Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

Sự thâm nhập của người phương tây vào miễn điện thế kỷ XVI XVIII

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.48 MB, 107 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

HỌC
HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌCĐẠI
KHOA
HỌCQUỐC
XÃ HỘIGIA
VÀ NHÂN
VĂN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN THỊ HOA

SỰ THÂM NHẬP CỦA NGƯỜI
PHƯƠNG TÂY VÀO MIẾN ĐIỆN
THẾ KỈ XVI - XVIII

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

HÀ NỘI - 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN THỊ HOA

SỰ THÂM NHẬP CỦA NGƯỜI
PHƯƠNG TÂY VÀO MIẾN ĐIỆN


THẾ KỈ XVI - XVIII

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Lịch sử thế giới
Mã số: 60 22 50

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Hoàng Anh Tuấn

HÀ NỘI – 2015


LỜI CẢM ƠN

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới PGS.TS Nguyễn Văn Kim, Chủ nhiệm
Bộ môn Lịch sử Thế giới, các Cô giáo, Thầy giáo trong Bộ môn và Khoa
Lịch sử đã quan tâm giúp đỡ quá trình học tập của cá nhân tôi cũng như các
học viên chuyên ngành.
Trong quá trình học tập và thực hiện đề tài tôi nhận được sự giúp đỡ
rất nhiệt tình của phòng Tư liệu khoa Lịch sử trường Đại học Sư phạm Hà
Nội, phòng Tư liệu Khoa Lịch sử trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân
văn, Thư viện quốc gia Việt Nam, Thư viện Trường Đại học Khoa học Xã
hội và Nhân văn, Thư viện Viện nghiên cứu Đông Nam Á. Tôi xin chân
thành cám ơn!
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành, sâu sắc đến bạn bè, người thân, gia
đình, những người luôn ủng hộ, tạo điều kiện cho tôi trong suốt quá trình
học tập.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc tới Thầy
hướng dẫn, PGS. TS. Hoàng Anh Tuấn, người đã đồng hành, động viên và
tạo mọi điều kiện tốt nhất để tôi có thể hoàn thành đề tài của mình.
Hà Nội, tháng 10 năm 2015
Học viên


Nguyễn Thị Hoa


MIẾN ĐIỆN CUỐI THẾ KỶ XVIII

Nguồn: Historical Maps of Asia – University of Texas Libraries
[]


ĐÔNG NAM Á GIỮA THẾ KỶ XVIII

Nguồn: Historical Maps of Asia – University of Texas Libraries
[]


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

3

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4. Phương pháp nghiên cứu
5. Cấu trúc và bố cục của Luận văn

4
6

7
7

Chương 1: MIẾN ĐIỆN TRƯỚC LÀN SÓNG THÂM NHẬP
CỦA NGƯỜI PHƯƠNG TÂY THẾ KỈ XVI
1.1. Vương quốc Miến Điện trong mối liên hệ với thế giới bên ngoài đến

9

thế kỉ XVI
1.2. Sự thâm nhập của người phương Tây vào khu vực vịnh Bengal và
những chiến lược thương mại đối với Miến Điện
1.3. Tiểu kết

9
15
19

Chương 2: QUÁ TRÌNH THÂM NHẬP MIẾN ĐIỆN CỦA
NGƯỜI PHƯƠNG TÂY THẾ KỈ XVI - XVIII
2.1. Người Bồ Đào Nha

22

2.2. Người Hà Lan
2.3. Người Anh
2.4. Người Pháp
2.5. Các giáo sĩ phương Tây

34

44
55
60

2.6. Tiểu kết

64

Chương 3. MỘT SỐ CHUYỂN BIẾN XÃ HỘI Ở MIẾN ĐIỆN THẾ
KỈ XVI - XVIII DƯỚI TÁC ĐỘNG CỦA NGƯỜI PHƯƠNG TÂY

66

3.1. Chuyển biến chính trị - Quân sự
3.2. Chuyển biến kinh tế
3.3. Chuyển biến trong đời sống xã hội
3.4. Chuyển biến tư tưởng văn hóa

66
70
81
86

3.5. Tiểu kết

91
93
97

KẾT LUẬN

TÀI LIỆU THAM KHẢO

22


THUẬT NGỮ - ĐƠN VỊ ĐO LƯỜNG - CHỮ VIẾT TẮT

Thuật ngữ
-

VOC: Vereenigde Oost-Indische Compagnie - Công ti Đông Ấn Hà Lan

-

EIC: The English East India Company- Công ti Đông Ấn Anh

-

CIO: Compagnie Française des Indes Orientales - Công ti Đông Ấn Pháp

Đơn vị đo lường
-

1 guilders = 100 cent (Đơn vị tiền tệ Hà Lan cho đến khi đồng euro ra đời)

-

1 pagoda = 1,12 lạng (năm 1694)

-


1 florins = 1 quan = 1/2 lạng bạc

-

1 ell tương đương 91 cm

Chữ viết tắt
-

Tr : Trang

-

Nxb : Nhà xuất bản

-

HN : Hà Nội

-

Tp HCM : Thành phố Hồ Chí Minh


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Đông Nam Á là khu vực có vị trí trọng yếu trên tuyến đường giao thông
hàng hải quốc tế. Như một lẽ tự nhiên, vào thời đại cách mạng thương mại thế giới
thế kỉ XVI – XVIII, Đông Nam Á trở thành mục tiêu hàng đầu khi các nước châu

Âu bành trướng sang phương Đông. Tuy nhiên, khi đánh giá về vị trí cầu nối Đông
– Tây của Đông Nam Á, nhiều người có xu hướng nhấn mạnh đến vai trò của các
nước Đông Nam Á hải đảo mà xem nhẹ tầm quan trọng của các nước Đông Nam Á
lục địa, trong đó có Miến Điện. Không thể phủ nhận rằng, hoạt động thương mại ở
sườn phía tây của khu vực có phần kém sôi động hơn. Tuy nhiên, đây là một mắt
xích quan trọng được các thương nhân, giáo sĩ châu Âu tìm đến từ rất sớm, đặc biệt
là trong phát triển quan hệ thương mại và tôn giáo với Ấn Độ. Nếu bỏ qua hoặc
không chú trọng nghiên cứu về vấn đề này chúng ta sẽ không thể có được một hình
dung đầy đủ về hệ thống thương mại Đông – Tây thời kì tiền cận đại, trong đó Đông
Nam Á được coi là điểm kết nối quan trọng của hệ thống đó. Vì sao trong các thế kỉ
XVI – XVIII, người phương Tây lại không ngừng tìm cách gia tăng ảnh hưởng và
xây dựng cơ sở của mình ở miền tây Đông Nam Á lục địa nói chung và Miến Điện
nói riêng? Quá trình đó diễn ra như thế nào và đã để lại những tác động gì đối với
Miến Điện cũng như toàn bộ khu vực này? Đây sẽ là những vấn đề đặt ra để tác giả
cố gắng giải quyết trong bản luận văn thạc sĩ.
Ở Miến Điện, người phương Tây đến muộn hơn khi so sánh với các quốc gia
Đông Nam Á hải đảo, nhưng không phải vì thế mà dấu ấn của họ ở quốc gia này mờ
nhạt. Miến Điện là quốc gia giàu tài nguyên thiên nhiên, có vị trí địa lí thuận lợi nên
sớm trở thành mục tiêu quan trọng cho các nước phương Tây trong quá trình mở
rộng ảnh hưởng sang phương Đông. Ngoài ra, do nằm ven vịnh Bengal – trung tâm
thủ công nghiệp và thương mại quan trọng của lục địa tiểu Ấn - Miến Điện được
đánh giá là cửa ngõ quan trọng để phát triển quan hệ với thị trường Ấn Độ và Trung
Quốc.
Nghiên cứu về sự thâm nhập của người phương Tây vào Miến Điện khi quá
trình này mới ở giai đoạn mở rộng thương mại sẽ góp phần thấy được rõ hơn bức
tranh toàn cảnh về quá trình mở rộng, bành trướng của người phương Tây sang
phương Đông, hiểu hơn về các giai đoạn khác nhau của một quá trình, đồng thời


qua đó sẽ nêu bật được vị trí quan trọng của Miến Điện trên tuyến đường thương

mại thông ra vịnh Bengal của Ấn Độ.
Sự hiện diện của những người nước ngoài cũng góp phần làm thay đổi diện
mạo kinh tế, xã hội, những giá trị văn hóa theo cả chiều hướng tích cực và tiêu cực
ở xứ sở Chùa Vàng. Tuy nhiên, trong lĩnh vực nghiên cứu, cho tới nay số lượng
công trình còn tương đối hạn chế, nhiều vấn đề chưa sáng rõ, nhất là những chuyển
biến ở Miến Điện dưới tác động của quá trình thâm nhập của người phương Tây.
Vì vậy, bản luận văn thạc sĩ Sự thâm nhập của người phương Tây vào Miến
Điện thế kỉ XVI - XVIII sẽ cho phép chúng ta nhận thức rõ hơn về những hoạt động
của người phương Tây ở Miến Điện trong giai đoạn thế kỉ XVI – XVIII: về cơ sở,
mục tiêu, quá trình, con đường thâm nhập, tính chất thâm nhập cũng như những kết
quả người phương Tây đạt được nói chung và từng nhóm người nói riêng. Trên cơ sở
đó, đánh giá những tác động về mặt kinh tế, xã hội, văn hóa của người phương
Tây đối với Miến Điện giai đoạn thế kỉ XVI - XVIII nói riêng, đối với tiến trình
lịch sử dân tộc Miến Điện (Myanmar ngày nay) nói chung.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Lịch sử Miến Điện thực sự đã thu hút được sự quan tâm của không ít nhà
nghiên cứu quốc tế cũng như trong nước. Cho tới nay đã có một số lượng nhất định
các công trình nghiên cứu về đất nước và con người Miến Điện. Quá trình thâm
nhập của người phương Tây vào Miến Điện thế kỉ XVI – XVIII cũng đã được đề
cập ít nhiều trong những công trình nghiên cứu tổng hợp đó.
Năm 1950, nhà sử học người Anh Daniel George Edward Hall (1891-1979)
xuất bản cuốn sách với tiêu đề là Burma (Miến Điện), năm 1955 ông cho ra đời tác
phẩm A History of Southeast Asia (Lịch sử Đông Nam Á). Cuốn thứ nhất ông đã đi
khái quát lịch sử đất nước Miến Điện. Cuốn sách thứ hai viết về toàn bộ lịch sử
Đông Nam Á qua từng thời kỳ phát triển, từ khi các quốc gia sơ khai hình thành đến
thời kì các quốc gia độc lập hiện nay trong đó có đề cập tới hoạt động mang tính
cướp bóc, toan tính thực dân của người Bồ Đào Nha ở vùng Hạ Miến và có nêu vài
nét cơ bản về những nỗ lực thâm nhập của người người Hà Lan, Anh, Pháp vào
Miến Điện. Ông cũng có nghiên cứu chuyên sâu về mối quan hệ giữa Anh và Miến



Điện qua tác phẩm Early English Intercourse with Burma from the Earliest Time to
the Annexation of Thibaw’s Kingdom năm 1945.
Năm 1967, nhà sử học bản địa người Myanmar Muung Htin Aung (19091978) cho ra đời tác phẩm A History of Burma (Lịch sử Miến Điện). Đây là cuốn
sách viết về lịch sử Myanmar từ thời cổ đại tới giai đoạn hiện đại. Tác phẩm cũng
có đề cập tới mối quan hệ giữa Miến Điện với các quốc gia phương Tây.
Năm 1998, tác giả Michael W. Charney có nghiên cứu khái quát về Arakan –
vùng lãnh thổ phía tây Miến Điện qua bài viết Crisis and Reformation in a
Maritime Kingdom of Southeast Asia: Forces of Instability and Political
Disintegration in Western Burma (Arakan), 1603 – 1701. Đây là giai đoạn cuối
cùng trước khi Arakan bị sáp nhập vào Miến Điện nhưng lại là giai đoạn có nhiều
biến động khi người Bồ Đào Nha và người Hà Lan tích cực chiếm lĩnh thị trường
này.
Nhiều tác giả nước ngoài có những nghiên cứu chuyên sâu về thương mại
của người phương Tây ở Miến Điện. Tác giả Wil O. Dijk xuất bản nhiều tác phẩm,
bài viết về hoạt động của Công ti Đông Ấn Hà Lan tại Miến Điện thế kỉ XVII,
XVIII như: The VOC’s Trade in Indian Textiles with Burma, 1634-80 (2002); The
Dutch East India Company in Burma: 1634-1680 (2004); Seventeenth-Century
Burma and the Dutch East India Company, 1634-1680 (2006).
Quan hệ thương mại giữa người Anh và Miến Điện thế kỉ XVII, XVIII cũng
được nhiều tác giả đề cập như: The Trade of the English East India Company in the
Far East, 1623-1684 của D. K. Basett (1960); Trade Routes between British
Burmah and Western China của J. Coryton (1875); Trans-Burma Trade Routes to
China của John L. Christian (1940).
Năm 1968, cuốn Miến Điện của tác giả Nguyễn Bích Liên nêu một cách
khái quát về đất nước con người Myanmar. Tác phẩm này cũng đề cập ít nhiều tới
việc người phương Tây thâm nhập vào Miến Điện.
Năm 1979, nhà xuất bản Matxcơva xuất bản cuốn sách Lịch sử Miến Điện
của I.V. Mojâyco (người Nga), tác phẩm được Trường Đại học Sư phạm Hà Nội



dịch. Đây là công trình viết về Myanmar từ thời nguyên thủy cho đến những năm
gần đây, trong đó có đề cập tới mối quan hệ của Miến Điện với một số nước
phương Tây giai đoạn thế kỉ XVI - XVIII.
Năm 1988, tác phẩm Đất nước chùa vàng của Nguyễn Đình Lễ đã phần nào
giới thiệu lịch sử và văn hóa Myanma từ buổi nguyên sơ đến quá trình phấn đấu xây
dựng đất nước trong giai đoạn mới. Trong tác phẩm, tác giả có trình bày “Miến
Điện trước chính sách pháo hạm của thực dân phương Tây”.
Năm 2005, tác giả Vũ Quang Thiện cho ra đời tác phẩm Lịch sử Myanma.
Trong cuốn sách của mình, tác giả có đề cập tới một số âm mưu và hoạt động thâm
nhập của người phương Tây vào Miến Điện giai đoạn thế kỉ XVI - XVIII.
Gần đây năm 2012, Viện Nghiên cứu Đông Nam Á cho ra đời bộ sách Lịch
sử Đông Nam Á. Bộ sách là công trình lớn đề cập khá toàn diện tới các lĩnh vực lịch
sử, kinh tế, văn hóa,… của các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á. Tập IV đề cập
tới sự thâm nhập của người phương Tây cả về kinh tế và truyền giáo vào Miến
Điện. Tuy nhiên, đây là cuốn sách viết chung về Đông Nam Á nên vấn đề này cũng
chỉ được đề cập dưới dạng khái quát.
Như vậy, cho tới nay đã có một số công trình đề cập tới vấn đề sự thâm nhập
của người phương Tây vào Miến Điện thế kỉ XVI – XVIII. Tuy nhiên, các công
trình đó mới chỉ nêu lên những nét khái quát nhất. Để hiểu đầy đủ và sâu sắc về vấn
đề này cần có những nghiên cứu hệ thống hơn.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu:
Người phương Tây thâm nhập vào châu Á, Đông Nam Á nói chung bao gồm
thủy thủ, binh lính, thương nhân, nhà truyền giáo, nhà du hành… Đối với quốc gia
Miến Điện, người phương Tây gồm 3 nhóm chính: Nhóm thực dân người Bồ Đào
Nha, thương nhân và giáo sĩ.
Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi không gian: Miến Điện thế kỉ XVI - XVIII không chỉ có vương
quốc của người Miến dưới triều đại Toungoo, Konbaung mà còn có một số vương



quốc khác như Arakan, Ava, Pegu. Phạm vi đó tương đương với lãnh thổ Myanmar
ngày nay.
Phạm vi thời gian: Từ thế kỉ XVI đến hết thế kỉ XVIII. Đây là thời kì Miến
Điện từng bước thống nhất sau thời gian dài chia cắt, đưa đến sự ra đời triều đại
Tounggoo (1531 - 1752) sau đó là triều đại Konbaung (1752 – 1819) (giai đoạn độc
lập), trước khi Anh chuyển sang giai đoạn xâm chiếm thực dân (đầu thế kỉ XIX)
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng những phương pháp nghiên cứu cơ bản sau:
Phương pháp lịch sử: Là đề tài lịch sử, phương pháp chủ đạo của luận văn là
phương pháp lịch sử, thể hiện qua việc trình bày nội dung theo trình tự thời gian,
phân giai đoạn, khai thác, xử lí những tư liệu lịch sử.
Tiếp cận khu vực: Xuất phát từ thực tế quá trình thâm nhập người nước ngoài
ở Miến Điện có mối liên hệ chặt chẽ với những chiến lược, cơ sở thực tế của họ ở
những khu vực khác. Tiếp cận khu vực cho phép nhìn nhận, lí giải về quá trình đó.
Phương pháp so sánh: Tác giả sử dụng phương pháp này để thấy được
những điểm chung, điểm riêng, điểm mạnh, điểm yếu của các nhóm người phương
Tây trong quá trình thâm nhập Miến Điện. Qua đó, lí giải sự lớn mạnh, thành công
hay thất bại. Đồng thời, phương pháp này còn cho phép chúng ta đánh giá được vai
trò của họ đối với tiến trình dân tộc của Miến Điện.
Phương pháp phân tích: Qua những thông tin, sự kiện có được, tác giả tập
trung phân tích để thấy được các khía cạnh khác nhau của vấn đề. Đây là phương
pháp được sử dụng xuyên suốt trong toàn bộ luận văn.
5. Cấu trúc và bố cục của Luận văn
Ngoài phần Mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm
3 chương:
Chương 1: Miến Điện trước làn sóng thâm nhập của người phương Tây thế
kỉ XVI.



Nội dung chương này chỉ ra những nét khái quát nhất về vị trí địa lí, tài
nguyên thiên nhiên với tư cách là cơ sở cho các mối quan hệ đối ngoại của Miến
Điện. Qua đó khẳng định Miến Điện có mối liên hệ thường xuyên với bên ngoài và
được thông qua chủ yếu bằng con đường thương mại. Tiếp theo, nội dung chương
này cũng chỉ rõ: Đến thế kỉ XVI - XVII, sau khi đã xác lập được ảnh khá vững chắc
ở Đông Nam Á hải đảo, người phương Tây nói chung mở rộng và tăng cường ảnh
hưởng tới Đông Nam Á lục địa, trong đó có Miến Điện.
Chương 2. Quá trình thâm nhập của người phương Tây vào Miến Điện thế kỉ
XVI - XVIII.
Nội dung chương này trình bày quá trình thâm nhập của người phương Tây
theo từng nhóm đối tượng cụ thể, như người Bồ Đào Nha, người Hà Lan, người
Anh, người Pháp và giáo sĩ Cơ Đốc. Quá trình thâm nhập của họ luôn được đặt
trong mối quan hệ với tiềm lực và chiến lược của mỗi nhóm người phương Tây.
Chương 3. Một số chuyển biến xã hội ở Miến Điện thế kỉ XVI - XVIII dưới
tác động của người phương Tây
Nội dung chương này, tác giả tập trung làm rõ những chuyển biến về chính
trị - quân sự của Miến Điện khi người phương Tây đến đây. Đồng thời tái hiện các
nguồn sản phẩm mà người phương Tây tiến hành trao đổi, mua bán ở Miến Điện, đi
liền với quá trình trao đổi sản phẩm các tuyến buôn bán được hình thành, cũng từ
đó mà hình thành nên các đầu mối là các trung tâm kinh tế và cảng thị. Bên cạnh đó
tác giả cũng cố gắng làm sáng tỏ những chuyển biến về xã hội dưới tác động không
chỉ của những chuyển biến kinh tế mà còn ở các khía cạnh khác là hệ quả của quá
trình tiếp xúc giao lưu Đông - Tây. Ngoài ra, tác giả cũng chỉ ra những chuyển biến
về tư tưởng văn hóa của Miến Điện trong quá trình tiếp xúc giao lưu với phương
Tây.


Chương 1: MIẾN ĐIỆN TRƯỚC LÀN SÓNG THÂM NHẬP CỦA
NGƯỜI PHƯƠNG TÂY THẾ KỈ XVI

1.1. Vương quốc Miến Điện trong mối liên hệ với thế giới bên ngoài đến
thế kỉ XVI
Vương quốc Miến Điện, nay là Cộng hòa Liên bang Myanmar, một quốc gia
nằm ở phía tây lục địa Đông Nam Á. Quốc gia này tiếp giáp với Ấn Độ và
Banglades (phía tây), Trung Quốc (phía bắc và đông bắc), Lào và Thái Lan (phía
đông và đông nam), phần lớn lãnh thổ miền nam giáp vịnh Bengal của Ấn Độ
Dương. Lãnh thổ gồm phần đất liền và một số đảo, nhóm đảo trên vịnh Bengal và
biển Andaman.
Địa hình Miến Điện không đồng nhất. Núi, đồi thống trị toàn bộ cảnh quan
vùng biên giới phía bắc và phía đông; đại dương lại bao bọc phía đông, đông nam
tạo thế khép kín của đất nước này so với xung quanh.
Cũng như nhiều nước khác ở châu Á và Đông Nam Á, Miến Điện có nhiều
sông, hồ lớn. Irrawaddy, Salween và Sitaung là những con sông lớn nhất. Sông
Irrawaddy dài 3.500 km, là con đường giao thông huyết mạch, bắt nguồn từ dãy
Himalaya, đổ vào miền trung rồi chảy ra biển Andaman và chia cắt Miến Điện
thành hai phần đông và tây sông. Do đó, sông Irrawaddy là xương sống của hệ
thống giao thông quốc gia, là một trong những biểu tượng thiên nhiên giàu có và
tươi đẹp của Miến Điện, kết nối các vùng của quốc gia này. Lưu vực các con sông
sẽ là điều kiện thuận lợi cho nền văn minh bản địa ở đây hình thành và phát triển.
Nằm ở Đông Nam Á, cũng như nhiều nước trong khu vực, Miến Điện có khí
hậu đặc trưng là nhiệt đới gió mùa, với mùa đông tương đối mát, mùa xuân nóng
nực và mùa hè đầy mưa. Khí hậu ở Miến Điện tương đối ổn định, tác động hai chiều
vừa thuận lợi vừa bất lợi cho sản xuất nông nghiệp, đời sống sinh hoạt của cư dân.
Với đặc trưng của khí hậu nhiệt đới nóng ẩm, mưa nhiều, địa hình đa dạng,
Miến Điện có hệ thực, động vật phong phú và đa dạng, có cả hệ thực vật nhiệt đới,
cận nhiệt đới, thực vật ôn đới và núi cao. Về tài nguyên khoáng sản, Miến Điện là
quốc gia tương đối giàu có, trong lòng đất chứa đựng nhiều tài nguyên có giá trị.


Đất nước Miến Điện trước đây thường được mệnh danh là xứ sở của vàng, những

ông vua Miến Điện được coi là những ông vua của xứ vàng, xứ bạc. Miến Điện
cũng là nơi nổi tiếng về sản xuất hồng ngọc và đá quý. Các mỏ khoáng sản tập trung
chủ yếu ở miền núi. Cư dân Miến Điện thời cổ đại sớm biết khai thác sử dụng, chế
ra những đồ mỹ nghệ cao cấp từ các thứ vật liệu quý như thủy tinh xanh, hồng ngọc,
ngọc thạch lựu, đá thạch anh,… thành những sản phẩm nổi tiếng.
Tiến trình lịch sử của Miến Điện khởi đầu hầu như không khác nhiều so với
những gì từng diễn ra trên một số vùng lãnh thổ khác ở Đông Nam Á, với những
thời đại văn hóa đá cũ, đá giữa, đá mới, đồng thau và sắt mang những nét tương
đồng. Khoảng 2000 năm trước Công nguyên, các bộ lạc Arakan, Chin, Thái, Pin,
Shan… đã di cư, định cư ở thung lũng Irrawaddy. Khi chinh phục được sắt, vào
thiên niên kỉ I trước Công nguyên, cư dân bản địa hầu như đặt chân vào quỹ đạo
văn minh với việc ra đời các thị quốc Pyu ở khu vực miền bắc Miến Điện. Người
Pyu là một trong những dân tộc tổ tiên của người Miến.
Cũng như một số quốc gia khác ở khu vực Đông Nam Á, tiếp xúc và giao
lưu đã trở thành một quy luật tất yếu, Miến Điện cũng không thể nằm ngoài quy luật
đó. Miến Điện có chung đường biên giới với cả “thế giới Ấn Độ” và “thế giới Trung
Hoa”, có cửa khẩu mở thông ra các thế giới khác, đặc biệt gần gũi và có quan hệ
trực tiếp với Thái Lan, Lào [36; tr.267]. Mối quan hệ giao lưu và tiếp xúc đó diễn ra
trên nhiều phương diện như kinh tế, văn hóa tư tưởng, thiết chế chính trị,… theo
những cách thức, tính chất khác nhau, hoặc là chủ động hoặc là cưỡng bức. Dường
như mối liên hệ giữa Miến Điện với thế giới bên ngoài được duy trì thường xuyên
thông qua con đường thương mại.
Các mối quan hệ giao lưu văn hóa của Miến Điện với thế giới bên ngoài
được tiến hành qua cả đường bộ và đường thủy. Đi bằng đường thuỷ xa hơn so với
lộ trình đường bộ nhưng lại có nhiều thuận lợi. Do đó, từ rất sớm người Pyu, trong
quốc gia mình ở miền trung và miền bắc Miến Điện đã chọn lộ trình xuôi dòng
Irrawaddy tới Shriksetra và sau đó đi bằng đường biển về phía tây tới Ấn Độ Dương
và về phía đông tới Đông Nam Á hải đảo. Shriksetra khi đó đã phát triển thành thị
cảng lớn, là một mắt xích của hệ thống thương mại khu vực tham gia tích cực vào



thương mại quốc tế. Tàu buôn Ấn Độ ghé qua đây trao đổi sau đó đến Thaton và
các cảng Môn khác. Tại đó, hàng hóa tiếp tục được bốc dỡ, chuyển qua dải đất hẹp
miền nam đến bên kia vịnh Thái Lan tiếp tục cuộc hành trình. Hàng hóa để trao đổi
rất phong phú, gồm những đồ thủ công mĩ nghệ bằng vàng bạc, nông sản các loại,…
[50; tr.68].
Cùng thời gian đầu Công nguyên, người Môn cư trú ở miền nam Miến Điện.
Họ định cư trải dài theo bờ Ấn Độ Dương và theo bờ hai con sông lớn Irrawaddy và
Sitaung. Vài thế kỉ sau, việc buôn bán bằng đường biển tại khu vực Đông Nam Á
phát triển, nhiều hải cảng ven biển được xây dựng, thương nhân các nước buôn bán
tấp nập. Các quốc gia Môn ở duyên hải nằm trên con đường buôn bán giữa các
nước lớn, nhiều thuyền buôn cập bến của họ buôn bán, trao đổi sản vật địa phương.
Các thành thị của người Môn vào đầu Công nguyên không rộng, nhưng đó là
vùng kinh tế phát triển nhất Miến Điện. Các tài liệu lịch sử cho biết, các quốc gia
Môn sau Công nguyên đều rất phát triển và đạt đến một trình độ văn minh nhất
định. Cảng thị Taikkala là vùng biển thu hút các tàu buôn ngoại quốc đến trao đổi
hàng hóa hay lánh nạn. Thế kỷ VIII - X là thời kỳ phát triển thịnh đạt của các quốc
gia Môn, kể cả khi các quốc gia của người Pyu bị quân Nam Chiếu tấn công rồi sau
đó tan rã thì quốc gia Môn vẫn thịnh vượng và lớn mạnh. Sau khi thôn tính các quốc
gia người Pyu, quân Nam Chiếu lại tiếp tục tiến xuống phía nam. Cuộc đấu tranh
chống quân xâm lược Nam Chiếu năm 835 khiến cho các tiểu quốc người Môn
đoàn kết hơn. Điều đó thúc đẩy sự hình thành hai quốc gia lớn mạnh của người Môn
là Thaton và Pegu. Thế kỉ X các quốc gia này đạt đến đỉnh cao của sự phồn thịnh.
Đồng thời người Môn cũng tiếp thu những giá trị tư tưởng văn hóa bên ngoài, đặc
biệt là Phật giáo, Thaton trở thành trung tâm Phật giáo lớn nhất thời đó. Sau này,
trong ghi chép của mình, Ludovi de Varthema đã miêu tả: "Vương quốc Môn là một
nhà nước hùng mạnh và buôn bán phồn thịnh, toàn bộ nền kinh tế gắn với ngoại
thương" [34; tr.136].
Dưới triều đại Pagan (1044-1287), các tiểu quốc ở Miến Điện được thống
nhất, tạo thành một quốc gia thống nhất (có lãnh thổ tương đương như Myanmar

ngày nay). Pagan trở thành một quốc gia hùng mạnh ở Đông Nam Á, kinh tế văn


hóa đều có bước phát triển vượt bậc. Pangan kế thừa tất cả những gì mà Thaton để
lại. Không những thế, với tầm nhìn chiến lược của các vị vua tài giỏi, thương mại
thời kì này còn phát triển hơn nhiều so với thời kì trước. Anawrahta (1015–1078) –
vị vua đầu tiên của vương triều lên ngôi đã đặt ra nhiệm vụ là phải nắm lấy con
đường buôn bán quan trọng nhất đất nước, từ lưu vực sông Irrawaddy ra khắp các vị
trí bờ biển phía nam Miến Điện. Sau một loạt các cuộc hành quân, Anawrahta đã
hoàn thành được mục tiêu của mình một cách xuất sắc. Không những thế,
Anawrahta còn quan tâm tới việc mở rộng buôn bán với các quốc gia láng giềng.
Điều đó được chứng minh bằng việc Anawrahta đem quân đi chiếm hàng loạt các
hải cảng quan trọng. Cuộc hành quân của Anawrahta lên phía bắc, tấn công vào
lãnh thổ Nam Chiếu mà biên niên sử nhắc đến nói là để tìm chiếc răng Phật, nhưng
thực chất là để kiểm soát con đường buôn bán từ Ấn Độ đến Pagan và Trung Quốc.
Biên niên sử Miến Điện nói rằng, người Pagan là các lái buôn giỏi, họ giỏi
mời chào, chuyên mua rẻ, bán đắt. Trong sưu tập bi kí thời kì này, người ta bắt gặp
nhiều đoạn kể về các món của cải cúng tiến của những người buôn giàu có cho việc
xây dựng những công trình tôn giáo. Nguồn kinh phí để đất nước xây dựng các
công trình tôn giáo và thủy lợi trong thời kì Pagan được lấy ra chủ yếu từ thương
mại. Tầm quan trọng của các hoạt động thương mại chính là động cơ sâu xa cho các
chuyến kinh lí dài ngày của các ông vua. Họ đi khắp các miền đất nước để thăm thú
tình hình và đề ra nhiều biện pháp quan trọng nhằm phát triển kinh tế quốc gia. Hơn
nữa, đó là một lý do để những ông vua thiện chiến thực hiện mong muốn của mình
trong quá trình chinh phục các nước láng giềng, mở rộng ảnh hưởng đất nước. Vua
Alaugsithu (1090-1160) là một trong những ông vua rất chú trọng đến việc phát
triển buôn bán của vương quốc. Vì mục đích kinh tế, để việc buôn bán thuận lợi,
ông đã xúi giục người Môn (trên đất Thái Lan ngày nay) quấy rối đế quốc Ăngco và
Xâylan. Hành động này là nguyên nhân sâu xa dẫn đến sự bất đồng giữa Pagan và
Xâylan, đưa đến cuộc chiến tranh không mong muốn giữa hai nước vào những năm

60 thế kỉ XII. Vào thời gian này, Alaugsithu đã chú ý đến việc ban bố một số sắc
lệnh nhằm mục đích phát triển hơn nữa thương mại.
Thời bấy giờ, Bago (Pegu) - một cảng cửa sông, gần biển được chọn làm
kinh đô và là cảng chính của quốc gia Môn độc lập. Với vị trí nằm ở một vùng châu


thổ, trung tâm của các đầu mối giao thương lại gần biển, dễ dàng ra biển nhờ đường
sông, Bago đóng vai trò là một trạm trung chuyển, một đầu mối thương mại quốc tế
có thể kết nối làm kéo dài thêm các quan hệ thương mại giữa bên ngoài với các địa
phương nằm sâu trong nội địa [39; tr.45].
Tất cả những điều trên nói lên rằng thương mại đóng vai trò quan trọng đối
với vương quốc Pagan. Hầu hết các ông vua của vương triều đều chú ý ưu tiên phát
triển, lấy đó làm động lực cho các ngành kinh tế khác. Nhờ đó, vương quốc Pagan
có một nền kinh tế vững mạnh, trở thành một trung tâm kinh tế, thương mại lớn
trong khu vực thời bấy giờ. Nền kinh tế vững chắc đã làm nền tảng cho các lĩnh vực
văn hóa, giáo dục,…phát triển.
Vùng duyên hải Arakan nằm chắn ngang rìa phía đông của vịnh Bengal, phía
nam của Banglades ngày nay và phía tây của Miến Điện. Arakan có rất nhiều ưu thế
trong các mối quan hệ với bên ngoài, đặc biệt là việc trao đổi, buôn bán. Trước đây,
Arakan là một nước độc lập, là vùng đệm giữa thế giới Hồi giáo và Phật giáo. Với
vị thế là dải đất hẹp nằm ven biển, người Arakan hoạt động chủ yếu trên biển vùng
vịnh Bengal. Họ giỏi đi biển, có kinh nghiệm trong giao thương và việc phải thường
xuyên đối phó với những kẻ cướp trên biển đã giúp họ có nhiều kinh nghiệm trong
chiến tranh ngoài đại dương. Nguồn thu chính của đất nước này là từ thương mại
hàng hải, nô lệ và gạo. Nhờ vào lợi thế thương mại biển và được hỗ trợ thêm bởi
nông nghiệp vùng đồng bằng Danya - waddy, những vị vua đầu triều đại Mrauk-U
không ngừng mở rộng kiểm soát lãnh thổ cả về phía đông và phía tây. Ngoài ra,
Arakan còn xuất khẩu các mặt hàng như xạ hương, gôm lắc, hàng dệt đặc biệt là voi
được đưa tới bán ở Đông Ấn Độ (đặc biệt là Pulicat), Java và các nơi khác. "Arakan
là một trong những mắt xích trong sợi dây chuyền các địa điểm chủ yếu của con

đường buôn bán gia vị quốc tế. Vị trí có lợi nằm trên quãng quan trọng về mặt chiến
lược của con đường buôn bán vĩ đại đã cho phép Arakan bất chấp quy mô tương đối
nhỏ bé của mình, đóng vai trò độc lập trong chính trị châu Á thế kỉ XV" [26;
tr.133].
Trước khi người Âu đến Miến Điện, nền thương mại ở đây đã có sự góp mặt
của nhiều thương nhân châu Á. Trước thế kỉ XVI, thương nhân người Hoa hoạt


động rất mạnh mẽ ở Đông Nam Á. Dường như họ có mặt ở tất cả các quốc gia trong
khu vực và ở đâu, họ cũng có dấu ấn khá lớn trong các hoạt động kinh tế nói chung,
đặc biệt là ngoại thương. Con đường buôn bán của người Hoa được thiết lập cả trên
bộ và trên biển. Thương mại với Trung Quốc là một trong ba mạng lưới quan trọng
nhất của Miến Điện. Miến Điện kết nối Ấn Độ Dương với Trung Quốc từ các cảng
của hạ Miến Điện. Tavoy, Mergui, Tenasserim cung cấp cho Trung Quốc mặt hàng
quan trọng là tổ yến. "Cho đến trước chiến tranh Anh - Miến thương nhân Trung
Quốc đóng vai trò quan trọng và gần như độc quyền trong việc thu thập và buôn bán
tổ yến dọc theo bờ biển Tenasserim" [62; tr.35]. Sau này, khi đã thống trị Miến
Điện, người Anh mở rộng và khai thác rất mạnh tuyến thương mại này.
Nằm giữa hai nước lớn nhất ở châu Á nên cùng với người Hoa, thương nhân
Ấn Độ cũng có mặt ở Miến Điện từ rất sớm. Ở Đông Nam Á nói chung, thương
nhân người Ấn có mặt ở mọi nơi. Điểm khác với thương nhân người Hoa là họ
thường buôn bán nhỏ nên không thành lập những khu vực định cư riêng. Thương
nhân Ấn, đặc biệt thương nhân Hồi giáo hoạt động rất sôi nổi ở vùng vịnh Bengal.
Satgaon và Chittagon được coi là trạm trung chuyển của người Ấn khi vào Đông
Nam Á. Chỉ đến thế kỉ XVII, khi mà những xáo trộn về chính trị trong nước đã ảnh
hưởng rất lớn đến hoạt động kinh tế của người Ấn, trục buôn bán Bengal – Đông
Nam Á mới mất dần vai trò.
Cùng với đó, thương nhân Coromandel theo đạo Hindu, thương nhân Bengal
cũng hoạt động rất mạnh ở Miến Điện. Ngoài Xiêm, họ có mặt ở Arakan, Ava và
nhiều nơi khác. Thương nhân Hồi giáo ở thế kỉ XV đầu thế kỉ XVI vẫn thể hiện vai

trò vượt trội hơn hẳn so với người Bồ Đào Nha. Họ giữ vai trò lớn trong việc
chuyên chở, buôn bán giữa Đông Nam Á và Trung Cận Đông. Những mối quan hệ
thương mại trực tiếp và chủ yếu giữa họ với khu vực Miến Điện đã làm tăng thêm
tính sinh động của nền thương mại Đông Nam Á.
Mặc dù có thời gian hoạt động ở Đông Nam Á khá lâu dài, mức độ ảnh
hưởng đến tình hình kinh tế - thương mại và văn hóa – xã hội Đông Nam Á là có
sâu sắc nhưng dường như dấu ấn mà các thương nhân phương Đông để lại ở đây chỉ


làm đa dạng, phong phú hơn các yếu tố truyền thống chứ không tạo ra tính bước
ngoặt, làm thay đổi bộ mặt Đông Nam Á.
Người phương Tây đến khu vực này muộn hơn rất nhiều. Tuy nhiên, sự xâm
nhập mang tính hệ thống, ồ ạt cùng với các yếu tố mới của những nền văn minh xa
lạ, phát triển cao đã góp phần làm thay đổi về chất, tạo ra một diện mạo mới cho
vùng Đông Nam Á thời cận đại.
1.2. Sự thâm nhập của người phương Tây vào khu vực vịnh Bengal và
những chiến lược thương mại đối với Miến Điện
Vịnh Bengal là một trong những vịnh lớn nhất thế giới, nằm ở phía nam của
Nam Á, phía đông bắc Ấn Độ Dương. Vịnh Bengal trông giống như một tam giác,
ngày nay có ranh giới là Ấn Độ và Sri Lanka ở phía tây; Banglades và bang Tây
Bengal của Ấn Độ ở phía bắc; Myanmar cùng phần phía nam Thái Lan và quần
đảo Andaman và Nicobar ở phía đông; ranh giới phía nam được coi là đường
tưởng tượng nối từ mũi Dondra ở điểm cực nam Sri Lanka với điểm cực bắc của
đảo Sumatra, với tổng diện tích trên 2 triệu km2.
Vịnh biển Bengal cũng như nhiều vịnh biển khác trên thế giới là cầu nối giữa
lục địa với đại dương, là cầu nối giữa các khu vực khác nhau trên thế giới. Bengal
thuộc Ấn Độ Dương, nhưng lại nằm kề với Thái Bình Dương, khu vực biển Đông
Nam Á. Từ vịnh Bengal theo các cửa sông, tàu thuyền có thể đi ngược vào sâu
trong nội địa các quốc gia phía đông Ấn Độ, phía tây Đông Nam Á bán đảo. Với
một không gian như hình tam giác, ăn sâu vào trong lục địa, vịnh Bengal có đường

biên giới tiếp giáp với lục địa rất dài, vì thế có nhiều hải cảng chạy qua các vùng
kinh tế khác nhau trong nội bộ không gian vịnh cũng như mối liên hệ với thế giới
bên ngoài, đặc biệt là khu vực Đông Nam Á hải đảo.
Nhờ những yếu tố thuận lợi trên, ngay từ thời cổ, khu vực vịnh Bengal đã là
cầu nối giữa hai khu vực Ấn Độ và Trung Quốc đi qua Đông Nam Á, trong một
không gian xa hơn, là cầu nối giữa phương Đông và phương Tây. Với vị trí địa lí
như vậy, vịnh Bengal luôn diễn ra các hoạt động buôn bán sôi động. Từ rất sớm
vịnh Bengal là địa bàn hoạt động của thương nhân Ấn Độ và thương nhân Đông
Nam Á, sau đó có thêm thương nhân Ảrập. Sau khi vương quốc Ayuthaya ra đời


(1350), cùng với tiến trình phát triển mở rộng, Ayuthaya cố gắng vươn lên và
kiểm soát khu vực chuyển tiếp giữa vịnh Bengal (Ấn Độ Dương) với khu vực
Đông Nam Á hải đảo (Thái Bình Dương). Tuy nhiên, chủ thể của khu vực này
thay đổi khi người phương Tây xuất hiện.
Các cuộc phát kiến địa lí lớn cuối thế kỉ XV, đầu thế kỉ XVI do người Bồ
Đào Nha và Tây Ban Nha đi tiên phong đã mang lại những hệ quả kinh tế lớn lao
không chỉ đối với hai nước trên mà còn với cả châu Âu và thế giới. Trước phát kiến
địa lí, thị trường buôn bán của châu Âu còn hạn chế, việc buôn bán với phương
Đông phải qua môi giới của người Arập. Sau phát kiến địa lí người châu Âu đã mở
ra con đường biển sang phương Đông và thiết lập các căn cứ của mình dọc theo bờ
biển từ tây sang đông.
Bồ Đào Nha là quốc gia tiên phong trong các cuộc thám hiểm lớn và thu
được những thành quả to lớn nhất. Người Bồ thiết lập những cơ sở kinh tế và căn cứ
quân sự ở nhiều vị trí quan trọng trên thế giới. Năm 1509, Bồ Đào Nha đã tấn công
Malacca nhưng thất bại. Năm 1510, Bồ Đào Nha chiếm Goa thiết lập cơ sở kinh tế
và quân sự ở đây, sau đó đã tăng cường đẩy mạnh tái chiếm thành công Malacca
năm 1511. Năm 1557, người Bồ thiết lập được cơ sở của mình ở Ma Cao, rồi sau đó
thiết lập cơ sở ở Nhật Bản. Đó là các căn cứ vững chắc cho lực lượng hải quân tiến
hành kiểm soát quá trình đi lại và thu thuế các tàu buôn. Những hàng hóa chính mà

châu Âu đang có nhu cầu cao gồm hương liệu, xạ hương, đá quý, ngọc trai, dược
liệu. Các đại diện buôn bán của người Bồ cạnh tranh với thương gia Ấn. Ở Đông
Nam Á, người Bồ hoạt động mạnh, ngoài lái buôn còn có những toán vũ trang hành
nghề cướp bóc trên biển và làm lính đánh thuê.
Tây Ban Nha là thế lực phương Tây thứ hai hiện diện ở Đông Nam Á. Tuy
nhiên, sức mạnh và thế lực của người Tây Ban Nha có nhiều hạn chế ở đây. Sau
nhiều nỗ lực, họ cơ bản chỉ khống chế được Philippine. Dù có nhiều cố gắng mở
rộng ảnh hưởng xuống khu vực quần đảo Indonesia nhưng họ không mấy thành
công. Ở khu vực vịnh Bengal, Ấn Độ Dương người Tây Ban Nha không có ảnh
hưởng đáng kể. Đến thế kỉ XVII, có thêm những thế lực phương Tây mới là người
Hà Lan và Anh.


Tiếp thu những kinh nghiệm của Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Hà Lan, sau là
Anh, Pháp đã sử dụng một dạng kinh tế mới, một phương thức kinh doanh mới, ở
trình độ cao, là các công ti cổ phần. Đây là một tổ chức kinh tế - thương mại mạnh,
đủ sức để tiến hành các hoạt động buôn bán mạo hiểm, rủi ro cao. Các công ti này
có thể tập hợp nhiều nhà đầu tư ở mọi nơi và được nhà nước cho độc quyền thương
mại, do đó, có thể huy động một khối lượng vốn lớn trong kinh doanh. VOC của Hà
Lan và EIC của Anh là hai đại diện tiêu biểu, hoạt động rất hiệu quả ở Đông Nam Á
nói chung, khu vực vịnh Bengal và Miến Điện nói riêng.
Vào cuối thế kỉ XVI, đội ngũ thương nhân Hà Lan đã trở nên hùng hậu, sự
buôn bán độc quyền của người Bồ Đào Nha khiến cho nhu cầu buôn bán trực tiếp
với phương Đông trở nên cấp thiết. Năm 1602, công ti Đông Ấn Hà Lan (VOC)
được thành lập, và ngay sau đó Ban Giám đốc chủ trương xây dựng chiến lược kinh
doanh lâu dài ở phương Đông nhằm cạnh tranh với người Bồ Đào Nha và người
Anh. Mục tiêu xuyên suốt của công ti là xây dựng một hệ thống các thương điếm
liên hoàn, trải dài từ mũi Hảo Vọng (Nam Phi) đến vùng Viễn Đông (Nhật Bản).
Trước đó, năm 1600 người Anh cũng đã thành lập Công ti Đông Ấn Anh (EIC)
nhưng hoạt động của người Anh trong suốt nửa đầu thế kỉ XVII không thực sự nổi

bật do tiềm lực tài chính hạn chế.
Sau khi công ti Đông Ấn Hà Lan thành lập, Hà Lan vươn lên nhanh chóng.
Tốc độ bành trướng thương mại và thuộc địa của người Hà Lan thế kỉ XVII là rất
nhanh và có quy mô. Nhưng trước kháng lực của các vương quốc Hồi giáo, cho đến
cuối thế kỉ, họ cũng chỉ làm chủ được vùng Mulaccas, Macasa và phần lớn đảo Java
chứ chưa làm chủ được đảo Sumatra, Climantan và nhiều đảo khác. Nửa sau thế kỉ
XVII, người Anh sau đó là người Pháp cũng đẩy mạnh bành trướng ở Đông Nam Á
hải đảo và giành những thành công nhất định.
Như vậy, có thể nói, thế kỉ XVI - XVII, người phương Tây đã thâm nhập sâu
rộng vào khu vực Đông Nam Á hải đảo và xác lập ảnh hưởng tương đối vững chắc
ở khu vực này. Mỗi quốc gia có xác lập ảnh hưởng trên những khu vực khác nhau.
Trước thực trạng như vậy, người phương Tây nói chung quan tâm hơn tới khu vực
Đông Nam Á bán đảo.


Trong tương quan với khu vực Đông Nam Á hải đảo, vùng Đông Nam Á lục
địa chưa thực sự là địa bàn hấp dẫn khi người phương Tây thâm nhập vào phương
Đông. Căn nguyên của hiện thực lịch sử trên là vì: Đông Nam Á lục địa không thực
sự nổi tiếng về các loại hương liệu - lực hấp dẫn chính đối với thương nhân phương
Tây. Bên cạnh đó, các thương nhân phương Tây thời gian này rất chú trọng tới
Trung Quốc và Nhật Bản bởi đây là hai thị trường tiêu thụ rộng lớn, đặc biệt Nhật
Bản lúc bấy giờ là quốc gia sản xuất lượng bạc lớn - một thương phẩm đem lại lợi
nhuận cao.
Khu vực vịnh Bengal tuy không hấp dẫn người phương Tây bằng khu vực eo
biển Malacca, rộng hơn là Đông Nam Á hải đảo nhưng tiềm năng buôn bán là
không hề nhỏ. Khu vực vịnh Bengal cũng có nhiều loại sản phẩm của miền nhiệt
đới như một số loại hương liệu xạ hương, xa nhân, nhục đậu khấu,…; và sản phẩm
kim loại quý như vàng, bạc, hồng ngọc,…. Khu vực này cũng là nơi tạo ra một số
hàng thủ công nổi tiếng, nhất là những sản phẩm của ngành dệt. Rất nhiều sản phẩm
dệt bông của Ấn Độ phong phú về chủng loại. Bờ biển Coromandel nổi tiếng về vải

hoa, vải hoa sặc sỡ mà sau này châu Âu buôn nhiều, vải bông trắng Bengal cũng rất
được ưa chuộng. Bengal cũng xuất khẩu sang Maclacca những khối lượng lương
thực không hạn chế như gạo, đường, thịt khô muối, rau ướp, gừng. Malacca phải
dựa hoàn toàn vào lương thực nhập khẩu 13; tr.349.
Ngoài những sản phẩm tiêu dùng kể trên, Bengal còn là nơi cung cấp sức
người cho các khu vực khác. Trong con mắt của một bộ phận thương nhân, nô lệ
cũng là nguồn hàng hóa buôn bán có lợi. Sở dĩ Bengal có nô lệ vì ở đây chế độ phân
biệt đẳng cấp khá rõ nét. Nô lệ là đẳng cấp thấp nhất trong xã hội, bị tước đoạn mọi
quyền tự do, tự chủ. Nhiều thương nhân buôn bán nô lệ thu được nguồn lợi lớn.
Những nô lệ này được bán đi nhiều nơi, làm nhiều công việc khổ cực như mở
đường, khai mỏ hay làm nông nghiệp trong các vùng sản xuất nông nghiệp, v.v.
Nhờ vào nguồn gỗ tếch dồi dào, chất lượng cao, các hải cảng ở khu vực vịnh
Bengal còn là nơi có tiềm năng cho ngành đóng tàu phát triển. Tại các hải cảng này,
người ta đóng các thuyền mành bằng gỗ tếch, chất đầy lúa gạo và mía chở đến
Malacca để bán cả tàu và hàng. Trong đó, tại các hải cảng của Miến Điện, hàng năm


có tới 15 hay 16 thuyền mành loại 3 hoặc 4 cột buồm được gửi đến Malacca để bán,
thuyền mành lớn có khả năng vận chuyển không dưới 400 tấn gạo, ngoài ra còn có
20 đến 30 thương thuyền loại nhỏ 13; tr.349-350.
Bengal không chỉ là nơi cung cấp hàng hóa buôn bán mà còn là nơi nhập
khẩu một số sản phẩm từ bên ngoài. Một số quốc gia khu vực có nhu cầu về vũ khí
để tiến hành những cuộc chiến tranh, cũng như cần đến một số sản phẩm tiêu dùng
như đồ gốm sứ và hương liệu từ khu vực Đông Nam Á. Như vậy, Bengal luôn là
một thị trường mở, buôn bán hai chiều, hứa hẹn những lợi ích không hề nhỏ cho
thương nhân phương Tây.
Là một tất yếu, sau khi thâm nhập vào các vùng thuận lợi, trước sức mạnh
và xu thế rộng mở, các quốc gia phương Tây tìm đến những vùng đất ít tiềm năng
hơn mà trước đây không để tâm nhiều. Miến Điện là nước ở phía tây Đông Nam Á
lục địa, đã nằm trong chiến lược mở rộng đó. Thế kỉ XVI - XVIII chứng kiến sự

thâm nhập buôn bán và truyền giáo tích cực hơn của người Bồ Đào Nha, Hà Lan,
Anh và Pháp ở các quốc gia Đông Nam Á bán đảo.
Trong chiến lược của người phương Tây, khi thâm nhập vào Miến Điện họ
chú trọng tới vùng Hạ Miến. Vị trí địa lí và điều kiện tự nhiên ở Miến Điện có ảnh
hưởng rất lớn tới quá trình hội nhập của quốc gia này với thế giới bên ngoài. Nếu
như núi đồi thống trị toàn bộ cảnh quan các vùng biên cương phía bắc, đông, tây
cản trở sự giao lưu với các quốc gia láng giềng thì miền nam Miến Điện lại hoàn
toàn khác. Miền nam Miến không chỉ là vùng châu thổ lớn và màu mỡ mà còn nằm
trên con đường thương mại hàng hải Tây – Đông, nơi đón nhận những điều kiện
thuận lợi để phát triển kinh tế, đặc biệt là ngoại thương.
1.3. Tiểu kết
Với vị trí nằm ở Đông Nam Á bán đảo và nằm giữa hai nền văn minh lớn là
Ấn Độ và Trung Hoa, cùng với nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, Miến Điện
có nhiều cơ sở để sớm thiết lập những mối quan hệ giao lưu tiếp xúc với thế giới
bên ngoài. Quá trình giao lưu đó được diễn ra từ rất sớm chủ yếu thông qua con
đường thương mại ở cả con đường bộ đi qua miền Bắc và con đường biển phía nam.
Trong đó, chủ yếu vẫn là đường biển. Đặc biệt, khi sang phương Đông, dù là


thương nhân, các nhà hàng hải hay giáo sĩ, kị sĩ người Âu đều ôm “giấc mộng
vàng” thì Miến Điện – nơi được biết đến là “đất vàng”, chắc chắn sẽ thu hút được
sự chú ý của người phương Tây.
Trong thực tế, từ giữa thế kỉ XVI, Miến Điện giữ vị trí quan trọng trong một
số mạng lưới thương mại chiến lược: Kết nối thương mại Ấn Độ Dương với Trung
Quốc từ các cảng ở hạ Miến Điện; kết nối thương mại Ấn Độ Dương với các vùng
nội địa tới Lan Na qua Martaban; kết nối thương mại Ấn Độ Dương với miền nam
biển Đông thông qua các tuyến đường thương mại xuyên bán đảo trên vùng đất ven
biển Tenasserim.
Đối với Bồ Đào Nha, Miến Điện có vị trí quan trọng trong chiến lược chung
ở phương Đông, là điểm dừng chân trên con đường đến các đảo gia vị. Đây là cơ sở

để người Bồ củng cố ảnh hưởng ở khu vực quần đảo hương liệu ngoài hải đảo và
qua Miến Điện, sẽ dễ dàng thâm nhập vào Trung Quốc để xây dựng cầu buôn bán tơ
lụa.
Đối với Hà Lan, giữa thế kỉ XVII nước này đã rất cố gắng trong việc chiếm
lĩnh thị trường của thương nhân bản xứ và gạt bỏ tàu bè các nước châu Âu khác
xung quanh khu vực Ấn Độ. Trên khu vực vịnh Bengal và bờ biển Coromandel, Hà
Lan xây dựng nhiều cơ sở thương mại và rất nỗ lực để cạnh tranh với thương nhân
Ấn Độ, A Rập. Những trung tâm buôn bán sẽ là những địa điểm thu mua và trung
chuyển các loại hàng hóa cần thiết cho lợi nhuận cao đối với người Hà Lan. Chiến
lược kiểm soát khu vực vịnh Bengal thể hiện rất rõ qua các hoạt động thương mại
của Hà Lan. Trước mắt Arakan sẽ là nguồn cung cấp gạo cho Batavia.
Người Anh sau đó nhận thức rất rõ những thuận lợi về hải quân của Miến
Điện do tiếp giáp với Bengal. Mặt khác, Miến Điện còn là nơi có nhiều sản phẩm
như gỗ tếch, gạo, thuốc phiện, ngà voi. Quan trọng hơn, đây còn là lãnh thổ lí tưởng
có ý nghĩa chiến lược để mở con đường vào thị trường Trung Quốc từ Đông Nam Á
lục địa.
Dự nhập muộn màng vào hệ thống thương mại thế giới, đến đầu thế kỉ XVIII
Pháp mới quan tâm đến Miến Điện. Tuy nhiên, Pháp có lợi thế của người đến sau
nên họ đã nhìn ra ngay nguồn tài nguyên gỗ tếch ở đây. Mục tiêu lập trạm sửa chữa,


×