Tải bản đầy đủ (.pdf) (64 trang)

Tây du ký trong tâm thức người việt ở đồng bằng sông cửu long

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (731.96 KB, 64 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA SƯ PHẠM

BỘ MÔN NGỮ VĂN

NGUYỄN THỊ NGỌC MAI
Lớp SP Ngữ văn 02- K33
MSSV: 6075354

TÂY DU KÍ TRONG TÂM THỨC NGƯỜI VIỆT Ở
ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG

Luận văn Tốt nghiệp đại học
Ngành sư phạm Ngữ văn

Cán bộ hướng dẫn: PHẠM HOÀNG NGHĨA

Cần Thơ, tháng 5 năm 2011
1


ĐỀ CƯƠNG TỔNG QUÁT
PHẦN I: MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
2. Lịch sử vấn đề
3. Mục đích, yêu cầu
4. Đối tượng nghiên cứu
5. Phương pháp nghiên cứu
PHẦN II: NỘI DUNG CHÍNH
Chương 1: Đôi nét về Tây du kí
Trong chương này người viết nhằm giới thiệu những nét cơ bản và khái quát


nhất về tác giả Ngô Thừa Ân và tác phẩm Tây du kí bao gồm cả tiểu thuyết Tây du kí
và bộ phim Tây du kí 25 tập của đạo diễn Dương Khiết Trung Quốc.
Chương 2: Sơ lược về lịch sử, văn hóa và con người đồng bằng sông Cửu Long
Ở phần này người viết trình bày một số nét về đồng bằng sông Cửu Long như
lịch sử khẩn hoang đồng bằng, một số nét văn hóa đăc trưng và những tính cách tiêu
biểu của người đồng bằng sông Cửu Long. Trong đó, người viết cố gắng trình bày chi
tiết về văn hóa ứng xử với môi trường thiên nhiên, phong tục tập quán, văn hóa tâm
linh và vấn đề tín ngưỡng tôn giáo của người Việt ở đồng bằng sông Cửu Long ví
những vấn đề này có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến việc tiếp nhận tác phẩm
Tây du kí của họ.
Chương 3: Tây du kí từ tiểu thuyết đến phim và đi vào tâm thức người Việt ở
đồng bằng sông Cửu Long
Đây là chương quan trọng nhất của luận văn này. Người viết trình bày về cách
tiếp nhận tác phẩm Tây du kí của Việt ở đồng bằng sông Cửu Long. Với phương pháp
tiếp cận tác phẩm nhìn từ góc độ văn hóa người viết đã đi vào nghiên cứu sự tồn tại
của tác phẩm Tây du kí trong tâm thức người Việt và những biểu hiện của sự tồn tại đó
ở đồng bằng sông Cửu Long.
PHẦN III: TỔNG KẾT

2


PHẦN I: MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Văn học luôn hướng tới tìm hiểu bản chất, ý nghĩa của tự nhiên, hiện thực và
truyền thống của đời sống. Văn học Trung Quốc cũng không ngoại lệ. Người Việt
Nam nói chung và người đồng bằng sông Cửu Long nói riêng từ vài thế kỉ trước đã
hình thành thị hiếu thưởng thức truyện Tàu, và trong lời nhận xét về tám bộ tiểu thuyết
cổ của Trung Quốc, Lương Duy Thứ đã viết:“Tiểu thuyết cổ Trung Quốc là những
viên ngọc quý của kho tàng văn học phương Đông, có một sức sống kì diệu, chấp nhận

được sự thử thách của thời gian và có khả năng vượt biên giới một bước, đi sâu vào
đời sống tinh thần nhiều dân tộc”[9; tr.5] Có thể nói tiểu thuyết cổ Trung Quốc là một
món ăn tinh thần không thể thiếu của nhiều nước châu Á trong đó có người Việt Nam.
Trải qua biết bao sóng gió, thăng trầm món ăn tinh thần ấy đã khẳng định được vị trí
quan trọng của nó đối với người Việt. Từ xa xưa ông cha ta đã biết đến Tam quốc diễn
nghĩa, Tây du kí, Thủy hử, Hồng lâu mộng … và đến ngày nay những câu chuyện đó
vẫn còn, và sẽ tiếp tục còn nhiều người biết đến. Tại sao lại như thế? Đó là một câu hỏi
làm cho tôi băn khoăn và muốn tìm câu trả lời.
May mắn cho tôi là trong luận văn tốt nghiệp lần này tôi được chọn đề tài Tây
du kí trong tâm thức người Việt ở Đồng bằng sông Cửu Long. Đây là một cơ hội để tôi
tìm hiểu, nghiên cứu sâu hơn về một bộ tiểu thuyết cổ Trung Quốc, đặc biệt hơn Tây
du kí cũng là bộ tiểu thuyết có sức hấp dẫn rộng lớn và lâu dài đối với người Việt. Tôi
hy vọng sau khi nghiên cứu đề tài này tôi sẽ giúp các bạn, nhưng trước hết là bản thân
tôi, hiểu được tại sao tiểu thuyết cổ Trung Quốc, mà ở đây cụ thể là Tây du kí, lại có
thể đi sâu và trụ lại lâu trong tâm thức người Việt Nam nhiều thế hệ như vậy.
Bên cạnh sự ham hiểu biết chính là niềm đam mê tìm hiểu những giá trị văn
hóa, văn học đã thông qua con đường giao lưu đến mọi nơi trên thế giới. Như chúng ta
đã biết, văn hóa Trung Quốc đã từng ngự trị ở Việt Nam trong hơn một ngàn năm Bắc
thuộc, nhưng có lẽ điều diệu kì nhất chính là bản sắc dân tộc chỉ biến thiên chứ không
bao giờ bị tiêu diệt. Người Việt có tinh thần tiếp thu những giá trị văn hóa nhưng
không phải rập khuôn như máy móc mà trái lại rất biết chọn lọc và giữ lại những tinh
hoa của nhân loại nhưng không làm mất đi bản sắc dân tộc. Người Việt trên mọi miền
3


tổ quốc nói chung và ở Đồng Bằng Sông Cửu Long nói riêng điều có tinh thần trượng
nghĩa, anh hùng, ghét những thế lực tà ma độc ác…Vậy nên không khó hiểu lắm khi
họ yêu thích những câu chuyện Cổ Trung Quốc, ở đó họ như tìm được những tâm hồn
đồng điệu biết hi sinh vì chính nghĩa và những ý nghĩa nhân văn sâu xa. Tôi không có
tham vọng làm một đề tài đồ sộ, chỉ mong là thông qua việc tìm hiểu về Tây du kí

trong tâm thức người Việt ở Đồng Bằng Sông Cửu Long có thể đóng góp một cách
nhìn mới về ảnh hưởng và sự giao lưu văn hóa giữa các nước trong và ngoài khu vực
với nhau.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Có những quan niệm khác nhau về bản chất của văn chương và có những cách
thức khác nhau trong sáng tạo và khám phá văn chương, tùy theo hoàn cảnh, mục đích,
trình độ, khuynh hướng nhận thức và hoạt động của con người trong lĩnh vực này.
Văn chương có lúc được coi là tiếng nói của tình cảm, là tự biểu hiện, kí thác
tâm tư, ước vọng của con người; có lúc được xác định là một hình thái ý thức, một
công cụ nhận thức, phản ánh, miêu tả thực tại, là hình ảnh, bức tranh của đời sống. Có
lúc văn chương lại được định danh là một loại hình nghệ thuật đặc biệt dùng ngôn ngữ
làm phương tiện biểu đạt, là nghệ thuật ngôn từ… Vì thế mà các tác phẩm văn chương
cũng như các công trình nghiên cứu văn chương được thực hiện theo những hướng,
những phương pháp khác nhau, ý nghĩa và giá trị vì vậy cũng có nhiều mức độ. Sự
khác biệt này “do hàng loạt các yếu tố khách quan và chủ quan quy định, nhưng, một
cách khái quát, có thể nói do tác động của môi trường sống, của thời đại khúc xạ qua
lăng kính của từng cá nhân người sáng tác hay nghiên cứu”[ 8; tr.134].
Do đó, có những tác phẩm văn chương cổ cho đến nay vẫn được nghiên cứu đi
lại nhiều lần, kể cả văn học trong nước lẫn ngoài. Tây du kí là một bộ tiểu thuyết cổ,
tuy có dung lượng khá lớn nhưng nó được nhiều người biết đến vì những giá trị của nó
không hề bị suy giảm theo thời gian mà ngược lại, nó ngày càng được nâng lên sau
mỗi công trình nghiên cứu.
Nói đến các công trình nghiên cứu về Tây du kí trước tiên cần phải kể đến công
trình của Lương Duy Thứ trong bài viết Tây du kí một tác phẩm lãng mạn độc đáo
(Nhà xuất bản Khoa học xã hội và Nhà xuất bản Mũi Cà Mau – năm 1995). Trong bài
4


viết này tác giả đi vào khai thác những yếu tố lãng mạn trong Tây du kí. Tác giả khẳng
định “Tây du là bộ truyện lãng mạn mang màu sắc thần thoại hiếm thấy trong lịch sử

văn học Trung Quốc” [ 10; tr.122]. Tác giả cho rằng “Tây du trước hết là một tác
phẩm phản kháng mạnh mẽ hiện thực đen tối… nhắm vào hiện thực xã hội thời Minh một xã hội mà cường quyền và bạo lực thống trị, một xã hội đầy rẫy bất công ngang
trái mà chính tác giả là nạn nhân… Tây Du còn phản ánh lý tưởng tự do bình đẳng
cũng như tinh thần khắc phục khó khăn, chiến thắng thiên tai địch họa để thực hiện lý
tưởng của nhân dân và tầng lớp thị dân đương thời ” [10; tr.125]. Đây là một hướng
nhìn mà người viết cần lưu ý khi nghiên cứu tác phẩm này.
Tiếp theo cần phải kể đến đó là Giải mã truyện Tây du kí của tác giả Lê Anh
Dũng (nhà xuất bản Thanh Niên – năm 2006). Trong công trình này tác giả giải mã
nhiều chi tiết mang tính hình tượng của tác phẩm, theo một quan niệm “Mỗi một người
trong chúng ta đều là Đường tăng. Mỗi thời đại của quá khư, hiện tại và vị lai đều có
Đường tăng, đều vẫn, đã, đang vã sẽ còn tiếp tục thỉnh kinh. Cuộc thỉnh kinh chính là
hành trình đầy trắc trở của mỗi người trong chúng ta truy tầm chân lí” [4; tr.57]. Đây
là một công trình đem lại nhiều khám phá mới cho người viết về tác phẩm Tây du kí.
Ngoài ra còn phải kể đến một số công trình nghiên cứu Tây du kí theo góc nhìn
của người Phật học. Điển hình như Tây du kí qua cách nhìn của người học phật Của
Nhà sư Huyền Ý (Nhà xuất bản Văn hóa thông tin – năm 2008) và Bàn về Tây du kí
của Ngô Thừa Ân do nhà sư Thích Chơn Thiện biên soạn (Nhà xuất bản Tôn giáo –
năm 2000). Qua các công trình này người viết hiểu biết nhiều hơn về những biểu hiện
của Phật giáo trong Tây du kí. Vì các tác giả chủ yếu truyền tải đến người đọc những
giáo lí Phật giáo được Ngô Thừa Ân sử dụng trực tiếp hoặc gián tiếp trong tác phẩm
này. Các tác giả này quan niệm “…người viết chỉ bàn đến các biểu hiện giáo lí Phật
giáo tản mạn qua các nhân vật và các cảnh nạn, mà không đi vào các quan niệm nhân
sinh xã hội và lại càng không bàn đến văn phong bút pháp của tác giả” [ 14; tr.8].
Còn một tài liệu khác cũng rất quan trọng đã cung cấp cho người viết những
kiến thức cơ bản nhất về tác phẩm Tây du kí cũng như về tác giả Ngô Thừa Ân, đó là
sách Lịch sử Văn học Trung Quốc do nhóm tác giả Lê Huy Tiêu, Lương Duy Thứ,
Ngô Hoàng Mai, Nguyễn Trung Hiền, Lê Đức Niệm, Trần Thanh Liêm cúng dịch
(Nhà xuất bản Giáo dục – năm 1997).
5



Do đề tài nói về sự tiếp nhận Tây du kí của người Việt ở đồng bằng sông Cửu
Long nên người viết không thể bỏ qua việc tìm hiểu về những nét đặc trưng về văn
hóa, con người cũng như cách tiếp nhận văn chương của người dân nơi đây. Về lĩnh
vực này cẩn phải kể đến một số tài liệu quan trọng như Nếp cũ con người Việt Nam
của tác giả Toàn Ánh (Nhà xuất bản Thành Phố Hồ Chí Minh – năm 1998), và 101
điều nên biết về phong tục Việt Nam, tác giả Nguyễn Thị Chính (Nhà xuất bản Văn
hóa dân tộc – năm 2006).
Kết hợp với việc sưu tầm và tìm hiểu các tài liệu kể trên, người viết còn tham
khảo thêm một số tài liệu, ý kiến trên Internet và những kiến thức sẳn có của bản thân
để hoàn thành luận văn này.

3. Mục đích, yêu cầu
Có thể nói mục đích cao nhất của tôi khi viết đề tài này là để tôi có thể nhìn
nhận lại quá trình học tập suốt mấy năm trên giảng đường của mình. Tiếp đó tôi muốn
góp một phần công sức của mình vào việc tìm hiểu ảnh hưởng của văn hóa, văn học
Trung Hoa đối với người Việt. Khi nghiên cứu đề tài này, người viết nhằm giới thiệu
cho người đọc một số nét về tiểu thuyết Tây du kí, văn hóa và con người Đồng Bằng
sông Cửu Long cũng như sự tồn tại của Tây du kí trong tâm thức người Việt ở vùng
đất này.

4. Phạm vi nghiên cứu
Đối với đề tài Tây du kí trong tâm thức người Việt ở đồng bằng sông Cửu Long,
đối tượng mà người viết hướng tới là những nét văn hóa cũng như tính cách có ảnh
hưởng đến sự tiếp nhận của người Việt ở đồng bằng sông Cửu Long về tác phẩm Tây
du kí. Và đặc biệt là tác phẩm Tây du kí, trong đó bao gồm cả tiểu thuyết và phim,
cùng các tài liệu có liên quan để người viết có thể rút ra được những giá trị về nội
dung và nghệ thuật trong tác phẩm này.

5. Phương pháp nghiên cứu

Trước tiên người viết tìm đọc toàn bộ tiểu thuyết Tây du kí, và xem lại bộ phim
Tây du kí của đạo diễn Dương Khiết để có cơ sở nghiên cứu về tác phẩm này. Tiếp

6


theo người viết tìm và tham khảo những tài liệu, những ý kiến có liên quan đến đề tài,
chắc lọc những vấn đề chính, tiếp thu có chon lọc thông qua việc lưu trữ, ghi chép.
Đồng thời người viết còn kết hợp các biện pháp so sánh, diễn dịch, quy nạp,
thống kê… để từng bước làm sáng tỏ vấn đề.

7


PHẦN II: NỘI DUNG CHÍNH
CHƯƠNG 1: ĐÔI NÉT VỀ TÂY DU KÍ
1.1. Tác giả Ngô Thừa Ân
Ngô Thừa Ân (1510 – 1582) , tự Nhữ Trung, hiệu Xạ Dương sơn nhân, người
Sơn Dương, Hoài An ( nay là Hoài An, Giang Tô). Ông xuất thân trong một gia đình
có hai đời kế tiếp nhau chuyển từ làm quan sang thương nhân. Từ nhỏ ông thông minh
hiếu học, thích truyện thần thoại. Khi còn học ở trường tư, ông thích đọc trộm những
sách chép truyện vặt vãnh. Do đó, ông có một vốn hiểu biết phong phú về truyền
thuyết và thần thoại dân gian, đồng thời trực tiếp hoặc gián tiếp hấp thu những cái hay
trong truyền thống kể chuyện dân gian, thành thạo hình thức này, thông qua đó nâng
cao năng lực biểu đạt của mình. Điều đó đã giúp ông phát huy đầy đủ thiên tài của
mình trong bộ tiểu thuyết huyễn tưởng Tây du kí.
Ngô Thừa Ân thông minh, nhanh nhẹn, đọc nhiều sách, có tài sáng tác văn
chương, nhưng đến năm bốn mươi ba tuổi mới được làm Tuế cống sinh (tương đương
với tú tài). Ông tính ngang ngạnh, bình sinh không để người thương hại, cười khóc vui
buồn vẻ tự nhiên (Tăng Sa Tinh Sĩ). Về sau vì mẹ già, nhà nghèo, phải ra làm huyện

thừa Trường Hưng, không bao lâu, nhục nhã vì phải vào luồn ra cúi, nên phủi áo ra
về. Sự thất bại trên đường làm quan cộng với những khó khăn trong cuộc sống khiến
ông nhận ra được sự mục nát, đen tối của xã hội phong kiến đương thời. Các triều đại
về sau của đời nhà Minh như Vĩnh Lạc (1403-1424), Tuyên Đức (1426- 1435), Gia
Tĩnh (1522-1567) v.v... nông nghiệp, thủ công nghiệp, công thương nghiệp đều phát
triển. Nhưng giai cấp thống trị thì lại càng ngày càng hủ bại. Chúng ăn chơi xa xỉ,
hoang dâm vô độ. Đã xa rồi hình bóng một Chu Nguyên Chương áo vải cờ đào. Để
củng cố quyền thống trị, chúng chặt hết tay chân thân tín, cuối cùng chỉ tin vào con
cháu họ hàng. Mọi quyền hành đều thu vén vào tay vua và triều đình. Đối nội, chúng
áp bức bóc lột nhân dân tàn khốc, đối ngoại, chúng thi hành chính sách bành trướng
lãnh thổ đối với Mông Cổ, với các nước khác trong vùng biển Inđônêxia và các dân
tộc vùng Tây Bắc Trung Quốc. Nhà Minh dần dần trở thành vương triều quân chủ
chuyên chế cực đoan, cản trở sự phát triển của xã hội. Mâu thuẫn giai cấp, mâu thuẫn
8


dân tộc ngày càng phức tạp và sâu sắc. Bạo động nông dân, tranh chấp bè đảng liên
tiếp nổ ra, xã hội vô cùng rối loạn.
Ông bất mãn sâu sắc với hiện thực, tự xưng Trong lòng mài mãi dao trừ tà;
muốn dẹp sạch đi, buồn không đủ sức (Nhị Lang sưu sơn đồ ca). Những năm cuối đời
ông từ quan về quê, bế quan, chuyên tâm sáng tác. Trong quá trình sáng tác, ông mượn
truyền thuyết thần thoại để gửi gắm sự bất bình của mình trước xã hội và nguyện vọng
an dân của mình. Điều đó quyết định thái độ sáng tác Tây du kí của ông.
Vào khoảng những năm Gia Tĩnh, Vạn Lịch giữa đời Minh, Ngô Thừa Ân hoàn
thành bộ Tây du kí gồm một trăm hồi. Tác phẩm này không những mở ra lĩnh vực tiểu
thuyết ảo tưởng với sự tưởng tượng phong phú, với những câu chuyện và một kết cấu
đồ sộ, mà còn khắc họa nên những hình tượng anh hùng lí tưởng có màu sắc đậm đà
được nhân dân yêu thích. Tây du kí là một bộ tiểu thuyết dài lãng mạn vĩ đại. Nó ra đời
đánh dấu văn học lãng mạn Trung Quốc đã đạt tới một đỉnh cao mới.
Khi Ngô Thừa Ân sáng tác Tây du kí, về mặt tư tưởng ông đã làm giảm đi

không khí mê tín, tôn giáo vốn có của câu chuyện thỉnh kinh, làm giàu thêm tính đặc
trưng thời đại và khuynh hướng dân chủ của tác phẩm. Trong việc xử lí nhân vật, ông
đem nhân vật được nhân dân yêu thích là Tôn Ngộ Không làm nhân vật trung tâm của
truyện, và đem nhân vật Đường tăng xếp vào địa vị thứ yếu đồng thời nhận được sự
phê phán trong chừng mực nào nhất định. Về nghệ thuật, ông kết hợp các truyện thần
thoại và truyền thuyết dân gian với nhau, làm tăng thêm màu sắc lãng mạn của tác
phẩm. Những điều này đã khiến Tây du kí trở thành “tác phẩm xuất sắc nhất trong
loại tiểu thuyết thần thoại cổ điển” [7; tr.179].
Trong Tây du kí Ngô Thừa Ân tiến hành mổ xẻ thời sự. Minh Thế Tông rất
sùng bái đạo giáo, đạo sĩ quyền hành rất lớn, họ trở thành tầng lớp có nhiều đặc quyền,
do đó trong Tây du kí không có một đạo sĩ tốt nào hết. Đạo sĩ đoạt vị, tiêu diệt Phật
giáo, đều là sự phản ánh xã hội đương thời. “Ngô Thừa Ân chỉ phản đối đạo sĩ, khuyên
nhủ đối với vua. Do đó những hỗn quân trong truyện được khuyên nhủ, cho một bài
học thì biết hối cải” [7; tr.179].
Ngô Thừa Ân đã thành công trong việc tạo ra hình tượng Tôn Ngộ Không, ca
tụng lòng yêu mến tự do, dám dũng cảm chống lại cái xấu, ca ngợi tinh thần diệt trừ
9


cái ác, trở thành nhân vật người người đều biết đến không chỉ ở Trung Quốc mà còn ở
nhiều nước khác.
Ngoài Tây du kí những tác phẩm của ông để lại được người sau tập hợp thành
bộ Xạ Dương tiên sinh tồn cảo, gồm bốn quyển.

1.2. Tây du kí
1.2.1. Tiểu thuyết Tây du kí
Câu chuyện chủ yếu của Tây du kí nói về việc Tôn Ngộ Không phò Đường tăng
sang Tây Thiên thỉnh kinh, dọc đường hàng phục được yêu quái, quét sạch mọi trở
ngại. Để dắt câu chuyện chính, tác phẩm thêm vào một số tình tiết, như lấy chuyện
“Đại náo thiên cung” để nói rõ lai lịch Tôn Ngộ Không, lấy chuyện “Giang lưu nhi”

để nói rõ xuất thân của Đường tăng, dùng chuyện “Nằm mộng chém rồng sông kinh”
để giải thích nguyên nhân đi thỉnh kinh. Những chuyện đó đều bắt nguồn từ thần thoại
và truyền thuyết dân gian. Trong quá trình lưu truyền lâu dài đó, chuyện đi thỉnh kinh
được lấy làm cốt lõi, dần dần tập hợp những chuyện khác lại thành một chỉnh thể trọn
vẹn, đồng thời bản thân chuyện đi thỉnh kinh cũng không ngừng biến đổi, phong phú
và mở rộng thêm. Ở đây, sự cố gắng của những người kể chuyện trong dân gian đã có
tác dụng rất lớn. Trước khi Ngô Thừa Ân viết thành sách, Tây du kí đã hình thành về
cơ bản.
Đường tăng đi thỉnh kinh vốn là một câu chuyện có thật trong lịch sử. Đời
Đường Thái Tông, nhà sư trẻ tuổi Huyền Trang một mình đi sang Thiên Trúc (nay là
Ấn Độ) để thỉnh kinh, đường xa hàng mấy vạn dặm, đi về mất mười bảy năm trời. Sau
khi Huyền Trang trở về nước, kể lại những điều nghe thấy trong chuyến đi của mình,
và được đệ tử là Biện Cở viết lại thành quyển Đại Đường Tây Vực kí, ghi chép những
điều gian truân, nguy hiểm, cũng như những phong cảnh ở xứ lạ quê người trên đường
đi thỉnh kinh. Trong khi đó, hai người đệ tử khác của Huyền Trang là Tuệ Lập và
Nhan Tông, trong quyển Đại Đường Đại Từ Ân Tự Tam Tạng pháp sư truyện do họ
soạn đã kể lại một cách phóng đại sự kiện đi thỉnh kinh nói trên, đồng thời, lại chen
vào những câu chuyện có màu sắc thần thoại. Từ đó về sau, câu chuyện đi thỉnh kinh
được truyền tụng rộng rãi trong xã hội và thành phần hư cấu ngày một nhiều thêm.

10


Những người làm nghề kể chuyện đời Tống lấy câu chuyện này làm đề tài. Nay
còn cuốn Đại Đường Tam Tạng thủ kinh thi thoại, là một bản in thời Nam Tống, có
mười bảy tiết, kể rất sơ sài, xen lẫn văn ngông và bạch thoại, gần như đề cương dùng
để nói chuyện. Tiết thứ nhất mất. Từ tiết thứ hai trở đi, đã xuất hiện hầu hành giả, hóa
thân thành tú tài áo trắng, tự xưng “Mĩ hầu vương cai quản tám vạn bốn nghìn đầu
đồng trán sắt ở động Tử Vân, núi Hoa Quả”, đến giúp pháp sư Tam Tạng đi lấy kinh.
Vị hầu vương này thần thông quảng đại, có gan có trí, dọc đường giết Bạch hổ tinh, trừ

Hắc long, hàng phục thần Thâm sa. Trong tiết mười một Hầu hành giả tự kể lai lịch,
ông vốn là kẻ ăn trộm bàn đào hai vạn bảy nghìn năm trước, “bị Vương mẫu bắt được,
lấy gậy sắt đánh tám trăm cái vào hông trái, ba nghìn cái vào hông phải, đày đến
động tử Vân, núi Hoa Quả”. Qua nhân vật ấy, có thể thấy được bóng dáng của Tôn
Ngộ Không trong Tây du kí sau này. Thần Thâm sa xuất hiện trong Thủ kinh thi thoại
cũng là tiền thân của Sa Tăng trong Tây du kí.
Đến đời Nguyên, chuyện Tây du kí đã phát triển lên nhiều. Qua sự sắp xếp, gia
công của bao nhiêu người kể chuyện ưu tú vô danh, tình tiết câu chuyện phong phú
thêm, nhân vật tăng lên, tính chất chuyện cũng mạnh mẽ hơn. Lúc này đã xuất hiện
Tây du kí bình thoại. So với Thủ kinh thi thoại nó đã có bộ mặt mới mẽ hơn rất nhiều.
Những tình tiết trong Tây du kí một trăm hồi đại thể đều có trong Tây du kí bình thoại.
Chuyện Tây du kí được đưa lên sân khấu khá sớm. Đời Kim đã có vở viện bản
Đường Tam Tạng, đời Nguyên có vở tạp kịch Đường Tam Tạng Tây thiên thủ kinh của
Ngô Xương Linh. Cuối Nguyên đầu Minh, có Tây du kí tạp kịch của Dương Nột.
Ngô Thừa Ân là người tập hợp cuối cùng. Ông đã tiến hành sáng tác văn học
trên cơ sở thần thoại và truyền thuyết lưu hành trong dân gian, trên cơ sở bình thoại và
tạp kịch Tây du kí. Bộ Tây du kí xuất hiện với quy mô to lớn một trăm hồi không phải
là ngẫu nhiên, nó là tổng kết sự phát triển truyện Tây du kí trước đây, đồng thời cũng
là sự sáng tạo thiên tài của Ngô Thừa Ân. Trong tám mươi mốt nạn, phần lớn dùng
những tình tiết của chuyện Tây du kí trước đây, nhưng cũng có nhiều chỗ là do ông
cấu tứ. Ngay cả những tình tiết được chọn dùng, cũng không có một tình tiết nào ông
không nhuận sắc công phu và sắp xếp lại. Dưới ngòi bút của Ngô Thừa Ân, hình tượng
nhân vật rất sinh động, giống như thật, mỗi một trận chiến đấu kịch liệt đều được miêu
tả rất cụ thể, có âm thanh có hình ảnh, làm cho người đọc như đang trải qua cảnh đó.
11


Đặc biệt là hình tượng nhân vật Tôn Ngộ Không được xây dựng hết sức thành công, đã
đạt tới mức lí tưởng hóa đầy đủ, lại khiến người ta vô cùng gần gũi. Hình tượng đó đã
trở thành một trong những điển hình xuất sắc của nhân vật anh hùng mà văn học Trung

Quốc đã sáng tạo nên.
Trong Tây du kí có hai đề tài gốc về mặt văn học, và hai mẫu chuyện có kết cấu
tương ứng, đã tạo ra cái sườn chung của bộ tiểu thuyết. Một đề tài gốc đầu tiên tương
quan đến bản chất hướng tự do của con người và mối mâu thuẫn từ hoàn cảnh khiến nó
không thể không tiếp nhận sự ức chế. Trong tiểu thuyết được thể hiện ở quá trình của
nhân vật Tôn Ngộ Không từ chỗ không xem phép tắc trời đất ra gì, tuyệt đối tự do, cho
đến chỗ bị chế tài, phải quy y cửa phật để đi theo con đường chính đạo. Tuy nhiên, đối
với mặt không thể ràng buộc được của nhân vật Tôn Ngộ Không trong tiểu thuyết, tác
giả đã miêu tả nhiều hơn. Điều này có thể nói về mặt quan điểm tác giả hướng nhiều
hơn đến sự vươn lên tự do của con người. Đề tài gốc thứ hai chính là “ghi lại những
từng trải đầy nguy hiểm”. Đó chính là sự ghi chép thường thấy trong loại văn học có
tính hư cấu. Loại truyện tích này ngoại trừ dễ triển khai những tình tiết li kì, nó còn có
ngụ ý con người phải trải qua trăm nghìn khó khăn nguy hiểm, thì mới có thể đạt đến
sự hoàn thiện và hạnh phúc tốt đẹp nhất.Trong tiểu thuyết, đã miêu tả quá trình đi Tây
Thiên của bốn thấy trò Đường tăng. Hình tượng nghệ thuật của Tôn Ngộ Không luôn
chiếm địa vị cốt lõi trong câu chuyện. Thông qua những hành động anh hùng trong
thần thoại này tác giả đã gởi gắm những lí tưởng về mặt sinh hoạt của con người. Hơn
nữa, đây là bộ tiểu thuyết thần thoại , nên so với những bộ tiểu thuyết có đề tài hiện
thực, nó càng dễ dàng phản ánh một cách đầy đủ những dục vọng sâu kín trong nội
tâm của con người.
Hai chủ đề chính trong bộ tiểu thuyết cũng như những mẫu chuyện kết cấu hết
sức tương ứng, tất nhiên có thể nói có một vài ngụ ý tượng trưng, nhưng những ngụ ý
đó, chỉ là mối quan hệ nội tại phát sinh trong quá trình lâu dài của bộ tiểu thuyết, cũng
như trong hiện thực xã hội và hiện thực cuộc đời phát sinh ra. Mục đích trực tiếp khi
sáng tác bộ tiểu thuyết này vẫn là muốn cung cấp cho độc giả những giây phút giải trí
vui vẽ. Hơn nữa, do tư tưởng của tác giả tương đối phóng khoáng, tự do, nên những
phần nghiêm túc giáo huấn rất ít, mà thành phần hài hước lại rất nhiều. Dưới ngòi bút
của tác giả, những vị thần Phật trang nghiêm cao quý thường có diện mạo hài hước
12



gây cười. Không nói chi Ngọc Hoàng Thượng đế được tác giả miêu tả thành một nhân
vật bất tài nhu nhược, Thái Bạch Kim Tinh bị tác giả miêu tả thành một con người hủ
lậu nhưng lại làm ra vẻ thông minh, đến Quan Âm Bồ Tát khi muốn cho Tôn Ngộ
Không mượn chiếc tịnh bình, còn sợ bị gạt lấy đi không chịu trả, nên buộc Ngộ Không
nhổ chiếc lông cứu mệnh sau gáy để thế chấp. Ngay như tại đất Phật ở Tây Thiên, mà
Đường tăng vì thiếu chuẩn bị thủ tục đầu tiên, nên hai vị tôn giả là A Nan và Ca Diếp
không chịu trao kinh với hai bàn tay không, làm cho Đường tăng phải lấy chiếc bình
bát làm bằng vàng rồng của mình ra để đổi lấy. Trong khi đó, Như Lai lại biện hộ cho
hành động này rằng kinh không thể truyền một cách dễ dàng, mà cũng không thể lấy
không. Những đoạn “văn thừa” nằm rãi rác khắp cả bộ tiểu thuyết, chen lẫn với những
tông chỉ cơ bản và những tình tiết chủ yếu đó, không những làm cho người ta phải
cười, mà còn thể hiện dục vọng của thế tục, là một ý thức ở đâu cũng có, người nào
cũng không tránh được.
Trong Tây du kí tác giả tập trung khắc họa tính cách các nhân vật trong đoàn
thỉnh kinh. Từ mở đầu khi Mỹ Hầu Vương xuất thế cho đến đại náo Thiên cung thất
bại, tác giả để 7 hồi đầu miêu tả hình tượng cơ bản của Tôn Ngộ Không. Sinh mệnh
của Tôn Ngộ Không thoát ra từ một hòn đá nên “không sự sự quản chế của kì lân, của
phượng hoàng, mà cũng không phục sự câu thúc của các ông vua trong nhân gian”.
Tôn Ngộ Không đã học được bản lĩnh cao cường nhất, tinh thông 72 phép biến hóa,
chỉ một cái cân đấu vân là có thể đi xa 108.000 dặm. chính Tôn Ngộ Không đã xuống
long cung lấy được cây như ý kim cô bổng, lại đại náo âm ty và dùng bút xóa tên họ
mình trong sổ sinh tử của Diêm Vương, thế là từ đó ung dung xưng vương tai Hoa quả
sơn, không lo không buồn, không bị mọi câu thúc, không xem phép, xem trời ra gì, lúc
nào cũng cảm thấy vui vẻ sung sướng. Điều đó chính là trạng thái tự do triệt để của
con người khi thoát khỏi sự ràng buộc, chỉ có trong thần thoại mới có thể biểu hiện
một cách hình tượng về ảo tưởng của con người đối với hoàn cảnh mình đang sống.
Từ đó trở về sau, những người thống trị trong thiên cung cảm thấy không an
tâm, nên Ngọc Hoàng Thượng đế nghe theo ý kiến của Thái Bạch Kim Tinh, triệu Ngộ
Không lên trời giữ chức Bật Mã Ôn. Ngộ Không làm công việc này tỏ ra rất thích thú,

nhưng nghe nói đây chỉ là một công việc thấp hèn, bèn giận dữ náo loạn thiên cung rồi
trở về Hoa Quả Sơn để tự phong cho mình là Tề Thiên đại thánh.
13


Ngọc Hoàng Thượng Đế phát binh chinh phạt thất bại, đành phải nhìn nhận
chức vụ tự phong đó. Thế là Tôn Ngộ Không lại vui vẻ thoải mái sống trên thiên cung.
Đến khi được biết Vương Mẫu mở hội bàn đào nhưng không có chỗ ngồi của Tề Thiên
đại thánh, mới biết mình bị dối gạt, bèn quậy phá tại hội bàn đào, lại lén lấy kim đơn ở
Đâu Suất Cung, rồi trở về Hoa Quả Sơn. Những tình tiết này, phản ánh nguyện vọng
mãnh liệt của cá nhân đòi hỏi về quyền lợi, địa vị, sự tôn nghiêm phải được tôn trọng.
Sau đó, Tôn Ngộ Không lại đánh nhau dữ dội với thiên binh thiên tướng do
Ngọc Hoàng Thượng đế phái xuống. Nhờ sự liên minh trấn áp của Tây Thiên Như Lai,
Đông Hải Quan Âm, Thái Thượng Lão Quân kết hợp với lực lượng của thiên cung
mới chiến thắng được Tôn Ngộ Không.
Sỡ dĩ Tôn Ngộ Không nhiều lần đại náo thiên cung, không phải có ý muốn
chống đối với trật tự thống trị ở thiên cung do Ngọc Hoàng Thượng đế làm đại biểu,
mà chỉ vì tự do của mình bị uy hiếp, nên mới có hành động như vậy. Nhưng, khi Tôn
Ngộ Không vì bảo vệ quyền tự do của mình mà dám chống lại Ngọc Hoàng Thượng
đế, cũng đã bộc lộ tính ngang ngược, thậm chí còn dám nói những lời đại nghịch như
“Ngôi vị Ngọc đế phải được luân lưu, sang năm này là tới phiên tôi rồi!” Câu nói
tưởng chừng như đơn giản nhưng đã đánh thẳng chế độ vua quan theo kiểu gia đình trị
một cách độc quyền thời bấy giờ của xã hội Trung Quốc.
Có thể nói sự tự do một cách triệt để, sự thỏa mãn một cách đầy đủ dục vọng
trong cuộc sống cũng như sự tôn nghiêm của cá nhân, chống lại mọi thứ áp chế là điều
không thể thực hiện được trong hoàn cảnh hiện thực, nhưng nó lại là những đòi hỏi cơ
bản của nhân tính. Chỉ cần tư tưởng trong xã hội tương đối được khai phóng thì nó tự
nhiên sẽ bộc lộ ra. Trong 7 hồi đầu của Tây du kí, chính là mượn hình thức thần thoại
để thỏa mãn ước vọng tuy không hoàn toàn hợp lí, nhưng lại có tính tất yếu trong tâm
lí nội tại của con người. Tất nhiên, hoàn cảnh thực tế của nhân tính khiến bộ tiểu

thuyết không thể phát triển theo hướng này mãi được. Sự thất bại của Tôn Ngộ Không,
ít nhiều có ý nghĩa tượng trưng, tức con người muốn được hoàn toàn tự do phóng túng,
không thể không bị ức chế bởi sức mạnh hiện thực.
Hồi thứ 8 đến hồi thứ 12 là giai đoạn quá độ, chuyển sang nói về Đường tăng,
giải thích rõ lí do đi thỉnh kinh.Từ hồi thứ 13 trở đi miêu tả Tôn Ngộ Không bị buộc
14


phải quy y cửa Phật, và được sự hỗ trợ của Bát Giới và Sa Tăng, bảo vệ Đường tăng
sang Tây Thiên thỉnh kinh. Từ đây hai câu chuyện lớn được kết hợp đan xen vào nhau.
Đối với câu chuyện trước, tiểu thuyết miêu tả bản chất hướng về tự do của con người,
khi bị ức chế thì sinh ra một trạng thái mâu thuẫn. Trong quá trình đi thỉnh kinh, Tôn
Ngộ Không vẫn không hề thay đổi tính đặc trưng vốn có của mình: vẫn luôn tự cho
mình là Tề Thiên đại thánh, hễ động đến là khoe khoang với mọi người về lịch sử
quang vinh của mình từng xuống địa phủ, đại náo thiên cung, chưa chịu thuần phục mà
vẫn tính nào tật ấy. Đối với những vị thần linh như Ngọc Hoàng Thượng đế, Thái
Thượng Lão Quân vẫn luôn bỡn cợt, vô lễ. Còn đối với những người mà Tôn Ngộ
Không tỏ ra tôn kính ít nhiều như Như Lai Phật Tổ và Quan Âm Bồ Tát, thì thường tỏ
ra thái độ “ù lì”, lại còn mắng lén sau lưng Quan Âm là “cả đời không chồng cũng
đáng”, và chế giễu Như Lai là “cháu họ ngoại lũ yêu tinh”. Khi Đường Tăng xử oan
và đuổi ra khỏi đội ngũ đi thỉnh kinh, thì trước tiên nghĩ tới việc gỡ bỏ “kim cô”, để
khôi phục lại cuộc sống tự do trước kia. Nhưng vì “Phật pháp vô biên”, “vòng kim cô”
quá chắc, không thể gỡ bỏ được, nên đành phải chấp nhận sự thực trước mắt. Khi đánh
nhau với yêu tinh mà gặp khó khăn, Tôn Ngộ Không cũng thường hay cầu cứu tới Như
Lai, Lão Quân, Quan Âm và cả những thần tướng ở thiên cung nữa. Phần sau của tiểu
thuyết Tôn Ngộ Không phải trải qua 81 tai nạn, cuối cùng bảo vệ được Đường tăng tới
nơi tới chốn để thỉnh kinh, trong quá trình đó, thể hiện Tôn Ngộ Không là người có
đầy đủ mưu trí, dũng cảm, quảng đại thần thông, có tinh thần chiến đấu không lùi
bước. Chính do lẽ đó mà Tôn Ngộ Không đã đạt được chính quả, và qua sự tôi luyện
từ bao nhiêu khó khăn trong cuộc sống đã trở thành người được tịnh hóa và hoàn mỹ,

từ chỗ là một giả thần do linh khí của trời đất tạo ra, trở nên một “Đấu chiến thắng
Phật”.
Dưới ngòi bút tác giả, Đường tăng là một hòa thượng thành tâm sùng đạo, bền
gan quyết chí theo đòi việc lớn nhưng đồng thời cũng là một trí thức sách vở, chịu sự
ràng buộc đủ mọi thứ lễ nghi quy tắc, có phần xa thực tế, do đó thường lúng túng và
bó tay trước khó khăn. Ông ta là một con người rất tốt nhưng khi gặp việc khó thì “mặt
buồn ủ rũ, nước mắt tuôn rơi”, hoặc khiếp sợ mà “ngã lăn xuống ngựa”. Ông ta hết
sức coi trọng lễ giáo phong kiến và giới luật nhà Phật, luôn cẩn thận dè dặt tới mức
quá đáng. Trong việc giữ gìn các phép tắc đó, ông lại rất ngoan cố, hầu như không thể
15


nào lay chuyển được. Ông ta thường nói câu Phật giáo cửa miệng là: “Không lúc nào
rời xa lòng thiện; quét nhà sợ làm chết kiến, thương con thiêu thân bên bóng đèn; kẻ
xuất gia này thà chết chứ không dám giết người”. Đó là một thứ tư tưởng từ bi hoàn
toàn vô căn cứ. Và Đường Tăng cũng chỉ là một con người phàm, bằng xương bằng
thịt, chưa thoát khỏi u mê, nên có những giới hạn mà bản thân ông không thể nào vượt
qua được. Biết bao nhiêu lần Tề Thiên cản: Yêu ma đấy, thầy đừng cứu. Nhưng
Đường tăng vẫn cứ cứu, để rồi tự rước họa vào thân. Đó là nhận giặc làm con, vì sự
nhận thức của cảm tính không biết nghe theo tiếng gọi sáng suốt của lí trí. Vì thế, tuy
xuất hiện với tư cách là trưởng đoàn thỉnh kinh, nhưng vai trò của Đường tăng không
nổi bật.
Hình tượng Trư Bát Giới cũng rất đáng chú ý, ông ta là người có đặc điểm hành
động lỗ mãng, tham ăn, thích ngủ, lười biếng, vụng về, đó là do ông ta đầu thai lầm
vào bụng heo, nhưng vẫn còn mang nhân tính. Tất nhiên Trư Bát Giới cũng có sở
trường của mình, như tính chịu khó, đứng trước lũ yêu ma cũng không bao giờ chịu
khuất phục, bao giờ cũng nhớ mình là “Thiên Bồng Nguyên soái hạ phàm”,… Nhưng
những khuyết điểm của ông ta thì quá nhiều, ngoại trừ những gì đã nói ở trên, ông ta
còn thích nữ sắc, thích tranh hơn thua với người khác trong chuyện vụn vặt, lúc nào
cũng ghanh tị với Ngộ Không, khi gặp khó khăn thì dao động, muốn về Cao Lão Trang

ở rể. Trên đương đi thỉnh kinh, ông ta còn bỏ túi riêng được một món tiền nhỏ. Trong
sự dũng cảm của ông ta còn có sự khiếp nhược, tính trung hậu của ông ta luôn đi kèm
với tính xảo trá. Hình tượng nhân vật Trư Bát Giới thể hiện dục vọng và nhược điểm
phổ biến của con người. Nhưng dưới ngòi bút của tác giả, hình tượng này không đáng
ghét mà lại có phần đáng yêu. Nếu so sánh với hình tượng Tôn Ngộ Không có nhiều
yếu tố lí tưởng hóa, thì hình tượng Trư bát Giới lại chứa đựng nhiều tính chân thật của
con người trong đời sống hàng ngày nên khi đọc ai cũng thấy thân thiết, gần gũi.
Sa Tăng trong tác phẩm khá mờ nhạt, tuy cương trực nhưng lại khá yên phận
thủ thường. Gặp hoạn nạn khó khăn luôn hết lòng hết dạ nhưng tài cán thì không bao
nhiêu, lúc nào Sa Ngộ Tịnh cũng lầm lũi gánh đồ, không làm phiền đến ai và cũng
không làm gì để bản thân mình bị ảnh hưởng. Ông đại diện cho một phần bản tính của
con người thích yên thân, bàng quan trước thế sự.

16


Nếu khéo léo nhìn nhận, ta có thể dễ dàng nhận ra rằng bốn thầy trò Đường
Tăng là bốn đại diện cho những bản tính cơ bản của con người. Ai sinh ra cũng mang
trong mình tính thiện của Đường Tăng, cũng có chút nổi loạn kiểu Tôn Ngộ Không,
dục vọng của Trư Bát Giới và cũng thích yên phận như Sa Ngộ Tịnh. Nhưng cái hay
và đặc biệt của tác phẩm là tách những bản tính ấy ra thành những con người hoàn
chỉnh, tạo nên những chỉnh thể lí tưởng riêng về một mặt nào đó, phần đặc tính trội
nhất sẽ lấn át mọi khía cạnh khác còn lại trong con người. Ngoài ra, tác giả còn mượn
chuyện xưa tích cũ để nói chuyện hiện tại với một cách nhìn và thể hiện hết sức tinh tế.
Tuy nhiên, qua tác phẩm không thể phủ nhận là tác giả còn chưa đưa ra được một giải
pháp cho xã hội đương thời, lúc đầu trong việc đại náo thiên cung của Tôn Ngộ Không
như là một ý kiến cho sự lật đổ chính quyền đương thời, xã hội cần thay đổi nhưng
cuối cùng nhân vật anh hùng của chúng ta cũng qui y cửa phật. Điều này chứng tỏ
trong nhân sinh quan của tác giả có phần hạn chế và còn nhiều mâu thuẫn trong quá
trình sáng tác, nhưng chúng ta không trách ông vì ông sống trong xã hội đương thời

tuy tư tưởng tiến bộ nhưng không có người dẫn dắt để tìm ra hướng đi đúng đắn. Mặc
dù vậy độc giả mọi thế hệ và mọi nơi vẫn yêu quý và trân trọng sáng tác của ông.

1.2.2. Phim Tây du kí
Ai cũng biết Tây du kí là bộ phim được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của
Ngô Thừa Ân. Đây là bộ phim do đài truyền hình trung ương (CCTV) Trung Quốc sản
xuất, phim được khởi quay từ năm 1982 đến năm 1988 thì hoàn thành. Năm 1986
CCTV chính thức công chiếu 11 tập đã quay và lấy năm này làm năm sản xuất cho bộ
phim.
Bộ phim ra đời trong hoàn cảnh vô cùng khó khăn do được sản xuất vào thập kỉ
1980 thời mà kĩ xảo điện ảnh còn rất thô sơ lạc hậu. Vốn đầu tư 6 triệu nhân dân tệ tuy
là một khoản tiền rất lớn nhưng cũng không đủ trang trải cho toàn bộ phim, các diễn
viên cũng chỉ nhận được thù lao tượng trưng, ít ỏi. Phim được làm trong 6 năm trời
ròng rã đã có iết bao mồ hôi và công sức của mọi người trong đoàn làm phim mới có
thể hoàn thành. Tây du kí vừa quay vừa phát sóng theo kiểu cuốn chiếu, tập phim đầu
tiên “Trừ yêu Ô Kê quốc” ra mắt khán giả vào dịp lễ Quốc khánh Trung Quốc vào năm
1982, đến ngày 1/2/1988, CCTV mới phát sóng trọn bộ phim Tây du kí 25 tập. Đặc
biệt, trong 20 năm qua, phim đã nhiều lần phát sóng lại, mỗi lần cả người lớn và trẻ em
17


đều háo hức đón xem. Có thể nói, bản phim Tây du kí 1986 đã sống mãi với thời gian
và ăn sâu trong kí ức của nhiều thế hệ khán giả. Hầu hết các đài truyền hình của Việt
Nam đều ít nhất trình chiếu một lần. Có đài phát sóng đến gần 10 lần và trình chiếu đi
và chiếu lại suốt nhiều năm liền.
Có thể nói, phục trang, hóa trang, tạo hình của bộ phim hết sức thành công và
khó có phiên bản nào qua được. Chính những chi tiết sắc sảo của từng vai diễn. Với
mỗi tập là những con yêu quái hoàn toàn khác nhau và không yêu quái nào sử dụng lại.
Chính nhờ những phần hóa trang yêu quái như thế nên phần nào giúp bộ phim xóa đi
khuyết điểm thiếu diễn viên. Có khi một diễn viên đóng đến 4, 5 vai, và đặc biệt hơn,

có tập phim đến phó đạo diễn, thư kí trường quay đều thủ vai yêu tinh nốt. Cá biệt,
nhờ vào đeo mặt nạ, hóa trang nên có diễn viên 25 tập đóng đến 10 vai khác nhau.
Phục trang, tạo hình cũng góp phần tạo nên sự thành công của bộ phim, nhất là
trong các phân đoạn, cảnh quay đông đúc: bầy khỉ ở Hoa Quả Sơn cảnh chư vị thần
tiên tụ hội trên thiên đình và vũ điệu của Hằng Nga, đoạn nhà sư Trần Huyền Trang
lần đầu diện kiến vua Đường,.v..v... Dù rằng quay trong phim trường sử dụng phông
màn xanh cùng với kĩ xảo bị hạn chế, thế nhưng cảnh vật với hoa sen thật khiến cho
cảnh thiên đình trong Tây du kí 1986 luôn là cảnh mẫu cho các bộ phim về sau.
Đặc biệt cách dựng cảnh Bồ Tát và các vị La Hán ở Thiên Trúc khi Đường tăng
đến bái kiến Như Lai Phật Tổ hết sức tuyệt vời. Tất cả như một bức tranh nổi, đẹp và
rất sống động. Mười tám vị La Hán là 18 khuôn mặt và tư thế khác nhau oai nghiêm và
sống động khiến cho từng cảnh quay ở các phân đoạn này luôn như thật.
Lưu Lễ – Người phụ trách dàn dựng kĩ xảo phim Tây du kí cho biết, trong phim
đã sử dụng hơn 1.000 cảnh quay kĩ xảo, nhưng anh nói, với kĩ thuật làm phim lúc bấy
giờ thì chưa thể gọi đó là kĩ xảo, bởi nó đều được làm bằng sức người, phương pháp
thủ công, dựng phim ghép hình... Như để có được những hình ảnh bồng lai thiên cảnh
trên thiên đình, đoàn làm phim phải sử dụng hiệu ứng sân khấu, cảnh Tôn Ngộ Không
dùng phép Cân đẩu vân đi mây về gió được dựng với thủ pháp ghép hình, trường đoạn
Tôn Ngộ Không bị đốt trong lò luyện đan của Thái Thượng Lão Quân đoàn làm phim
phải dựng những cảnh cháy thật, khiến Lục Tiểu Linh Đồng bị lửa làm cháy bỏng...
Chưa kể, những con vật, linh thú hay yêu quái hiện nguyên hình, đoàn làm phim phải
18


sử dụng những con thú nhồi bông hay làm thật con thú đó. Tập 17 trường đoạn con
linh vật của Ngưu Ma Vương đoàn làm phim sử dụng kì lân của đội lân hay con trâu
Ngưu Ma Vương biến hình được làm thật và chỉ quay đúng một tập phim. Ngoài ra
còn rất nhiều con vật khác, lúc bấy giờ kĩ xảo khó khăn, đoàn làm phim bắt buộc phải
làm thật.
Mặc dù bị hạn chế phần kĩ xảo, nhưng cách tạo hình nhân vật trong Tây du kí

rất bắt mắt, vai Tôn Ngộ Không ở mỗi giai đoạn trưởng thành đều có tạo hìnhkhác
nhau, đặc biệt những nhân vật yêu tinh đều thể hiện được hình thù đặc trưng, giúp
khán giả dễ dàng phân biệt. Bằng phương pháp thủ công mà năm xưa các nhà làm
phim đã hoàn thành bộ phim kinh điển Tây du kí, điều đó đã được giới làm phim
Trung Quốc xem là niềm tự hào, và còn là bệ phóng đánh dấu một bước tiến mới trong
quá trình phát triển của truyền hình Trung Quốc.
Trên đây là những thông tin khá cơ bản về bộ phim Tây du kí. Không phải ngẫu
nhiên mà tôi khảo sát về bộ phim này. Về nội dung có thể nói bộ phim khá trung thành
với nguyên tác, nên dù xem phim hay đọc tiểu thuyết thì độc giả cũng như khán giả
đều nắm bắt được tinh thần của cốt truyện là như thế nào. Tôi không biết chính xác là
phim Tây du kí được trình chiếu ở Việt Nam đầu tiên vào năm nào, nhưng từ khi rất
nhỏ tôi đã được xem bộ phim này. Nhớ lúc đó cả xóm chỉ có một chiếc tivi trắng đen,
mỗi khi phim chiếu thì hầu như ai cũng xúm lại ngôi nhà ấy ngồi chật kín cả cái sân
rộng để xem phim. Không phải chỉ có con nít chúng tôi mê mà cả người lớn cũng
khoái. Hồi lúc nhỏ khi xem phim tôi không biết được ẩn ý sâu xa của bộ phim là gì.
Thích xem đơn giản chỉ vì nhân vật Tôn Ngộ Không có phép biến hóa, trên đường đi
thỉnh kinh có nhiều yêu quái và nguy hiểm, rồi những hình ảnh tiên, phật, hằng Nga
luôn làm tư duy trẻ thơ của chúng tôi xao động, chúng tôi luôn mang tâm trạng háo
hức khi xem phim. Sau này lớn lên, phim được nhiều lần công chiếu lại, nhưng phải
đến khi lên học Đại Học và học môn Văn học Trung Quốc tôi mới hiểu Tây du kí
không đơn thuần là câu chuyện trừ yêu diệt ma mà cái chính của nó là để nói về con
người, và ý nghĩa nhân văn của tác phẩm cũng không chỉ dừng lại ở đó, nó mang ý
nghĩa to lớn và có liên quan mật thiết đến xã hội Trung Quốc đương thời.
Có thể nói trong tâm thức của người Việt Đồng Bằng sông Cửu Long, Tây du kí
hiếm khi được đọng lại qua tiểu thuyết mà con đường chính là từ bộ phim này. Người
19


ta không biết Ngô Thừa Ân là ai, tiểu thuyết chương hồi là như thế nào nhưng người ta
vẫn yêu Tây du kí, và từ đó con người học được rất nhiều. Người lớn, những người tôn

sùng đạo Phật có căn cứ để tin nhiều hơn về quá trình thỉnh kinh cứu độ chúng sinh
của Đường Tăng. Trẻ em thì ngay từ nhỏ đã tiếp xúc với đạo lí tà không thể thắng
chánh. Nói tóm lại, tác phẩm có thể đến với người Việt ở Đồng Bằng Sông Cửu Long
bằng nhiều nguồn khác nhau nhưng không phải vì vậy mà giá trị của nó giảm đi, trái
lại càng làm cho mọi người dễ tiếp thu và hiểu tác phẩm một cách sâu sắc hơn.

20


CHƯƠNG 2: SƠ LƯỢC VỀ LỊCH SỬ, VĂN HÓA VÀ CON
NGƯỜI ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
2.1. Lịch sử khẩn hoang Đồng bằng sông Cửu Long
Trong tâm thức người Việt, Đồng bằng sông Cửu Long là một hồi kèn thúc giục
con người tiến về vùng đất mới, nơi lúa chín bạt ngàn, nơi cò bay thẳng cánh. Nhưng
có ai biết rằng, nơi đây thuở xa xưa là “một vùng bị bỏ rơi”, chỗ thì phèn, chỗ thì
nhiễm mặn. Những con người đầu tiên đặt chân đến đây đã trải qua biết bao khó nhọc,
dày công chiến đấu với thiên nhiên để cải tạo vùng “hoang địa” này trở thành một
trong những cánh đồng màu mở nhất Đông Dương.
Khoảng đầu Công Nguyên, từ Ấn Độ, có những con tàu bốn cột buồm to lớn,
chở đến vài trăm người, vượt đại dương đến khắp Đông Nam Á. Trong số đó có những
nhà quý tộc, những tu sĩ đi truyền bá văn hóa và tôn giáo cho những dân tộc xa lạ. Từ
đâu đó ở Nam bộ, một nước Phù Nam của người Môn-Khme, với văn hóa Ấn Độ, với
tôn giáo là đạo Phật và Bà La Môn phát triển trải dài khắp đồng bằng phía Nam.
Phù Nam từ thế kỉ II đến thế kỉ VI đã có nền văn minh rực rỡ. Nhưng đến thế kỉ
thứ VII, nước Phù Nam hùng mạnh đã bị nước Chân Lạp của người Khme ở nam Lào
thôn tính. Chân Lạp bây giờ thành hai miền, Lục Chân Lạp ở phía Bắc là miền núi đồi
và Thủy Chân Lạp ở phía Nam có biển và đầm lầy. Cư dân Thủy Chân Lạp 10 thế kỉ
đầu là những người nông dân an phận. Thủy và Lục Chân lạp thống nhất vào đầu thế
kỉ IX. Người Khme sống tập trung ở vùng đất cao ráo gần Biển Hồ, xây dựng Ang Kor
huy hoàng. Đồng bằng Nam bộ nói chung là một vùng gần như hoang địa, chỉ vài sooc

người Miên rải rác trên các giồng đất cao.
Đến thế kỉ XVI, miền hạ lưu sông Cửu Long vẫn là một vùng dân cư thưa thớt,
phần lớn diện tích là bùn lầy ẩm thấp, khí hậu khắc nghiệt. Người Việt vào Miền Nam
từ lúc nào sử sách không thấy ghi lại. Không ghi, vì họ không phải là những đạo quân
chinh phục, cũng không có sứ mạng truyền giáo gì cả. Họ chỉ là những di dân nghèo
phải tha phương cầu thực, những người trốn tội, những kẻ bị tù đày.. Sử Khme ghi lại,
năm 1620, chúa Nguyễn đã gả một nàng công chúa xinh đẹp cho vua Cao Miên, cô
dâu Việt này là chỗ dựa tin cậy cho lưu dân Việt trên vùng đất lạ. Từ đó người Việt di
dân vào Miền Nam sinh sống ngày càng đông. Năm 1698, chúa Nguyễn cử Thống suất
21


Nguyễn Hữa Cảnh vào tổ chức bộ máy chính quyền ở Gia Định. Một người Hoa là
Mạc Cửu lập phố chợ sầm uất ở Hà Tiên, xin phụ thuộc triều Nguyễn tạo một đầu cầu
cho người Việt ở vùng cực Nam vào năm 1708. Trong vòng 50 năm hai cực Gia Định
và Hà Tiên nối lại, hoàn thành Nam Bộ Việt Nam.
Sang các thế kỉ XVII, XVIII ở Nam bộ đã hình thành 3 khu vực khẩn hoang lớn
đó là Biên Hòa – Bến Nghé, Mỹ Tho – Long Hồ và Hà Tiên. Hai khu vực Mỹ Tho –
Long Hồ và Hà Tiên thuộc Châu thổ đồng bằng sông Cửu Long. Nghĩa là Đồng bằng
sông Cửu Long bắt đầu được người Việt Nam và các dân tộc di cư dưới sự lãnh đạo
của triều đình phong kiến đã chính thức khai khẩn vào nửa đầu thế kỉ XVII. Tuy nhiên
cuộc khai phá chỉ thực sự có tính chất quy mô khi quân đội phong kiến Việt Nam đã
nắm việc kiểm soát quân sự lẫn hành chính các khu vực được khai khẩn. Ban đầu là
vùng đồng bằng sông Tiền, phía Bắc giáp sông Vàm Cỏ, phía Nam giáp sông Ba Lai
và sông Tiền, thành các khu đất giồng thích hợp cho việc trồng lúa lẫn hoa màu. Sau
đó, là việc khai thác khu vực đồng bằng sông Hậu, khi đó gọi chung là khu vực Hà
Tiên bao gồm cả các vùng nam sông Hậu chạy dài đến các khu vực Rạch Giá, Cà Mau
và các đảo như Phú Quốc, Thổ Châu… Nói chung, việc khai khẩn đồng bằng sông
Cửu Long cho đến năm 1858 đã xong về mặt xác định địa giới chung của khu vực
cũng như khẳng định kiểm soát của triều Nguyễn. Tuy nhiên, việc khai thác và tận

dụng những ưu thế của vùng này chỉ được tiến hành khá triệt để khi thực dân Pháp đến
nước ta vào năm 1858. Nam kì trở thành thuộc địa, một vùng đất phì nhiêu, màu mỡ,
là mục tiêu khai thác trục lợi của bọn xâm lược.
Sau năm 1868 là năm Pháp thôn tính xong ba tỉnh miền Tây, việc khai khẩn
đồng bằng sông Cửu Long không còn nằm trong tay nhà nước phong kiến Việt nam
hoặc những công trình tự phát của lưu dân nữa. Quá trình khẩn hoang tự do chấm dứt,
quĩ đất hoang của đồng bằng sông Cửu Long bị “công sản hóa”. Song song với việc
cải sửa các khu vực hành chính để tiện bề kiểm soát, Pháp đã cho tiến hành những
công trình cải tạo đồng bằng sông Cửu Long để phục vụ cho việc khai thác các tiềm
năng kinh tế của vùng này, trong đó, đáng kể nhất là việc đào thêm và hoàn chỉnh hệ
thống kinh đào song song với việc hoàn thiện các công trình khai khẩn đất.
Hiệu quả của việc hoàn thiện công trình khẩn hoang này là đã biến đồng bằng
sông Cửu Long thành “vựa lúa miền tây” với các vùng chuyên canh nổi tiếng như An
22


Giang, Sóc Trăng, Rạch Giá… Nhưng bên cạnh những thành quả thấy được ngày hôm
nay, chúng ta không thể không kể đến những mất mát, những gian lao trong lịch sử
khai khẩn vùng đất này. Ngay đến những thập kỉ đầu thế kỉ XX vẫn còn nhiều tấn bi
kịch xảy ra mà phần thiệt thòi thuộc về người khai khẩn nghèo, cô thế, điển hình là vụ
Ninh Thạnh Lợi ở Rạch Giá năm 1927 và vụ đồng Nọc Nạn năm 1929.

2.2. Một số nét văn hóa đặc trưng của người Việt ở đồng bằng sông
Cửu Long
2.2.1. Văn hóa ứng xử với môi trường thiên nhiên trong lao động
Văn hóa lúa nước là một trong những hằng số của văn hóa Việt Nam. Riêng
đồng bằng sông Cửu Long là một khu vực vừa có mang đặc điểm chung đó, vừa có
mang những sắc thái đặc thù riêng trong nền văn hóa lúa nước của mình, do điều kiện
thiên nhiên và môi trường.
Với một diện tích đồng bằng rộng lớn, tuy trong đó có đất phù sa có độ phì

nhiêu tự nhiên rất cao thích hợp cho nhiều loại cây trồng, tuy nhiên bên cạnh đó còn
có cả một dãy mênh mông đất nhiễm phèn, nhiễm mặn, quỹ tài nguyên đất của đồng
bằng sông Cửu Long vẫn còn rất dồi dào so với các khu vực khác của đất nước.
Trải dài trong suốt hạ lưu sông Mêkông, với hai nhánh chính là sông Tiền và
sông Hậu, tài nguyên nước của đồng bằng sông Cửu Long cũng rất dồi dào, thậm chí
dư thừa đến mức mỗi năm vùng này phải chịu một mùa lũ lụt định kì, thường kéo dài
từ tháng bảy, tháng tám đến tháng mười một, mười hai. Tuy nhiên, trong những tháng
mưa ít hoặc mùa khô thì cũng không loại trừ tình trạng khô hạn, có khi trầm trọng. Vì
thế, “vựa lúa miền tây” cũng không phải là không có những nỗi khổ của riêng mình,
mặc dù nói chung, từ thời khai phá cho đến nay, đây vẫn là những nơi đảm bảo an toàn
lương thực cho cả nước.
Tài nguyên đất và tài nguyên nước đều dồi dào là tiền đề của nền nông nghiệp
lúa nước ở đồng bằng sông Cửu Long, nền tảng của nền văn minh lúa nước đặc thù
của địa phương này. Sống nhờ, sống chung và sống với cây lúa, nhiều nét trong nhận
thức, tư duy, tình cảm và ứng xử của người dân vùng này cũng đã gắn liền với nó.

23


Từ thế mạnh là lúa gạo, sau đó là các thổ sản địa phương cũng là một thế mạnh
của đồng bằng sông Cửu Long. Là vùng có nhiều kinh rạch sông nước, đồng bằng
sông Cửu Long trước đây đã từng nổi tiếng về “nhiều đìa cá ở xa đường giao thông,
cá nổi đầu lên như mù u chín rụng, nhưng chẳng ai khai thác nếu gặp năm sụt giá. Tát
nước, hoặc khiêng gánh cá tới bến nước để bán thì lỗ tiền công. Đìa ấy để cho người
vùng khác đến tát, chia đôi với chủ. Vịt nuôi không cần cho ăn, mùa hạn dưới rạch
đầy cá nhỏ, vịt thả rong, chiều tối về chuồng…”.
Trong buổi đầu khai phá, giữa một cảnh quan đồng bằng hoang sơ thuần phác,
người lưu dân đến vùng sông nước này đã từ tự phát đến tự giác trong việc hình thành
dần dần một nền kinh tế đánh bắt và chế biến thủy sản. Ban đầu, việc này được thực
hiện trong một môi trường thiên nhiên còn đa dạng phong phú, không quá chịu nhiều

áp lực hoặc hiểm họa, nên từ đó đã hình thành những tính chất độc đáo trong văn hóa
với môi trường tự nhiên, thể hiện trong những công cụ và phương tiện để đánh bắt cá.
Việc sáng tạo ra những phương tiện đánh bắt đã thể hiện được trình độ hiểu biết về
môi trường và đối tượng đánh bắt. Nó còn nặng tính kinh nghiệm và cũng là một cách
đánh giá trình độ hơn kém của con người. Có nhiều hoạt động đánh bắt còn gắn liền
với những nhu cầu của thời tiết, mùa vụ, thủy triều, nghĩa là nắm bắt rất kĩ các quy luật
tự nhiên để thích nghi và tồn tại.
Động vật rừng cũng từng là một nguồn lợi dồi dào của đồng bằng sông Cửu
Long, bắt nguồn từ địa lí phong thổ, nhất là ở các vùng rừng tràm, rừng đước với các
sản vật như chim, rắn, cá sấu, kể cả cọp, voi… Trong giai đoạn khai phá, động vật
rừng còn rất phong phú và mặt khác, có khi là chướng ngại của việc khai hoang mở đất
nên việc khai thác động vật rừng có khi vòn được coi là hợp lí và còn để lại nhiều giai
thoại, truyền thuyết, hoặc còn để lại nhiều địa danh gắn bó với việc khai thác động vật
thiên nhiên để cung cấp cho nhu cầu thực phẩm của con người.
Ngày nay do nhu cầu bảo vệ môi trường thiên nhiên, việc khai thác động vật
rừng ở đồng bằng sông Cửu Long đã được kiểm soát chặt chẽ, nhưng động vật rừng đã
gần như cạn kiệt sau nhiều năm bị săn bắt tràn lan.
Miệt vườn và văn hóa miệt vườn cũng là một nét đặc trưng xuất phát từ môi
trường địa lí của đồng bằng sông Cửu Long. Miệt vườn là một khái niệm chung để chỉ
24


một hình thức phát triển khá cao của một số khu vực đồng bằng sông Cửu Long nằm
rải rác ở nhiều nơi. Từ nửa đầu thế kỉ XX trở về trước, miệt vườn được hiểu là nơi trù
phú, đất đai và cư dân thuần thục, nề nếp. Con gái miệt vườn giỏi nghề may vá thêu
thùa, nữ công gia chánh, biết làm nhiều loại “bánh khéo”. Con trai miệt vườn thường
có chữ nghĩa, giỏi làm ăn. Về mặt kinh tế, vườn có thu nhập cao hơn ruộng. Vì thế,
trong một thời gian khá dài ở đồng bằng sông Cửu Long, miệt vườn là nơi tiêu biểu
cho sinh hoạt cao và phát triển về cả hai mặt tinh thần và vật chất, là điểm đến ước mơ
về cuộc sống của nhiều người:

“Mẹ mong gả thiếp về vườn, ăn bông bí luộc dưa hường nấu canh”
hoặc
“Chuồn chuồn bay thấp, mưa ngập ruộng vườn, nghe lời nói lại càng thương,
thương em anh muốn lập vườn cưới em”
Trong công cuộc khai phá và xây dựng miền đất mới của cư dân người Việt ở
Nam bộ, dưới tác động của thiên nhiên, con người càng có ý thức cải tạo thiên nhiên.
Lập vườn là công việc lao động đầy sáng tạo của những người mở đất. Khác với vườn
ở đồng bằng sông Hồng, vườn ở đồng bằng Cửu Long rộng lớn, ở từng nơi vườn
thường tập trung lại với nhau thành những không gian vườn tược rộng lớn, mang lại
hiệu quả kinh tế cao. “Huê lợi vườn nhiều gấp 50 lần huê lợi ruộng” và riêng tỉnh Bến
Tre thì “trong tổng số diện tích 154.606 mẫu tây, có 16.500 mẫu vườn tược”(1). Sự ra
đời của miệt vườn không chỉ có ý nghĩa vật chất mà còn có ý nghĩa văn hóa, thể hiện
khả năng ứng xử phù hợp của con người đối với thiên nhiên.
Đồng bằng sông Cửu Long là quê hương của “văn minh sông rạch”, “văn minh
miệt vườn” khá độc đáo. Bờ sông không đắp đê, lại bị cắt từng chặng ở ngã ba, ngã tư,
muốn qua rạch nhỏ thì sẵn kiểu “cầu tre lắt lẻo gập ghình khó đi”. “Cầu ván đóng
đinh” xuất hiện rất trễ khi thực dân Pháp đến. Câu hát “Ví dầu cầu ván...” khá phổ
biến, ngay cả trẻ con thời xưa cũng thuộc nằm lòng, câu hát trở thành câu thai đố. Khi
cúng đình, nghe ra thai “Ví dầu cầu ván... cầu tre lắt lẻo...” thì hàng chục trẻ con nhốn
nháo lên, đứa nào cũng muốn giành lấy phần thưởng. Đáp là cái bánh bò. Cầu tre khó
đi nên nhiều người phải... bò, để giữ thăng bằng. Cầu tre còn gọi là cầu khỉ (người qua
cầu phải lanh lẹ tay chân như con khỉ chuyền trên cây) luôn luôn có nhịp giữa với khúc
25


×