Tải bản đầy đủ (.pdf) (74 trang)

Vai trò của công dân trong việc tố giác tội phạm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.44 MB, 74 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ

KHOA LUẬT
-  -

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
NIÊN KHÓA 2007 - 2011
Đề tài:
VAI TRÒ CỦA CÔNG DÂN TRONG TỐ GIÁC TỘI
PHẠM

Giáo viên hướng dẫn:

Sinh viên thực hiện:

Nguyễn Chí Hiếu

Lư Trường Tây

Bộ môn Tư pháp

MSSV: 5075142
Lớp: Luật Tư pháp 2 – K33

Cần Thơ, 11/2010


NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN

……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………


……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………



MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU....................................................................................................3
1. Lý do chọn đề tài...................................................................................................... 5
2. Mục tiêu nghiên cứu luận văn ................................................................................. 6
3. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................................. 6
4. Phương pháp nghiên cứu luận văn ......................................................................... 6
5. Kết cấu luận văn ...................................................................................................... 6

CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU CHUNG VỀ CÔNG DÂN VÀ TỐ GIÁC TỘI PHẠM
............................................................................................................................7
1.1 Khái quát về công dân và vai trò của công dân......................................................... 8

1.1.1 Khái niệm về công dân ............................................................................ 8
1.1.2 Quyền và nghĩa vụ của công dân ............................................................. 9
1.1.3 Vai trò của công dân trong Tư tưởng Hồ Chí Minh................................ 12
1.1.4 Vai trò của công dân trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội........... 15
1.1.5 Vai trò của công dân trong giữ gìn an ninh trật tự .................................. 16
1.2 Khái quát về tố giác tội phạm và vai trò của tố giác tội phạm ................................. 18

1.2.1 Khái niệm về tố giác tội phạm ............................................................... 18
1.2.2 Vai trò của tố giác tội phạm ................................................................... 19
1.2.2.1 Giúp cơ quan có thẩm quyền kịp thời, phát hiện xử lý nhanh, tránh bỏ lọt
tội phạm...................................................................................................... 19
1.2.2.2 Vai trò phòng, chống tội phạm trong công dân ................................ 20
CHƯƠNG 2: QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ TỐ GIÁC TỘI PHẠM
VÀ GIẢI QUYẾT, KIỂM SÁT THÔNG TIN TỐ GIÁC TỘI
PHẠM ..............................................................................................................21
2.1 Quy định của pháp luật về tố giác tội phạm............................................................ 21


2.1.1 Chủ thể tố giác tội phạm ........................................................................ 21
2.1.2 Quyền và nghĩa vụ của người tố giác tội phạm ...................................... 22
2.1.3 Hậu quả của việc không tố giác tội phạm............................................... 23
2.1.4 Pháp luật về bảo vệ người tố giác tội phạm............................................ 25
2.1.5 Các hình thức tố giác tội phạm .............................................................. 27
2.2 Quy định pháp luật về giải quyết, kiểm sát thông tin tố giác tội phạm .................... 31

2.2.1 Chủ thể tiếp nhận thông tin tố giác tội phạm.......................................... 31
2.2.2 Quy định của pháp luật về giải quyết thông tin tố giác tội phạm ............ 32
2.2.3 Quy định của pháp luật về kiểm sát thông tin tố giác tội phạm............... 34
CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA CÔNG
DÂN TRONG VIỆC TỐ GIÁC TỘI PHẠM .................................................36


3.1 Thực trạng và hạn chế của công dân trong việc tố giác tội phạm ............................ 36
3.1.1 Thực trạng tố giác tội phạm ở nước ta............................................................. 36

3.1.2 Những hạn chế trong việc tố giác tội phạm ............................................ 41
3.1.2.1 Công dân chưa nhận thức được vai trò của mình trong việc tố giác tội
phạm........................................................................................................... 41
3.1.2.2 Một số bất lợi của các hình thức tố giác tội phạm............................ 45
3.1.2.3 Công dân còn tâm lý sợ sự trả thù khi pháp luật bảo vệ người tố giác chưa
hoàn thiện ................................................................................................... 46
3.2 Thực trạng và hạn chế trong việc giải quyết, kiểm sát thông tin tố giác tội phạm.... 49

3.2.1 Thực trạng giải quyết, kiểm sát thông tin tố giác tội phạm ..................... 49
3.2.2 Những hạn chế trong việc giải quyết, kiểm sát thông tin tố giác tội
phạm .............................................................................................................. 51
3.2.2.1 Những hạn chế trong việc giải quyết thông tin tố giác tội phạm .......... 51
3.2.2.2 Những hạn chế trong việc kiểm sát thông tin tố giác tội phạm ............ 53

3.3 Giải pháp phát huy vai trò của công dân và giải quyết, kiểm sát thông tin tố giác tội phạm
.................................................................................................................................... 54

3.3.1 Một số giải pháp phát huy vai trò của công dân trong việc tố giác tội phạm
....................................................................................................................... 55
3.3.1.1 Tuyên truyền pháp luật cho công dân .............................................. 55
3.3.1.2 Phát huy hiệu quả hơn nữa các hình thức tố giác tội phạm trong những năm
tới ............................................................................................................... 60
3.3.1.3 Cần tạo tâm lý an toàn cho người tố giác tội phạm .......................... 61
3.3.2 Một số giải pháp khắc phục hạn chế việc giải quyết, kiểm sát thông tin tố giác
....................................................................................................................... 65
3.3.2.1 Một số giải pháp khắc phục hạn chế việc giải quyết thông tin tố giác tội
phạm........................................................................................................... 65
3.3.2.2 Một số giải pháp khắc phục hạn chế việc kiểm sát thông tin tố giác tội
phạm........................................................................................................... 66
KẾT LUẬN......................................................................................................70
TÀI LIỆU THAM KHẢO


LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nước ta trải qua hàng ngàn năm lịch sử chống giặc ngoại xâm, đã có biết bao người
dân ngã xuống để bảo vệ nền hòa bình cho tổ quốc. Trong các cuộc đấu tranh chống giặc
ngoại xâm đó người dân là lực lượng nồng cốt và có vai trò chủ đạo làm nên chiến thắng.
Trong hai cuộc kháng chiến thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã nhận thấy được tầm quan trọng của người dân trong cuộc cách mạng giành độc
lập dân tộc và đã vận dụng, phát huy sức mạnh ấy một cách sáng tạo phù hợp với tình
hình, hoàn cảnh cách mạng để giành lại nền hòa bình độc lập, cho con cháu chúng ta có
được cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Trong bối cảnh hiện nay đất nước ta đang trong thời
kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nước từng bước đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất

nước, phát triển kinh tế xã hội hướng đến mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội công bằng
dân chủ văn minh. Trong quá trình chuyển đổi đi lên Việt Nam đã đạt được những thành
tựu đáng khích lệ như là thành viên của tổ chức Thương mại thế giới WTO… Tuy nhiên,
bên cạnh nhũng thành tựu đã đạt được trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc thì
tình hình xã hội vẫn còn những mặt hạn chế, những tiêu cực đáng kể là tội phạm ngày
càng tăng với hành vi phạm tội tinh vi, sảo nguyệt hơn gây khó khăn cho cơ quan nhà
nước trong việc phát hiện tội phạm. Do đó, tội phạm đã trở thành nguy cơ đe dọa và
thách thức với Đảng và Nhà nước ta. Để loại bỏ tội phạm trong xã hội thì phải xác định
được tội phạm đang xảy ra ở đâu, trên lĩnh vực nào để có biện pháp cần thiết để ngăn
chặn tội phạm. Vì vậy, rất cần một lực lượng phòng, chống tội phạm để góp phần bảo vệ
chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân, tổ chức…đồng thời giáo dục mọi người tuân theo pháp luật. Một
trong những lực lượng góp phần to lớn vào công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm,
hạn chế sự gia tăng của tội phạm là công dân. Những năm qua, trong lĩnh vực đấu tranh
phòng, chống tội phạm, người dân đã cung cấp nhiều thông tin tố giác tội phạm có giá trị
cho cơ quan chức năng có thẩm quyền nhưng thật sự vẫn còn hạn chế so với số tội phạm
xảy ra trên thực tế. Nguyên nhân của tình trạng trên một phần do người dân ta chưa hiểu
được vai trò của mình trong việc đấu tranh phòng, chống tội phạm và pháp luật quy định
trách nhiệm của công dân. Nhưng phần lớn vẫn là người dân còn có tâm lý lo sợ người
phạm tội hoặc thân nhân người phạm tội trả thù người tố giác hoặc khi muốn tố giác thì
họ lại không biết tố giác ở đâu. Ngoài ra, pháp luật quy định về bảo vệ người tố giác tội
phạm chưa chặt chẽ, chưa bảo vệ được người tố giác khi họ bị đe dọa xâm hại tính mạng,
sức khỏe, danh dự, nhân phẩm cũng như việc giải quyết và kiểm sát thông tin tố giác tội
phạm còn nhiều vướng mắc, bất cập, từ đó làm giảm lòng tin của người dân đối với các
cơ quan chức năng. Chính vì những lý do trên người viết đã chọn nghiên cứu đề tài “Vai


trò của công dân trong việc tố giác tội phạm” để tìm ra những nguyên nhân dẫn đến hạn
chế trên.
2. Mục tiêu nghiên cứu luận văn

Với mục tiêu nghiên cứu nhằm làm rõ hơn về vai trò của công dân có tầm ảnh
hưởng như thế nào trong việc cung cấp thông tin tố giác tội phạm, để giải quyết nhanh vụ
án hình sự cũng như công tác đấu tranh phòng ngừa tội phạm nhằm thấy rõ hơn sự cần
thiết của công dân trong hoạt động phòng, chống tội phạm trong tình hình hiện nay. Từ
đó đối chiếu vào thực tiễn để chỉ ra những hạn chế trong việc tố giác tội phạm của công
dân, cũng như những khó khăn vướng mắt trong quá trình giải quyết, kiểm sát thông tin
tố giác tội phạm của các cơ quan có thẩm quyền. Thông qua đó người viết đưa ra những
giải pháp khắc phục những hạn chế, góp phần cho công dân phát huy hết vai trò của mình
trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm.
3. Phạm vi nghiên cứu
Trong đề tài nghiên cứu, vấn đề trọng tâm mà người viết muốn tìm hiểu là những lý
luận chung về công dân và tố giác tội phạm, quy định của pháp luật về tố giác tội phạm
và thực trạng, hạn chế trong việc tố giác tội phạm của công dân cũng như hoạt động giải
quyết, kiểm sát thông tin tố giác tội phạm của cơ quan thẩm quyền. Để qua đó chính bản
thân người viết và người đọc có thể hiểu biết cụ thể hơn thực trạng tố giác tội phạm và
những khó khăn khi thực hiện việc tố giác tội phạm, giải quyết, kiểm sát thông tin tố giác
tội phạm.
4. Phương pháp nghiên cứu luận văn
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện
chứng, lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh về những chủ trương
chính sách của Đảng và Nhà nước trong công tác phát huy vai trò của công dân, tuyên
truyền phổ biến pháp luật cho người dân, hoàn thiện các quy định của pháp luật.
Ngoài ra, người viết còn sử dụng các phương pháp như:
 Phương pháp phân tích.
 Phương pháp tổng hợp tài liệu.
 Phương pháp sưu tầm.
 Phương pháp thống kê.
5. Kết cấu luận văn
Bên cạnh mục lục, lời mở đầu, tài liệu tham khảo và kết luận. Bố cục luận văn được
chia làm 3 chương:

Chương 1: Giới thiệu chung về công dân và tố giác tội phạm
Chương 2: Quy định pháp luật hiện hành về tố giác tội phạm và giải quyết, kiểm
sát thông tin tố giác tội


Chương 3: Thực trạng và giải pháp nâng cao vai trò của công dân trong việc tố giác
tội phạm .
Lời cảm ơn!
Em xin chân thành gởi lời cảm ơn sâu sắc đến Thầy Nguyễn Chí Hiếu trong thời
gian qua đã tận tình hướng dẫn và truyền đạt kiến thức cần thiết cũng như giải đáp những
thắc mắc mà em gặp phải trong quá trình nghiên cứu đề tài, giúp em hoàn thành tốt bài
Luận văn của mình. Đồng thời em cũng xin gởi lời cảm ơn đến quý Thầy Cô khoa Luật,
thư viện khoa, cùng các bạn đã quan tâm giúp đỡ em, tạo điều kiện thuận lợi cho em
trong quá trình làm nghiên cứu đề tài. Mặc dù, trong quá trình nghiên cứu viết Luận văn,
em đã có nhiều cố gắng, nỗ lực, nhưng do hạn chế về khả năng nghiên cứu, kiến thức của
bản thân cho nên không tránh khỏi còn nhiều thiếu sót và hạn chế nhất định. Em rất
mong nhận được những ý kiến đóng góp của quý Thầy Cô và các bạn để đề tài Luận văn
của em được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn quý Thầy Cô và các bạn!
Sinh viên thực hiện
Lư Trường Tây

CHƯƠNG 1
GIỚI THIỆU CHUNG VỀ CÔNG DÂN VÀ TỐ GIÁC TỘI PHẠM


Trong xã hội hiện nay tình hình tội phạm ngày càng diễn biến phức tạp và tinh vi.
Chính vì vậy, mà việc phát hiện tội phạm của các cơ quan chức năng cũng gặp nhiều khó
khăn. Tuy nhiên, những khó khăn đó được giải quyết một phần là nhờ sự giúp đỡ nhiệt
tình của công dân trong việc phát hiện và tố giác tội phạm. Thấy được tầm quan trọng

của công dân trong công tác bảo vệ an ninh tổ quốc, trong nhiều năm qua Đảng và Nhà
nước luôn tạo điều kiện thuận lợi để công dân phát huy vai trò của mình một cách tích
cực. Để hiểu biết thêm về vai trò của công dân trong việc tố giác tội phạm, trong Chương
1 này người viết tập trung nêu lên khái quát về công dân và tố giác tội phạm để làm cơ sở
cho việc nghiên cứu những chương tiếp theo.
1.1 Khái quát về công dân và vai trò của công dân
1.1.1 Khái niệm về công dân
Trước hết, công dân là người dân của một nước có chủ quyền thể hiện mối quan hệ
pháp lý bền vững giữa nhà nước và cá nhân. Công dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là người có quốc tịch Việt Nam, có các quyền và nghĩa vụ theo quy định của
pháp luật Việt Nam, quyền và nghĩa vụ công dân thể hiện quan hệ lợi ích giữa nhà nước
và cá nhân1. Ở thời kỳ phong kiến, mỗi cá nhân trong một quốc gia điều bị coi là “thần
dân” của vua chúa phong kiến, không được hưởng các quyền lợi về chính trị. Khái niệm
công dân chỉ được sử dụng rộng rãi vào thời kỳ cách mạng tư sản. Khi cách mạng tư sản
thắng lợi, kể từ đó người dân của một quốc gia được gọi là “công dân” được hưởng
quyền dân sự và chính trị trong một “xã hội công dân”. Với khái niệm “Công dân” ta có
thể hiểu một người sinh ra và lớn lên tại một nước nào đó, và đương nhiên trở thành công
dân của nước đó. Nhưng nếu một người di cư sang sống tại một nước khác, thì tư cách
công dân tại nước nhập cư không còn đương nhiên nữa. Người di cư phải tuân theo một
số các thủ tục và làm đơn xin nhập quốc tịch để trở thành công dân của nước đó. Công
dân một nước, có thể là người sinh ra tại nước đó hay là những người đã xin nhập và
được chấp thuận quốc tịch. Theo quy định tại Chương V Điều 49 Hiến pháp Việt Nam
1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) quy định “Công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là người có quốc tịch Việt Nam”. Cụm từ “Công dân” lần đầu tiên được quy
định trong Hiến pháp năm 1946 và được sử dụng cho các bản Hiến pháp năm 1959, năm
1980 và bản Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001). Nhằm xác định giá trị
pháp lý cho người dân Việt Nam.
Như vậy, Công dân là bộ phận cư dân chủ yếu của một Nhà nước bao gồm những
người xác định lệ thuộc pháp lý đối với Nhà nước đó. Một người là công dân của một
1


Theo trang thông tin điện tử bách khoa toàn thư, khái niệm công dân,
/>GFjdCZrZXl3b3JkPUMlYzMlOTRORytEJWMzJTgyTg==&page=1, (truy cập ngày 10/8/2010).


nước sở tại thì được hưởng đầy đủ quyền và lợi ích tương xứng đồng thời phải gánh vác
những nghĩa vụ do nhà nước quy định. Những cá nhân không phải là công dân thì chỉ
hưởng một số quyền lợi và gánh vác nghĩa vụ không đầy đủ so với những người là công
dân theo quy định của pháp luật nước sở tại và các hiệp ước đã được ký kết hoặc phê
chuẩn2.
1.1.2 Quyền và nghĩa vụ của công dân
Công dân là cư dân của một quốc gia, do vậy họ cũng có đầy đủ quyền và nghĩa vụ
của một công dân, những quyền và nghĩa vụ đó luôn tồn tại khi là công dân của một
nước. Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân đươc quy định tại điều 51 Hiến pháp năm
1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001).
Ở nước ta, quyền công dân luôn là một chế định quan trọng của Hiến pháp và là đối
tượng chủ yếu của nền Hiến pháp dân chủ - Hiến pháp xã hội chủ nghĩa. Đảng và Nhà
nước ta luôn vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và học
thuyết quyền con người, quyền công dân trong việc soạn thảo, xây dựng, sửa đổi và ban
hành Hiến pháp, phù hợp với tình hình thực tế trong từng giai đoạn cách mạng cụ thể.
Quyền công dân là những quyền hạn của một cá nhân được pháp luật của một nhà
nước quy định hoặc thừa nhận. Tùy thuộc vào mỗi quốc gia và từng giai đoạn lịch sử cụ
thể cũng như tùy thuộc vào chính thể, vào tính chất và mức độ dân chủ thật sự của mỗi
quốc gia mà quyền công dân sẽ được quy định khác nhau. Quyền công dân được quy
định trong Hiến pháp và Luật.
Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được quy định trong Hiến pháp là các
quyền về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội. Các quyền và nghĩa vụ cơ bản đó
được cụ thể hóa bằng các Bộ luật và Luật như: Bộ luật Hình sự, Bộ Luật Tố tụng dân sự,
luật Thuế… Cụ thể Hiến pháp quy định quyền về chính trị, quyền về kinh tế, văn hóa, xã
hội và quyền tự do cá nhân.

 Quyền về chính trị
Điều 53 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) quy định: Công dân có
quyền tham gia quản lý Nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả
nước và địa phương, kiến nghị với cơ quan nhà nước, biểu quyết khi Nhà nước tổ chức
trưng cầu ý dân.
Quyền bầu cử và ứng cử: Công dân, không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần
xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hóa, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, đủ 18 tuổi trở
lên đều có quyền bầu cử và đủ 21 tuổi trở lên có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng
nhân dân theo quy định của pháp luật.

2

Giáo trình Luật Hiến PhápViệt Nam năm 1999 – Trường Đại học Luật Hà Nội – trang 165


Quyền khiếu nại, tố cáo: Công dân có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh
tế, tổ chức xã hội đơn vị vũ trang nhân dân hoặc bất kỳ cá nhân nào.
Quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do biểu tình, tự do hội họp. Điều 69 của
Hiến pháp quy định: Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; có quyền được
thông tin; có quyền hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật.
 Quyền về kinh tế, văn hóa, xã hội
Quyền lao động: Lao động là quyền và nghĩa vụ của công dân. Nhà nước và xã hội
có kế hoạch tạo ngày càng nhiều công ăn việc làm cho người lao động. Nhà nước ban
hành chính sách, chế độ bảo hộ lao động. Nhà nước quy định thời gian lao động, chế độ
tiền lương, chế độ nghỉ ngơi và chế độ bảo hiểm xã hội đối với viên chức nhà nước và
những người làm công ăn lương; khuyến khích phát triển các hình thức bảo hiểm xã hội
khác đối với người lao động. Công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của
pháp luật.
Quyền học tập: Học tập là quyền và nghĩa vụ của công dân. Bậc tiểu học là bắt

buộc, không phải trả học phí. Công dân có quyền học văn hóa và học nghề bằng nhiều
hình thức. Học sinh có năng khiếu được Nhà nước và xã hội tạo điều kiện học tập để phát
triển tài năng. Nhà nước có chính sách học phí, học bổng. Nhà nước và xã hội tạo điều
kiện cho trẻ em khuyết tật, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn khác được học văn hóa
và học nghề phù hợp.
Quyền được bảo vệ sức khỏe: Công dân có quyền được hưởng chế độ bảo vệ sức
khỏe. Nhà nước quy định chế độ viện phí, chế độ miễn, giảm viện phí. Tuy nhiên, công
dân có nghĩa vụ thực hiện các quy định về vệ sinh phòng bệnh và vệ sinh công cộng.
Nghiêm cấm sản xuất, vận chuyển, buôn bán, tàng trữ, sử dụng trái phép thuốc phiện và
các chất ma tùy khác. Nhà nước quy định chế độ bắt buộc cai nghiện và chữa các bệnh xã
hội nguy hiểm.
Quyền xây dựng nhà ở: Công dân có quyền xây dựng nhà ở theo quy hoạch và
pháp luật. Quyền lợi của người thuê nhà và người có nhà cho thuê được bảo hộ theo pháp
luật.
Quyền bình đẳng nam nữ: Công dân nữ và công dân nam có quyền ngang nhau về
mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình. Nghiêm cấm mọi hành vi phân
biệt đối xử với phụ nữ, xúc phạm nhân phẩm phụ nữ. Lao động nữ và nam làm việc như
nhau thì tiền lương ngang nhau. Lao động nữ có quyền hưởng chế độ thai sản. Phụ nữ là
viên chức nhà nước và người làm công ăn lương có quyền nghỉ trước và sau khi sinh đẻ
mà vẫn hưởng lương, phụ cấp theo quy định của pháp luật. Nhà nước và xã hội tạo điều
kiện để phụ nữ nâng cao trình độ mọi mặt, không ngừng phát huy vai trò của mình trong


xã hội; chăm lo phát triển các nhà hộ sinh, khoa nhi, nhà trẻ và các cơ sở phúc lợi xã hội
khác để giảm nhẹ gánh nặng gia đình, tạo điều kiện cho phụ nữ sản xuất, công tác, học
tập, chữa bệnh, nghỉ ngơi và làm tròn bổn phận của người mẹ.
Quyền về hôn nhân và gia đình: Gia đình là tế bào của xã hội. Do đó, Nhà nước
bảo hộ hôn nhân và gia đình nhưng phải tuân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ
một chồng, vợ chồng bình đẳng. Cha mẹ có trách nhiệm nuôi dạy con thành những công
dân tốt. Con cháu có bổn phận kính trọng và chăm sóc ông bà, cha mẹ. Nhà nước và xã

hội không thừa nhận việc phân biệt đối xử với các con. Trẻ em được gia đình, Nhà nước
và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục. Thanh niên được gia đình, Nhà nước và xã hội
tạo điều kiện học tập, lao động và giải trí, phát triển thể lực, trí tuệ, bồi dưỡng về đạo
đức, truyền thống dân tộc, ý thức công dân và lý tưởng xã hội chủ nghĩa, đi đầu trong
công cuộc sáng tạo vào bảo vệ Tổ quốc. Thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ được
hưởng các chính sách ưu đãi của Nhà nước. Thương binh được tạo điều kiện phục hồi
chức năng lao động, có việc làm phù hợp với sức khỏe và có đời sống ổn định. Những
người và gia đình có công với nước được khen thưởng, chăm sóc. Người già, người tàn
tật, trẻ mồ côi không nơi nương tựa được Nhà nước và xã hội giúp đỡ.
 Quyền tự do cá nhân
Quyền tự do đi lại và cư trú: Công dân có quyền tự do đi lại và cư trú ở trong nước,
có quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước theo quy định của pháp luật và quyền
được thông tin.
Quyền tự do tín ngưỡng: Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo theo hoặc
không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Những nơi thờ
tự của các tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ. Không ai được xâm phạm tự do
tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để làm trái pháp luật và chính
sách của Nhà nước.
Quyền bất khả xâm phạm về thân thể: Công dân có quyền bất khả xâm phạm về
thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm. Không ai
bị bắt nếu không có quyết định của Tòa án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện
kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt và giam giữ người phải
đúng pháp luật. Nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình, xúc phạm danh dự, nhân
phẩm của công dân. Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án
kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Người bị bắt, bị giam giữ, bị tuy tố, xét xử
trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất và phục hồi danh dự. Người
làm trái pháp luật trong việc bắt, giam giữ, truy tố, xét xử gây thiệt hại cho người khác
phải bị xử lý nghiêm minh.



Quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở: Công dân có quyền bất khả xâm phạm về chỗ
ở. Không ai được tự ý vào chỗ ở của người khác nếu người đó không đồng ý, trừ trường
hợp được pháp luật cho phép. Việc khám xét chỗ ở của công dân phải do người có thẩm
quyền tiến hành theo quy định của pháp luật.
Quyền bí mật thư tín, điện thoại, điện tín: Thư tín, điện thoại, điện tín của công
dân được đảm bảo an toàn bí mật. Việc mở, kiểm soát, thu giữ thư tín, điện tín của công
dân phải do người có thầm quyền tiến hành theo quy định của pháp luật.
Quyền công dân được quy định trong Hiến pháp và Luật ở Nhà nước ta thể hiện
tính dân chủ và nhân đạo sâu sắc. Quyền công dân bao giờ cũng đi đôi với nghĩa vụ. Đó
là tính tất yếu, thể hiện tính công bằng xã hội. Một người không thể chỉ biết lợi ít riêng
của mình, chỉ biết quyền lợi cá nhân mà quên đi trách nhiệm với nhà nước, với xã hội.
Phải đảm bảo quyền lợi của cá nhân không ảnh hưởng đến lợi ít của người khác, không
cản trở việc thực hiện quyền công dân của người khác. Việc thực hiện nghĩa vụ là cơ sở
đảm bảo tính lâu dài và thiết thực cho các quyền lợi mà mỗi cá nhân được hưởng. Đồng
thời Nhà nước cũng đảm bảo tính thực thi của các quyền công dân.
Nghĩa vụ là phần việc mà đạo đức hay pháp luật buộc một người phải thi hành.
Sống trong xã hội khi mỗi người được hưởng những quyền do pháp luật quy định, thì
mỗi người cũng có trách nhiệm thi hành những nghĩa vụ đóng góp trở lại cho xã hội, cho
quốc gia. Tại nhiều nước, Hiến pháp liệt kê hẳn bao nhiêu nghĩa vụ người công dân phải
làm. Một cách tổng quát, nghĩa vụ công dân trong Hiến pháp Việt Nam có thể được liệt
kê sau đây:
Trung thành với Tổ quốc: Bảo vệ tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng và quyền cao
quý của công dân. Công dân phải làm nghĩa vụ quân sự và tham gia xây dựng quốc
phòng toàn dân. Tôn trọng và bảo vệ tài sản của Nhà nước và lợi ích công cộng. Tuân
theo Hiến pháp, pháp luật, tham gia bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, giữ
gìn bí mật quốc gia, chấp hành những quy tắc sinh hoạt công cộng. Đóng thuế và lao
động công ích theo quy định của pháp luật.
Nói chung, quyền và nghĩa vụ công dân của các nước hầu như giống nhau và quan
trọng như nhau; nhưng có lẽ, nghĩa vụ quan trọng nhất là tham gia vào sinh hoạt xã hội
một cách tích cực, từ những công tác xã hội tại địa phương tới các vấn đề xã hội thuộc

tầm vóc quốc gia. Các hoạt động này là nền tảng xây dựng một xã hội dân sự sinh động,
trong đó không những quyền lợi của công dân được quan tâm, mà nghĩa vụ của cả dân
lẫn chính quyền đều được thực thi một cách minh bạch và có trách nhiệm.
1.1.3 Vai trò của công dân trong Tư tưởng Hồ Chí Minh3
3

ThS. Nguyễn Thị Ngọc Hân - Cơ sở tư tưởng Hồ chí Minh về vai trò của công dân trong xây dựng và bảo vệ tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa - Giảng viên Khoa Quản lý Hành Chính Trường cán bộ TPHCM.


Đã có nhiều công trình khoa học, nhiều bài viết về Tư tưởng Hồ Chí Minh với vai
trò của người dân trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam. Khi nghiên cứu tư tưởng
của Người, việc nắm vững cơ sở lý luận và thực tiễn hình thành nên tư tưởng đó là hết
sức quan trọng, cần thiết và mang tính khoa học. Trong bối cảnh đất nước bị đô hộ, người
dân lao động bị áp bức bóc lột nặng nề, mặc dù rất khâm phục các sĩ phu yêu nước, các
nhà cách mạng tiền bối nhưng Hồ Chí Minh không đồng ý với con đường cứu nước mà
họ đã đưa ra và thực hiện. Người đã ra đi tìm đường cứu nước, trong suốt quá trình sống
và làm việc hơn 30 năm ở nước ngoài Người đã đến khoảng 26 nước, phải thay tên đổi
họ với hơn 160 bí danh, bút danh, hai lần bị bắt giam và bị lưu đày trên 30 nhà tù. Quá
trình bôn ba tìm đường cứu nước ở nước ngoài Người đã có dịp tiếp xúc với nhiều nhà
văn hoá, trí thức, người dân lao động bị áp bức, bóc lột ở nhiều nước khác nhau. Người
đến Liên xô và bắt gặp “Luận cương về các vấn đề thuộc địa và dân tộc” của V.I Lênin,
đây chính là cột mốc quan trọng đánh dấu sự phát triển của Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai
trò của người dân của một nước trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây
dựng đất nước; có thể nói Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của người dân được hình
thành trên cơ sở giá trị truyền thống dân tộc Việt Nam, tinh hoa văn hoá nhân loại và Chủ
nghĩa Mác – Lênin về vai trò của người dân lao động bị áp bức, bóc lột.
Thứ nhất, Hồ Chí Minh xác định được sức mạnh to lớn của người dân: Giá trị
truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam trong quá trình dựng nước và giữ nước, trước
hết là chủ nghĩa yêu nước, tinh thần đoàn kết của mọi tầng lớp dân tộc Việt Nam. Chủ

nghĩa yêu nước là chuẩn mực đạo lý và đứng đầu trong bậc thang giá trị văn hoá tinh thần
của dân tộc Việt Nam là động lực nội sinh của cộng đồng dân tộc Việt Nam tạo nên sức
mạnh to lớn trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm và trong công cuộc xây dựng
đất nước. Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam đã chứng minh chủ nghĩa
yêu nước, tinh thần đoàn kết tương thân tương ái đã làm nên sức mạnh của dân tộc Việt
Nam. Truyền thống đó đã ngấm vào máu thịt của con người Việt Nam, được truyền từ
thế hệ này sang thế hệ khác, là sức mạnh thường trực trong lòng dân tộc, đây là yếu tố
quan trọng để Hồ Chí Minh xác định sức mạnh to lớn của người dân Việt Nam đồng thời
tìm cách khơi dậy, phát huy tiềm năng tinh thần đó thành sức mạnh vật chất trong sự
nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Truyền thống trọng dân, dân
là gốc trong tiến trình lịch sử Việt Nam và những bài học kinh nghiệm qua các triều đại
Phong kiến Việt Nam cũng là cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của công
dân của một nước. Lịch sử đã chứng minh: Mỗi triều đại phong kiến Việt Nam trong thời
kỳ hưng thịnh đều có quan điểm về dân đúng đắn, tích cực nên được dân ủng hộ, tập
trung được sức mạnh của dân, đánh thắng được giặc ngoại xâm xây dựng được đất nước
phồn thịnh. Lịch sử cũng cho thấy vào cuối mỗi triều đại Phong kiến, an ninh xã hội


thường rơi vào tình trạng bất ổn. Kết quả này do nhiều nguyên nhân, nhưng cơ bản nhất
là Vua, Quan không quan tâm đến Dân, không đủ năng lực điều hành đất nước, quan lại
kéo bè cánh, đục khoét, từ đó lòng dân ly tán, chính quyền sụp đổ. Truyền thống trọng
dân, dân là gốc, trong các giai đoạn lịch sử dân tộc là tiền đề để Hồ Chí Minh khẳng định
vai trò của người dân trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước.
Thứ hai, Hồ Chí minh luôn luôn có quan điểm “trọng dân”: Tư tưởng Hồ Chí
Minh về vai trò của công dân không chỉ bắt nguồn từ những truyền thống của dân tộc mà
còn là sự kế thừa tinh hoa văn hoá của nhân loại. Trong tư tưởng của Người có quan
điểm “trọng dân” coi dân là gốc của nước. Trong triết học nho giáo, chủ nghĩa “tam dân”
đề cao lợi ích của người dân của Tôn Trung Sơn. Có thể thấy, dân tộc độc lập, dân quyền
tự do, dân sinh hạnh phúc, chính là ba nguyên tắc “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” của
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa do Hồ Chí Minh sáng lập. Hồ Chí Minh cũng đã chọn

lọc, kế thừa những quan điểm hợp lý của triết học Phật giáo. Trong tư tưởng của Người
luôn có cái “Tâm từ bi”, “Hạnh vô ngã”, “Đức hiếu sinh” của Phật giáo. Nghiên cứu tư
tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của người dân chúng ta thấy tư tưởng dân chủ “Tự do –
Bình đẳng – Bác ái” trong văn hoá phương Tây có tác động rất lớn trong việc hình thành
tư tưởng của Người. Trên các chặng đường bôn ba tìm đường cứu nước Hồ Chí Minh đã
làm giàu trí tuệ của mình bằng nhiều tri thức văn hoá phương Tây, đó là chủ nghĩa nhân
văn, văn hoá dân chủ của những lý luận gia của cách mạng Pháp như Môngtexkiơ,
Rutxô, Vônte… Từ khẩu hiệu “Tự do, Bình đẳng, Bác ái” đến thực tiễn của các cuộc
cách mạng thế giới: Cách mạng Mỹ (1776), cách mạng Pháp (1789), cách mạng tháng
mười Nga 1917, cùng với những tuyên ngôn sau khi các cuộc cách mạng này thành công,
Hồ Chí Minh đã rút ra kết luận về sức mạnh của người dân “Lịch sử thế giới đã chứng tỏ
rằng không một lực lượng phản động nào có thể chống lại lực lượng đoàn kết và đấu
tranh của người dân”.
Thứ ba, Hồ Chí Minh luôn luôn vận dụng đúng vai trò của người dân: Những
quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về vai trò của người dân đã thể hiện sự vượt trội
so với các quan điểm khác trong lịch sử xã hội loài người cả về góc độ lý luận lẫn thực
tiễn. Chính vì thế Hồ Chí Minh xem chủ nghĩa Mác – Lê nin là “cẩm nang thần kỳ” cho
dân tộc Việt Nam. Người đã tiếp thu, vận dụng sáng tạo vào thực tiễn cách mạng Việt
Nam. Nhận thức đúng đắn vai trò của người dân, Hồ Chí Minh đã hiến dâng cả cuộc đời
của mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc và hạnh phúc của dân tộc. Hiểu rõ sức mạnh
của người dân lao động trong cách mạng giải phóng dân tộc Người đã thành lập Mặt trận
dân tộc thống nhất rộng rãi trong nhiều thời kỳ với nhiều tên gọi khác nhau nhưng tất cả
đều nhằm liên hiệp hết thảy đồng bào yêu nước không phân biệt giàu, nghèo, già, trẻ, gái,
trai, không phân biệt tôn giáo, xu hướng chính trị, khơi dậy lòng yêu nước tinh thần đoàn


kết dân tộc ở họ để cùng nhau giải phóng dân tộc. Với nhận thức “Dễ trăm lần không
dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”, Hồ Chí Minh đã có nhiều bài viết, bài
nói về sức mạnh của dân tộc Việt Nam. Trong các bài viết, bài nói và trong suốt cả cuộc
đời hoạt động cách mạng cực kỳ sôi nổi và phong phú của mình Bác luôn thể hiện quan

điểm “của dân”, “do dân”, “vì dân”, “cho dân”, “dân là chủ nhân đất nước”. Chính tư
tưởng đó đã giúp Đảng Cộng sản Việt Nam, một chính Đảng do Người sáng lập và lãnh
đạo đã tập hợp được đông đảo người dân thành đội quân hào hùng, bách chiến, bách
thắng lập nên những chiến công bất hủ trong Cách mạng tháng tám năm 1945, trong hai
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, cũng như trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay.
1.1.4 Vai trò của công dân trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội
Các trường phái triết học trước Mác đều chưa nhận thức được vai trò của người dân
lao động. Tư tưởng tôn giáo cho rằng mọi sự thay đổi trong lịch sử xã hội là do ý chí của
đấng tối cao, do mệnh trời tạo nên, và trao quyền cho các cá nhân thực hiện. Chủ nghĩa
duy tâm trong triết học đề cao vai trò của các vĩ nhân, còn người dân chỉ là công cụ,
phương tiện để sai khiến. Chủ nghĩa duy vật trước Mác vẫn chưa thoát khỏi quan điểm
duy tâm của xã hội khi cho rằng, nhân tố quyết định sự phát triển của xã hội là tư tưởng,
đạo đức, là các vĩ nhân và chỉ có họ mới sớm nhận thức được chân lý vĩnh cửu. Có nhà tư
tưởng lại đề cao vai trò của người dân, phủ nhận vai trò của các vĩ nhân hoặc không lý
giải được một cách khoa học vai trò người dân.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định con người là chủ thể sáng tạo chân chính ra
lịch sử. Tư tưởng tự nó không làm biến đổi xã hội mà phải thông qua hành động cách
mạng, hoạt động thực tiễn của người dân, để biến lý tưởng ước mơ thành hiện thực trong
đời sống xã hội.
Thứ nhất, công dân một nước là lực lượng sản xuất cơ bản của xã hội: Công dân
là người trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất, là cơ sở của sự tồn tại và phát triển của xã
hội của quốc gia. Con người muốn tồn tại phải có các điều kiện vật chất cần thiết, mà
những nhu cầu đó chỉ có thể đáp ứng được thông qua sản xuất. Lực lượng sản xuất cơ
bản là đông đảo người dân lao động bao gồm cả lao động chân tay và lao động trí óc.
Cách mạng khoa học kĩ thuật hiện nay có vai trò đặc biệt đối với sự phát triển của lực
lượng sản xuất. Song vai trò của khoa học chỉ có thể phát huy thông qua thực tiễn sản
xuất của người dân lao động, nhất là đội ngũ công nhân hiện đại và trí thức trong nền sản
xuất xã hội, của thời đại kinh tế tri thức. Điều đó khẳng định rằng hoạt động sản xuất của
người dân lao động là điều kiện cơ bản để quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội.

Thứ hai, công dân của một nước là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã
hội. Lịch sử đã chứng minh rằng, không có cuộc chuyển biến cách mạng nào mà không


cần hoạt động đông đảo của công dân quốc gia đó. Họ là lực lượng cơ bản của cách
mạng, đóng vai trò quyết định thắng lợi của mọi cuộc cách mạng xã hội. Trong các cuộc
cách mạng làm chuyển biến xã hội từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế
- xã hội khác, người dân động là lực lượng tham gia đông đảo. Tất nhiên, suy đến cùng,
nguyên nhân của mọi cuộc cách mạng là bắt đầu từ sự phát triển của lực lượng sản xuất
dẫn đến mâu thuẫn với quan hệ sản xuất, nghĩa là bắt đầu từ hoạt động sản xuất vật chất
của người dân. Bởi vậy, người dân lao động là chủ thể của các quá trình kinh tế, chính trị,
xã hội, đóng vai trò là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội.
Thứ ba, công dân là người sáng tạo ra những giá trị văn hoá tinh thần cho đất
nước và có thể phát triển ra thế giới. Công dân đóng vai trò to lớn trong sự phát triển
của khoa học, nghệ thuật, văn học, đồng thời áp dụng những thành tựu đó vào hoạt động
thực tiễn. Những sáng tạo về văn học, nghệ thuật, khoa học, y học, quân sự, kinh tế,
chính trị, đạo đức...của dân tộc vừa là cội nguồn, vừa là điều kiện để thúc đẩy sự phát
triển nền văn hoá tinh thần của các dân tộc trong mọi thời đại. Hoạt động của người dân
từ trong thực tiễn là nguồn cảm hứng vô tận cho mọi sáng tạo tinh thần trong đời sống xã
hội. Mặt khác, các giá trị văn hoá tinh thần chỉ có thể trường tồn khi được đông đảo
người dân chấp nhận và truyền bá sâu rộng, trở thành giá trị phổ biến.
Tóm lại, xét từ kinh tế đến chính trị, từ hoạt động vật chất đến hoạt động tinh thần,
người dân luôn đóng vai trò quyết định trong lịch sử. Tuy nhiên, tuỳ vào điều kiện lịch sử
mà vai trò chủ thể của công dân cũng biểu hiện ở nhiều hình thức khác nhau. Chỉ có
trong chủ nghĩa xã hội, công dân mới có đủ điều kiện để phát huy tài năng và trí sáng tạo
của mình.
1.1.5 Vai trò của công dân trong giữ gìn an ninh trật tự
Bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội là nhiệm vụ quan trọng,
thường xuyên của cả hệ thống chính trị. Để thực hiện nhiệm vụ bảo đảm an ninh, trật tự
được giữ vững không có tội phạm xảy ra giữa công an - Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức

thành viên phải đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền các cấp và cần phải
có sự phối hợp với người dân. Trong quá trình thực bảo vệ an ninh tổ quốc, người dân
phải nhận thức được vai trò, trách nhiệm của mình đối với nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật
tự.
Thực tiễn cách mạng nước ta đã chứng minh rằng, có chiến tranh xảy ra thì toàn thể
người dân luôn sát cánh bên nhau đấu tranh chống kẻ thù xâm lược, không tiếc xương
máu, tiền của, sẵn sàng chiến đấu hi sinh vì sự nghiệp độc lập tự do của nước nhà. Người
dân dù ở bất cứ đâu, lúc nào cũng hiểu rõ khi nền an ninh quốc gia không được giữ vững
thì cuộc sống của họ cũng sẽ mất tự do, mất đi lợi ích vật chất lẫn tinh thần. Cuộc sống
ấm no hạnh phúc là điều không thể thiếu nên việc đấu tranh giải phóng đất nước, xây


dựng nền an ninh ổn định và phát triển kinh tế là điều tất yếu. Chính nhờ vai trò to lớn
của người dân mà chúng ta mới có thể giành được thắng lợi to lớn vĩ đại trong hai cuộc
kháng chiến chống Mỹ và chống Pháp.
Ngày nay, công dân có vai trò quan trọng trong việc chủ động ngăn ngừa và làm
thất bại mọi âm mưu can thiệp nội bộ, lật đổ, xâm lược của các thế lực thù địch. Đối với
công dân ở các vùng sâu, vùng xa xôi, hẻo lánh lại đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong
việc bảo vệ an ninh tổ quốc. Các thế lực thù địch sẽ không thể lợi dụng sự kém hiểu biết
của người dân để lôi kéo kích động, gây thù hằn dân tộc nếu người dân nêu cao tinh thần
cảnh giác với mọi loại tội phạm. Ngược lại, nếu người dân không cảnh giác với các loại
tội phạm thì các bọn phản động có điều kiện lợi dụng cơ hội để xuyên tạc, chống phá, lật
đổ chính quyền nhà nước. Công dân vừa là người trực tiếp chấp hành và cũng là người
giám sát việc chấp hành pháp luật. Chính vì vậy, công dân đóng vai trò rất quan trọng
trong công tác bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Công dân bảo vệ an ninh Tổ quốc góp phần đấu tranh làm thất bại âm mưu và hoạt
động "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch Trong những năm qua, các thế lực thù
địch tiếp tục thực hiện âm mưu "diễn biến hòa bình", bạo loạn, lật đổ hòng xóa bỏ vai trò
lãnh đạo của Đảng Cộng sản, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, phá hoại chính sách
đại đoàn kết toàn dân tộc. Chúng triệt để lợi dụng khó khăn của các địa bàn trọng điểm,

vùng tập trung đồng bào tôn giáo, dân tộc thiểu số, vùng đặc biệt khó khăn, lợi dụng mặt
trái của nền kinh tế thị trường và những sơ hở, thiếu sót, yếu kém của ta trong quản lý
kinh tế, quản lý xã hội để chống phá, xuyên tạc đường lối của Đảng, Nhà nước ta và kích
động, lôi kéo người dân tham gia. Trong các cuộc đấu tranh của công dân với kẻ địch và
tội phạm, luôn luôn có sự gắn kết chặt chẽ giữa lực lượng công an nhân dân với Mặt trận
Tổ quốc, Hội Cựu chiến binh, Hội Người cao tuổi, thanh niên, phụ nữ, nông dân và công
đoàn đã đem lại hiệu quả cao, sớm ổn định tình hình, làm thất bại mọi âm mưu hoạt động
chống phá của kẻ địch. Qua đó, đã vận động được toàn dân tham gia phòng, chống tội
phạm, phát hiện, tố giác tội phạm, quản lý giáo dục, cảm hóa người phạm tội tại gia đình
và cộng đồng dân cư, đem lại kết quả thiết thực góp phần giữ vững trật tự an toàn xã hội
của đất nước. Điều này đã tạo ra được mặt trận rộng rãi thu hút đông đảo người dân ở
mọi lứa tuổi, giới tính, các tổ chức chính trị - xã hội, nghề nghiệp, cơ quan, doanh
nghiệp, trường học... tham gia tích cực vào phòng ngừa các hành vi vi phạm, đấu tranh
với các loại tội phạm, góp phần làm giảm án hình sự, các tệ nạn xã hội, phát hiện nhiều
vụ án ma túy lớn, tiếp tục củng cố nền trật tự an toàn xã hội của đất nước.
Nâng cao nhận thức về vai trò và tầm quan trọng của công dân xây dựng phong
trào toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc trong tình hình mới. Phát động phong trào toàn dân
bảo vệ an ninh trật tự phải kết hợp tăng cường sức mạnh các cơ quan bảo vệ pháp luật


trong phòng, chống tội phạm có bước phát triển mới, nhiều mô hình, điển hình tiên tiến
được nhân rộng theo từng vùng, lĩnh vực. Qua phong trào, nhiều mô hình tự phòng, tự
quản, tự bảo vệ, mang tính xã hội hóa được phát triển đa dạng, phong phú, có hiệu quả,
phát huy được vai trò làm chủ, tính tích cực của công dân trong phòng ngừa đấu tranh tố
giác tội phạm, xây dựng củng cố thế trận quốc phòng toàn dân ngày một vững chắc.
Sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc nói chung và bảo vệ an ninh nói riêng là sự nghiệp của
toàn dân, được đông đảo người dân tham gia và đã mang lại những kết quả to lớn, góp
phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa. Công dân có vai trò quan trọng trong việc tham gia bảo vệ tổ quốc vì vậy công
tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho công dân về đường lối,

chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước về nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự được chú
trọng, đã nâng cao được nhận thức, trách nhiệm của công dân trong bảo vệ đường lối,
chính sách, pháp luật và nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự. Điều này có tác dụng tích cực
không chỉ về nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự mà còn có tác dụng tăng cường các hoạt
động văn hóa lành mạnh trong trong xã hội.
1.2 Khái quát về tố giác tội phạm và vai trò của tố giác tội phạm
1.2.1 Khái niệm về tố giác tội phạm
Tố giác tội phạm là việc một người trình báo cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền
về việc phát hiện một người (hoặc một nhóm người) đang, đã hoặc chuẩn bị thực hiện
hành vi vi phạm pháp luật hình sự4.
Theo quy định tại điều 101 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 quy định “Công dân
có thể tố giác tội phạm với Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án hoặc với các cơ quan
khác, tổ chức. Nếu tố giác bằng miệng thì cơ quan, tổ chức tiếp nhận phải lập biên bản
và có chữ ký của người tố giác…”. Như vậy, tại Điều 101 Bộ luật Tố tụng hình sự năm
2003 không nêu lên được khái niệm tố giác tội phạm mà chỉ nêu lên công dân có thể tố
giác hành vi phạm tội với cơ quan chức năng có thẩm quyền.
Cũng theo Giáo trình luật Tố tụng hình sự Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà
Nội thì “Tố giác tội phạm là việc công dân tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của một
người nào đó mà họ cho rằng đó là tội phạm”5. Từ khi Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003
có hiệu lực thì chưa có một văn bản hướng dẫn thực hiện nào nêu lên khái niệm tố giác,
tin báo về tội phạm6. Do không được giải thích đầy đủ dẫn đến nhiều cách hiểu khác
nhau về khái niệm tố giác tội phạm. Trong thực tế ngày nay việc xác định thế nào là tố
4

Theo : Quyền và nghĩa vụ tố giác tội phạm,
(cập nhật ngày 13/8/2010).
5
Giáo trình luật Tố tụng hình sự Việt Nam - Trường Đại học Luật Hà Nội – Trang 245
6
Tạp chí Kiểm sát – số 12 ( tháng 6/2009) – trang 21



giác tội phạm cũng còn nhiều cách hiểu khác nhau và gây nhiều tranh cãi. Có nơi cho
rằng tố giác tội phạm là tất cả các thông tin về tội phạm mà cơ quan có thẩm quyền có thể
nhận được qua đơn thư tố giác của công dân, qua các phương tiên thông tin đại chúng
hoặc do cơ quan điều tra tự khám phá…Một số nơi khác lại cho rằng, tố giác tội phạm
chỉ là những thông tin do công dân cung cấp hoặc trên phương tiện thông tin đại chúng
cung cấp. Nhưng theo quy định tại điều 22 Bộ Luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung
2009) quy định: “Người nào biết rõ tội phạm đang được chuẩn bị, đang được thực hiện
hoặc đã được thực hiện mà không tố giác, thì phải chịu trách nhiệm hình sự về tội không
tố giác tội phạm…”.
Như vậy, có thể hiểu khái niệm tố giác tội phạm như sau: Tố giác tội phạm là việc
công dân trình báo cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền về hành vi vi phạm pháp luật
của một người nào đó mà họ cho rằng hành vi đó đã vi phạm pháp luật hình sự đang
được chuẩn bị, đang được thực hiện, hoặc đã được thực hiện mà họ có nghĩa vụ phải
thông báo với cơ quan chức năng có thẩm quyền để ngăn chặn, truy bắt người phạm tội.
1.2.2 Vai trò của tố giác tội phạm
1.2.2.1 Giúp cơ quan có thẩm quyền kịp thời, phát hiện xử lý nhanh, tránh bỏ
lọt tội phạm
Trong giai đoạn hiện nay tội phạm càng gia tăng và diễn biến ngày càng phức tạp,
cố tình tránh sự phát hiện của Cơ quan công an và các cơ quan có thẩm quyền. Chính vì
vậy, mà các cơ quan có thẩm quyền rất khó phát hiện ra tội phạm trong xã hội. Việc tố
giác tội phạm có vai trò quan trọng trong công tác phát hiện sớm tội phạm, giúp cơ quan
điều tra nhanh chóng phá án.
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do
người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc
lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ
kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp
của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các
quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự

pháp luật xã hội chủ nghĩa7. Chính những hành vi xâm phạm đó làm cho xã hội phức tạp
với nhiều loại tội phạm có tính chất nguy hiểm cao. Các cơ quan nhà nước lại không đảm
bảo hết việc nắm bắt thông tin về tình hình tội phạm đang diễn ra trong xã hội mà chỉ hạn
chế về một số lượng thông tin nhất định. Để các cơ quan nhà nước nắm bắt đầy đủ thông
tin về tình hình tội phạm cần phải có sự tố giác của công dân. Tố giác tội phạm giúp cho

7

Tiến sĩ Phạm văn Beo – Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam phần chung – trang 67


các cơ quan nhà nước có thẩm quyền biết được tội phạm đang diễn ra trên lĩnh vực nào.
Nhằm có biện pháp cụ thể xử lý tội phạm trên lĩnh vực đó.
Việc tố giác tội phạm giúp cho các cơ quan có thẩm quyền phát hiện nhanh tội
phạm. Tuy nhiên, một số loại tội phạm xảy ra bất ngờ trong xã hội mà các cơ quan có
thẩm quyền không biết được như: tội giết người, cướp tài sản, cố ý gây thương tích. Tố
giác tội phạm giúp cho các cơ quan có thẩm quyền nhanh chóng đến hiện trường nơi xảy
ra vụ án để thu thập xác minh làm rõ sự việc phạm tội. Trong một số trường hợp người
phạm tội sau khi gây án xong lại bỏ trốn khỏi hiện trường, gây khó khăn cho việc truy bắt
hung thủ gây án cũng như công tác điều tra phá án.
Tố giác tội phạm là cơ sở xác định có dấu hiệu tội phạm theo quy định tại Điều 100
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 như sau: “Chỉ được khởi tố vụ án hình sự khi đã xác
định có dấu hiệu tội phạm. Việc xác định dấu hiệu tội phạm dựa trên những cơ sở sau
đây: Tố giác của công dân...”. Như vậy, khi một vụ án hình sự đã diễn ra hoặc đang diễn
ra, nếu công dân biết được thì phải tố giác với cơ quan có thẩm quyền. Nếu có dấu hiệu
của tội phạm thì cơ quan điều tra ra quyết định khởi tố vụ án hình sự ngay từ khi tiếp
nhận thông tin tố giác tội phạm, và phải ghi rõ những thông tin cần thiết về thông tin tố
giác tội phạm của công dân.
Tố giác tội phạm sẽ hạn chế xảy ra tình trạng tội phạm ẩn. Nguyên nhân của vấn đề
bỏ lọt tội phạm có nhiều, song cơ bản tập trung vào: Chủ thể của hành vi phạm tội đã sử

dụng thủ đoạn gây án mới tinh vi nhằm tránh sự phát hiện của cơ quan chức năng như
tính toán kỹ lưỡng trước, trong và sau khi gây án; hợp thức hóa hành vi phạm tội; xóa
sạch mọi dấu vết hành vi phạm tội. Người bị hại, nhân chứng không muốn tố giác hành vi
phạm tội, cung cấp tài liệu về hành vi phạm tội với cơ quan chức năng do tính chất hậu
quả hành vi phạm tội không lớn; do mối quan hệ ruột thịt, dòng họ, quan hệ công tác, cấp
trên, cấp dưới, sợ ảnh hưởng đến danh dự, nhân phẩm, sợ bị trả thù. Để khắc phục tình
trạng lọt tội phạm, thực hiện được nguyên tắc tối cao của pháp luật là “mọi hành vi phạm
tội đều phải được phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh”. Vì vậy, việc tố giác tội phạm
sẽ góp phần làm cho các hành vi phạm tội phải được phát hiện kịp thời, xử lý đúng pháp
luật, không bỏ lọt tội phạm.
1.2.2.2 Vai trò phòng, chống tội phạm trong công dân
Tố giác tội phạm không chỉ giúp cơ quan có thẩm quyền kịp thời, phát hiện xỷ lý
nhanh tránh bỏ lọt tội phạm mà còn giúp cho mối quan hệ giữa các cơ quan nhà nước và
công dân gắn bó nhau hơn, cùng đấu tranh phòng ngừa tội phạm. Công dân tố giác tội
phạm là công dân có lòng tin vào các cơ quan cơ thẩm quyền có khả năng ngăn chặn tội
phạm xảy ra. Trong quá trình xây dựng, bảo vệ tổ quốc hiện nay phải có sự chung sức
của tất cả người dân. Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi nhận được tin tố giác của


công dân phải giải quyết nhanh, để tạo niềm tin cho người dân. Khi tố giác tội phạm,
công dân muốn cơ quan có thẩm quyền phải giải quyết tin tố giác đó. Công việc đấu
tranh phòng chống tội phạm không chỉ là nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền mà là nhiệm vụ của toàn thể công dân, của toàn xã hội. Phần lớn các tin tố giác về
tội phạm là do công dân cung cấp. Nếu công dân không tố giác tội phạm thì sự chung tay
của nhà nước trong việc phòng chống tội phạm sẽ không mang lại hiệu quả cao. Công
dân là tai mắt của cơ quan công an, mọi hoạt động của tội phạm là từ trong dân, trong xã
hội.
Tố giác tội phạm là một dạng phòng ngừa tội phạm. Phòng ngừa tội phạm là hoạt
động có tổ chức, có mục đích, có sự đầu tư nhằm hạn chế sự hình thành và phát triển của
tội phạm. Thời gian qua, phòng ngừa tội phạm ở Việt Nam cũng được xây dựng thành

các chương trình, kế hoạch cụ thể bên cạnh các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế
xã hội. Có rất nhiều cách phòng, chống tội phạm trong đó tố giác tội phạm cũng là cách
phòng, chống tội phạm nhằm hạn chế sự gia tăng của tội phạm. Tố giác tội phạm không
chỉ nêu cao tinh thần phòng, chống tội phạm của công dân mà giúp các cơ quan nhà nước
cùng phòng, chống tội phạm. Như vậy, tố giác tội phạm có vai trò quan trọng trong công
tác phát hiện tội phạm, làm giảm sự gia tăng của tội phạm hiện nay, làm cho nhà nước và
công dân gắn bó nhau hơn cùng nhau đấu tranh chung vì mục tiêu giữ cho xã hội lành
mạnh, trong sạch không có tội phạm.
CHƯƠNG 2
QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ TỐ GIÁC TỘI PHẠM VÀ GIẢI
QUYẾT, KIỂM SÁT THÔNG TIN TỐ GIÁC TỘI PHẠM
Trong Chương 1, người viết đã nêu lên khái quát về công dân và tố giác tội phạm.
Ở Chương 2 người viết tập trung nêu lên các quy định hiện hành của pháp luật về tố giác
tội phạm và hoạt động giải quyết, kiểm sát thông tin tố giác tội phạm của các cơ quan
chức năng có thẩm quyền.
2.1 Quy định của pháp luật về tố giác tội phạm
2.1.1 Chủ thể tố giác tội phạm
Trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 có quy định về chủ thể cung cấp thông tin
tố giác tội phạm. Theo quy định tại Điều 101 thì: “Công dân có thể tố giác tội phạm…”.
Như vậy, theo quy định tại Điều 101 thì chủ thể tố giác tội phạm là công dân.
Theo quy định của pháp luật thì công dân là chủ thể tố giác tội phạm, nhưng “công
dân” ở đây không phải hiểu theo nghĩa hẹp là công dân Việt Nam đang sinh sống trên
lãnh thổ nước Việt Nam, mà công dân ở đây được hiểu là: Công dân bao gồm tất cả công
dân Việt Nam, bao gồm công dân Việt Nam đang sinh sống trên lãnh thổ nước Việt Nam,
công dân Việt Nam đang sinh sống và làm việc tại nước ngoài. Ngoài ra, khi người


không quốc tịch và người mang quốc tịch nước ngoài khi phát hiện hành vi vi phạm pháp
luật trên lãnh thổ nước Việt Nam thì cũng có thể tố giác người thực hiện hành vi vi phạm
pháp luật.

Như vậy, chủ thể tố giác tội phạm ở đây bao gồm: Công dân Việt Nam đang sinh
sống và làm việc tại Việt Nam hoặc tại nước ngoài, người không có quốc tịch, người có
quốc tịch nước ngoài đang sinh sống tại Việt Nam hoặc tại nước ngoài.
So sánh giữa “tố giác” với “tố cáo” trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003. Tố
giác tội phạm tại Điều 101: “Công dân có thể tố giác tội phạm với Cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát, Tòa án hoặc với các cơ quan khác, tổ chức. Nếu tố giác bằng miệng thì cơ
quan, tổ chức tiếp nhận phải lập biên bản và có chữ ký của người tố giác. Cơ quan, tổ
chức khi phát hiện hoặc nhận được tố giác của công dân phải báo tin ngay về tội phạm
cho Cơ quan điều tra bằng văn bản”. Điều 334 quy định tố cáo như sao:“Công dân có
quyền tố cáo với cơ quan, cá nhân có thẩm quyền về hành vi vi phạm pháp luật của bất
kỳ người có thẩm quyền tiến hành tố tụng nào gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại lợi
ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức”.
Như vậy, giữa tố giác tội phạm và tố cáo chỉ khác nhau ở một điểm là tố cáo thì đối
tượng là mọi hành vi vi phạm pháp luật còn tố giác thì đối tượng chỉ bao gồm tội phạm,
hành vi vi phạm pháp luật có tính nguy hiểm cao và được quy định trong Bộ Luật hình
sự. Nhưng trên thực tế, việc phân biệt hành vi vi phạm đến mức độ nào là vấn đề cực kỳ
khó khăn, nhất là đối với người dân đi tố cáo hay tố giác. Với quy định như hiện nay, khi
phát hiện một hành vi vi phạm pháp luật, người dân hoàn toàn có thể thực hiện việc tố
cáo hoặc tố giác theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
2.1.2 Quyền và nghĩa vụ của người tố giác tội phạm
Bảo vệ tổ quốc, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trọng tâm của toàn thể
dân tộc Việt Nam ta từ khi Cách mạng Tháng tám thành công. Nhiệm vụ đó không chỉ
thể hiện trong các cơ quan Nhà nước mà cần sự chung tay của mỗi công dân. Trong bối
cảnh hiện nay, nước ta đang xây dựng nền kinh tế thị trường, cùng với những thuận lợi
mà nền kinh tế thị trường mang lại, kéo theo đó là các loại tội phạm mới, có tính chất
nguy hiểm cao, sử dụng công nghệ hiện đại. Trước những diễn biến phức tạp của các loại
tội phạm thì trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước và công dân ngày càng được đề cao.
Tố giác tội phạm vừa là quyền, vừa là nghĩa vụ bắt buộc phải thực hiện của công
dân. Quyền và nghĩa vụ đó được quy định tại Điều 74 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ
sung năm 2001) quy định: “Công dân có quyền khiếu nại, quyền tố cáo với cơ quan Nhà

nước có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan Nhà nước, tổ chức
kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc bất cứ cá nhân nào…”. Việc quy


định quyền và nghĩa vụ của công dân trong Hiến pháp cho thấy Nhà nước đã nhận thức
rõ tầm quan trọng của công dân. Quyền và nghĩa vụ trong Hiến pháp được cụ thể hóa tại
Điều 25 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 là trách nhiệm của các tổ chức và công dân
trong đấu tranh phòng, chống tội phạm cụ thể là: “Các tổ chức, công dân có quyền và
nghĩa vụ phát hiện, tố giác hành vi phạm tội; tham gia đấu tranh phòng ngừa và chống
tội phạm, góp phần bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền lợi ích hợp pháp của công dân,
tổ chức”. Việc cụ thể hóa như trên tạo điều kiện cho công dân phát huy quyền và nghĩa
vụ tố giác tội phạm của mình trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Công dân
có quyền tố giác tội phạm nếu hành vi vi phạm pháp luật đó ảnh hưởng đến quyền và lợi
ích hợp pháp của mình. Còn khi quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, của công dân
khác, tổ chức bị xâm phạm thì công dân có nghĩa vụ tố giác hành vi phạm pháp đó với cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền. Quyền và nghĩa vụ đó phải được công dân sử dụng
thường xuyên vào trong tình hình đất nước hiện nay, việc công dân phát huy quyền và
nghĩa vụ của mình sẽ góp phần làm cho tình hình tội phạm ngày càng giảm. Ngoài ra,
Nhà nước cũng tạo điều kiện cho công dân thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình trong
việc tố giác tội phạm. Có như vậy, quyền và nghĩa vụ của công dân trong việc tố giác tội
phạm mới phát huy và đảm bảo được thực hiện.
2.1.3 Hậu quả của việc không tố giác tội phạm
Tố giác tội phạm là quyền và nghĩa vụ của công dân, mọi hành vi vi phạm pháp luật
được công dân phát hiện phải báo cho cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Tuy nhiên, có
một số trường hợp công dân phát hiện hành vi vi phạm pháp luật nhưng không thông báo
cho cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Những trường hợp như vậy tùy theo mức độ nguy
hiểm của loại tội phạm mà người không tố giác tội phạm sẽ bị xử lý theo pháp luật.
Người có hành vi không tố giác tội phạm không chỉ phạm tội theo quy định của Bộ luật
Hình sự mà còn tạo điều kiện cho đối tượng phạm tội trốn tránh pháp luật, gây khó khăn
cho Cơ quan điều tra trong quá trình điều tra, xử lý tội phạm.

Theo quy định ở khoản 1 Điều 314 Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm
2009) cũng quy định trách nhiệm của công dân khi thấy có hành vi vi phạm pháp luật mà
không tố giác thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba
tháng đến ba năm: “Người nào biết rõ một trong các tội phạm được quy định tại Điều
313 của Bộ luật này đang được chuẩn bị, đang hoặc đã được thực hiện mà không tố giác,
thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba
năm”.
Ngoài ra, những trường hợp không phải chịu trách nhiệm hình sự khi công dân
không thực hiện quyền và nghĩa vụ tố giác của mình với cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền. Người không tố giác là ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc


chồng của người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự về việc không tố giác các tội
xâm phạm an ninh quốc gia hoặc các tội khác là tội đặc biệt nghiêm trọng theo quy định
tại khoản 1 Điều này. Tại khoản 2 điều luật cũng nêu rõ: “Người không tố giác là ông,
bà, cha, mẹ, con, cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc chồng của người phạm tội phải chịu
trách nhiệm hình sự về việc không tố giác các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc các
tội khác là tội đặc biệt nghiêm trọng theo quy định tại khoản 1 Điều này”. Với việc quy
định như vậy là phù hợp với truyền thống, đạo đức của dân tộc Việt Nam luôn coi trọng
ông, bà, cha, mẹ, anh, em.
Người không tố giác nếu đã có hành động can ngăn người phạm tội hoặc hạn chế
tác hại của tội phạm, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt. Đây
là một quy định nhằm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhưng cũng ràng buộc nếu công
dân không tố giác tội phạm (khoản 3 điều 314).
Tuy nhiên, thời gian gần đây, trong các phiên tòa xét xử vụ án hình sự, có một thực
tế là nhiều người khi tham gia vào hành vi phạm tội nhưng lại không biết mình đang
phạm tội. Chỉ đến khi bị cơ quan điều tra triệu tập lấy cung và giải thích thì họ mới biết,
hành vi mà họ thực hiện đã cấu thành tội phạm. Sau đó, họ phải ra trước vành móng ngựa
và phải nhận bản án tù mà lẽ ra, nếu hiểu biết về pháp luật thì bản án đó đã không có với
họ. Thực tế tại các phiên tòa đã chứng minh, nhiều người khi phạm tội "không tố giác tội

phạm" có thể một phần do họ chưa ý thức đầy đủ trách nhiệm công dân, hoặc có thể cố
tình che dấu người thân có hành vi phạm tội. Việc không tố giác tội phạm có thể do nhiều
nhiều nguyên nhân, thông qua ví dụ dưới đây ta có thể hiểu thêm nguyên nhân dẫn đến
không tố giác tội phạm.
Vụ đối tượng Nguyễn Huy Hoàng, ở Hà Nội trong lúc cùng đồng bọn đi chơi do xô
xát với anh Nguyễn Văn Thành, ở quận Hai Bà Trưng trong lúc trên đường Nghi Tàm,
Hà Nội nổi máu côn đồ dùng súng K59 bắn đã vào đầu anh Thành làm anh Thành bị
thương nặng Nhưng anh Thành không chết khi bị viên đạn xuyên qua tai là do được đưa
đến bệnh viện kịp thời. Tháng 3/2010, TAND TP Hà Nội đã mở phiên tòa xét xử vụ án
này và tuyên phạt các đối tượng phạm tội mức án tương xứng với hành vi phạm tội.
Nhưng điều chúng tôi muốn nói là cả sáu đối tượng bị truy cứu trách nhiệm hình sự về
tội che giấu tội phạm và không tố giác tội phạm trong vụ án, trong đó có 2 cô gái còn rất
trẻ là Phạm Thế Ngọc và Phạm Thị Thanh Huyền đều sống ở giữa Thủ đô. Khi vụ án xảy
ra cả 6 đối tượng đều biết rất rõ hành vi phạm tội đặc biệt nguy hiểm của Hoàng và đồng
bọn, nhưng không tố giác tới cơ quan điều tra (dù rằng, các đối tượng không có quan hệ
gần gũi). Khi Hội đồng xét xử hỏi: "Vì sao biết rõ hành vi phạm tội của Hoàng và đồng
bọn nguy hiểm như thế mà các bị cáo không tố giác?". Các bị cáo trả lời: "Thưa tòa, bị
cáo nghĩ đó là việc của Công an. Và Công an sẽ bắt ai phạm tội, chứ bị cáo có phạm tội


đâu". Hội đồng xét xử hỏi tiếp. "Bị cáo có biết luật quy định, không tố giác tội phạm và
che giấu tội phạm cũng là phạm tội không?". Các bị cáo trả lời: "Thưa tòa, trước khi bị
cơ quan điều tra triệu tập do liên quan đến vụ án này thì bị cáo không biết điều đó ạ.
Trong quá trình lấy cung, bị cáo nghe điều tra viên giải thích thì lúc đó bị cáo mới biết
mình phạm tội". Trong vụ án này, đối tượng bị phạt nặng nhất là 12 tháng tù, nhẹ nhất là
6 tháng cải tạo không giam giữ8.
Như vậy, do không nhận thức được tầm quan trọng của tố giác tội phạm mà một số
người đã trở thành người phạm tội, chịu sự truy cứu của pháp luật. Đó là lỗi cố ý của
người phạm tội không tố giác tội phạm. Bởi vì điều luật quy định người phạm tội dù biết
rõ một tội phạm đang chuẩn bị, đang hoặc đã thực hiện các tội phạm này phải được liệt

kê tại khoản 1 Điều 313, mà không tố giác thì mới cấu thành tội phạm. Tuy nhiên, khi tội
phạm đó đang chuẩn bị, hoặc đang thực hiện, người không tố giác rất khó có thể xác định
được đó là tội phạm gì, có cần phải tố giác hay không. Chính vì thế, trường hợp một tội
phạm đang được chuẩn bị, hoặc đang được thực hiện mà một người biết được đã không
tố giác, chỉ cấu thành tội phạm khi người không tố giác biết rõ đó là một trong các tội
phạm được liệt kê tại khoản 1 điều 313 Bộ luật Hình sự.
2.1.4 Pháp luật về bảo vệ người tố giác tội phạm
Trong cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm hiện nay, việc bảo vệ người tố giác tội
phạm đang là một vấn đề khó khăn, vướng mắc trong hoạt động tố tụng hình sự. Đặt ra
yêu cầu với cơ quan thực thi pháp luật cần có cơ chế và các biện pháp hữu hiệu, đầy đủ
thực hiện nghiêm túc các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003. Ở nước ta,
những nguyên tắc bảo hộ tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản của công dân
đã từng bước được pháp luật ghi nhận và hoàn thiện.
Việc bảo vệ người tố giác tội phạm là một yêu cầu tất yếu của thực tiễn tư pháp ở
Việt Nam hiện nay. Theo quy định tại Điều 7 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 thì:
“Công dân có quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân
phẩm, tài sản. Mọi hành vi xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản
đều bị xử lý theo pháp luật. Người bị hại, người làm chứng và người tham gia tố tụng
khác cũng như người thân thích của họ mà bị đe dọa đến tính mạng, sức khỏe, bị xâm
phạm danh dự, nhân phẩm, tài sản thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải áp
dụng những biện pháp cần thiết để bảo vệ theo quy định của pháp luật”, khoản 3 Điều 55
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003: “Yêu cầu cơ quan triệu tập họ bảo vệ tính mạng, sức
khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của mình khi
tham gia tố tụng; Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm
8

Theo (cập nhật ngày 20/8/2010).



×