Tải bản đầy đủ (.doc) (89 trang)

Công cuộc xoá mù chữ ở hà tĩnh từ 1945 đến 1954

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (668.94 KB, 89 trang )

1

Bộ giáo dục và đào tạo
Trờng đại học vinh

Trần thị sơn

Công cuộc xoá nạn mù chữ ở hà Tĩnh
Từ 1945 đến 1954

Luận văn thạc sĩ khoa học lịch sử

Vinh 2009

Bộ giáo dục và đào tạo
Trờng đại học vinh

Trần thị sơn

Công cuộc xoá nạn mù chữ ở hà Tĩnh


2

Từ 1945 đến 1954
Chuyên ngành: lịch sử việt nam
Mã số: 60.22.54

Luận văn thạc sĩ khoa học lịch sử

Ngời hớng dẫn khoa học: pgs. ts. Nguyễn trọng văn



Vinh 2009
Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài:
1.1. Trên con đờng xây dựng và phát triển đất nớc, ở bất cứ quốc gia
nào cũng đều coi giáo dục là quốc sách hàng đầu. Dân tộc Việt Nam cũng vậy.
ở mỗi thời kỳ, mỗi chế độ thì những chủ trơng, chính sách giáo dục đợc áp
dụng khác nhau nhng cũng đều nhằm mục đích là nâng cao dân trí, đào tạo
nhân tài.
Đặc biệt, sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công là kỷ nguyên
mới của lịch sử dân tộc, kỷ nguyên độc lập, tự do và nhân dân Việt Nam từ
thân phận nô lệ đã trở thành ngời tự do, ngời làm chủ một đất nớc độc lập. Nhng chính sách thống trị ngu dân lâu dài của thực dân Pháp đã để lại hậu quả
hết sức nặng nề: 95% dân số bị mù chữ, cùng với nền kinh tế lạc hậu, kiệt
quệ. Khi cách mạng vừa giành đợc thắng lợi thì thù trong giặc ngoài đồng loạt
tấn công vào chính quyền mới còn non trẻ. Trong hoàn cảnh ngàn cân treo
sợi tóc nh vậy, Đảng và Nhà Nớc ta vẫn đặc biệt quan tâm tới việc nâng cao
dân trí xoá nạn mù chữ cho toàn dân. Do đó, nghiên cứu đề tài công cuộc
xoá nạn mù chữ ở Hà Tĩnh từ 1945 đến 1954 góp phần làm rõ những chính


3

sách u việt của chế độ mới về giáo dục với công cuộc chống nạn thất học từ
năm 1945 đến năm 1954 và quá trình triển khai thực hiện ở các địa phơng là
việc cần thiết .
1.2. Việc xoá mù chữ, nâng cao trình độ hiểu biết của công nông và
nhân dân lao động trong giai đoạn (1945- 1954) đợc xem là có liên quan mật
thiết với ý thức làm chủ, khả năng sản xuất và chiến đấu, năng lực hoàn thành
những nhiệm vụ cách mạng. Sự nghiệp giáo dục trong thời điểm này đợc nhận
thức là một nhân tố tích cực thúc đẩy cách mạng tiến lên nên việc tổ chức học

tập cho lớp ngời lớn tuổi đang gánh vác những công việc xã hội rõ ràng có tác
dụng lớn, trực tiếp. Vì thế, ngày 2-9-1945, sau khi chủ tịch Hồ Chí Minh, thay
mặt Chính phủ lâm thời, đọc bản tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nớc Việt
Nam dân chủ cộng hoà, thì ngay sau đó, ngày 3-9-1945, trong buổi họp đầu
tiên của Hội đồng Chính phủ, chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra sáu việc cấp
bách trớc mắt, Ngời xếp việc chống nạn mù chữ là việc thứ hai, sau việc chống
nạn đói, và nói: Nạn dốt là một trong những phơng pháp thâm độc mà bọn
thực dân dùng để cai trị nớc ta. Hơn 90% đồng bào ta còn bị mù chữ, một dân
tộc dốt là một dân tộc yếu. Vì vậy, tôi đề nghị mở một chiến dịch chống nạn
mù chữ. Thực hiện chỉ thị của Ngời, Chính phủ đã ban hành sắc lệnh thành
lập Nha Bình dân học vụ (BDHV) để chăm lo việc xoá nạn mù chữ cho nhân
dân. Từ đó, trong cả nớc đã dấy lên phong trào quần chúng sôi nổi, rộng khắp
cha từng thấy, lôi cuốn hàng triệu ngời với đủ mọi tầng lớp, mọi ngành, mọi
giới không phân biệt giai cấp, giàu nghèo, địa vị xã hội. Tất cả đều phấn khởi,
hào hứng, tự nguyện tham gia phong trào diệt giặc dốt, xoá mù chữ . Vì vậy,
đề tài công cuộc xoá nạn mù chữ ở Hà Tĩnh từ 1945 đến 1954 với việc xác
nhận thành tích của quần chúng nhân dân Hà Tĩnh cũng nh nhân dân cả nớc
trong công cuộc tiêu trừ giặc dốt sẽ cho thấy rằng, công cuộc diệt giặc dốt,
xoá mù chữ có một vai trò rất quan trọng trong quá trình vận động của cách
mạng Việt Nam từ 1945 đến 1954 và đã có những đóng góp to lớn vào sự
nghiệp củng cố, bảo vệ chính quyền dân chủ nhân dân trong năm đầu tiên của
nớc Việt Nam dân chủ cộng hoà (1945-1946) và trong sự nghiệp kháng chiến
toàn dân, toàn diện chống thực dân Pháp xâm lợc (1946-1954).
1.3. Hà Tĩnh là địa phơng có truyền thống cách mạng và truyền thống
hiếu học, với khí thế hứng khởi sôi sục của những ngày đầu cách mạng, hởng
ứng lời kêu gọi toàn dân chống nạn thất học của chủ tịch Hồ Chí Minh, cơ


4


quan Ty bình dân học vụ ở Hà Tĩnh nhanh chóng đợc thành lập, triển khai, vận
động những ngời có học vấn và nhiệt huyết đi dự các lớp huấn luyện, bằng
các biện pháp vận động, tuyên truyền cho chiến dịch diệt dốt, Ty bình dân học
vụ đã vận động đợc nhân dân trong tỉnh tham gia học tập ở mọi nơi, mọi lúc,
từ các lớp học ở t gia, các lớp tập trung ở thôn xóm đến cả các bến đò, lò rèn,
cổng chợ, gốc đaở đây, một biểu tợng của toàn dân làm giáo dục, đa sự
nghiệp giáo dục thành sự nghiệp xã hội, huy động sức mạnh của cộng đồng để
nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực cho cách mạng. Kết quả rất đáng tự
hào là Hà Tĩnh là tỉnh hoàn thành thanh toán nạn mù chữ đầu tiên trong cả n ớc. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài công cuộc xoá nạn mù chữ ở hà tĩnh từ
1945 đến 1954 góp phần làm sáng rõ tình hình giáo dục trong thời điểm khó
khăn nhất, những tấm gơng hi sinh tận tụy với công cuộc xoá nạn mù chữ,
những kết quả to lớn mà nhân dân hà Tĩnh đã đạt đợc trên lĩnh vực giáo dục
trong công cuộc xoá nạn mù chữ trong thời kỳ đó.
Xuất phát từ những lý do trên, nghiên cứu công cuộc xoá nạn mù chữ ở
Hà Tĩnh trong khoảng 10 năm đầu tiên của Nhà nớc dân chủ nhân dân (19451954) là việc làm rất cần thiết, có ý nghĩa khoa học, góp phần vào việc nghiên
cứu lịch sử dân tộc. Mặt khác, việc nghiên cứu này có ý nghĩa thực tiễn vì qua
việc hệ thống lại toàn bộ quá trình vận động của công cuộc diệt giặc dốt, xoá
mù chữ sẽ có những đóng góp to lớn vào sự nghiệp nâng cao dân trí, đào tạo
nhân lực và bồi dỡng nhân tài của Việt Nam nói chung và Hà Tĩnh nói riêng
trong giai đoạn hiện nay.
2. Lịch sử vấn đề:
Công cuộc xoá nạn mù chữ đã trở thành chủ trơng chính sách của Nhà
nớc. Chính vì vậy mà cho đến nay, đã có nhiều hội nghị, nhiều đợt tổng kết ,
cũng nh nhiều cuốn sách đợc xuất bản về vấn đề này ở thời kỳ 1945-1954.
Có thể phân chia các công trình nghiên cứu đó thành các loại sau:
Thứ nhất, các bài viết, nói của chủ tịch Hồ Chí Minh và một số nhà lãnh
đạo khác của Đảng và Nhà nớc nh: cuốn Lời kêu gọi của Hồ Chủ Tịch về
việc chống nạn thất học của chủ tịch Hồ Chí Minh, xuất bản năm 1958.
Cùng với các tác phẩm này là các văn kiện của Đảng nêu chủ trơng, đờng lối
và nhiệm vụ của công cuộc chống nạn thất học nh : Văn kiện Đảng 19301945; Văn kiện Đảng 1945- 1954 của ban nghiên cứu lịch sử Đảng trung ơng, xuất bản năm 1977.



5

Thứ hai, tác phẩm của các nhà lãnh đạo ngành giáo dục, những công
trình này mang tính chất tổng kết của ngành giáo dục nh cuốn: Lịch sử giản
lợc hơn 1000 năm nền giáo dục Việt Nam của Lê Văn Giạng, xuất bản năm
2003; 45 năm phát triển giáo dục Việt Nam của Phạm Minh Hạc, xuất bản
năm 1992.
Thứ ba, những hồi kí của chính những ngời trực tiếp tham gia vào hoạt
động chống nạn thất học nh Hồi kí: Chiến sĩ bình dân học vụ miền núi
Nông Văn Xình- mời lăm năm tham gia diệt dốt; Chiến sỹ diệt dốt Nguyễn
Đắc Chuẩn , khu giáo dục liên khu IV xuất bản
Thứ t, các sách, báo, tạp chí, báo cáo đề cập những khía cạnh riêng về
vấn đề chống nạn thất học trên quê hơng Hà Tĩnh.
Những công trình đó, ở những mức độ khác nhau đã đề cập tới vấn đề
chống nạn thất học ở cả nớc nói riêng và Hà tĩnh nói chung trong giai đoạn
(1945-1954). Tuy nhiên, những tài liệu đó cha thật đi sâu vào việc dựng lại
một cách có hệ thống và đầy đủ toàn bộ công cuộc diệt dốt, xoá nạn mù chữ
và do đó cha phản ánh đúng mức sự đóng góp vào sự nghiệp cách mạng của
dân tộc giai đoạn (1945-1954).
Mặt khác, cũng cần thấy rõ, trong hệ thống các đề tài nghiên cứu về vấn
đề chống nạn thất học ở các địa phơng hầu nh còn rất hạn chế, với một số đề
tài khiêm tốn nh: Luận văn thạc sỹ của Lê Thị Hồng Phơng Phong trào bình
dân học vụ ở Nghệ An. Riêng về Hà Tĩnh thì cha có một luận án, luận văn
nào nghiên cứu về đề tài này. Có chăng vấn đề chống nạn thất học ở Hà Tĩnh
chỉ đợc nhắc đến, ghi chép ở một số khía cạnh rời rạc trong các quyển sách
chung nghiên cứu về giáo dục Hà Tĩnh, hoặc là nghiên cứu các vấn đề chung
của tỉnh Hà Tĩnh.
Vì vậy, trên cơ sở kế thừa các nguồn tài liệu nh sách, báo, các tạp chí

nghiên cứu lịch sử, các bản báo cáo của UBND tỉnh Hà Tĩnh về công cuộc xoá
nạn mù chữ từ năm 1945 đến 1954 , cùng với quá trình tổng hợp của bản thân,
tôi muốn góp phần tạo dựng lại bức tranh về nhân dân Hà Tĩnh xoá nạn mù
chữ giai đoạn (1945-1954).
3. Phạm vi nghiên cứu, nhiệm vụ khoa học của đề tài
3.1. Phạm vi
Trên cơ sở những tài liệu hiện có, chúng tôi đặt ra phạm vi nghiên cứu
về công cuộc xoá nạn mù chữ ở Hà Tĩnh từ năm 1945 đến năm 1954 chủ yếu


6

là xác định thành tích công tác xoá mù ở Hà Tĩnh trong giai đoạn đó. Từ đó,
nêu lên vị trí của nó đối với sự nghiệp nâng cao dân trí, sự nghiệp cách mạng ở
tỉnh Hà Tĩnh.
3.2. Nhiệm vụ
- Đề cập tới tình hình giáo dục và tình trạng thất học ở Việt Nam nói
chung, Hà Tĩnh nói riêng ở nớc ta dới chế độ thực dân phong kiến.
- Tìm hiểu tơng đối toàn diện và có hệ thống về quá trình xoá nạn mù
chữ ở Hà Tĩnh trong 10 năm (1945-1954).
- Từ việc phân tích, tổng hợp, rút ra những đóng góp của nó cho sự
nghiệp giáo dục ở quê hơng, dân tộc và cho sự nghiệp kháng chiến trong giai
đoạn đó.
4. Nguồn t liệu và Phơng pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn t liệu
4.1.1. Tài liệu gốc
Tài liệu gốc quan trọng trớc hết đối với chúng tôi là :
Trớc hết là các bài nói và viết của chủ tịch Hồ Chí Minh đợc đúc kết
trong cuốn: Trích lời kêu gọi của Hồ Chủ Tịch gửi đồng bào toàn quốc về
việc chống nạm thất học, xuất bản năm 1958, NXBST; cùng với văn kiện

Đảng và Nhà nớc.
Các bản báo cáo của UBHC Hà Tĩnh (phòng văn xã) về công cuộc chống
nạn thất học, lu tại trung tâm lu trữ UBND tỉnh Hà Tĩnh nh: Biên bản hội nghị
liên khu IV về công tác giáo dục năm 1949, hộp số 04, hồ sơ số 08; Báo cáo của
phái đoàn kiểm tra thanh toán nạn mù chữ Hà Tĩnh về kiểm tra huyện Can Lộc
năm 1949, hộp số 4, hồ sơ số 10; Báo cáo về cuộc tổng duyệt điều tra mù chữ ở
Hà Tĩnh năm 1950, hộp số 7, hồ sơ số 21; Báo cáo thành tích của Đoàn thanh
niên tham gia cuộc vận động diệt dốt năm 1947- 1953, cặp số 4, hồ sơ số 11; Tài
liệu giáo dục năm 1953, hộp số 14, hồ sơ số 34 Tuy cha thật đầy đủ, có hệ
thống, nhng là những văn kiện gốc, phản ánh chính xác về các hoạt động của công
cuộc chống nạn thất học ở Hà Tĩnh những năm 1945-1954.
4.1.2. Tài liệu nghiên cứu
Chúng tôi tham khảo những tài liệu nghiên cứu về vấn đề giáo dục nh:
Việt Nam chống nạn thất học của Ngô Văn Cát, NXBGD; Học tập chiến
sỹ BDHV Ngô Văn Thịnh, NXBGD mới Nam Bộ; 45 năm phát triển giáo


7

dục Việt Nam của Phạm Minh Hạc, NXBGDHN; Việt Nam diệt giặc dốt,
Nha bình dân học vụ Việt Bắc xuất bản.
Chúng tôi cũng khai thác các nguồn tài liệu của Sở Giáo dục và Đào
tạo Hà Tĩnh nh: Các điển hình tiên tiến và phong trào quần chúng trong sự
nghiệp giáo dục, xuất bản năm 1990; 50 năm sự nghiệp giáo dục cách mạng
trên quê hơng hà tĩnh, xuất bản 1995; Lịch sử giáo dục Hà Tĩnh, xuất bản
năm 2005; 55 năm phát triển sự nghiệp giáo dục Cẩm xuyên, xuất bản năm
2001.
Ngoài ra, chúng tôi còn học hỏi qua một số luận văn nghiên cứu về vấn
đề xoá mù chữ (1945-1954) nh luận văn của chị Lê Thị Hồng Phơng với đề tài
Phong trào bình dân học vụ ở nghệ An (1945-1954) .

4.2. Phơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi sử dụng tổng hợp các phơng pháp
lịch sử kết hợp với phơng pháp lôgic, vận dụng phơng pháp so sánh, đối chiếu,
phơng pháp hệ thống, thống kê, lập biểu bảng để làm rõ quá trình chống nạn
thất học ở Hà Tĩnh từ năm 1945 đến năm 1954. Trên cơ sở đó, phân tích, tổng
hợp, đánh giá đóng góp của nó đối với ngành giáo dục Hà Tĩnh nói riêng và
đối với cả nớc nói chung; cũng nh đối với sự nghiệp cách mạng.
5. Đóng góp khoa học và giá trị thực tiễn của luận văn
Có thể nói, đây là đề tài đầu tiên nghiên cứu về vấn đề chống nạn thất học ở
Hà Tĩnh. Chính vì vậy, việc phát hiện, tập hợp hệ thống tài liệu là một đóng góp
của luận văn, làm phong phú thêm nguồn tài liệu về lịch sử giáo dục Hà Tĩnh .
Trên cơ sở nguồn tài liệu thu thập đợc, luận văn trình bày tơng đối hoàn
chỉnh và khách quan, trung thực về công cuộc xoá nạn mù chữ ở Hà Tĩnh từ
năm 1945 đến năm 1954.
Luận văn đánh giá đóng góp của công cuộc xoá nạn mù chữ ở Hà Tĩnh giai
đoạn (1945-1954) đối với sự nghiệp nâng cao dân trí, cũng nh đối với cách
mạng.
6. Bố cục
Ngoài phần mở đầu và kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
chính của luận văn gồm có 3 chơng nh sau:
Chơng 1: Tình hình giáo dục ở Hà Tĩnh dới thời Pháp thuộc
Chơng 2: Phong trào bình dân học vụ ở Hà Tĩnh trong năm đầu tiên của nớc
Việt Nam dân chủ cộng hoà(1945-1946)


8

Chơng 3: Hà Tĩnh tiếp tục xoá nạn mù chữ từ tháng 12/ 1946 đến tháng 7/
1954.


Nội Dung
Chơng 1
Tình hình giáo dục ở Hà Tĩnh dới thời Pháp thuộc
1.1. Vài nét về tình hình giáo dục dới thời Pháp thuộc
1.1.1. Vài nét về chính sách giáo dục của thực dân Pháp
Cuối thế kỷ XIX, sau khi hoàn thành việc đánh chiếm nớc ta, đặc biệt là
từ năm 1897, khi cuộc bình định bằng quân sự đợc coi nh hoàn tất, thực dân
Pháp bắt đầu tính đến việc chinh phục nhân dân ta bằng văn hoá và giáo dục
với mức độ, thời gian và từng vùng khác nhau. Trong bản phúc trình cho chính
phủ Pháp về giáo dục ở Đông Dơng, thực dân thống trị Pháp đã nhận định:
Sau khi ngời lính hoàn thành sự nghiệp của mình thì đến lợt ngời giáo viên
thực hiện sự nghiệp của họ [37,10]. Đây cũng chính là chủ trơng chung của
bọn đế quốc khi tiến hành cuộc chiến tranh xâm lợc.
Thực dân Pháp còn lập luận rằng: Một khi ngời ta muốn thay đổi hình
dáng, màu sắc của một cái cây, ngời ta không thể bắt đầu với cái cây đã phát
triển hoàn toàn và sinh hoa kết quả, mà ngời ta phải tác động đến các hạt phải
chăm sóc, điều kiện việc nảy mầm và phát triển của nó trong những miếng đất
đợc chọn lọc và chuẩn bị đầy đủ. Với cách lập luận này, thực dân Pháp đã
đa ra kết luận: Nếu chúng ta muốn đặt đợc vĩnh viễn ảnh hởng của nớc Pháp
trên đất này, thì chúng ta phải làm cho họ tiêm nhiễm t tởng của chúng ta, dạy
cho họ tiếng nói của chúng ta và do đó phải bắt đầu từ nhà trờng [36, 14].
Để thực hiện ý đồ của mình, thực dân Pháp đã từng bớc đa ra những
chính sách về giáo dục nhằm nắm độc quyền giáo dục ở Đông Dơng.
Trong gian đoạn đầu thực dân Pháp vẫn để nguyên nền giáo dục phong
kiến Nho học triều Nguyễn và chỉ mở một số trờng học chữ quốc ngữ và tiếng
Pháp nhằm đào tạo cấp tốc một số công chức cần thiết.
Từ những năm 90 của thế kỷ XIX, chế độ thống trị của thực dân Pháp đã
cắm rễ sâu trên khắp 3 kỳ Trung, Nam, Bắc thì nền giáo dục khoa cử Nho học
của phong kiến cũng từng bớc cáo chung. Thực dân Pháp gấp rút khai thác, sử
dụng tầng lớp tay sai ngời bản xứ để củng cố nền thống trị của chúng. Dới



9

chiêu bài khai phá văn minh chúng mở thêm các trờng học kiểu mới (gọi tắt
là tân học) với mục đích:
Đào tạo tầng lớp ngời thừa hành chính sách của Pháp cai trị và khai thác
Việt Nam, tức là các viên chức hành chính, các thầy giáo, thầy thuốc, kỹ thuật
viên ngành xây dựng v.v. Và tạo ra đợc trong lớp ngời thừa hành những tay
chân trung thành mà thực dân Pháp có thể trông cậy.
Truyền bá t tởng sợ pháp, phục pháp, lòng biết ơn công khai hoá của
Pháp và sự trung thành với thực dân Pháp.
Mị dân, làm cho nhân dân Việt Nam tin rằng nền giáo dục Pháp tổ chức
ra ở Việt Nam là văn minh mà Pháp đem đến cho nhân dân ta.
Trong ba mục đích trên , hai mục đích đầu là cơ bản vì chúng muốn cho
ngời bản xứ dần dần bị Pháp hoá, sùng bái văn chơng và nền văn hoá Pháp,
coi khinh nền văn hoá cổ truyền của dân tộc và sẽ trở thành những ngời dân
thuộc địa sẽ trung thành với mẫu quốc pháp. Mục đích thứ ba chỉ là để đối phó
với cuộc đấu tranh của nhân dân ta đòi có một nền giáo dục tiến bộ.
Các trờng Pháp- Việt mọc lên và thực dân Pháp đã đặt thêm nhiều qui
định khắt khe nhằm hạn chế việc học của trẻ em Việt Nam ở mức thấp nhất.
Trớc hết chúng nắm độc quyền về giáo dục, ngày 21/12/1917, tên Toàn
quyền Anbe Sarô ban hành bộ luật về giáo dục mang tên học chính tổng quy
và thành lập Hội đồng t vấn học chính Đông Dơng với chức năng tổng quát là
giúp cho viên toàn quyền Đông Dơng đề ra những quy chế cho ngành giáo
dục. Năm 1919, y ra lệnh bãi bỏ các trờng chữ hán và các khoa thi hơng, thi
hội, đồng thời cấm các trờng t hoạt động. Lúc này, ở Đông Dơng, thực dân
Pháp đang tiến hành chơng trình khai thác bóc lột thuộc địa sau chiến tranh.
Chúng tuyển mộ rất nhiều ngời lao động làm thuê không cần có học thức vào
làm việc tại các hầm mỏ, nhà máy và các đồn điền cao su. Chúng chỉ cần một

số rất ít ngời thừa hành nh đốc công, cai ký không cần đòi hỏi học hành nhiều.
Vì thế, thực dân Pháp dù ở chính quốc hay ở Đông Dơng đều thống nhất chủ
trơng chung là thi hành giới hạn việc học ở mức thấp nhất.
Năm 1924, tên toàn quyền Méclanh thi hành một chơng trình cải
cách giáo dục nguy hại hơn. Y đề ra cái chơng trình gọi là phát triển giáo
dục theo chiều nằm, chứ không phải theo chiều đứng. Vì lẽ Y cho rằng 9/10
học sinh nông thôn Việt Nam không đủ sức theo học bậc sơ học cho nên chỉ
nên mở nhiều loại trờng ở bậc sơ học là đủ. Trong thời gian đô hộ, bè lũ thực


10

dân Pháp ở Đông Dơng đã tiến hành một loạt biện pháp nhằm thực hiện chủ
trơng này.
Thứ nhất, chúng mở lớp rất hạn chế. Bọn cầm quyền thực dân chỉ lập ở
một số ít xã, thôn đông dân những trờng sơ cấp gồm 1-2 lớp đầu của bậc tiểu
học, gọi là trờng hơng học (école communale) ở Bắc Kỳ, trờng dự bị (école
préperatoire) ở Trung kỳ, lớp phụ trợ dự bị (cours auxiliaire préperatoire ) ở
Nam Kỳ. Trờng tiểu học hoàn chỉnh (gọi là trờng Kiêm bị) tơng đơng với lớp
4 hiện nay chỉ đợc mở ở thị trấn, huyện và thị xã. Trờng cao đẳng tiểu học có
4 lớp (đệ nhất, đệ nhị, đệ tam, đệ tứ) tơng đơng với Trung học cơ sở hiện nay
chỉ có ở một số rất ít thành phố và tỉnh lỵ lớn. Các trờng trung học gồm ba
năm học cuối cùng lại càng hiếm.
Thứ hai chúng đặt ra nhiều bậc học, kéo dài năm học và bắt buộc học
sinh phải trải qua nhiều kỳ thi. Cụ thể cùng chơng trình đó, học sinh là trẻ em
Pháp đợc học liền 11 năm, chỉ qua một kỳ thi rồi đợc công nhận tốt nghiệp.
Còn trẻ em Việt Nam phải học 13 năm và trải qua 8 kỳ thi rồi mới đợc công
nhận tốt nghiệp. Cụ thể muốn tốt nghiệp trung học, trẻ em Việt Nam phải trải
qua một quá trình học tập nh sau:
3 năm sơ học để thi tốt nghiệp yếu lợc rồi thi lên lớp nhì.

3 năm lớp tiểu học rồi thi lên lớp đệ nhất.
4 năm cao đẳng tiểu học để thi thành chung rồi thi lên đệ nhị trung học.
2 năm trung học để thi nửa trung học (bán phần tú tài)
1 năm chuyên khoa và thi tốt nghiệp trung học (tú tài).
Với những biện pháp trên, rõ ràng là thực dân Pháp muốn dùng việc thi
cử và lên lớp để hàng năm loại ra khỏi nhà trờng một số đông học sinh, hàng
năm số học sinh từ lớp này lên lớp khác rơi rụng mất đến 50%.
Hãy lấy con số năm học 1925 1926 ở tỉnh Hà Tĩnh để thấy đợc sự hạn
chế tối đa việc học trong chính sách giáo dục của thực dân Pháp. Cả tỉnh chỉ
có một trờng tiểu học toàn cấp (Ecole primaire de plein exercice) ở tỉnh lỵ,
mỗi huyện chỉ có một trờng sơ đẳng (Ecole elementaire) và dăm bảy trờng
liên hơng (Ecoles inter communales) với khoảng 1.600 học sinh, có đợc 409
ngời đỗ bằng tiểu học Việt - Pháp.
Cùng với thủ đoạn trên, thực dân Pháp còn thực hiện nội dung giáo dục
mang tính chất kìm hãm. Tiếng Pháp đợc học từ lớp đồng ấu. Các môn học tự
nhiên nặng về lý thuyết, thiếu phần thực hành và thiếu hẳn những tri thức thực


11

tiễn về Việt Nam. Các môn khoa học xã hội đều mô phỏng theo sách dùng ở
nớc Pháp hoặc có biên soạn lại ít nhiều. Lịch sử chỉ là lịch sử của những cá
nhân anh hùng, của những triều đại hoặc là một cuộc cờ sắp đặt bởi bàn tay
màu nhiệm của Thợng đế. Những con ngời tiêu biểu cho lực lợng nhân dân,
những cuộc khởi nghĩa oanh liệt của quần chúng chống lại chính quyền thống
trị bị xem là những cuộc nổi loạn của quân giặc cớp.
Nền giáo dục mà thực dân Pháp áp dụng trong các trờng học giành cho
ngời bản xứ, nh đồng chí nguyễn ái Quốc đã nhận xét là Đồi bại, xảo trá và
nguy hiểm hơn cả sự thối nát nữa[56,9].
1.1.2. Hệ quả của chính sách giáo dục của thực dân Pháp

Thực dân Pháp đã thực hiện chính sách ngu dân, về mặt giáo dục: Hạn
chế việc mở trờng (chủ yếu là mở bậc sơ học, với mục đích là dạy thành ngời
tay sai, thành ngời phục tùng, và ít mở các ngành học chuyên nghiệp), đặt
những qui định phiền phức ngăn cản việc mở trờng t (lớp học từ 5 ngời trở lên
phải có phép của chính quyền thực dân, lớp mở không có phép đợc coi là có ý
đồ chống đối, xúi giục làm loạn), cùng với chủ trơng giáo dục theo chiều
nằm và những thủ đoạn hạn chế, nhỏ giọt đã để lại hậu quả hết sức tai hại.
Trớc hết, do số trờng quá ít nên không đáp ứng đợc yêu cầu học tập nói
chung và trẻ em Việt Nam nói riêng. Và những nhà trờng ít ỏi này cũng có sự
khác biệt rõ ràng. ở các thành phố, các trờng có vẻ bề thế, quy mô, có hệ
thống chức sắc và ngời phục vụ đông đảo còn các trờng ở nông thôn, địa phơng thì hiu quạnh, tẻ nhạt với cơ sở vật chất nghèo nàn, bệ rạc. Một đoạn thơ
hài hớc lúc này đã viết:
Mái trờng tranh lủng dột nhiều nơi
Hễ có ma to chẳng chỗ ngồi,
Lũ trẻ đôi khi giữa buổi học,
Đứa thì đội nón, đứa mang tơi.[37,14]
Hậu quả rõ rệt hơn cả là nạn thất học đã đẩy đại bộ phận con em nhân
dân Việt Nam vào cảnh thất học trầm trọng. Theo niên giám thống kê Đông
Dơng, các năm 1936 1937 và 1941-1942, số ngời biết chữ chỉ đạt 2% dân
số. Nha học chính Đông Dơng phải thú nhận : 95% dân chúng Việt Nam
không biết một thứ chữ gì. Nhiều tài liệu thống kê của cơ quan bình dân học
vụ sau Cách mạng tháng Tám đã chỉ rõ thêm con số những ngời thất học còn


12

cao hơn. Hơn 95% nhân dân mù chữ, đặc biệt là phụ nữ và đồng bào dân tộc ít
ngời gần nh 100% đều mù chữ.
Và điều hiển nhiên là nạn thất học sẽ kéo theo nhiều hậu quả khôn lờng
đợc. Quần chúng lao động càng chìm đắm trong sự bần cùng, ngu dốt, đầy rẫy

hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan. Một số phần tử con em lao động đợc học hành
đến nơi, đến chốn thì trở thành tay sai cho tầng lớp thống trị hoặc trở thành
công chức trong bộ máy Nhà nớc thực dân. Đây là một trong những ý đồ thâm
hiểm của thực dân Pháp, để chúng dễ bề cai trị.
Và nh đã phân tích trên, ý đồ và mục đích của thực dân Pháp trong việc
xây dựng nền giáo dục Pháp - Việt là để đào tạo một lớp ngời thừa hành phục
vụ cho công việc cai trị và khai thác nớc Việt Nam để truyền t tởng sợ Pháp,
phục Pháp, trung thành với Pháp, và trong một chừng mực nhất định để làm
công việc mị dân, xoa dịu những đòi hỏi về một nền giáo dục mới. Mục đích
đó về cơ bản là nó đã thực hiện đợc, nhất là đối với mục đích đầu tiên, họ đã
đào tạo đợc nguồn lực rất dồi dào tầng lớp cai trị ngời bản xứ.
Tuy nhiên có thể nói rằng, việc xoá bỏ nền giáo dục nho học cũ và thay
thế bằng nền giáo dục Pháp - Việt là một cuộc cải cách giáo dục lớn trong lịch
sử nớc ta và cũng có thể nói đó là cuộc cải cách giáo dục lớn đầu tiên ở Việt
Nam. Cuộc cải cách này vừa có tính chất lạc hậu, phản động (vì không phải cứ
cải cách là tốt) do ý đồ của thực dân Pháp, vừa có tính chất tiến bộ ngoài và
trái ý muốn đó nh: Một số ngôi trờng đợc xây dựng có bàn ghế, bảng đen, học
cụlà những hiện tợng hoàn toàn mới lạ. Nhiều kinh nghiệm về s phạm, về
mặt tổ chức và giảng dạy đợc tiếp thu nh qui định: hạn tuổi, khai sinh, học bạ,
sách giáo khoa
Trong thực tế học theo chơng trình tân học với những nội dung phong
phú toàn diện khác với nội dung Nho học xa, với các kiến thức về toán pháp,
địa d, sử ký, quốc văn, luân lýđã tạo nên một tầng lớp tri thức tiểu t sản có
tài năng, có lòng yêu nớc thiết tha đã trởng thành, hoạt động cách mạng trên
nhiều lĩnh vực khác nhau. Đâu đó trong hệ thống giáo dục thực dân luôn âm ỉ
trong một bộ phận không nhỏ thầy và trò có t tởng yêu nớc, những chiến sỹ
nòng cốt của cách mạng.
1.2. Bớc đầu cuộc vận động chống nạn thất học ở Hà Tĩnh trớc Cách mạng 81945
1.2.1. Thời kỳ trớc khi có hội truyền bá chữ quốc ngữ



13

Trong quá trình đấu tranh chống lại thực dân Pháp vào những năm đầu
thế kỷ XX, những ngời yêu nớc Việt Nam nhận rõ sự cần thiết phải gắn vấn đề
chống nạn thất học với nhiệm vụ đấu tranh cách mạng. Tháng 3/1907, một số
nhà nho yêu nớc tiến bộ xin đợc phép của chính quyền thực dân mở ra trờng
Đông Kinh Nghĩa Thục do Lơng Văn Can, Nguyễn Quyền đứng đầu.
Trờng đã gây đợc một phong trào học chữ quốc ngữ khá rầm rộ ở Hà Nội
và Hà Đông, có nội dung học tiến bộ, thiết thực và có nhiều đổi mới trong các
biện pháp tuyên truyền vận động, tổ chức học nh việc dạy các môn ở trờng đợc kết hợp với xuất bản sách báo tiến bộ, tổ chức th viện, nói chuyện thời sự,
bình văn, giảng sáchNhng chỉ mấy tháng sau, trớc ảnh hởng của Đông kinh
Nghĩa Thục, thực dân Pháp đã vội ra lệnh đình chỉ và khủng bố các ngời chủ
trì của trờng (11/1907).
Cũng trong thời gian này, chủ tịch hồ Chí Minh (với tên gọi Nguyễn ái
Quốc) đã không ngừng lên án, tố cáo chính sách ngu dân của thực dân Pháp
và đề ra yêu sách về mở mang giáo dục. Khi chiến tranh thế giới lần thứ nhất
kết thúc, Nguyễn ái Quốc đã gửi tới hội nghị Véc- xay yêu sách 8 điểm trong
đó có nội dung yêu cầu tự do học tập và mở các trờng kỹ thuật và chuyên
nghiệp cho ngời bản xứ khắp các tỉnh [24,14].
Tháng 12/1920, tại đại hội Tua của Đảng xã hội Pháp, Nguyễn ái Quốc
lại tố cáo thực dân Pháp bắt dân tộc Việt Nam sống trong ngu dốt tối tăm và
không có quyền tự do học tập.
Đến năm 1925, trong Bản án chế độ thực dân Pháp, Nguyễn ái Quốc
giành hẳn chơng IX nói về chính sách thống trị ngu dân của thực dân Pháp ở
các nớc thuộc địa, trong đó có Việt Nam.
Năm 1927, tác phẩm Đờng Cách Mệnh của Nguyễn ái Quốc đợc ấn
hành. Trong phần tổ chức công hội có nêu:
Thứ nhất, lập trờng học cho công nhân.
Thứ hai, lập trờng cho con cháu công nhân.

Thứ ba, lập nơi xem sách báo (Nông hội).
Trong phần tổ chức dân cày cũng nêu: Hết sức mở mang giáo dục, nh
lập trờng, tổ chức nhà xem sách.
Cũng theo phơng hớng đó, năm 1929, Việt Nam thanh niên cách mạng
đồng chí hội họp đại hội tại Hơng Cảng và thông qua chơng trình tối thiểu 19


14

điểm. Điểm cuối cùng đã ghi rõ: Bỏ những trờng học cũ của bọn đế quốc và
thay bằng trờng học cách mạng không phải trả tiền [37, 16].
Trong lời kêu gọi nhân ngày thành lập Đảng ngày 3-2-1930, đồng chí
nguyễn ái Quốc nêu thực hành giáo dục toàn dân. Tiếp đó tháng 10/1930,
đồng chí Trần Phú- tổng bí th đầu tiên của Đảng đã khẳng định chống nạn thất
học đợc quan niệm là một bộ phận quan trọng của nhiệm vụ tuyên truyền cách
mạng: Vô sản giai cấp ở Đông Dơng mới phát triển, phần nhiều là dân cày và
thợ thủ công mà ra, hoặc có dính dáng đến nhà quê; vả lại rất nhiều ngời
không biết chữ, tính chất ấy có thể làm chậm lại giai cấp giác ngộ[10,71].
Qua từng thời kỳ cách mạng lên cao, hoặc tạm thời xuống thấp, đờng
lối chống nạn thất học này đợc thể hiện ra bằng những chỉ thị, nghị quyết cụ
thể có nội dung phù hợp. Cụ thể:
Trong cao trào 1930-1931, công cuộc chống nạn thất học đợc đẩy
mạnh, đặc biệt trong cao trào xô viết Nghệ Tĩnh. Trớc khí thế sôi sục của
quần chúng, chính quyền đế quốc và phong kiến ở một số vùng nông thôn
thuộc hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh tan rã, các uỷ ban Xô Viết đợc thành lập.
Các Xô Viết rất chú ý đến việc tổ chức các lớp dạy chữ quốc ngữ và các buổi
đọc sách, giảng báo. Kết quả là phong trào học chữ quốc ngữ lên rất cao,
đêm đêm tiếng a, b vang lên rộn rã khắp xóm thôn; Hoặc:
Lớp học chữ quốc ngữ tối về chăm học
A,B,C miệng đọc thanh thanh

Trông vào lớp mới nh tranh
Sát vai đầu bạc, đầu xanh chung bài.
Các buổi đọc báo, diễn thuyết, giảng sách số ngời tham gia ngày càng
đông, thôn nào cũng có, xóm nào cũng có, các trụ sở nào cũng chật ních ngời
đến học, đến nghe [9,106]; Và đã mở đợc 815 lớp học với 11.626 học viên,
436 giáo viên [24,18]. ở Hà Tĩnh riêng chỉ tính trong 4 huyện can Lộc, Đức
thọ, Thạch Hà và Nghi xuân đã mở đợc 200 lớp với 4.335 ngời học[61,143].
Trong thời kỳ 1932- 1935, lo sợ trớc cao trào Xô Viết Nghệ Tĩnh, thực
dân Pháp đã tập trung lực lợng đàn áp phong trào, tàn sát giã man quần chúng
cách mạng. Tại Hà Tĩnh, chúng đã tăng số đồn binh lên đến 54 đồn với đủ loại
lính lê dơng, khố xanh chia ra đánh khắp nơi trong tỉnh, tiến hành việc bắt bớ,
tra khảo dã man quần chúng cách mạng. Dới sự lãnh đạo của Đảng, toàn dân
đoàn kết chống khủng bố trắng. Tình hình đó đã ảnh hởng rất lớn đến việc


15

học. Trong tình thế khó khăn, Đảng cộng sản Đông Dơng chủ trơng biến nhà
tù đế quốc thành trờng học cách mạng. Và nh vậy trong các nhà tù của đế
quốc, các chiến sỹ cách mạng ở đâu cũng mở các lớp học văn hoá, các giáo
viên và học viên đã giải quyết sáng tạo nhiều vấn đề thực tế cụ thể nh: Động
viên tinh thần tự giác học tập, gắn nội dung học tập với yêu cầu của cách
mạng, tổ chức linh hoạt và đấu tranh với địch để đợc học, vừa học vừa dạy
đồng chí, đồng thời sử dụng các thế phẩm thay cho giấy, bút, mực,
bảng,v.v.v để việc dạy và học tiến hành bình thờng.
Trong những năm 1936-1939, lợi dụng những khả năng hợp pháp để
hoạt động, công cuộc chống nạn thất học đợc đẩy mạnh.
Đầu năm 1936, Mặt trận nhân dân Pháp đợc thành lập do Đảng cộng
sản làm nòng cốt. Chính phủ của Mặt trận nhân dân Pháp thi hành những
chính sách tiến bộ đối với các thuộc địa, ảnh hởng đến các hoạt động của

Đảng ta. Nắm lấy thời cơ đó, Đảng ta đã lập Mặt trận Dân chủ Đông Dơng,
chủ trơng triệt để lợi dụng những khả năng hợp pháp và nửa hợp pháp để
tuyên truyền, tổ chức quần chúng [7, 45]. Đảng chủ trơng thành lập các tổ
chức quần chúng : các lớp dạy chữ, cáchội đọc sách báo, hội văn hoá,
ban học tốiđể kết hợp tuyên truyền và phát triển cơ sở cách mạng.
Phù Việt là làng có phong trào Xô Viết mạnh mẽ, đợc gọi là làng Đỏ,
từng bị thực dân pháp và tay sai trả thù, đốt cháy mấy trăm ngôi nhà trong
những năm 1930-1931. Thời kỳ này các đảng viên cộng sản ở đây đã lãnh đạo
nhân dân đòi các nhà chức trách trích quỹ công ích và vận động các hộ khá
giả mở trờng Bùi Nhiếp, năm 1936-1937 với 56 học sinh đầu tiên, do thầy Bùi
Bá Ban làm hiệu trởng.
Khi phong trào học chữ quốc ngữ phát triển rộng rãi trong quần chúng
thì Đảng đã tổ chức các lớp dạy chữ, các hội sách báo, các hội văn hoá,
các ban học tốiCho tới năm 1938, Đảng đã quyết định vận động thành lập
một tổ chức công khai chống nạn thất học, mang tên Hội truyền bá quốc
ngữ.
1.2.2. Hội truyền bá chữ quốc ngữ và hoạt động chống nạn thất học ở Hà
Tĩnh (1938-1945)
Để việc chỉ đạo công cuộc chống nạn mù chữ đợc thống nhất và mạnh mẽ,
đầu năm 1938, Ban chấp hành Đảng bộ Bắc Kỳ quyết định vận động thành lập
một tổ chức công khai chống nạn thất học. Thực hiện quyết định này, các đồng


16

chí Trần Huy Liệu, Võ Nguyên Giáp, Đặng Thai Mai, Phan Thanh tham gia
vận động một số nhân sỹ trí thức tiến bộ nh Nguyễn văn Tố, Trần Trọng Lim,
Bùi Kỷđứng ra thành lập tổ chức mang tên Hội truyền bá quốc ngữ ở Hà Nội
và xin phép hoạt động công khai và mãi đến năm 1938 chính quyền thực dân
mới chuẩn y việc hoạt động của Hội.

Hội truyền bá quốc ngữ đợc lập ra năm 1938 với những mục đích:
Trớc hết là dạy cho đồng bào Việt Nam biết đọc, biết viết tiếng của
mình để dễ học đợc những điều thờng thức cần dùng cho sinh hoạt hằng ngày.
Thứ hai, cốt làm cho mọi ngời Việt Nam viết chữ quốc ngữ giống nhau.
Thứ ba, dọn đờng cho việc tuyên truyền cách mạng, giúp cho sự giác ngộ
đấu tranh chống đế quốc, giải phóng dân tộc.
Hội đã nhanh chóng xây dựng chơng trình học cho những ngời thất học.
Trong khi chờ đợi đợc phép thành lập, Hội đã tiến hành nhiều công tác
chuẩn bị nh tổ chức diễn thuyết cổ động, đi vận động hội viên ở từng phố,
từng nhà, soạn chơng trình học và phơng pháp dạy vần quốc ngữ thích hợp
với ngời lớn, vận động trớc giáo viên, mua sắm trớc những đồ dùng dạy học và
học phẩm Vì thế, chỉ hơn một tháng sau khi đợc phép thành lập, Hội đã khai
giảng đợc khoá đầu tiên, vào ngày 9/9/1938 ở hai khu trờng Trí Tri và Thăng
Long (Hà nội) với khoảng 800 học sinh. Ngày 8/2/1939, khoá học đầu tiên kết
thúc. Sau hơn một tháng rút kinh nghiệm và chuẩn bị thêm, ngày 10/3/1939,
Hội lại khai giảng khoá thứ hai tại bốn khu trờng với hơn 1000 học sinh.
Mặc dù đã cho phép Hội hoạt động, bọn thống trị thực dân vẫn tìm mọi
cách gây khó khăn. ở Hà Nội chúng cho mật thám trà trộn vào các cuộc họp,
nhất là của ban dậy học để theo dõi hoạt động của giáo viên. Nhiều lần chúng
kiếm cớ giáo viên của Hội tham gia các cuộc mít tinh, biểu tình, rải truyền
đơn các đờng phố để đến khám xét phòng thờng trực của Hội, nhà ở một số
giáo viên và chất vấn Hội trởng.
Trớc tình hình nh vậy, Đảng đã dự tính đề phòng trớc những tình huống
ấy. Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ơng Đảng tháng 3 năm 1938,
có đoạn viết: Chớ đợc chính trị hoá các tổ chức quần chúng công khai và bán
công khai của Đảng [24, 21].
Lúc này bọn thực dân vẫn tìm mọi cách kìm hãm sự phát triển của Hội.
Trớc chiến tranh thế giới thứ Hai, ngoài bốn khu trờng mở đợc ở nội thành Hà



17

Nội, Hội truyền bá Quốc ngữ Bắc Kỳ chỉ phát triển đợc hai cơ sở ở Hải Phòng,
Việt Trì và mỗi cơ sở này cũng chỉ đợc một vài lớp học.
ở Trung kỳ, mặc dù Khâm sứ Pháp gây nhiều khó khăn, nhng do hoạt
động tích cực của đồng chí Phan Đăng Lu, Hải Triều, Tôn Quang Phiệt liên hệ
với các nhân sỹ và trí thức tiến bộ đã thành lập đợc Hội truyền bá quốc ngữ
Trung Kỳ, đợc phép của Khâm sứ Trung Kỳ vào ngày 5 tháng 1 năm 1939.
Còn ở Nam Kỳ, thì trớc Chiến tranh thế giới thứ Hai, cha đòi đợc bọn
cầm quyền Pháp cho phép thành lập Hội truyền bá Quốc ngữ.
Tháng 9/1939, chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Bọn thống trị thực
dân khủng bố phong trào cách mạng gay gắt. Nhng chúng không có cớ gì để
can thiệp vào Hội truyền bá quốc ngữ. Hội vẫn hoạt động theo điều lệ của Hội
đã đợc chuẩn y. Đảng ta trong thời gian này đã chuyển vào hoạt động bí mật.
Tuy vậy, Đảng vẫn trực tiếp quan tâm lãnh đạo phong trào chống nạn
thất học. Tháng 11/1939, Hội nghị Ban chấp hành trung ơng Đảng ra nghị
quyết chỉ rõ: Cứ mở rộng những tổ chức nh Hội truyền bá quốc ngữ, lớp dạy
tối. Cũng vào thời gian này, nghị quyết Hội nghị ban chấp hành trung ơng
Đảng nêu rõ hơn: Cỡng bách giáo dục đến bậc sơ học, thử tiêu nạn mù chữ
[24,22].
Nhờ có sự quan tâm đó của Đảng và mặt khác, do đợc rèn luyện trong
thực tế và đấu tranh, các đảng viên, đoàn viên, hội viên, các tổ chức quần
chúng của Đảng còn hoạt động đợc bình thờng trong Hội và ban trị sự Hội đã
tỏ rõ ý thức chủ động và lập trờng vững vàng. Do đó, Hội đã tiếp tục phát triển
và tránh đợc những sự lợi dụng của thực dân Pháp và phát xít Nhật.
Tháng 6 năm 1940, Chính phủ Pháp đầu hàng phát xít Đức. ở Đông Dơng phát xít Nhật vào đóng quân ở một số nơi, tuyên truyền thuyết Đại Đông
á, mở các lớp dạy tiếng NhậtPhát xít Nhật và thực dân Pháp cùng đè đầu cỡi cổ ngời Việt Nam, cùng bắt tay nhau để đàn áp Cách mạng Việt Nam,
nhng giữa bọn chúng với nhau, nh hai con chó tranh một con mồi, mâu
thuẫn nhau dẫn đến một mất một còn.
Đây chính là điều kiện để phong trào truyền bá Quốc ngữ đẩy mạnh các

Hoạt động. Nắm lấy thời cơ mới, Hội đã kịp thời đa yêu sách đòi bọn cầm
quyền thực dân Pháp nới rộng phạm vi hoạt động của Hội, trớc tiên là phải để
cho Hội mở thêm trờng, lớp ở ngoại thành Hà Nội. Chúng đã buộc phải nhợng


18

bộ. Từ tháng 11 năm 1940, Hội đã phát triển lớp học về các làng ở xung quanh
Hà Nội và các tỉnh thuộc Hà Đông, Sơn Tây, Bắc Ninh, Hng Yên.
Trong những năm 1942, 1943, 1944 lợi dụng sự lo lắng của bọn thống
trị Pháp trớc sự bành trớng của nền văn hoá phát xít Nhật ở Đông Dơng, nhất
là phong trào truyền bá học tiếng Nhật rầm rộ ngay giữa thủ đô Hà Nội, Hội
đã vận động ráo riết buộc thực dân Pháp phải cho phép lập chi nhánh ở các
tỉnh.
ở Trung Kỳ, năm 1943 ngoài chi hội ở Thừa Thiên, Hội truyền bá Quốc
ngữ Hà Tĩnh ra đời.
ở Nam Kỳ, đến năm 1944, một số đoàn viên thanh niên cứu quốc của
Mặt trận Việt Minh đã liên hệ với một số nhân sỹ và trí thức tiến bộ đã xin đ ợc phép của Thống đốc Nam Kỳ thành lập Hội truyền bá Quốc ngữ.
Chúng ta biết rằng Mặt trận Việt Minh thành lập tháng 5 năm 1941, đề
ra một chơng trình hành động gồm 10 chính sách lớn, trong đó có việc xây
dựng nền quốc dân giáo dục; chống nạn mù chữ, phổ thông và cỡng bách giáo
dục đến nền sơ cấp. Hồ Chí Minh chủ trơng phong trào Việt Minh tới đâu,
tổ chức học văn hoá tới đó. Ngời biết dạy ngời không biết, ngời biết nhiều dạy
cho ngời biết ít[ 67,24].
Từ đó, ảnh hởng của Việt Minh lan rộng, thấm sâu trong quần chúng
nhân dân các địa phơng trên cả nớc. Trong không khí sôi sục cách mạng đó,
Hội truyền bá quốc ngữ chủ trơng chớp lấy thời cơ, mở rộng phong trào. Một
mặt, Hội mở thêm nhiều trờng lớp ở các vùng nông thôn; mặt khác tăng cờng
việc liên hệ với các tỉnh, lập thêm nhiều chi nhánh mới đẩy mạnh công cuộc
chống nạn thất học, đồng thời phục vụ sự nghiệp cách mạng đắc lực hơn.

Nh vậy, từ khi thành lập ở Bắc Kỳ (7/1938) cho đến trớc cách mạng
tháng Tám 1945, Hội truyền bá Quốc ngữ đã dần dần phát triển đợc cơ sở ở cả
ba kỳ, ở nhiều tỉnh, thành phố, vùng nông thôn và đã xây dựng đợc một phong
trào chống nạn thất học khá mạng mẽ, đã để lại những kinh nghiệm quý báu
về xây dựng ngành học, cụ thể là về chơng trình và phơng pháp dạy học, về
tuyên truyền cổ động và cả đội ngữ giáo viên. Cụ thể là:
Hội truyền bá quốc ngữ xây dựng chơng trình học cho những ngời bị
mù chữ nh sau:
Trớc hết , mở lớp học. Có hai loại lớp cho hai bậc học, lớp học bậc sơ
đẳng dạy vỡ lòng cho học viên học, viết chữ quốc ngữ và làm đợc hai phép


19

tính cộng, trừ; lớp học bậc cao đẳng luyện cho học viên đọc, viết thông chữ
quốc ngữ và dạy thêm ít điều thờng thức và bốn phép tính. Để việc truyền bá
chữ quốc ngữ đợc mau chóng, Hội yêu cầu những ngời đã đợc Hội dạy cho
biết chữ phải cố gắng dạy lại cho một số ngời thất học khác xung quanh mình.
Thứ hai, tổ chức các cuộc diễn thuyết nhằm giảng dạy, phổ biến những
điều thờng thức cho đồng bào ta
Thứ ba, xuất bản sách nhằm bổ khuyết việc học ở lớp. Hội chủ trơng
biên soạn và xuất bản loại sách thờng thức phổ thông về sử kí, địa lý, vệ sinh,
khoa họcđể phổ biến rộng rãi trong nhân dân.
Thứ t, lập th viện bình dân. Hội cho mở hai loại th viện: Th viện mở ở
những nơi nhất định vừa cho mợn sách, vừa tổ chức đọc sách tại chỗ và th viện
luân chuyển, lu động.
Để thực hiện đợc chơng trình học tối thiểu do Hội đề ra nh trên thì Hội
đã cho in cuốn vần quốc ngữ với nội dung: Hớng dẫn giáo viên của hội phơng pháp dạy vỡ lòng, dạy chữ quốc ngữ do hội sáng tạo ra; và tập vần vỡ lòng
dành cho học viên.
Trớc đây, khi cha có Hội truyền bá quốc ngữ , để dạy lớp vỡ lòng, tức

dạy vần quốc ngữ đợc tiến hành theo phơng pháp truyền thống đánh vần từng
chữ . Trớc hết, học chữ cái a,b,c đến x, y rồi học các vần bằng, vần trắc và
cuối cùng là tập đánh vần, tức chắp tiếng bằng cách đọc từng tiếng.(ví dụ: Vêi-vi-ê-vê-tê viết nặng Việt) .Theo phơng pháp này, trong một thời gian dài
đầu tiên, ngời học chữ ê a học vần và phải mất hàng tháng mới hết phần chữ
cái và vần bằng, vần trắc, vừa khô khan, vừa tẻ nhạt. Phơng pháp này chỉ phù
hợp với trẻ em nên ngời học lớn tuổi dễ sinh chán, cảm thấy không thiết thực,
không bổ ích và dễ bỏ học. Thời gian học phải 6-7 tháng.
Sau này, khi Hội truyền bá quốc ngữ ra đời đã sáng tạo ra phơng pháp
đọc lên thành tiếng(còn gọi là phơng pháp i tờ do Hoàng Xuân Hãn và
một số ngời trong ban tu th hội truyền bá quốc ngữ nghiên cứu, đề xớng và đợc sử dụng rộng rãi trong thời kỳ hoạt động của Hội truyền bá quốc ngữ cho
đến thời gian dài sau cách mạng Tháng Tám). Đây là một cải tiến quan trọng
trong phơng pháp dạy cho ngời mới học đọc, học viết. Học chữ cái từ chỗ ít
nét đến chữ nhiều nét, từ chỗ chữ dễ viết đến chữ khó viết. Các chữ cái đợc
dạy thành từng nhóm có nét chữ giống nhau. Học chữ cái xen lẫn với học vần,
ghép chữ với chữ, ghép chữ với vần để chắp tiếng, chép từ .


20

Thí dụ cụ thể:
Nếu ta so sánh cách đọc theo phơng pháp cũ đánh vần từng chữ với
phơng pháp đọc lên thành tiếng để thấy rõ sự cải tiến rất quan trọng của
Hoàng Xuân Hãn trong việc canh tân phơng pháp dạy chữ quốc ngữ, và phơng
pháp cũ càng bộc lộ nhợc điểm với những tiếng có vần phức tạp.
Phơng pháp cũ: k- h-khi-ê-khê-n-g-khiêng
t-h--th-ơ-thơ-c-thớc
Trong khi đó phơng pháp đọc lên thành tiếng, dựa trên cấu trúc hai
thành phần của âm tiết, xử lý rất đơn giản:
Kh-iêng-khiêng
Th-ơc-thớc

Các giáo viên đã tìm các biện pháp liên hệ, so sánh để học sinh dễ
nhận , dễ nhớ mặt chữ và đặt thành câu ca dao vừa vui, vừa cụ thể, thiết thực,
vừa dễ hiểu, dễ hấp dẫn, dễ thuộc,dễ nhớ.
ví dụ:
I-t (tờ) dấu móc cả hai,
I ngắn có dấu- t (tờ) dài có ngang.
Hoặc :
O tròn nh quả trứng gà,
Ô thời đội mũ, ơ thời thêm râu.
Hay:
O,a hai chữ khác nhau,
vì a có cái móc câu bên mình .
Và chỉ sau một số buổi đầu đã sớm tập đọc đợc những bài ngắn có nội
dung gần gũi với đời sống ngời học. Phơng pháp này giúp ngời học dễ nhớ,
nhớ lâu và có hứng thú học tập. Với ngời dạy, dễ áp dụng và không nhất thiết
đòi hỏi đợc huấn luyện công phu.
Dạy hết 34 bài trong quyển vần quốc ngữ là dạy xong phần chữ cái và
vần. Bài cuối cùng trong quyển vần, dạy ôn các chữ cái, dạy viết các chữ hoa
và dạy đọc các chữ in. Để cho học sinh học xong lớp sơ đẳng có thể đọc viết
thành thạo, Hội đã biên soạn quyển sách tập đọc và tập viết chính tả. Những
bài trong quyển sách tập đọc này còn nhằm phổ biến cho học sinh những kiến
thức thông thờng cần thiết. Để củng cố hơn nữa kết quả học tập bớc đầu của
học sinh, giúp họ vừa thoát khỏi nạn mù chữ một cách chắc chắn, vừa nâng
cao đợc kiến thức, Hội mở tiếp cho họ lớp cao đẳng. Nhiều khu trờng của Hội
cũng đã tổ chức đợc những th viện, cho học sinh đọc ngay ở trờng hay mợn về


21

nhà xem, cũng nhằm mục đích củng cố kết quả, xoá nạn mù chữ và nâng cao

kiến thức cho học sinh cũ hay còn đang học của Hội.
Để thực hiện đợc những mục đích và chơng trình đề ra, Hội đã tích cực
mở các lớp học, tuyên truyền, vận động mọi giới tham gia vào công tác của
hội, xây dựng quỹ Hội.
Đồng thời với việc xây dựng chơng trình và xác định phơng pháp dạy,
học có hiệu quả, Hội truyền bá quốc ngữ coi trọng công tác tuyên truyền cổ
động. Bắt đầu là buổi diễn thuyết lớn cổ động thành lập hội vào ngày 25-51938, tập hợp đợc đông đảo nhà giáo, nhà báo, công chức, thanh niên học
sinh, sinh viên và nhiều ngời lao động chân tay đến dự, trong đó một phần ba
là phụ nữ. Việc vận động hội viên đợc tiến hành một ngày đồng loạt tổ chức ở
khắp các phố, xóm, ngõ, ở từng nhà. Đồng thời các cổ động trên báo chí,
thành lập các tiểu ban từng ngành, giới (tiểu ban học sinh, sinh viên, công thơng, công chức, phụ nữ, trí thức) gồm những ngời tiêu biểu trong ngành, giới
để vận động riêng trong ngành, giới.
Nhiệm vụ đầu tiên của việc tuyên truyền cổ động là việc vận động đợc
nhiều hội viên, đợc đông đảo ngời ở khắp địa phơng, ở mọi tầng lớp, tán thành
công việc của Hội, gia nhập Hội, ủng hộ về tài chính, về cơ sở vật chất, giúp
hội tổ chức lớp học và dạy họcHội đã thực hiện đợc nhiệm ấy bằng những
hình thức nh trên, vừa rầm rộ, rộng rãi, vừa đi sâu vào từng cơ sở, ngành giới,
từng ngời. Để duy trì các trờng lớp đã mở, phát triển thêm các trờng, lớp mới
và phát triển thêm chi hội ở các địa phơng, Hội đã tiến hành công tác tuyên
truyền cổ động liên tục, sôi nổi, nhất là vào các đầu, cuối khoá học và mỗi khi
phát triển thêm một khu trờng mới, một chi hội mới. Cụ thể: Hội thờng xuyên
thông báo tình hình hoạt động của Hội (trên báo) và trình bày kết quả học tập
ở mỗi khu trờng cũng nh ở trụ sở của Hội, với những biểu đồ, những tài liệu
giảng dạy và học tập của các trờng lớp, các địa phơng vào những ngày bế
giảng các khoá học.
Một nhiệm vụ tuyên truyền cổ động khác của Hội là vận động giáo viên
và học viên để giữ vững đợc các lớp học từ đầu đến các khoá học, và mỗi khoá
học lại phát triển thêm đợc những trờng và lớp học mới.
Điều đáng chú ý là trong thời kỳ chiến tranh thế giới thứ hai, ngoài
những lớp học của Hội truyền bá quốc ngữ, còn có các lớp do hội viên của tổ

chức Việt Minh hoặc do thanh niên trí thức yêu nớc chịu ảnh hởng cuộc vận


22

động cách mạng của mặt trận Việt Minh. Đặc biệt sau khi xây dựng đợc các
căn cứ cách mạng, nhân dân và các chiến sỹ trong Tuyên truyền giải phóng
quân, cứu quốc quân sôi nổi học tập, phong trào chống nạn thất học đợc đẩy
mạnh.
Mặt trận Việt Minh (thành lập 5/1941) đã đề ra một chơng trình hành
động gồm 10 chính sách lớn, trong đó có việc xây dựng nền quốc dân giáo
dục, chống nạn mù chữ, phổ thông và cỡng bách giáo dục đến bậc sơ
cấp[43,33].
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũmg chủ trơng phong trào Việt Minh tới đâu,
tổ chức học văn hoá ở đó. Ngời biết dạy ngời không biết, ngời biết nhiều dạy
ngời biết ít[24, 33].
Theo chủ trơng ấy, những ngời biết chữ đã tổ chức dạy học trớc tiên cho
những đồng chí cha biết chữ ở ngay trong cơ quan của Đảng và mặt trận ở căn
cứ địa.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng tham gia dạy học. Lúc đầu Bác dạy mỗi ngời 3 chữ, sau tăng lên 5 chữ rồi 10 chữ. Phơng pháp của Bác là dạy chữ cái,
sau đó tập ghép vần đơn giản để ứng dụng ngay. Có lúc Bác lấy một hòn cuội
viết lên mặt đá chữ a rồi đọc a , tiếp đó đọc chữ i rồi lại đọc a-i. Dạy đợc một chữ, Bác dạy câu: ai đi xuống làng. Bác đọc cả câu, mọi ngời đọc
theo[37,28]
Việc ra đời của Hội truyền bá quốc ngữ ở Hà Nội và những hoạt động
tích cực, có hiệu quả của Hội, cùng với những chủ trơng chỉ đạo hợp lý của
Đảng đã góp phần đẩy mạnh công cuộc nâng cao dân trí, chống nạn thất học
cho nhân dân. Chỉ một thời gian ngắn, nhiều tỉnh đã có chi hội phổ cập chữ
quốc ngữ cho đồng bào.
Phong trào truyền bá chữ quốc ngữ lan khá nhanh vào các tỉnh miền
Trung. Trớc tình hình đó, cần phải ra đời tổ chức truyền bá quốc ngữ cho cả

Trung kỳ, nên sau một thời gian chuẩn bị và hoạt động tích cực của các đồng
chí Phan Đăng Lu, Hải Triều, Tôn Quang Phiệt để liên hệ với trí thức tiến bộ,
ngày 5-1-1939, Hội truyền bá chữ quốc ngữ Trung Kỳ đã đợc phép thành lập
và hoạt động nhng hạn chế chỉ đợc dạy chữ chứ không đợc dạy các môn khác.
Hội do ông Hồ Đắc Hàm làm hội trởng.
Có đợc tổ chức hoạt động hợp pháp, phong trào lan nhanh ra các tỉnh,
nhất là các tỉnh có phong trào tân học xuất hiện sớm nh Thừa Thiên, Quảng


23

Nam, Bình Thuận, Nghệ An,ở Hà Tĩnh, tỉnh gần gũi và có điều kiện thuận
lợi trong việc giao lu với Vinh, lại có phong trào quần chúng đợc tôi luyện qua
thời kỳ Xô viết Nghệ Tĩnh nên đã sớm có nhiều chi hội khắp các phủ, huyện.
Ngay ở huyện Cẩm Xuyên, phong trào truyền bá chữ quốc ngữ cũng đợc
tổ chức quy củ. Tài liệu lịch sử phong trào chống nạn thất học của Cẩm Xuyên
cũng ghi rõ: ở Cẩm Xuyên có chi hội truyền bá chữ quốc ngữ. Các cán bộ,
đảng viên lợi dụng hình thức hợp pháp, bất hợp pháp đó để hoạt động, dùng
hình thức truyền bá đó để truyền bá cách mạng. Nhiều đảng viên cộng sản ban
ngày dạy lớp hợp pháp, ban đêm lại đến các nhà nghèo khó, cơ sở của Đảng,
bí mật dạy các lớp bất hợp pháp.
Do phong trào truyền bá chữ quốc ngữ phát triển hầu khắp, các phủ
huyện trong tỉnh đều mở đợc nhiều trờng cho con em vào học đủ các hình
thức nh gia đình học hiệu, hơng trờng, trờng sơ học, kiêm bị, cả công lập và t
thục.
ở Hơng Khê, ông Đinh Văn Hoà, một đảng viên cộng sản đã bỏ tiền xây
dựng trờng sơ học đầu tiên đặt tên là Ecole Đinh Văn Hoà (Phúc Trạch)
Hơng Sơn phát triển các trờng tổng, tiêu biểu là trờng Thịnh xá, có
những học trò rất xuất sắc nh Đinh Nho Liêm, đỗ đầu thi tiểu học toàn tỉnh
năm 1939.

ở huyện Kỳ Anh, từ chỗ có 2 trờng sơ học ở huyện lỵ và xã Tuần Tợng,
8 trờng sơ học và 12 hơng trờng. Đến năm 1941- 1942 đã có 2 trờng tiểu học,
7 trờng sơ học cùng các hơng trờng và gia đình học hiệu . Tất cả có 19 trờng
các loại, 21 thầy giáo, 527 học sinh, nếu so với 97 làng xã trong huyện thì
cũng chỉ có 1% số ngời đi học. [61, 150]
Huyện Can Lộc, năm 1930- 1931 mới có 14 trờng công gồm các trờng
tiểu học Việt Pháp ở Trảo Nha và các trờng Liên Hơng, vài ba lớp đầu cấp,
nhng đến năm 1941-1942 đã phát triển thành một trờng Kiêm bị, 7 trờng tổng,
trờng sơ học t, 16 gia đình học hiệu với 37 thầy giáo, và 1.025 học sinh, tỷ lệ
so với dân số là 2%.[61,150]
Huyện Thạch Hà, cũng có nhiều trờng sơ học ở các làng Đại Nài, Trung
Tiết, Hà Hoàng, Tiên Lơng, Kim Đôi ở Đồng Lộ (nay là Thạch linh), mặc
dù đã có trờng liên hơng, nhân dân vẫn mời thầy giáo Nguyễn Phi Hào mở lớp
t thục với mấy chục học trò từ năm 1937 và lấy nhà thầy giáo làm lớp học.


24

Lớp học này là tiền thân của trờng tiểu học và trung học cơ sở Thạch Linh
ngày nay.
Tại tỉnh lỵ, những năm này đã có 2 trờng riêng, trờng con trai ở ngoài
thành là trờng kiêm bị Pháp Việt, đầy đủ các lớp tiểu học. Trờng con gái đợc đặt phía trong Thành Sen do bà Tôn Nữ Thị Âu làm hiệu trởng, ban đầu chỉ
có các lớp sơ đẳng, dần dần có đủ các lớp tiểu học.
Đến đầu năm 1945 ở tỉnh lỵ có các trờng con trai, con gái, các phủ huyện
lớn đều có trờng tiểu học kiêm bị, các tổng đều có hơng trờng, cha kể các gia
đình học hiệu, số học sinh cả tỉnh có khoảng 7.000 ngời, tỷ lệ học sinh so với
dân số là 1,7 %.[61, 152].
Tuy số trờng lớp có đợc mở mang thêm qua phong trào truyền bá chữ
quốc ngữ dới sự lãnh đạo của Đảng nhng do chính sách hạn chế của thực dân
Pháp nên số ngời đợc đi học rất ít so với số dân trong tỉnh, nhất là với các

huyện nghèo và xa xôi huyện Kỳ Anh, Hơng khê.
Không những Hà Tĩnh là tỉnh nghèo có tỷ lệ học sinh thấp, mà ngay cả
nớc ta, số học sinh cũng chỉ xấp xỉ 2,6 % so với dân số. Theo niên giám thống
kê Đông Dơng thì tình hình giáo dục năm 1941-1942 là:
Trờng công
Bậc học
Trung học
Cao đẳng tiểu
học
Tiểu học
Sơ học
Cộng

Số trờng

Học sinh

Trờng t
Số trờng

Học sinh

3
16

652
5.521

49


11.203

503
8775
9.297

58.629
486.362
551.164

234
906
1.189

29.573
48.675
89.451

Tuy vậy, kể từ năm 1938 với hoạt động của Hội truyền bá quốc ngữ và
của Mặt trận Việt Minh, công cuộc chống nạn mù chữ đã đợc đẩy mạnh ở
khắp nơi. Trong 7 năm (1938- 1945), Hội truyền bá quốc ngữ đã có những
cống hiến quan trọng đặc biệt trong sự nghiệp chống nạn thất học ở nớc ta: đã
thanh toán nạn mù chữ cho trên 7 vạn ngời , những kinh nghiệm phong phú về
tổ chức, một phong trào học sôi nổi mang tính quần chúng, về xây dựng chơng
trình và biên soạn sách giáo khoa, về canh tân phơng pháp s phạm xoá mù
chữ; một đội ngũ những ngời tổ chức, vận động và giảng dạy, có tâm huyết và


25


đoàn kết thân ái - một cơ sở đầy sinh lực cho sự nghiệp bình dân học vụ mà
nó là tiền thân xứng đáng.
Vợt ra khỏi phạm vi ngành giáo dục, Hội truyền bá quốc ngữ, với t cách
là một tổ chức công khai đợc Đảng lãnh đạo, đã góp phần và giác ngộ quần
chúng do đợc nâng cao dân trí mà tiếp thu thuận lợi ánh sáng cách mạng,
đồng thời, đã cung cấp cho cách mạng một số cán bộ và chiến sĩ, những hội
viên, giáo viên đợc rèn luyện và giác ngộ cách mạng. Phong trào chống nạn
mù chữ đã thật sự có những đóng góp vào tiến trình chung của cách mạng thời
kỳ này, và tạo điều kiện thuận lợi để công cuộc chống nạn mù chữ của nớc
Việt Nam dân chủ cộng hoà ngay sau khi cách mạng Tháng Tám 1945 giành
thắng lợi.

Chơng 2
Phong trào Bình dân học vụ ở Hà Tĩnh trong năm
đầu tiên của nớc Việt Nam dân chủ cộng hoà (1945-1946)
2.1. Bối cảnh lịch sử và chủ trơng diệt dốt, xoá mù
chữ của chính quyền cách mạng Hà Tĩnh trớc khi
kháng chiến toàn quốc bùng nổ.
2.1.1. Bối cảnh lịch sử
Cách mạng tháng Tám 1945 là một sự kiện vĩ đại trong lịch sử dân tộc
Việt Nam, đã phá tan hai xiềng xích nô lệ của thực dân Pháp (kéo dài hơn 80
năm) và của phát xít Nhật, đồng thời còn lật nhào chế độ quân chủ chuyên chế
tồn tại mấy mơi thế kỷ ở Việt Nam. Với thắng lợi của Cách mạng tháng
Tám, nớc ta từ một nớc thuộc địa đã trở thành một nớc độc lập dới chế độ dân
chủ cộng hoà, đa nhân dân ta từ thân phận nô lệ thành ngời dân độc lập, tự do,
làm chủ nớc nhà.


×