khác biệt
trong các cung bậc trào lộng. Ở Nguyễn Khải là nụ cười giễu cợt vừa thâm thuý,

vừa tinh quái của một trí thức lịch lãm, trải đời, luôn tỉnh táo trước mọi biến động
dâu bể của thế thái nhân tình. Không ngẫu nhiên mà trong sáng tác của ông hầu hết
đều là kiểu nhân vật tư tưởng thích suy nghĩ, ham tranh luận, ưa đối thoại để xác
định lại những giá trị thực của đời sống theo quan điểm cá nhân. Nhà văn không áp
đặt mà tạo không khí cởi mở, “đùa giỡn tí chút” để đánh thức trí tuệ của người đọc.
Thượng đế thì cười là ví dụ điển hình.
25


×