Tải bản đầy đủ (.doc) (85 trang)

Vận dụng những nội dung cơ bản của đạo đức hồ chí minh nhằm nâng cao hiệu quả dạy học phần công dân với đạo đức trong

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (913.13 KB, 85 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

NGÔ THANH ÚT MINH

VẬN DỤNG NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA ĐẠO ĐỨC
HỒ CHÍ MINH NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
DẠY HỌC PHẦN “CÔNG DÂN VỚI ĐẠO ĐỨC”
TRONG CHƯƠNG TRÌNH GDCD LỚP 10
TẠI TRƯỜNG THPT LAI VUNG 1 TỈNH ĐỒNG THÁP

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ PPDH BỘ MÔN CHÍNH TRỊ
MÃ SỐ: 60.14.10

ĐỒNG THÁP- 2010

1


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

NGÔ THANH ÚT MINH

VẬN DỤNG NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA ĐẠO ĐỨC
HỒ CHÍ MINH NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
DẠY HỌC PHẦN “CÔNG DÂN VỚI ĐẠO ĐỨC”
TRONG CHƯƠNG TRÌNH GDCD LỚP 10
TẠI TRƯỜNG THPT LAI VUNG 1 TỈNH ĐỒNG THÁP



CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ PPDH BỘ MÔN CHÍNH TRỊ
MÃ SỐ: 60.14.10

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN THÁI SƠN

ĐỒNG THÁP- 2010

2


LỜI CAM ĐOAN
Tác giả xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tác
giả, các số liệu và kết quả nghiên cứu trên luận văn là trung thực.
Tác giả của luận văn

Ngô Thanh Út Minh

3


MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC

4



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
GDCD

:

Giáo dục công dân

GV

:

Giáo viên

HS

:

Học sinh

Nxb

:

Nhà xuất bản

THPT

:


Trung học phổ thông

TW

:

Trung ương

5


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Từ xưa, ông cha ta đã đúc kết một cách sâu sắc kinh nghiệm về giáo dục
“Tiên học lễ, hậu học văn”, “Lễ” ở đây chính là nền tảng của sự lĩnh hội và
phát triển tốt các tri thức và kỹ năng. Ngày nay, phương châm “Dạy người,
dạy chữ, dạy nghề” cũng thể hiện rõ tầm quan trọng của hoạt động giáo dục
đạo đức, như Bác hồ đã dạy “Dạy cũng như học, phải chú trọng cả tài lẫn
đức. Đức là đạo đức cách mạng. Đó là cái gốc quan trọng. Nếu thiếu đạo đức,
con người sẽ không phải là con người bình thường và cuộc sống xã hội sẽ
không phải là cuộc sống xã hội bình thường, ổn định…” Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã từng nói: “Có tài mà không có đức chỉ là người vô dụng. Có đức mà
không có tài thì làm việc gì cũng khó”.
Nhìn chung, đạo đức có vai trò hết sức to lớn trong đời sống xã hội từ
xưa đến nay và cả sau này. Nhân loại luôn quan tâm đến vấn đề đạo đức từ
phương đông đến phương tây, từ các nhà tư tưởng đến các vị tông đồ của các
tôn giáo khác nhau, không bao giờ và không lúc nào người ta không bàn đến
đạo đức cả bởi vì chúng ta sẽ không thể hình dung nỗi một xã hội vắng bóng,
vắng sự hiện diện của đạo đức
Vai trò của đạo đức trong đời sống xã hội thể hiện ở chỗ: đạo đức góp

phần to lớn vào việc điều chỉnh hành vi con người sao cho phù hợp với những
yêu cầu, chuẩn mực đạo đức xã hội, nhờ chức năng này mà xã hội không
ngừng phát triển. Đạo đức góp phần giáo dục ý thức đạo đức, biến ý thức đạo
đức thành thực tiễn đạo đức, thông qua thực tiễn đạo đức bổ sung nhận thức
rèn luyện ý chí cho chủ thể đạo đức, nâng chủ thể đạo đức lên tầm cao mới,
hoàn thiện nhân cách con người; Đạo đức góp phần nhân đạo hóa con người
và xã hội loài người, làm cho con người nhân ái, vị tha và nhân bản hơn. Từ

6


đó đạo đức giữ vai trò to lớn góp phần thúc đẩy tiến bộ xã hội cả về mặt tinh
thần lẫn vật chất. Xã hội càng phát triển thì càng cần đến vai trò của đạo đức.
Kinh tế thị trường vừa có mặt tích cực, vừa có mặt tiêu cực. Ảnh hưởng
của kinh tế thị trường đối với đạo đức là một hiện tượng phức tạp. Cơ chế thị
trường được thực hiện dưới những dạng thức khác nhau ở những quốc gia
khác nhau và phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế xã hội và nền văn hóa
khác nhau. Cùng với quá trình thực hiện nền kinh tế thị trường và tiến hành
công nghiệp hóa – hiện đại hóa định hướng xã hội chủ nghĩa, quan niệm về
đạo đức ngày càng có những biến đổi trở nên rõ nét theo hai hướng tích cực
và tiêu cực:
+ Xu hướng phủ nhận ảnh hưởng tích cực của cơ chế thị trường đối với
đạo đức: có quan niệm cho rằng kinh tế thị trường và đạo đức bài xích lẫn
nhau, kinh tế thị trường ném con người vào một thứ quan hệ cờ bạc, kinh tế
thị trường gây nhiều tổn thất, ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống xã hội như:
gian lận, lừa đảo, hàng hóa giả, ma túy, mại dâm, tham ô, tham nhũng…
+ Xu hướng nhấn mạnh ảnh hưởng tích cực của cơ chế thị trường đối với
đạo đức: xu hướng này khẳng định kinh tế thị trường có ảnh hưởng tích cực
đến đời sống xã hội, kích thích phát triển kinh tế, nâng cao năng suất lao
động, mang lại đời sống vật chất ngày càng cao, ngày càng tốt hơn cho nhân

dân, phát huy cá tính sáng tạo của con người, đòi hỏi con người cần giữ chữ
tín
Nhìn chung, hai quan điểm này có những mặt hợp lý nhất định, nhưng
hạn chế lớn nhất của họ là ở chỗ tuyệt đối hóa mặt nào đó mà không thấy
được mặt trái của vấn đề. Thực ra kinh tế thị trường tác động đến đời sống
đạo đức xã hội trên cả hai phương diện: vừa tích cực, vừa tiêu cực.
Thực tế hiện nay đạo đức xã hội đang có xu hướng xuống cấp. Cơ chế thị
trường tác động làm xói mòn bản chất trong sáng của đạo đức. Quan hệ giữa
người với người trong xã hội nhiều lúc bị coi nhẹ, quan hệ vợ chồng, cha con,

7


quan hệ anh em huyết thống, quan hệ thầy trò, tình đồng chí, tình bạn, tình
yêu, đạo đức xã hội, truyền thống văn hóa bản sắc dân tộc bị coi nhẹ, có biểu
hiện tha hóa biến chất. Tệ nạn xã hội gia tăng, trẻ vị thành niên vi phạm pháp
luật ngày càng nhiều. Bạo lực học đường có chiều hướng gia tăng…
Là một giáo viên, người làm công tác “trồng người”, việc thấm nhuần
tư tưởng đạo đức của Bác trở nên có ý nghĩa quan trọng và rất cần thiết. Nó
giúp cho người giáo viên có phẩm chất đạo đức trong sáng, cần, kiệm, liêm,
chính… trở thành người thầy mẫu mực, là tấm gương cho học sinh noi theo,
được xã hội kính trọng…Do đó, vấn đề học tập và vận dụng tư tưởng đạo đức
của Hồ Chí Minh nhằm giáo dục đạo đức cho học sinh THPT nói chung là
một vấn đề cấp thiết.
Xuất phát từ những vấn đề trên tác giả đã chọn: “Vận dụng những nội
dung cơ bản của đạo đức Hồ Chí Minh nhằm nâng cao hiệu quả dạy học
phần công dân với đạo đức trong chương trình GDCD lớp 10 tại trường
THPT Lai Vung 1 - Tỉnh Đồng Tháp” làm đề tài nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu
Đảng cộng sản Việt Nam rất quan tâm đến việc giáo dục đạo đức Hồ Chí

Minh cho thanh niên, đặc biệt là học sinh – sinh viên. Đảng ta đã đưa ra nhiều
Nghị quyết, Chỉ thị như:
Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai, Ban chấp hành Trung ương khóa VIII
“Về định hướng chiến lược phát triển sự nghiệp giáo dục đào tạo trong thời
kỳ công nghiệp hóa và nhiệm vụ đến năm 2000”;
Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm, Ban chấp hành Trung ương khóa IX
“Về nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng, lý luận trong tình hình mới”;
Chỉ thị số 06-CT/TW của Bộ Chính trị “Về tổ chức cuộc vận động học tập và
làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”;

8


Thông báo số 134-TB/TW của Ban Bí thư về sơ kết thực hiện Chỉ thị
23-CT/TW “Đẩy mạnh nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí
Minh trong giai đoạn mới”;
Chỉ thị số 2516/CT-BGD&ĐT ngày 18 tháng 5 năm 2007 “Về việc thực
hiện cuộc vận động Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”.
Những văn kiện đó đã đề cập đến nội dung, phương pháp, biện pháp
nhằm tuyên truyền, giáo dục tư tưởng và đạo đức Hồ Chí Minh trong các tầng
lớp xã hội. Ngoài ra, còn có một số công trình nghiên cứu giáo dục đạo đức
Hồ Chí Minh cho thanh niên, học sinh, sinh viên trong những năm gần đây
như:
“Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và đào tạo thanh niên ở
nước ta hiện nay”, Luận án Tiến sĩ của Đoàn Nam Đàn (năm 2005), Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh;
“Tư Tưởng Hồ Chí Minh về bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau”
của Tiến sĩ Trần Quy Nhơn (năm 2005), Nhà xuất bản Giáo dục;
“Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức cách mạng cho
sinh viên ở trường Đại học Vinh hiện nay” (Đề tài nghiên cứu khoa học cấp

Bộ của Thạc sĩ Thái Bình Dương, năm 2008);
“Hồ Chí Minh về đạo đức”, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội, 2007.
“Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức”, NXB Ban tư tưởng văn hóa TW,
Hà Nội, 2005
PGS.TS Trần Quang Nhiếp, TS. Nguyễn Văn Sáu, “Giá trị cơ bản về Tư
tưởng đạo đức Hồ Chí Minh”, Nxb Công an nhân dân. Đặc biệt liên quan đến
nội dung đề tài mà đối tượng là học sinh THPT có công trình khoa học: “Giáo
dục tư tưởng Hồ Chí Minh cho học sinh THPT trong thời kỳ đẩy mạng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Luận văn Thạc sĩ khoa học giáo dục của Nguyễn
Văn Lục (năm 2008), trường Đại học Vinh.

9


Như vậy, cho đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về giáo dục đạo
đức Hồ Chí Minh cho thanh niên, học sinh, sinh viên nhưng chưa có một
công trình nào nghiên cứu về vận dụng những nội dung cơ bản của đạo đức Hồ
Chí Minh nhằm nâng cao hiệu quả dạy học phần công dân với đạo đức trong
chương trình GDCD lớp 10. Vì vậy, tác giả đã chọn để làm công trình nghiên
cứu của mình, với hy vọng góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn GDCD
nói chung và phần “Đạo đức ở chương trình GDCD lớp 10” nói riêng.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
3.1.Mục đích
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn của quá trình giáo dục đạo
đức Hồ Chí Minh, đề tài nêu lên thực trạng và đề ra những giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức Hồ Chí Minh cho học sinh trường THPT
Lai Vung 1 – Tỉnh Đồng Tháp.
3.2.Nhiệm vụ
Làm rõ nguồn gốc, vị trí, vai trò và những phẩm chất đạo đức cơ bản
theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.

Phân tích và làm rõ sự cần thiết của việc giáo dục đạo đức Hồ Chí Minh
cho học sinh THPT hiện nay.
Tiến hành thực nghiệm sư phạm nhằm làm rõ tính khả thi của đề tài.
Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục đạo
đức cho học sinh trường THPT Lai Vung 1 – Tỉnh Đồng Tháp.
4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Nghiên cứu về những nội dung cơ bản của đạo đức Hồ Chí Minh nhằm
nâng cao hiệu quả dạy học phần “Công dân với đạo đức” trong chương trình
GDCD lớp 10 tại trường THPT Lai Vung 1 – Tỉnh Đồng Tháp.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh, đề tài nắm vững quan điểm

10


giáo dục của Đảng về phương hướng nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh hiện nay.
Đề tài đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khoa học như:
Phương pháp lịch sử.
Phương pháp phân tích tổng hợp.
Phương pháp quan sát, thu thập thông tin.
Phương pháp thực nghiệm khoa học.
6. Ý nghĩa thực tiễn và đóng góp của đề tài
Nếu đề tài nghiên cứu thành công sẽ có ý nghĩa sâu sắc cả về mặt lý luận
và thực tiễn:
+ Góp phần làm sáng tỏ thực trạng đạo đức và công tác giáo dục đạo đức
Hồ Chí Minh cho học sinh THPT Lai Vung 1 Tỉnh Đồng Tháp.
+ Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo và
vận dụng vào việc nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức Hồ Chí Minh cho học

sinh THPT hiện nay.
7. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phần
phụ lục. Nội dung của đề tài được chia làm 2 chương:
- Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc vận dụng tư tưởng đạo
đức Hồ Chí Minh vào việc dạy học phần “Công dân với đạo đức” trong
chương trình GDCD lớp 10.
- Chương 2: Thực nghiệm sư phạm và những giải pháp đối với việc vận
dụng đạo đức Hồ Chí Minh vào giảng dạy phần “Công dân với đạo đức”
trong chương trình GDCD lớp 10.

11


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC VẬN DỤNG
TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH VÀO DẠY HỌC PHẦN
“CÔNG DÂN VỚI ĐẠO ĐỨC” TRONG CHƯƠNG TRÌNH GDCD LỚP 10
1.1. Những quan điểm cơ bản của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh và
tầm quan trọng của việc vận dụng những tư tưởng đó nhằm giáo dục đạo
đức cho học sinh trong giai đoạn hiện nay
1.1.1. Hồ Chí Minh và vai trò của đạo đức theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh
Chủ tịch Hồ Chí Minh (tên lúc nhỏ là Nguyễn Sinh Cung, tên khi đi học là
Nguyễn Tất Thành, trong nhiều năm hoạt động cách mạng trước đây lấy tên là
Nguyễn Ái Quốc), sinh ngày 19-05-1890 ở làng Kim Liên, xã Nam Liên (nay là
xã Kim Liên), huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An và mất ngày 02/09/1969 tại Hà
Nội.
Người sinh ra trong một gia đình: Bố là một nhà nho yêu nước, nguồn gốc
nông dân; mẹ là nông dân; chị và anh đều tham gia chống Pháp và bị tù đày.

Ngày 03/06/1911, Người ra nước ngoài, làm nhiều nghề, tham gia cuộc vận
động cách mạng của nhân dân nhiều nước, đồng thời không ngừng đấu tranh cho
độc lập, tự do của dân tộc mình.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người Việt Nam đầu tiên ủng hộ Cách mạng
Tháng Mười Nga vĩ đại và tìm thấy ở chủ nghĩa Mác-Lênin con đường giải
phóng của giai cấp công nhân và nhân dân các nước thuộc địa. Năm 1920,
Người tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp tại Đại hội Tua. Năm 1921,
người tham gia thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc thuộc địa Pháp; xuất bản tờ
báo Người cùng khổ ở Pháp (1922). Năm 1923, Người được bầu vào Ban Chấp
hành Quốc tế Nông dân. Năm 1924, Người tham dự Đại hội lần thứ V của Quốc
tế Cộng sản và được chỉ định là Uỷ viên thường trực Bộ Phương Đông, trực tiếp
12


phụ trách Cục Phương Nam. Năm 1925, Người tham gia thành lập Hội Liên
hiệp các dân tộc bị áp bức châu á, Xuất bản hai cuốn sách nổi tiếng: Bản án chế
độ thực dân Pháp (1925) và Đường cách mệnh (1927). Năm 1925, Người thành
lập Việt Nam thanh niên Cách mạng đồng chí Hội ở Quảng Châu (Trung Quốc)
và tổ chức "Cộng sản đoàn" làm nòng cốt cho Hội đó, đào tạo cán bộ Cộng sản
để lãnh đạo Hội và truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam. Ngày
03/02/1930, Người chủ tọa Hội nghị thành lập Đảng họp tại Cửu Long (gần
Hương Cảng). Hội nghị đã thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt,
Điều lệ Đảng do chính Người soạn thảo. Người ra lời kêu gọi nhân dịp thành lập
Đảng Cộng sản Việt Nam (sau đổi là Đảng Cộng sản Đông Dương, rồi Đảng
Lao động Việt Nam và nay là Đảng Cộng sản Việt Nam ).
Từ năm 1930 đến 1940, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục hoạt động cho sự
nghiệp giải phóng của dân tộc Việt Nam của các dân tộc bị áp bức khác trong
những điều kiện vô cùng gian khổ và khó khăn. Năm 1941, Người về nước, triệu
tập Hội nghị lần thứ 8 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông
Dương, quyết định đường lối cứu nước, thành lập Việt Nam độc lập đồng minh

Hội (Việt Minh), tổ chức lực lượng vũ trang giải phóng, chính sách căn cứ địa,
lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa từng phần và chuẩn bị tổng khởi nghĩa giành
chính quyền trong cả nước. Sau Cách mạng Tháng Tám (1945) thắng lợi, ngày
02/09/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên
ngôn Độc lập tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; tổ chức
Tổng tuyển cử tự do trong cả nước, bầu Quốc hội và thông qua Hiến pháp dân
chủ đầu tiên của Việt Nam. Quốc hội khóa I đã bầu Người làm Chủ tịch nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1946).
Cùng với Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo toàn Đảng,
toàn quân, toàn dân Việt Nam phá tan âm mưu của đế quốc, giữ vững và củng
cố chính quyền cách mạng. Ngày 19/12/1946, Người kêu gọi cả nước kháng
chiến chống thực dân Pháp xâm lược, bảo vệ độc lập, tự do của Tổ quốc, bảo vệ

13


và phát triển những thành quả của Cách mạng Tháng Tám. Tại Đại hội lần thứ II
của Đảng (1951), Người được bầu làm Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương
Đảng. Dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí
Minh, cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp xâm lược
đã giành được thắng lợi to lớn, kết thúc bằng chiến thắng vĩ đại Điện Biên Phủ
(1954). Sau khi miền Bắc được hoàn toàn giải phóng (1955) Trung ương Đảng
và Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt
Nam là tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
miền Bắc, đồng thời đấu tranh giải phóng miền Nam, thực hiện thống nhất nước
nhà, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước.
Đại hội lần thứ III của Đảng (1960) đã nhất trí bầu lại Chủ tịch Hồ Chí
Minh làm Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam. Quốc
hội khóa II, khóa III đã bầu Người làm Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa. Cùng với Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh

đạo cuộc kháng chiến vĩ đại của nhân dân Việt Nam chống chiến tranh xâm lược
của đế quốc Mỹ; lãnh đạo sự nghiệp cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa
Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, đề ra đường lối đúng đắn đưa
cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Người sáng lập ra
Đảng Mácxít-Lêninnít ở Việt Nam, sáng lập ra Mặt trận dân tộc thống nhất Việt
Nam, sáng lập ra các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam và sáng lập ra nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, góp phần tăng cường đoàn kết quốc tế. Người là
tấm gương sáng của tinh thần tập thể, ý thức tổ chức và đạo đức cách mạng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người thầy vĩ đại của cách mạng Việt Nam, lãnh
tụ kính yêu của giai cấp công nhân và của cả dân tộc Việt Nam, một chiến sĩ
xuất sắc, một nhà hoạt động lỗi lạc của phong trào cộng sản quốc tế và phong
trào giải phóng dân tộc.

14


Trong các nhà lãnh đạo cách mạng trên thế giới, Hồ Chí Minh là người bàn
nhiều đến đạo đức, đặc biệt chú ý vấn đề giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng
cho cán bộ, đảng viên và nhân dân ta. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh do đó rất
sâu sắc và phong phú, đã trở thành một sức mạnh to lớn, một nhân tố quan trọng
làm nên thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Hồ Chí Minh không chỉ là người chiến đấu cho dân tộc mình mà còn cho
cả nhân loại, không chỉ quan tâm đến nhiệm vụ hôm nay mà còn mang hoài bão
to lớn đối với xã hội ngày nay. Vì thế, tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh không chỉ
phát huy sức mạnh ở chặng đường trước mắt mà còn có ý nghĩa lâu dài, tiếp tục
soi sáng, cổ vũ chúng ta trên con đường đi tới tương lai.
Nói cách khác, tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh đã trở thành một bộ phận
văn hóa của dân tộc, sẽ sống mãi trong đời sống tinh thần của dân tộc.
Có thể nói, quá trình hình thành nội dung tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh

cũng phản ánh một phương pháp tư duy biện chứng mới, rất biện chứng về sự
tiếp cận các nguồn giá trị văn hóa của dân tộc và nhân loại, bất kể đó là thuộc
nguồn gốc nào. Hồ Chí Minh đã từng nói: “Học thuyết Khổng Tử có ưu điểm
của nó là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tôn giáo của Giê - xu có ưu điểm của nó
là lòng nhân ái cao cả. Chủ nghĩa Mác có ưu điểm của nó là phương pháp làm
việc biện chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách của nó thích
hợp với điều kiện nước ta. Khổng tử, Giê-xu, Các Mác, Tôn Dật Tiên chẳng có
ưu điểm chung đó sao?. Họ đều muốn mưu cầu hạnh phúc cho loài người, mưu
cầu hạnh phúc cho xã hội. Nếu hôm nay họ còn sống trên đời này, nếu họ hợp
lại một chỗ, tôi tin rằng họ nhất định sống chung với nhau rất hoàn mỹ như
những người bạn thân thiết. Tôi cố gắng làm người học trò nhỏ của các vị
ấy”[23: 870].
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh được hình thành trên cơ sở tiếp thu, phát
triển nhiều nguồn tư tưởng đạo đức, chủ yếu là tư tưởng đạo đức chủ nghĩa Mác
- Lênin, điều này được thể hiện trong những dòng viết đầy xúc động của Người

15


sau khi Lênin mất: “Lênin là người đã nêu cho chúng ta một tấm gương sáng về
sự giản dị và sự khiêm tốn cao độ”. “Không phải chỉ thiên tài của Người, mà
chính là tính coi khinh sự xa hoa, tinh thần yêu lao động, đời tư trong sáng, nếp
sống giản dị, tóm lại là đạo đức vĩ đại và cao đẹp của người thầy, đã ảnh hưởng
lớn lao tới các dân tộc Châu Á và đã khiến cho trái tim của họ hướng về Người
không gì ngăn cản nổi” [8: 295]. Nhưng đối với Bác, nền đạo đức truyền thống,
đặc biệt là các hệ thống tư tưởng đạo đức của Nho giáo, Phật giáo, Lão giáo
được dân tộc hóa cũng có một vị trí hết sức quan trọng.
Trong khi xây dựng hệ thống tư tưởng đạo đức cách mạng, Người đã tiến
hành một cuộc cách mạng về đạo đức, tiếp nhận những tinh hoa của các giá trị
tư tưởng đạo đức trước đó, đồng thời chuyển hóa nó, đưa vào các phạm trù

đạo đức cũ một nội dung hoàn toàn mới và rất phù hợp với yêu cầu cách
mạng mà tiêu biểu nhất là việc Người chuyển hóa khái niệm Trung hiếu của
Nho giáo thành Trung với nước, hiếu với nhân dân.
Trong quá trình chuyển hóa tư tưởng đạo đức cũ thành đạo đức mới, đạo
đức cách mạng, Hồ Chí Minh đã vận dụng một cách nhuần nhuyễn tư duy biện
chứng khi nhìn nhận các mặt đối lập trong xã hội, trong mỗi người và cả trong
các phạm trù đạo đức, để gạt bỏ những mặt cần gạt bỏ, cải tạo lại những gì có
thể cải tạo được và nhất là thấy rõ vị trí của mỗi mặt. Chẳng hạn, khi nói đến
đức và tài, Người luôn luôn coi trọng tài và có thể nói không ai quan tâm đến
việc đi tìm người tài hơn Bác, nhưng đồng thời Người coi cái đức vẫn là cái gốc,
“đức phải có trước tài ”.
Như vậy, có thể thấy quá trình hình thành hệ thống tư tưởng đạo đức Hồ
Chí Minh là xuất phát từ ba nguồn gốc cơ bản sau đây:
Thứ nhất, Nền tảng đạo đức dân tộc, kể cả đạo đức Nho giáo, Phật giáo,
Lão giáo đã được dân tộc hóa. Trong nền tảng đạo đức truyền thống của dân tộc,
trước hết phải nói đến chủ nghĩa yêu nước và lòng nhân ái là đặc trưng bản chất
đạo đức mang đậm bản sắc dân tộc Việt Nam. Chính nó là nguồn động lực thôi

16


thúc Bác ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân và cũng chính nó đã dắt Bác đến
chủ nghĩa Mác - Lênin, tiếp nhận một học thuyết khoa học cách mạng.
Thứ hai, Những nội dung cơ bản của tư tưởng đạo đức chủ nghĩa Mác Lênin, tuy không phải là cội nguồn mở đầu cho việc hình thành tư tưởng đạo
đức của Bác nhưng nó lại có giá trị định hướng cho sự phát triển tư tưởng đạo
đức của Bác theo mục tiêu xã hội chủ nghĩa, nó được xem là hạt nhân của tư
tưởng đạo đức cánh mạng của Bác Hồ.
Ngoài hai nguồn gốc đạo đức cơ bản nêu trên, phải nói đến những tinh
hoa đạo đức thế giới mà nhân loại đạt được từ xưa cho đến thế kỷ XX, trong đó
có di sản đạo đức mang ý thức hệ tư sản, những quan niệm chân chính về tự do,

bình đẳng, bát ái, dân chủ, nhân quyền, nhân đạo… Đây là nguồn gốc tuy
không giữ vai trò quyết định như hai nguồn gốc đạo đức nêu trên, nhưng lại
hết sức quan trọng ở chỗ, nó đã giúp cho Người động lực sáng tạo cái mới,
tìm thấy mặt hợp lý cũng như các giá trị nhân đạo, tinh thần dân chủ trong
những di sản đạo đức hình thành trong thời đại cách mạng tư sản nhằm bổ
sung đồng thời phát triển hệ tư tưởng đạo đức mới, đạo đức cách mạng.
Vai trò của đạo đức theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Đạo đức xuất hiện với vai trò là một trong những phương thức cơ bản để
điều chỉnh các hành vi ứng xử của con người trong xã hội: giữa con người với
con người, giữa cá nhân với xã hội, giữa con người với tự nhiên… Với tư cách
là một bộ phận của triết học, những tư tưởng đạo đức đã xuất hiện hơn 26 thế kỷ
trước trong triết học Trung Quốc, Ấn Độ, Hy Lạp cổ đại. Danh từ “đạo đức” bắt
đầu từ tiếng Latinh là mos - lề lối. Còn “luân lí” được xem như đồng nghĩa với
“đạo đức” có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp là ethicos – lề lối, phong tục.
“Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc, quy
tắc, chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh và đánh giá hành vi của con người trong
mối quan hệ với nhau, quan hệ với xã hội; chúng thực hiện bởi niềm tin cá nhân,
bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội ” [7: 8].

17


Theo Hồ Chí Minh, “Đạo đức cách mạng là bất kỳ ở cương vị nào, bất kỳ
công việc gì đều không sợ khó, không sợ khổ; nhận rõ phải trái, giữ vững lập
trường; quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cánh mạng; ra sức làm việc
cho Đảng, giữ vững kỷ luật trong Đảng, thực hiện tốt đường lối, chính sách của
Đảng; tận trung với nước, tận hiếu với dân; luôn luôn đặt lợi ích của Đảng, của
nhân dân lao động lên trước lợi ích riêng của cá nhân mình; hết lòng hết sức
phục vụ vì Đảng, vì dân mà đấu tranh quên mình… Đạo đức cách mạng là đạo
đức tập thể, nó phải đánh thắng và tiêu diệt chủ nghĩa cá nhân” [28: 182].

Ngay từ những ngày đầu hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh đã ý thức sâu
sắc và khẳng định dứt khoát về vị trí và sức mạnh của đạo đức cách mạng. Hồ
Chí Minh coi đạo đức là nền tảng của người cánh mạng. Người chỉ rõ: “Người
cách mạng phải có đạo đức cách mạng mới hoàn thành được nhiệm vụ cách
mạng vẻ vang” [10: 283]. Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức là người nuôi dưỡng
và phát triển con người, như gốc của cây, như ngọn nguồn của sông suối. Bác
nói: “cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn.
Cây phải có gốc, cây không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo
đức cách mạng, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được
nhân dân” [13: 252, 253]. Đạo đức cách mạng không chỉ là nền tảng, là cội
nguồn, là gốc rễ mà còn là chỗ dựa vững chắc đối với người cách mạng trước
mọi sóng gió, mọi thử thách.
Người viết: “Có đạo đức cách mạng, thì khi gặp khó khăn gian khổ, thất
bại, cũng không sợ sệt, rụt rè, lùi bước… khi gặp thuận lợi và thành công cũng
vẫn giữ vững tinh thần gian khổ, khiêm tốn, lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ,
lo hoàn thành nhiệm vụ cho tốt chứ không kèn cựa về mặt hưởng thụ; không
công thần, không quan liêu, không kêu ngạo, không hủ hóa” [13: 284].
Nói về tầm quan trọng của đạo đức, tục ngữ phương Tây có câu: “Người
thành đạt trong học thức, nhưng không thành đạt trong đạo đức, coi như không
thành đạt”. Ở phương Đông cũng có câu ngạn ngữ nổi tiếng: “Vận may không từ

18


trên trời rơi xuống, không từ đất vọt lên, càng không bỗng dưng từ xa chạy lại.
Vận may chỉ đến qua việc tu dưỡng đạo đức” [26: 138].
Vai trò đạo đức cách mạng còn thể hiện ở chỗ nó là thước đo lòng cao
thượng của con người. Theo Hồ Chí Minh, mỗi người có công việc, tài năng trí
tuệ khác nhau, người làm việc to người làm việc nhỏ, nhưng ai giữ vững được
đạo đức cách mạng đều là người cao thượng.

Như vậy, ngay từ rất sớm Hồ Chí Minh đã coi đạo đức là nền tảng, là cội
nguồn, là chỗ dựa vững chắc cho mọi người đặc biệt là người cách mạng. Đồng
thời Bác thường xuyên chăm lo bồi dưỡng, giáo dục cho cán bộ đảng viên, và
cho nhân dân phẩm chất đạo đức cách mạng. Đến khi sắp từ giã chúng ta, trong
Di chúc của mình đối với đoàn viên thanh niên Bác không quên căn dặn: “Đảng
cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo cho họ thành
những người thừa kế xây dựng xã hội chủ nghĩa vừa “hồng” và “vừa chuyên”
[16: 516]. Đối với Đảng ta trong Di Chúc, Bác cũng nhấn mạnh: “Đảng ta là
Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức
cách mạng, thật sự cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng thật
trong sạch phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ trung thành của
nhân dân” [24: 25].
Những quan niệm của Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng của người cách
mạng đúng và cần thiết với mọi thời kỳ cách mạng nước ta. Ngày nay, trong
công cuộc đổi mới xây dựng và bảo vệ đất nước, vai trò của đạo đức cách mạng
càng đặt ra bức thiết, càng cần sự tu dưỡng rèn luyện nghiêm túc trong mọi cán
bộ, đảng viên, nhân dân ở bất cứ cấp bậc, cương vị nào.
1.1.2. Những quan điểm cơ bản của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
Trong di sản tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, bao giờ Người cũng phân
định rõ ràng tính phải và trái, đúng và sai, thiện và ác, xây và chống… Điều đó
khiến mỗi người Việt Nam chúng ta đều nhận thấy và tìm thấy những vấn đề đạo
đức rất gần gũi với mình, để hướng tới cái chân, thiện, mỹ trong cuộc sống. Và di

19


sản của Người cho đến ngày hôm nay đã trở thành những chuẩn mực chung của
đạo đức thời đại mới.
Không có đạo đức vĩnh hằng, nên cũng không có những chuẩn mực bất
biến. Tùy theo yêu cầu của mỗi giai đoạn cách mạng, tùy theo lứa tuổi và nghề

nghiệp, Hồ Chí Minh nêu lên những chuẩn mực khác nhau phù hợp với từng đối
tượng.
Mỗi người Việt Nam yêu nước đều có thể tìm thấy trong lời dạy của Chủ
tịch Hồ Chí Minh những chuẩn mực đạo đức cần tu dưỡng, rèn luyện để vươn tới
cái thiện, cái mỹ trong cuộc sống.
Khái quát lại, có một số chuẩn mực được Người nhắc đi nhắc lại nhiều lần
như là những yêu cầu mà bất cứ người Việt Nam nào cũng cần phải có, đó là:
Trung với nước, hiếu với dân
Trong các quan hệ đạo đức, thì quan hệ với nước, với dân là quan hệ lớn
nhất, do đó ”Trung với nước, hiếu với dân” cũng là chuẩn mực chung nhất,
bao trùm nhất.
“Trung với nước, hiếu với dân” là phẩm chất quan trọng hàng đầu trong tư
tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, nói lên mối quan hệ và nghĩa vụ của mỗi người
đối với dân, với nước.
Ngày xưa, quan niệm chữ trung là trung quân. Trung thành với Vua, bởi
nước là nước của Vua. Nên có câu “Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung”. Còn
hiếu chỉ thu hẹp trong phạm vi gia đình, là con cháu phải hiếu thảo với ông bà,
cha mẹ.
Ngày nay, theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh thì trung phải là trung với
nước, hiếu phải là hiếu với dân. Trung với nước là trung thành với sự nghiệp giữ
nước và dựng nước, trung thành với lợi ích tối cao của Tổ quốc. Nước ở đây là
nước của dân, còn dân lại là chủ nhân của đất nước. Bác Hồ nói:
“Nước ta là nước dân chủ
Bao nhiêu lợi ích đều vì dân

20


Bao nhiêu quyền hạn đều của dân…
Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân” [10: 698].

Đây là một cuộc cách mạng trong quan niệm đạo đức. Bác đã lật ngược lại
học thuyết Nho giáo như Mác đã làm với học thuyết Hêgghen. Người viết: “Đạo
đức cũ như người đầu ngược xuống đất chân chổng lên trời. Đạo đức mới như
người hai chân đứng vững được dưới đất, đầu ngửng lên trời” [11: 321].
Do vậy, nước không đồng nhất với người đứng đầu đất nước, mặc dù người
đứng đầu ấy là do dân bầu ra, và là một nhân vật tiêu biểu. Dân không phải là
người để nhà cầm quyền sai khiến và chỉ bảo mà là người chủ của đất nước, tức
là người trực tiếp hay gián tiếp bầu ra các cơ quan lãnh đạo và người lãnh đạo
của các cấp để thay mặt mình quản lý công việc chung, đồng thời chịu sự kiểm
tra và giám sát của mình. Cán bộ, đảng viên phải là “người đầy tớ” của nhân
dân, tức là người phục vụ nhân dân, tuyệt đối không phải là “quan nhân dân để
đè đầu cưỡi cổ nhân dân”. Tư tưởng “hiếu với dân” không còn dừng lại ở chỗ
thương dân với tính chất là đối tượng cần phải dạy bảo, dẫn dắt, ban ơn mà là
đối tượng phải phục vụ hết lòng. Hiếu với dân là phải yêu mến nhân dân, quý
trọng nhân dân, học tập, làm việc, chiến đấu vì nhân dân, làm cho ai cũng có
cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành, chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng
của nhân nhân, tích cực giúp đỡ nhân dân vượt qua khó khăn trong cuộc sống.
Hiếu với dân còn có nghĩa dám đấu tranh chống lại mọi biểu hiện sách nhiễu
nhân dân, gây phiền hà cho nhân dân, “luôn dựa vào quần chúng mà phát động
mọi phong trào làm cho quần chúng luôn phấn khởi tin tưởng” [31: 57]. Bác
nói: “Đã phụng sự nhân dân, thì phải phụng sự cho ra trò. Nghĩa là việc gì lợi
cho dân, thì phải làm cho kỳ được. Việc gì hại cho dân, thì phải hết sức tránh”
[11: 88].
Bác không chỉ yêu nước, thương dân mà còn là người chí hiếu đối với gia
đình. Trước khi ra đi tìm đường cứu nước, cậu Nguyễn Tất Thành đã đến gặp
cha, cậu không nỡ ra đi vì lúc này sức khỏe của cha suy yếu nhiều, Bác rất

21



thương cha vì công ơn nuôi dưỡng, dạy dỗ, dìu dắt chưa được đáp đền, Bác ra đi
“chưa yên lòng”.
Tháng 11-1950, trong thư gửi họ Nguyễn Sinh, khi cụ Nguyễn Sinh Khiêm
qua đời, Bác viết: “Nghe tin Anh cả mất, lòng tôi rất buồn rầu. Vì việc nước
nặng nhiều, đường sá xa cách, lúc anh đau yếu tôi không thể trông nom, lúc anh
tạ thế tôi không thể lo liệu.
Than ôi! Tôi chịu tội bất đệ trước linh hồn anh và xin bà con nguyên lượng
cho một người con đã hy sinh tình nhà vì phải lo việc nước” [11: 114].
Như vậy, theo Bác chữ trung, chữ hiếu đối với gia đình chính là lòng yêu nước,
thương dân. Cứu nước là có hiếu, có trách nhiệm với cha với anh. Do đó, học
tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay đòi
hỏi mọi người phải thật sự tận trung với nước, tận hiếu với dân, hiếu thảo với ông bà,
cha mẹ.
Yêu thương con người
Người cách mạng là người giàu tình cảm, có tình cảm cách mạng mới đi
làm cách mạng. Vì yêu thương nhân dân, yêu thương con người mà chấp nhận
mọi gian khổ hy sinh để đem lại cơm no áo ấm, độc lập tự do cho con người.
Con người ở đây không phải là con người trừu tượng, theo quan điểm nhân
văn tư sản bịp bợm. Trước hết, đó là những con người xung quanh ta, là đồng
bào, đồng chí, bạn bè...những con người mà ta tiếp xúc hàng ngày, trước hết là
những người nghèo khổ, bị áp bức, hễ ai đau khổ là Người thương, một tình
thương bao la không bờ bến.
Hồ Chí Minh kế thừa truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, kết hợp với chủ
nghĩa nhân đạo cộng sản, tiếp thu tinh thần nhân văn của nhân loại qua nhiều thế
kỷ cùng với việc thể nghiệm của chính bản thân mình qua hoạt động cách mạng
thực tiễn, Hồ Chí Minh đã xác định: Yêu thương con người là một trong những
phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất.
Bác yêu thương đồng bào, đồng chí không phân biệt miền xuôi hay miền
ngược, già hay trẻ, trai hay gái… hễ là người Việt Nam yêu nước thì đều có chỗ


22


trong tấm lòng nhân ái của Người. Nhưng trước hết Bác dành cho người cùng
khổ, những người lao động bị áp bức bóc lột trên khắp hành tinh. Người nói: “Ở
đời và làm người là phải thương nước, thương dân, thương nhân loại bị đau khổ,
áp bức… lòng thương yêu của tôi đối với nhân dân và nhân loại không bao giờ
thay đổi” [20: 269]. Đối với đồng bào mình, tình yêu thương đó đã được Bác thể
hiện qua ham muốn tột bậc là làm cho đất nước được độc lập, dân được tự do,
mọi người ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Ngược lại, Bác
nhấn mạnh: “Nếu độc lập mà dân không được hạnh phúc, tự do, thì độc lập tự do
chẳng có ý nghĩa gì” [28: 86]. Bác Hồ sống trong lòng nhân dân, Người hiểu
được tâm tư nguyện vọng và sức mạnh của nhân dân. Do đó, lòng yêu thương
con người, yêu thương nhân dân của Bác gắn liền với lòng tin mãnh liệt vào sức
mạnh, chủ động, sáng tạo của nhân dân và lòng tôn trọng kính trọng nhân dân.
Người đã khẳng định: “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế
giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của toàn dân” [12: 276].
Lòng yêu thương con người của Bác còn được thể hiện trong mối quan hệ
với bạn bè, đồng chí anh em. Người đòi hỏi mọi người phải nghiêm khắc với
bản thân, nhưng rộng rãi với bạn bè, với đồng chí, phải có thái độ tôn trọng mọi
người, rộng lượng, khoan dung với mọi người và đồng thời nghiêm khắc với
mình. Người căn dặn, chúng ta: “Mỗi con người đều có thiện và ác ở trong lòng
ta, phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân
và phần xấu bị mất dần đi, đó là thái độ của người cách mạng. Đối với những
người có thói hư tật xấu, từ hạng người phản lại Tổ quốc và nhân dân, ta cũng
phải giúp họ tiến bộ bằng cách làm cho cái phần thiện trong con người nảy nở
để đẩy lùi phần ác, chứ không phải đập cho tơi bời” [28: 106].
Với lòng yêu thương quý trọng con người, yêu nhân dân nên suốt cuộc đời
hoạt động cách mạng, Bác luôn luôn nhằm mục tiêu phục vụ nhân dân. Trong Di
chúc Bác viết: “Suốt đời tôi hết lòng hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ cách

mạng, phục vụ nhân dân” [16: 158]. Và trước lúc đi xa, Người cũng căn dặn
Đảng và Chính phủ phải chú ý “đầu tiên là công việc đối với con người”. Người

23


nhắc nhở Đảng, Chính Phủ và đồng bào tìm mọi cách chăm lo cho những người
đã anh dũng hi sinh một phần xương máu của mình cho sự nghiệp giải phóng
dân tộc, giúp đỡ cha mẹ, vợ con thương binh liệt sĩ… Tình cảm của Bác đối với
nhân dân thật lớn lao và cao cả. Tình yêu thương, quý trọng con người của Bác
đã vượt qua biên giới quốc gia, không phân biệt màu da hay chế độ chính trị. Đó
là tinh thần quốc tế cao cả, Người đã nêu thành mệnh lệnh: “Bốn phương vô sản
đều là anh em” [14: 195]. Người đã đau nỗi đau của những người nô lệ da đen bị
“hành hình kiểu Linsơ ” ở Mỹ và nỗi đau của các dân tộc thuộc địa như nỗi đau
của mình.
Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chí công vô tư
Đây là những phẩm chất gắn liền với những hoạt động hàng ngày của con
người và Bác xem đây là một biểu hiện cụ thể của “Trung với nước, hiếu với
dân”. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là những khái niệm của đạo đức
phương Đông, đạo đức truyền thống Việt Nam, được Bác cải tiến nội dung và
đưa vào những yêu cầu và nội dung mới, Bác nói: “Bọn phong kiến ngày xưa
nêu ra cần, kiệm, chính nhưng không bao giờ làm mà lại bắt nhân dân phải tuân
theo để phụng sự quyền lợi cho chúng. Ngày nay ta đề ra cần, kiệm, liêm, chính
cho cán bộ thực hiện làm gương cho nhân dân theo để lợi cho nước cho dân”
[11: 321].
Mỗi chữ cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư được Bác giải thích rất rõ,
rất cụ thể và dễ hiểu đối với mỗi người. Bác giải thích:
“Cần tức là siêng năng, chăm chỉ, cố gắng dẻo dai.
Kiệm (…) là tiết kiệm, không xa xỉ, không hoang phí…
Liêm là trong sạch không tham lam… Tham tiền của, tham địa vị, tham

danh tiếng, tham ăn ngon sống yên đều bất liêm… Chỉ có một thứ ham là ham
học, ham làm, ham tiến bộ.
Chính là không tà, nghĩa là thẳng thắn, đứng đắn. Điều gì không đứng đắn,
thẳng thắng, tức là tà” [10: 632, 636, 640].

24


Chí công vô tư, nghĩa là không nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ thì
mình đi sau, là “một lòng chỉ biết vì Đảng, vì tổ quốc, vì đồng bào”. Người còn
chỉ rõ, đối lập với “chí công vô tư” là “dĩ công vi tư”, đó là điều mà đạo đức mới
đòi hỏi phải chống lại. Chí công vô tư thật chất là nối tiếp cần, kiệm, liêm,
chính. Người giải thích: “Trước nhất là cán bộ các cơ quan, các đoàn thể, cấp
cao thì quyền to, cấp thấp thì quyền nhỏ. Dù to hay nhỏ, có quyền mà thiếu
lương tâm là có dịp đục khoét, có dịp ăn của đúc, có dịp dĩ công vi tư” [10: 641].
Bác Hồ còn chỉ ra mối quan hệ mật thiết giữa bốn đức tính trên. Người nói:
“Cần, Kiệm, Liêm, là gốc rễ của chính. Nhưng một cây cần có gốc rễ, lại cần có
ngành, lá, hoa, quả mới là hoàn toàn. Một người cần phải có Cần, Kiệm, Liêm,
nhưng còn phải chính mới là hoàn toàn” [25: 82].
“Trên quả đất, có hàng muôn triệu người. Song số người ấy có thể chia làm
hai hạng: người Thiện và người Ác. Trong xã hội, tuy có trăm công, nghìn việc.
Song những công việc ấy có thể chia làm 2 thứ: việc Chính và việc Tà.
Làm việc Chính, là người Thiện.
Làm việc Tà, là người Ác.
Siêng năng (cần), tần tiện (kiệm), trong sạch (liêm), Chính là Thiện.
Lười biếng, xa xỉ, tham lam, là Tà, là Ác” [25: 82, 83].
So sánh với bốn mùa của trời, bốn phương của đất, Bác cho rằng “thiếu một đức
thì không thành người”. Cần, kiệm, liêm, chính sẽ dẫn đến chí công vô tư,
ngược lại đã có chí công vô tư, một lòng vì nước, vì dân, vì Đảng thì nhất định
sẽ thực hiện được cần, kiệm, liêm, chính và có được nhiều đức tính khác…

Bác Hồ là một tấm gương cao độ một cách tự nhiên về sự tiết kiệm, thanh
liêm chính trực, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân một cách vô tư, vô tận.
Người tiêu biểu cho đức tính khiêm tốn, giản dị, thật thà, dũng cảm… là một
tấm gương sáng cho mọi người noi theo…

25


×