Tải bản đầy đủ (.doc) (44 trang)

Quy trình nuôi tôm thẻ chân trắng(P.vannamei) công nghiệp tại công ty cổ phần Phú - Thành - Đạt, Bố Trạch - Quảng Bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (535.68 KB, 44 trang )

I.

ĐẶT VẤN ĐỀ

Nghề nuôi tôm ở Việt Nam đã và đang phát triển mạnh trong những năm
gần đây. Tôm chân trắng (P. vannamei) là đối tượng nhập nội, có nguồn gốc từ
châu Mỹ. Đây là đối tượng mới có triển vọng phát triển rộng rãi ở nhiều nước
châu Á. Ưu điểm của tôm thẻ chân trắng là thịt thơm ngon, giàu dinh dưỡng, thời
gian tăng trưởng ngắn, năng suất cao đặc biệt trong phương pháp nuôi thâm canh
( công nghiệp), thích nghi được với biên độ nhiệt độ nước và độ mặn rộng. Tôm
thẻ còn là đối tượng có giá trị kinh tế cao, thị trường rộng.
Cũng như các nghề sản xuất khác đòi hỏi tính kỹ thuật cao, nghề nuôi trồng
thủy sản trong đó có nghề nuôi tôm thẻ chân trắng bắt buộc người nuôi phải mỗi
ngày cập nhật kiến thưc của mình, vấn đề cốt lõi là sử dụng công nghệ sinh học
nào tối ưu để vừa có lợi nhuận vừa bảo vệ môi trường sống cho thế hệ đời sau.
Nuôi công nghiệp (nuôi thâm canh) là hình thức nuôi đòi hỏi đầu tư cao, quản lý
chặt chẽ nhưng ưu việt của nó là tiết kiệm được số lượng lớn diện tích và cho
năng suất cao nhất. Vì vậy việc tìm hiểu quy trình nuôi là vấn đề rất cần thiết và
hữu ích nhằm áp dụng cải tiến kỹ thuật vào thực tế, nâng cao năng suất khi nuôi
theo mô hình công nghiệp, đồng thời vẫn quản lý được chất lượng môi trường và
phát triển ổn định.
Xuất phát từ yêu cầu thực tế trên trong đợt thực tập tốt nghiệp cuối khóa,
được sự đồng ý của tổ bộ môn Thủy sản, khoa Nông - Lâm - Thủy sản, Trường
đại học Quảng Bình, tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: " Quy trình nuôi tôm thẻ
chân trắng(P.vannamei) công nghiệp tại công ty cổ phần Phú - Thành - Đạt,
Bố Trạch - Quảng Bình ".
- Mục tiêu của đề tài : Tìm hiểu, đánh giá và hoàn thiện kỹ thuật nhằm nâng
cao năng suất và phát triển ổn định quy trình nuôi tôm thẻ chân trắng công
nghiệp tại Quảng Bình.
- Các nội dung được thực hiện trong đề tài :
+ Tìm hiểu quy trình nuôi tôm thẻ chân trắng (P.vannamei) công nghiệp tại


công ty cổ phần Phú - Thành - Đạt.
+ Đánh giá kết quả về quản lý môi trường trong hệ thống nuôi.
+ Đánh giá hiệu quả của quy trình.

1


II : TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Điều kiện tự nhiên của huyện Bố Trạch - Quảng Bình.
2.1.1. Vị trí địa lý
Huyện Bố Trạch có diện tích 2.123,3 km2 Phía Bắc giáp huyện Tuyên Hóa
và huyện Quảng Trạch, phía Tây Bắc giáp huyện Minh Hóa, phía Đông Nam
giáp Thành Phố Đồng Hới, phía Nam giáp huyện Quảng Ninh, phía Đông giáp
Biển Đông, phía Tây giáp tỉnh Khăm Muộn thuộc Lào.
Sông chảy qua huyện này có sông Son, sông Dinh, sông Lý Hòa.
2.1.2. Điều kiện khí hậu
Huyện Bố Trạch thuộc tỉnh Quảng Bình nằm ở vùng nhiệt đới gió mùa và
luôn bị tác động bởi khí hậu của phía Bắc và phía Nam và được chia làm hai
mùa rõ rệt:
- Mùa mưa từ tháng 9 đến tháng 3 năm sau. Lượng mưa trung bình hàng
năm 2.000 - 2.300mm/năm. Thời gian mưa tập trung vào các tháng 9; 10 và 11.
- Mùa khô từ tháng 4 đến tháng 8 với nhiệt độ trung bình 24 oC - 25oC. Ba
tháng có nhiệt độ cao nhất là tháng 6; 7 và 8.
2.2. Tình hình kinh tế - xã hội của cơ sở nghiên cứu
2.2.1. Tổ chức bộ máy hành chính
Tổ chức bộ máy của công ty Cổ phần Phú Thành Đạt bao gồm: 1 giám
đốc, 2 phó giám đốc, 1 kế toán và 10 công nhân.
Cơ sở thực tập là một trại nuôi thuộc khu thực nghiệm nuôi tôm công
nghiệp thuộc công ty, bao gồm 1 nhân viên kỹ thuật nuôi trồng thuỷ sản và 12
công nhân.

2.2.2. Cơ sở vật chất kỹ thuật của cơ sở
- Cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất
+ Hệ thống ao chứa nước: Số lượng 2 ao, diện tích 5000 m2
+ Hệ thống ao nuôi: Số lượng 16 ao, diện tích mỗi ao 2500 m2.
- Các trang thiết bị phục vụ cho trại sản xuất
- Hệ thống điện lưới
- Hệ thống thuỷ lợi, bơm nước
2


- Hệ thống quạt nước
- Một số công trình và trang thiết bị phụ trợ khác.
2.2.3. Tình hình sản xuất kinh doanh của trại
Đối tượng nuôi của trại là tôm thẻ chân trắng. Trại chính thức đi vào hoạt
động từ 15/2/2008, với nguồn post mua từ công ty cổ phần chăn nuôi C.P Việt
Nam. Doanh thu vụ nuôi đầu là khoảng 2 tỷ đồng. Thị trường tiêu thụ tương đối
ổn định. Việc thu mua tôm thịt chủ yếu là thương nhân trong và ngoài tỉnh.
2.2. Đặc điểm sinh học tôm chân trắng
2.2.1. Hệ thống phân loại
Tôm chân trắng (Tên tiếng Anh: White Leg Shrimp) được định loại là:
Ngành:
Arthropoda
Lớp:
Crustacea
Bộ:
Decapoda
Họ:
Penaeidea
Giống: Litopenaeus
Loài: Litopenaeus vannamei, Boone 1931.

2.2.2. Đặc điểm phân bố và nguồn gốc.
Tôm chân trắng (Litopenaeus vannamei) có nguồn gốc từ vùng biển xích
đạo Ðông Thái Bình Dương (biển phía Tây Mỹ La tinh), phân bố chủ yếu ở ven
biển Tây Thái Bình Dương, châu Mỹ, từ ven biển Mexico đến miền trung Pêru,
nhiều nhất ở biển gần Ecuador . Hiện nay tôm chân trắng đã có mặt hầu hết ở các
khu vực ôn và nhiệt đới bao gồm Đài Loan, Trung Quốc và các nước ven biển
thuộc khu vực Đông Nam Á.[2].
2.2.3 Đặc điểm sinh trưởng
Cũng như các loài tôm he khác, tôm chân trắng phát triển qua 4 giai đoạn ấu
trùng chính là Nauplius, Zoea, Mysis, Postlarvae
Giai đoạn Nauplius: Nauplius không cử động được trong khoảng 30 phút,
sau đó bắt đầu bơi và rất dễ bị lôi cuốn bởi ánh sáng. Nauplius thay vỏ cả thảy 4
lần ( N1 đến N5 ) mỗi lần kéo dài 7 giờ ( theo các nhà sinh học Đài Loan thì có
đến 6 giai đoạn ). Trong thời kỳ này ấu trùng cứ bơi một đoạn rất ngắn rồi lại

3


nghỉ và lại tiếp tục bơi. Không cần cho Nauplius ăn, chúng tự nuôi sống bằng
noãn hoàng có sẵn.
Giai đoạn Zoea: sau N5 ấu trùng chuyển sang giai đoạn Zoea, giai đoạn này ấu
trùng bơi liên tục, bắt đầu sử dụng thức ăn bên ngoài, chủ yếu là thực vật phù du.
Zoea thay vỏ hai lần từ Z1 tới Z3 trong 5 ngày, mỗi lần kéo dài 36 giờ
Giai đoạn Mysis: thời kỳ này ấu trùng qua 3 giai đoạn (M 1, M2, M3). Mỗi
giai đoạn kéo dài 24 giờ. Mysis ăn cả thực vật phù du lẫn động vật phù du. Trong
khi Nauplius có khuynh hướng bơi gần mặt nước thì Mysis bơi hướng xuống sâu
và bơi ngược, đuôi đi trước, đầu đi sau.
Giai đoạn Postlarvae: sau thời kỳ này thì tôm con đã có đủ các bộ phận,
chúng dần dần hướng ra biển, rời xa các cửa sông và trở thành Juvenile. Từ đây
tôm trưởng thành

Tôm nhỏ thay vỏ cần vài giờ, tôm lớn cần 1 - 2 ngày. Tốc độ lớn thời gian
đầu 3g/tuần lễ (mật độ nuôi 100 con/m2), tới cỡ 30g tôm lớn chậm dần (1g/tuần
lễ). Tôm cái thường lớn nhanh hơn tôm đực.[2]
2.2.4. Tập tính sống
Tôm chân trắng sống ở vùng biển tự nhiên có các đặc điểm: đáy cát, độ
sâu 0 - 72m; nhiệt độ nước ổn định từ 25 - 32 0C , độ mặn từ 28 - 34 0/00, pH từ
7,7 - 8,3
Tôm trưởng thành phần lớn sống ở ven biển gần bờ, tôm con ưa sống ở các
khu vực cửa sông giàu sinh vật thức ăn. Ban ngày tôm vùi mình trong bùn, ban
đêm mới bò đi kiếm ăn. Tôm chân trắng có sự thích nghi rất mạnh đối với sự
thay đổi đột ngột của môi truờng sống.[2]
2.2.5. Đặc điểm dinh dưỡng
Tôm chân trắng là loài tôm ăn tạp. Giống như các loài tôm he khác, thức ăn
của nó cũng cần thành phần: protid, lipid, vitamin và muối khoáng...thiếu hay
không cân đối đều ảnh hưởng đến sức khỏe và tốc độ lớn của tôm. Khả năng tiêu
tốn thức ăn của tôm chân trắng rất cao, trong điều kiện nuôi lớn bình thường,
lượng cho ăn chỉ cần bằng 5% thể trọng tôm (thức ăn uớt). Trong thời kỳ tôm
sinh sản đặc biệt là giữa và cuối giai đoạn phát dục của buồng trứng thì nhu cầu
về lượng thức ăn hằng ngày tăng lên gấp 3 - 5 lần.
4


Thức ăn cần hàm lượng protein 35% là thích hợp, (tôm sú cần 40%, tôm he
Nhật Bản cần 60% protein).[2]
2.2.6. Đặc điểm sinh sản
Mùa vụ sinh sản: Trong tự nhiên, người ta thường bắt gặp tôm cái ôm
trứng quanh năm. Tuy nhiên, mùa sinh sản còn phụ thuộc vào vị trí địa lý và điều
kiện tự nhiên từng vùng. Ở ven biển phía Bắc Ecuador, tôm đẻ từ tháng 3 – 8,
nhưng đẻ rộ từ tháng 4 – 5. Ở Peru, mùa tôm đẻ từ tháng 12 đến tháng 2 năm
sau.

Giao vĩ: Tôm he chân trắng là loài có Thelycum hở nên tôm thành thục
hoàn toàn mới tiến hành giao vĩ. Thời gian giao vĩ thường trước lúc tôm đẻ 2
h.Trứng thụ tinh sau 14 – 16 h thì nở ra Nauplius. Quá trình biến thái của ấu
trùng trải qua nhiều giai đoạn. Trong đó có: 6 giai đoạn Nauplius, 3 giai đoạn
Zoea, 3 giai đoạn Mysis và giai đoạn Post larvae.
Sức sinh sản: Tôm chân trắng là loài thành thục sớm, tôm cái có khối
lượng 30 – 45 g là có thể tham gia sinh sản. Sức sinh sản thực tế khoảng 10 – 25
vạn trứng/tôm mẹ.
Trong sản xuất, người ta dựa vào các đặc điểm trên để cho sinh sản nhân tạo và
ương nuôi ấu trùng tôm chân trắng. Đặc điểm giao vĩ cho phép ta dự báo tương
đối chính xác thời điểm tôm đẻ. Đặc điểm quá trình biến thái giúp ta quản lý,
chăm sóc ấu trùng trong quá trình ương nuôi. Dựa vào sức sinh sản thực tế, ta có
thể lựa chọn số tôm bố mẹ cho đẻ trong một vụ sản xuất giống.[3]
2.3. Những nghiên cứu về ảnh hưởng của các yếu tố sinh thái đến khả năng
sinh trưởng và phát triển tôm chân trắng
2.3.1. Nhiệt độ
Tôm cũng như hầu hết các loài động vật sống dưới nước thuộc loại máu
lạnh, nhiệt độ cơ thể thay đổi theo nhiệt độ môi trường, vì vậy nhiệt độ là yếu tố
quan trọng ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và phát triển của tôm. Nhiệt độ ảnh
hưởng tới nhiều phương diện trong đời sống của tôm: hô hấp, tiêu thụ thức ăn,
đồng hoá thức ăn, miễn nhiễm đối với bệnh tật, sự tăng trưởng...[5].

5


Nhiệt độ thường thay đổi theo mùa, ngày đêm và mỗi vùng miền khác nhau.
Thông thường nhiệt độ nước trong ngày thấp nhất vào lúc 2 đến 5 giờ sáng, cao
nhất vào buổi chiều lúc 14 giờ đến 16 giờ chiều. Tôm có thể chịu đựng sự thay
đổi nhiệt độ 0,2oC/phút, nhưng khi nhiệt độ thay đổi đột ngột 3 – 4 oC hoặc vượt
quá sẽ gây sốc thậm chí còn gây chết. Nhiệt độ thích hợp cho tôm loại Penaeus

spp tại các ao hồ nhiệt đới khoảng 28 – 30 oC. Các thí nghiệm ở Hawaii cho thấy
tôm chân trắng sẽ chết nếu nhiệt độ môi trường nước thấp hơn 15 oC, cao hơn
33oC trong 24 giờ hoặc lâu hơn nữa, tôm sẽ ngạt nếu nhiệt độ khoảng 15 – 22 oC
và 30 – 33oC. Với tôm chân trắng nhiệt độ chấp nhận được là 23 – 30 oC, trong
khoảng nhiệt độ này độ lớn của tôm cũng tuỳ giai đoạn tăng trưởng của tôm. Thí
nghiệm cho biết, lúc còn nhỏ (1gr) tôm lớn nhanh hơn ở 30 oC, khi tôm lớn hơn
(12 – 18gr) tôm lại lớn nhanh nhất ở nhiệt độ 27oC thay vì 30oC như lúc còn nhỏ.
Khi tôm lớn hơn nữa mà nhiệt độ lại cao hơn 27 oC thì môi trường nước này hoàn
toàn bất lợi cho sự tăng trưởng.[5];[6].
2.3.2. Độ mặn
Đây là yếu tố mà chúng ta có thể điều chỉnh được nếu có nguồn nước ngọt
và nước mặn dự trữ. Độ mặn có thể nuôi tôm chân trắng từ 10 – 30 ppt, tuy
nhiên nếu độ mặn cao quá hoặc thấp quá cũng không tốt, nếu độ mặn cao
(>30ppt) thì tôm rất chậm lớn, vì độ mặn cao hàm lượng các khoáng cũng rất
cao, do đó sẽ làm cho quá trình lột xác của tôm gặp nhiều khó khăn, nếu tôm đã
tới chu kỳ lột xác mà không lột được thì sẽ không phát triển và chậm lớn. Hơn
nữa nước mặn là môi trường thuận lợi cho sự phát triển của các bệnh do vi khuẩn
vibrio gây ra, đặc biệt là bệnh phát sáng. Độ mặn tốt nhất cho sự phát triển của
tôm chân trắng từ 10 – 25 ppt
Nếu độ mặn thấp (< 10 ppt) cũng không tốt, dễ phát sinh bệnh, vì trong
nước ngọt thiếu các khoáng (Na, Ca, Cl, Fe, Cu, P, Mn…). Đây là những khoáng
chất cần thiết cho sự tạo vỏ của tôm, nếu thiếu chúng tôm sẽ không tạo được vỏ.
[1].
2.3.3. pH
pH của nước ao rất quan trọng, nó ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp đến tôm
nuôi và phiêu sinh vật. pH là một trong những chỉ tiêu quan trọng để đánh giá
6


chất lượng nuớc ao nuôi. Khi pH biến động thì sẽ ảnh hưởng tới các quá trình

sinh lý, sinh hoá trong cơ thể tôm, làm ảnh hưởng các yếu tố khác trong ao như
tảo, khí độc…pH phù hợp cho ao nuôi là 7.5 – 8.5, khoảng dao động trong một
ngày không được quá 0.5.[1].
Một vài chức năng của cơ thể tôm có thể bị ảnh hưởng trực tiếp do pH quá
cao hay quá thấp hay do sự biến động của nó, và như vậy, dĩ nhiên sẽ có hại đến
tôm. pH thấp thường làm tổn thương phụ bộ và mang cũng như gây trở ngại cho
việc lôt xác và làm tôm bị mềm vỏ
NH3 và H2S là hai loại khí độc hoà tan trong nước. Các loại khí độc này hiện
diện trong ao dưới hai dạng: dạng khí có tính độc cao và dang ion thì ít độc hơn.
Tỷ lệ giữa dạng khí và dạng ion bị ảnh hưởng bởi độ pH. Khi pH cao, NH 3 dạng
khí sẽ nhiều và ít H2S hơn. Khi pH thấp thì H2S dạng khí nhiều và ít NH3 dạng
khí.[7].
2.3.4. Độ kiềm
Độ kiềm là số đo tổng của carbonate và bicarbonate. Chúng có tác dụng
quan trọng trong nước thông qua khả năng làm giảm sự biến động của pH, hạn
chế các chất độc có sẵn trong ao nhằm không gây sốc cho tôm. Độ kiềm ảnh
hưởng rất lớn đến quá trình lột xác của tôm, độ kiềm cao làm cho tôm khó lột
xác nhưng nếu độ kiềm nước ao thấp làm tôm khó cứng vỏ mỗi khi lột xác.
Trong nuôi tôm chân trắng, độ kiềm rất quan trọng vì chu kỳ lột xác của chúng
rất ngắn và thường xuyên, sau mỗi lần lột xác chúng sẽ hấp thụ một lượng lớn độ
kiềm trong nước để sử dụng trong việc kiến tạo vỏ mới, do đó việc kiểm tra độ
kiềm thường xuyên trong ao là rất cần thiết nhất là khi tôm lớn. Độ kiềm thích
hợp trong ao nuôi tôm từ 80 – 130 mg/l. [9];[6]
2.3.5. Oxy hòa tan (DO)
Hàm lượng oxy thích hợp là rất cần thiết cho một ao nuôi tốt ở cả hai hệ
thống nuôi năng suất thấp và cao. Tác hại do hàm lượng oxy thấp tuỳ thuộc vào
hàm lượng oxy có trong ao, thời gian và số lần tôm phải chịu đựng tình trạng đó.
Ở nồng độ oxy nhỏ hơn 4mg/l tôm vẫn bắt mồi bình thường nhưng chúng tiêu
hóa thức ăn không hiệu quả. Hàm lượng oxy thấp như thế có thể ảnh hưởng đến
tôm và dẫn đến tăng tính cảm nhiễm bệnh. Tỷ lệ chuyển hoá thức ăn giảm và khả

7


năng cảm nhiễm bệnh tăng sẽ làm giảm lợi nhuận. Nếu hàm lượng oxy giảm
thấp hơn nữa (2 – 3mg/l) thì tôm sẽ ngừng bắt mồi và yếu đi nhiều. Hàm lượng
oxy thích hợp cho tôm sinh trưởng và phát triển là lớn hơn 5mg/l.[7];[6]
2.3.6. Độ trong
Độ trong của nước ở các ao nuôi chủ yếu phụ thuộc vào số lượng và đặc
tính khối chất cái bao gồm các sinh vật sống trong tầng nước và thể vẩn lơ lửng.
Giới hạn cho phép về độ trong từ 25 – 50 cm, nó thay đổi theo tuổi tôm, khi mới
thả tôm vào thì yêu cầu độ trong cao 40 – 50 cm, nhưng khi tôm lớn độ trong sẽ
thấp 25 – 30 cm. Độ trong quá lớn sẽ lập tức ảnh hưởng tới tôm, khi đó tôm rất
dễ bị sốc, tôm chậm lớn, phân đàn, ít ăn và dễ nhiễm bệnh, đồng thời đáy ao dễ
sinh lab lab. Nếu độ trong quá thấp (nước có màu đậm) thì rất dễ ảnh hưởng đến
hoạt động hô hấp của tôm nhất là vào ban đêm, nguyên nhân chính là do tảo về
ban ngày sẽ quang hợp nhưng về ban đêm chúng sẽ hô hấp và làm giảm oxy
trong nước. Độ trong thấp thì mang tôm rất dễ bị tổn thương (đen mang, vàng
mang) hay nhớt thân. Màu tảo đậm là nguyên nhân làm dao động pH giữa ngày
và đêm rất lớn.[9]
2.3.7. Các khí hoà tan
* CO2
Khí CO2 đóng vai trò quan trọng trong đời sống của vùng nước. CO2 là bộ
phận cơ bản tham gia vào sự tạo thành chất hữu cơ trong quá trình quang hợp.
Nếu CO2 tồn tại dưới dạng khí tự do ở nồng độ cao sẽ không có lợi cho tôm. Do
chênh lệch giữa áp suất trong nước và trong máu tôm.[6]
* Hợp chất của Nitơ
Gồm 3 chất chính: amonia (NH4+), nitrite (NO2) và nitrate (NO3-).
Amonia: Trong ao hồ, amonia xuất hiện như một sản phẩm do sự biến
dưỡng của động vật trong nước cũng như từ sự phân huỷ các chất hữu cơ với tác
dụng của vi khuẩn. Trong nước amonia được phân chia làm 2 nhóm: nhóm NH 3

(khí hoà tan) và nhóm NH4+ (ion hoá).
Chỉ có dạng NH3 của amonia là gây độc cho tôm, NH3 có tính độc cao hơn
NH4+ từ 300 đến 400 lần. Sự phân chia này chịu ảnh hưởng của pH, nhiệt độ và
độ mặn nhưng pH ảnh hưởng quan trọng hơn cả. Nếu tăng 1 đơn vị pH thì sẽ
8


tăng 10 lần tỷ lệ của NH 3. Độ độc của amonia gây ra không đáng ngại lắm trong
ao tôm vì thực vật phiêu sinh (phytoplankton) sẽ giữ cho độ độc này ở mức thấp,
tuy nhiên nếu ao hồ có mật độ cao quá thì mức NH 3 vẫn có thể xuất hiện. Mức
độ NH3 thay đổi về ban đêm đáp ứng sự thay đổi của pH và nhiệt độ. Dưới tác
dụng của vi khuẩn, amonia sẽ bị biến đổi thành nitrite (NO 2) (bởi Nitrosomonas
bacteria) rồi nitrate (NO3-) (bởi Nitrobacter bacteria)
Hình thức nitrate thường vô hại, nhưng trong môi trường nước mà lượng
chlorinity thấp thì nitrite sẽ gây độc cho tôm. Nitrite gây độc chính yếu là tạo
thành chất methemoglobin và giảm sự chuyển oxygen tới tế bào.[6]
* Hydro sulfide (H2S)
Hydro sulfide là một chất khí, được tạo thành dưới điều kiện kỵ khí
(anaerobic condition). Cũng tương tự như amoni, hydro sulfide chia làm 2 nhóm:
nhóm H2S (khí) và HS- (ion). Chỉ có dạng H2S là chất độc. pH rất có ảnh hưởng
tới độ độc của H2S, ví dụ: Với ao hồ có pH = 5 và ở 24 0C người ta thấy 99,1%
Hydro sulfide dưới dạng H2S, trong khi đó ở độ pH=8 với cùng nhiệt độ 24 0C lại
chỉ có 8% lượng Hydro sulfide dưới dạng chất độc.[6]
2.4. Tình hình nuôi tôm chân trắng trên thế giới và Việt Nam
2.4.1. Tình hình nuôi tôm chân trắng trên thế giới
Trên thế giới, sản lượng tôm chân trắng đứng hàng thứ hai sau tôm sú
nhưng ở châu Mỹ sản lượng tôm chân trắng đứng hàng đầu, đạt 86.000 tấn
(1990), 132.000 tấn (1992), 191.000 tấn (1998) và đạt gần 200.000 tấn năm
1999.[2].
Ecuador coi nuôi tôm chân trắng là ngành sản xuất lớn, sản lượng tôm nuôi

chiếm 95% tổng sản lượng của khu vực châu Mỹ, năm 1991 là 103.000 tấn. Năm
1993, do gặp dịch bệnh hội chứng Taura (Taura Symdrome Virus) sản lượng
giảm còn 1/3, sau 2-3 năm khôi phục lại đạt 120.000 tấn (1998), 130.000 tấn
(1999) rồi lại gặp đại dịch bệnh đốm trắng còn 35.000 tấn (2000).[2]
Một số nước như Mexico, Panama, Eelize, Peru, Colombia… cũng có tình
hình phát triển tương tự Ecuador. Sau khi được nhiều nước Châu Mỹ nuôi nhân
tạo thành công và có hiệu quả cao, tôm chân trắng được di giống sang Hawaii .
9


Từ đây tôm chân trắng lan sang Châu Á, Đông Nam Á. Nhiều nước Đông Nam
Á đã nhập tôm chân trắng để nuôi như: Philippin, Inđônêsia, Malaixia, Thái Lan,
Việt Nam... với hy vọng đa dạng hóa các sản phẩm tôm xuất khẩu để nhằm tránh
tình trạng chỉ trông cậy phần lớn vào tôm sú hiện nay. Tôm chân trắng được nhập
khẩu vào Châu Á vì người ta nhận thấy một số loại tôm bản địa chủ yếu hiện đang
được nuôi cho năng suất thấp, mức độ tăng trưởng chậm và có khả năng mang
bệnh. Việc khoanh vùng nuôi tôm chân trắng khép kín và sự phát triển của các
dòng giống tôm chân trắng chọn lọc và thuần hóa đã đưa tôm chân trắng trở thành
đối tượng quan tâm lớn của ngành nuôi tôm thời kỳ hiện nay. Trên phạm vi toàn
cầu, tôm chân trắng đang chiếm tới 2/3 tổng sản lượng tôm nuôi toàn thế giới. Ở
châu Á, trong giai đoạn từ 2001-2006, tôm sú chỉ duy trì ở một sản lượng nhất
định, thì tôm chân trắng nhảy vọt lên 1,5-1,6 triệu tấn (năm 2006) và đạt 1,8 triệu
tấn (năm 2009). Đặc biệt, việc gia tăng nhanh sản lượng tôm chân trắng là do các
nước đã sản xuất được tôm bố mẹ sạch bệnh và áp dụng các biện pháp khoa học
công nghệ nâng cao năng suất, chất lượng tôm. Đặc biệt ở Thái Lan trong năm
2004 sản lượng tôm chân trắng đã đạt tới 300.000 tấn, chiếm tỷ lệ cao trong sản
xuất tôm biển với sản lượng chiếm xấp xỉ 80%. Khảo sát tại Thái Lan cho thấy,
nước này đã chuyển sang nuôi tôm chân trắng đời thứ 7, sạch bệnh. Người nuôi
tôm ở Thái Lan đã nuôi thành công tôm chân trắng cỡ lớn (vượt tôm sú), có ưu thế
vượt trội về năng suất, đạt 25-30 tấn/ha/vụ; lợi nhuận thu được cao gấp 2-3 lần so

với tôm sú. Sản lượng tôm nuôi của Thái Lan năm 2008 đạt 533.000 tấn, gồm
160.000 tấn tôm sú và 373.000 tấn tôm chân trắng. Còn tại Philippines, Bộ Nông
nghiệp nước này cũng đã dỡ bỏ lệnh cấm nhập khẩu và nuôi tôm chân trắng ở
nước này sau những nghiên cứu kỹ lưỡng cho thấy việc nuôi tôm chân trắng hiệu
quả cao, lại không đe dọa môi trường, góp phần đa dạng sinh học. Tôm chân trắng
được thế giới công nhận là một trong ba loài tôm he nuôi có nhiều ưu điểm và sản
lượng cao nhất với nhiệt độ và độ mặn rất rộng, có thể nuôi theo nhiều hình thức
bán thâm canh, thâm canh và nuôi công nghiệp trong các ao đầm nước mặn lợ.
2.4.2. Tình hình nuôi tôm thẻ chân trắng ở Việt Nam
10


Theo thống kê của Viện Kinh tế và Quy hoạch thủy sản, từ cuối năm
2000, tỉnh Ninh Thuận thành công với mô hình nuôi tôm trên cát. Với vài ha lúc
đầu, chỉ sau 2 năm, diện tích nuôi tôm tăng lên 200 ha, dẫn đầu cả nước về diện
tích nuôi tôm trên cát. Từ sự thành công của Ninh Thuận, hàng loạt các tỉnh
duyên hải Miền Trung đều kêu gọi được những dự án lớn đầu tư vào nuôi tôm
trên cát. Trong đó nổi lên là dự án đầu tư hơn 2.200 ha để nuôi tôm trên cát của
công ty Việt Mỹ tại Quảng Trị và dự án 2.000 ha nuôi tôm trên cát tại Lệ Thủy
(Quảng Bình).
Cũng trong thời gian đó, Bộ Thủy Sản (nay là Bộ Nông Nghiệp và Phát
Triển Nông Thôn) đã khuyến cáo người dân không nên phát triển rộng diện tích
tôm thẻ chân trắng vì lo sợ sự phát triển thiếu bền vững, phần khác do nhiều
doanh nghiệp chế biến thủy sản xuất khẩu chưa quan tâm đến mặt hàng này.
Tuy nhiên, trong bối cảnh thị trường thế giới đang có nhiều biến động, xu
thế tiêu dùng các nước chuyển sang tiêu thụ tôm thẻ chân trắng của Thái Lan,
Trung Quốc, sản phẩm tôm sú nuôi của Việt Nam bị cạnh tranh mạnh trên thị
trường thế giới. Ở trong nước diện tích nuôi tôm sú bị nhiễm bệnh ngày càng
nhiều, hiệu quả sản xuất thấp.
Do vậy, ngày 25/1/2008, Bộ NN&PTNT đã ban hành Chỉ thị số 228/CTBNN&PTNT cho phép nuôi tôm thẻ chân trắng tại vùng ĐBSCL nhằm đa dạng

hóa sản phẩm thủy sản xuất khẩu, giảm bớt áp lực cạnh tranh, đáp ứng được nhu
cầu tiêu dùng của các nước trong khu vực và trên thế giới. Từ một số mô hình
nuôi thành công, hiện tôm chân trắng đang ngày càng được các hộ nuôi thủy sản
quan tâm và phát triển.
Theo số liệu thống kê của Cục Nuôi trồng Thủy sản, tính đến hết tháng 6 –
2008 diện tích nuôi tôm thẻ chân trắng của Việt Nam đã đạt hơn 12.400 ha và đã
thu hoạch hơn 12.300 tấn [8].
Năm 2009, kế hoạch nuôi tôm nước lợ của cả nước là 400 ngàn tấn, đối
tượng nuôi chính vẫn là tôm sú. Hiên nay, Bộ NN và PTNT có chủ trương phát
triển tôm thẻ chân trắng theo quy hoạch ở các tỉnh Nam Bộ. Tuy nhiên, vùng
11


nuôi chủ yếu vẫn là các tỉnh Miền Trung và Miền Bắc, các tỉnh phía nam còn
đang ở dạng thăm dò. Đặc điểm của tôm thẻ chân trắng là sống ở tầng nước giữa,
không vùi mình trong bùn như tôm sú nên tôm thẻ thích hợp với chất đáy cát.
Nhiều ý kiến cho rằng nuôi tôm thẻ ở vùng ĐBSCL sẽ kém hiệu quả hơn Miền
Trung. Vì chất đáy bùn sét ảnh hưởng tới việc lấy thức ăn và hoạt động sống,
hạn chế tới sự sinh trưởng của chúng.[9]
2.4.3. Tình hình nuôi tôm thẻ chân trắng ở Quảng Bình.
Nuôi trồng thuỷ sản là lĩnh vực được tỉnh Quảng Bình rất chú trọng phát
triển và được xem là ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh nhà. Toàn tỉnh có 15000
ha diện tích mặt nước có khả năng phát triển nuôi trồng thuỷ sản, trong đó 4000
ha có khả năng phát triển nuôi trồng thuỷ sản nước lợ, 11000 ha có khả năng
phát triển nuôi trồng thuỷ sản nước ngọt. Tổng sản lượng nuôi trồng đạt 4000 tấn
(năm 2005); Dự đoán năm 2010 đạt 38000 – 39000 tấn [10]. Riêng nuôi trồng
thuỷ sản nước mặn, lợ đến nay tổng diện tích toàn tỉnh Quảng Bình là 1622 ha,
với sản lượng nuôi 3320 tấn (trong đó tôm chiếm 92% sản lượng), còn lại là các
loại thuỷ sản khác như: cua, rô phi, cá mú, cá chẽm. Trong đó diện tích nuôi vụ 1
gần 1200 ha (nuôi tôm sú 600 ha, nuôi tôm thẻ chân trắng 600 ha), tập trung chủ

yếu ở huyện Quảng Trạch (466 ha), Bố Trạch (440 ha), thành phố Đồng Hới
(200 ha), Quảng Ninh (120 ha).
Năm 2009, các hộ nuôi và các đơn vị tham gia đã thả khoảng 500 triệu con
tôm giống (cả 3 vụ) gồm: 63 triệu con tôm sú loại Post 15 và 487 triệu con tôm
thẻ chân trắng, nhưng 6 trại giống trên địa bàn tỉnh có khả năng sản xuất và dịch
vụ được khoảng 65 triệu con (trong đó sản xuất được 17.7 triệu Post 15 tôm sú),
chiếm 24.5% lượng tôm giống cung ứng trên địa bàn.[10]
Bước sang năm 2010, Uỷ ban nhân dân tỉnh đã chỉ đạo chuyển đổi một số
diện tích nuôi tôm sú hiệu quả thấp sang nuôi tôm thẻ chân trắng dưới hình thức
thâm canh và bán thâm canh nhằm tránh tổn thất do dịch bệnh

12


III : NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Địa điểm, thời gian và đối tượng nghiên cứu
3.1.1. Địa điểm nghiên cứu
Tại công ty cổ phần Phú - Thành - Đạt, Bố Trạch - Quảng Bình
3.1.2. Thời gian nghiên cứu
Từ ngày 14/02 đến ngày 08/05/2011.
3.1.3. Đối tượng nghiên cứu
Tôm thẻ chân trắng _Penaeus vannamei Boone,1931.
3.2. Nội dung nghiên cứu.
Sử dụng 3 ao nuôi : A1, A2, A3. Mỗi ao có diện tích 2500m2.
* Sơ đồ khối nội dung nghiên cứu :
Quy trình nuôi tôm thẻ chân trắng
(Penaeus vannamei) công nghiệp

Hệ thống công
trình phụ trợ


Kỹ thuật nuôi tôm thương phẩm

Chẩn
bị ao

Chọn
giống

thả
giống

Các
biện
pháp
chăm
sóc và
quản lý

Theo
dõi tốc
độ tăng
trưởng
và tỷ lệ
sống

Đánh giá hiệu quả kinh tế
13
Kết luận


Thu
hoạch


Hình 3.1 : Sơ đồ khối nội dung nghiên cứu
3.3. Phương pháp nghiên cứu
3.3.1. Phương pháp thu thập số liệu
 Thu thập số liệu thứ cấp:
Số liệu thứ cấp được lấy từ các tài liệu, tạp trí khoa học - công nghệ,
sách báo, các phương tiện thông tin đại chúng và kết quả nghiên cứu đã công bố
của các cơ quan chức năng.
 Thu thập số liệu sơ cấp:
Số liệu sơ cấp được thu thập thông qua trực tiếp trong thực tập, phỏng
vấn, tìm hiểu từ cán bộ kĩ thuật, công nhân làm việc tại công ty.
3.3.2 Thiết bị và phương pháp kiểm tra các yếu tố môi trường:
Bảng 3.1 : Các thiết bị đo thông số môi trường
STT
1
2
3
4
5
6

Yếu tố
Dụng cụ
o
Nhiệt độ ( C) Nhiệt kế thủy ngân (±1oC)
pH
pH test kit (phương pháp so

màu ±0,3)
Độ kiềm
Aqua Base (phương pháp so
(mgCaCo3/L) màu ±20)
Độ mặn(‰) Khúc xạ kế (±1)
Độ
Đĩa Secchi (±1)
trong(cm)
DO(mgO2/L) Máy đo O2 (±0,1)

Thời gian đo
7h và 14h
6h - 7h và 14h
- 15h
6h – 7h

Số lần đo
hàng ngày
hàng ngày
5ngày /lần

6h – 7h
5 ngày/lần
6h - 7h và 14h 5 ngày/lần
- 15h
19h – 20h
hàng ngày

3.3.3. Phương pháp xác định tốc độ tăng trưởng và tỷ lệ sống
Sau 20 ngày kể từ khi thả giống, dùng sàng ăn. Sau 30 ngày kết hợp giữa

sàng ăn và chài tôm để xác định tỷ lế sống và lấy mẫu để xác định khối lượng và
chiều dài. Định kỳ 15 ngày lấy mẫu kiểm tra tăng trưởng một lần
* Theo dõi khối lượng
14


- Chài tôm, đếm số tôm trong chài, cân tổng khối lượng tôm chài được từ đó xác
định khối lượng trung bình của tôm, chài 3 điểm bất kỳ trong ao rồi lấy kết quả
trung bình

- Khối lượng được cân bằng cân bàn (g)
- Tốc độ tăng trưởng khối lượng (g/con/ngày)
Gw =

W 2 − W1
T2 − T1

W 1 ,W 2 là khối lượng trung bình của tôm ở lần đo thứ nhất và thứ hai
T1, T2 là thời gian của lần đo thứ nhất và thứ hai
Gw là tốc độ tăng trưởng về khối lượng
* Theo dõi chiều dài
- Dùng thước có chia vạch (mm) đo chiều dài của 30 con tôm sau đó lấy kết
quả trung bình
- Tốc độ tăng trưởng chiều dài (cm/con/ngày).
GL =

L 2 − L1
T2 − T1

- L1 , L 2 là chiều dài trung bình của tôm ở lần đo thứ nhất và thứ hai

- T1, T2 là thời gian của lần đo thứ nhất và thứ hai
- GL là tốc độ tăng trưởng tuyệt đối về chiều dài
* Tỷ lệ sống.
Xác định tỷ lệ sống dựa vào sàng ăn và số tôm thu được trong mỗi lần chài
tôm. Công thức tính tỷ lệ sống theo số tôm chài được như sau:
TLS (%) =

Số tôm trong chài x diện tích ao

Diện tích chài x số tôm ban đầu
* Hệ số chuyển đổi thức ăn (FCR):
Wf
FCR cả vụ =
W2 - W1
Trong đó:
Wf: Khối lượng thức ăn sử dụng trong suốt vụ nuôi (kg).
W1: Khối lượng tôm thả ban đầu (kg).
W2: Khối lượng tôm lúc thu hoạch (kg).
3.3.4 Hiệu quả kinh tế
Lợi nhuận = Tổng thu – Tổng chi
15


Tổng thu = Tổng khối lượng tôm x đơn giá tại thời điểm thu hoạch
Tổng chi = Tiền con giống + thức ăn + thuốc, hóa chất + nhân công + khấu
hao tài sản + chi phí khác.
3.3.5. Phương pháp phân tích và xử lý số liệu
Số liệu được xử lý bằng phần mềm Excel 2003.
IV . KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
4.1. Một số hệ thống công trình phụ trong quá trình nuôi

4.1.1. Hệ thống ao nuôi:
- Ao nuôi được xây dựng phù hợp với điều kiện thực tế, diện tích ao nuôi
3000m2/ao
- Bờ ao rộng 2m, độ sâu nước trong ao nuôi từ 1.5-2.m. Bờ và đáy ao
được lót bạc chống thấm HDPE loại tốt. Dọc bờ ao phải xây dựng 01 hố ga dạng
hình hộp với kích thước 1.5m x 1m x 2m để đưa nước thải từ ao nuôi ra ao xử lý.
4.1.2. Hệ thống cấp nước mặn, lợ:
- Nước mặn, lợ được lấy trực tiếp từ biển, cách khoảng 5m. Nguồn nước
ngọt được khoan sâu xuống dưới biển. Bố trí các máy bơm để bơm nước lên.
- Hệ thống cấp nước: Được xây dựng bằng hệ thống ống nhựa HDPE .
Gồm 3 máy bơm nước mặn và 2 máy bơm nước ngọt. Từ hệ thống cấp này, mỗi
ao có đường ống nhánh để cho nước vào ao nuôi.
- Toàn bộ hệ thống ao nuôi (kể cả ao chứa lắng, ao xử lý nước thải) được
lót bạt chống thấm và đảm bảo cao trình phù hợp cho việc cấp và thoát nước hiệu
quả, tránh nước thấm lậu xuống nền cát gây mặn hóa nước ngọt ngầm.
4.1.3. Hệ thống thoát nước và xử lý nước thải:
Ao xử lý nước thải được bố trí theo cụm, mỗi ao nuôi có hệ thống thoát
nước bằng ống PVC có đường kính từ 100-200mm được nối vào các hố ga xây
dựng dọc theo bờ ao. Từ hố ga nước thải được thu gom về ao xử lý chung của
từng cụm theo đường ống thoát (Φ từ 120-200mm) hoặc ống BTCT D300-400.
Sau khi được lắng và xử lý đạt tiêu chuẩn, nước thải sẽ đưa ra biển bằng tuyến
ống BTCT D600. Tuyến cống tiêu nước thải sẽ được bố trí âm dưới đất.
4.2. Kỹ thuật nuôi thương phẩm tôm thẻ chân trắng
16


4.2.1. Chuẩn bị ao
Đây là khâu quan trọng trong quy trình nuôi tôm thương phẩm, khâu này
có vai trò quan trọng đến việc thành công hay thất bại của một vụ nuôi. Chuẩn bị
được nền đáy sạch, nguồn nước tốt, thích hợp là những mục đích hàng đầu của

khâu chuẩn bị ao nuôi. Tuy nhiên, việc chuẩn bị ao nuôi nói chung là không
phức tạp do đối tượng này thích nghi rộng với các yếu tố môi trường, ít bị bệnh.
Ngoài ra việc chuẩn bị ao nuôi cũng tùy theo từng vùng, từng nền đáy khác nhau
mà có cách làm khác nhau.
4.2.1.1. Cải tạo ao
Cải tạo đáy ao là công tác chuận bị ao nuôi đóng vai trò quan trọng, ảnh
hưởng trực tiếp tới chất lượng môi trường nước cũng như hiệu quả sản xuất của
vụ nuôi. Việc cải tạo ao nhằm đưa lượng mùn bã hữu cơ đã tích tụ từ vụ nuôi
trước ra ngoài, loại bỏ những chất thải và mần bệnh nhằm tạo điều kiện thuận lợi
cho tôm sinh trưởng và phát triển. Công tác cải tạo tùy thuộc vào ao mới đưa vào
sản xuất lần đầu hoặc ao đã qua sử dụng để có biện pháp cải tạo phù hợp.
- Đối với ao mới:
Sau khi trải bạt, lắp cầu và máy quạt nước xong thì cho nước vào ao (mực
nước từ 30 – 40 cm) để loại các độc tố từ bạt chống thấm vào môi trường nước. Sau 2 3 ngày thì xả cạn để rửa ao.
- Đối với ao cũ:
Sau khi thu hoạch, dùng bơm để hút chất thải ra ngoài ao chứa. Tiến hành
tu sửa lại bạt (hàn các chỗ rách).Phải xịt rửa sạch ao trước khi cấp nước vào.
4.2.1.2. Chuẩn bị nước
Sau khi cải tạo ao xong, nước được cấp vào ao từ ao lắng để xử lý (mực
nước cấp từ 1,2 – 1,5 m). Nguồn nước ở đây đã được điều chỉnh các thông số
thuỷ lý, thuỷ hoá khá phù hợp với sinh trưởng và phát triển của tôm và điều kiện
tương đương với nguồn tôm giống ở nơi sản xuất. Khi đã cấp đủ nước vào ao
nuôi, mở máy quạt nước chạy liên tục sau 3 ngày để các ấu trùng nở thì tiến hành
xử lí xử lý nước bằng các hóa chất diệt khuẩn như: Cleanr 80, Soludine 50%,
Chlorine 30ppm ...

17


Thường dùng Chlorine 30ppm với lượng 20kg/ao 4200m 2 tạt xuống ao và

đồng thời mở máy quạt nước liên tục 2-3 ngày để đảo đều thuốc khắp ao, với tác
dụng : xử lý sạch chất lượng nước, diệt mầm bệnh, các loài cá tạp, động vật gây
hại trong ao, lắng đọng các chất bẩn xuống đáy ao.
4.2.1.3. Gây màu nước
Màu nước là màu của nước được thể hiện dưới ánh sáng mặt trời. Các yếu
tố hợp thành màu của nước là các ion kim loại, mùn bã hữu cơ tan trong nước,
bùn đáy, chất huyền phù, chất keo, đặc biệt là các loại sinh vật sống trong nước
nhất là các tảo đơn bào. Màu nước đậm hay nhạt là thể hiện các chất hữu cơ nói
trên và mật độ các loại tảo có trong nước nhiều hay ít. Thực chất là quá trình tạo
môi trường thuận lợi cho tảo phát triển, tảo quang hợp mạnh sẽ cung cấp nhiều
ôxy cho ao, làm thức ăn bổ sung cho tôm. Ngoài ra còn có tác dụng ổn định nhiệt
trong ao nuôi tôm.
Sau khi xử lý nước bằng chlorine 7 – 10 ngày, ta tiến hành gây màu nước
bằng dung dịch men gây màu với liều lượng 20 Lít/500m 2. Sau 10 ngày không
thấy tảo phát triển thì gây màu lại như trên.
Cách ủ men:
 Thức ăn 4S: 4 kg
 Nước biển: 200 Lít
 Supper vs: 1 Lít
Dung dịch được ủ trong thùng nhựa có đậy nắp kín, sau 1 tuần thì sử dụng được.
4.2.2. Chọn giống và thả giống
4.2.2.1. Chọn giống
Tôm giống đạt tiêu chuẩn là yếu tố quan trọng giúp cho tỉ lệ sống của tôm
được nâng cao. Mục đích của việc chọn giống là tìm những đàn tôm có tỷ lệ
sống cao, tăng trưởng nhanh, kháng bệnh tốt.
Tốt nhất nên mua tôm giống ở các trại đáng tin cậy và tôm giống lấy từ lần
đẻ thứ nhất, thứ hai và thứ ba. Khi chọn tôm giống cần quan sát.[4]
- Tôm đều cỡ, râu và phụ bộ đầy đủ, không có chất bẩn bám.
- Tôm không bị dị hình, chuỷ đầu và phụ bộ không bị ăn mòn, không bị
đen.

18


- Các cơ đầy đặn và có màu trong.
- Ruột đầy thức ăn, tạo thành một đường màu nâu nằm dọc theo sống lưng.
- Tôm bơi lội linh hoạt ngược lại với dòng nước khi bị khuấy động và
phản ứng rất nhanh với kích thích từ bên ngoài.
- Được kiểm tra để phát hiện mầm bệnh: vi rút, vi khuẩn, nấm, kí sinh
trùng. Đặc biệt phải được chạy PCR để phát hiện một số vi rút gây bệnh nguy
hiểm như: đốm trắng, taura.
Có thể dùng Formol để kiểm tra: chọn 100 – 150 con tôm giống gây sốc
bằng Formol 100 – 200 ppm, có sục khí. Sau khoảng 2h ta tiến hành kiểm tra,
nếu:
+ Tôm chết < 5% thì chọn mua giống.
+ Tôm chết > 5% thì không mua giống.
Ở trại lấy giống của công ty CP - chi nhánh Bình Định:
+ Kích cỡ giống: PL 10.
+ Chiều dài trung bình: 0,6 – 0,7 cm.
+ Chất lượng giống: tốt.
4.2.2.2. Thả giống
Sau khi các yếu tố môi trường đã phù hợp cho sự sinh trưởng và phát triển
của tôm, ta tiến hành thả giống.
- Địa điểm thả giống là bờ ao, gần quạt nước giúp tôm phân tán đều
trong ao. Khi thả giống nên bật 3 – 4 dàn quạt.
- Mật độ thả: 160 con/ m2.
Bảng 4.1 : Các yếu tố môi trường ao nuôi khi thả giống
Ao
Chỉ tiêu
Nhiệt độ (oC)


18

18

18

Độ mặn (‰)

21

21

21

pH

7,6

7,7

7,7

Độ kiềm

85

82

80


Độ trong (cm)

50

50

50
19

Chênh
lệch
trong ngày ≤ 0,5
Màu của tảo là


màu xanh nõn
chuối
Oxy
hoà
(mg /L)

tan 5,8

5,8

5,8

Bên cạnh việc chọn được tôm giống tốt rồi thì phương pháp thả giống
cũng rất quan trọng. Nó quyết định một phần tỷ lệ sống của đàn tôm sau này. Để
tăng tỷ lệ sống cho đàn tôm, trước khi thả xuống ao, cần phải có thời gian thuần

các yếu tố môi trường nước từ từ, làm cho các thông số như: độ mặn, pH, nhiệt
độ của môi trường trong vật chứa tôm giống với ao thả tôm.
Khi thả giống nên thả vào lúc sáng sớm hoặc chiều mát vì khi đó nhiệt độ
môi trường xuống thấp, thích hợp nhất cho tôm giống. Không nên thả vào buổi
trưa khi ánh sáng mặt trời đang chiếu thẳng, hoặc những ngày thời tiết có mưa,
khí hậu thay đổi đột ngột, ảnh hưởng tới tỷ lệ sống của tôm. Nên thả tôm ở đầu
hướng gió hoặc gần quạt nước để tôm giống được phân tán ra khắp ao nuôi.
Tôm giống thả nên có cùng kích thước, ngày tuổi và thả một lần.
Sự chênh lệch độ mặn giữa túi chứa tôm giống và ao nuôi không quá 5‰
là thích hợp nhất. Thời gian thuần nước từ 1 – 3 h trước khi thả giống, đồng thời
cần sục khí mạnh.
* Cách thả:
- Tôm giống được vận chuyển về bằng các thùng nhựa có hệ thống sục
khí.
- Các thùng được vận chuyển đến khu vực thả giống và thêm nước từ từ
vào thùng qua hệ thống ống chảy. Lượng nước cần thêm đến miệng thùng là
được.
- Mục đích việc thêm nước từ từ là để tôm làm quen dần với môi trường
nước ao nuôi (pH, độ mặn, nhiệt độ). Tránh gây sốc cho tôm, đảm bảo tỷ lệ sống
khi thả cao.
- Sau khoảng 2h, khi tôm giống đã làm quen với điều kiện môi trường
nước trong ao nuôi, tôm không bị stress (thân tôm không còn màu đục mà
20


chuyển sang màu trong). Thì ta dùng ống hút, hút tôm từ thùng nhựa xuống ao
theo nguyên tắc bình thông nhau.
4.2.3. Quản lý thức ăn trong quá trình nuôi
4.2.3.1. Thức ăn
Trong nuôi tôm thức ăn giữ vai trò rất quan trọng, nó quyết định năng suất

và hiệu quả kinh tế, chi phí thức ăn chiếm 50 - 60 % chi phí sản xuất. Mục tiêu
của quản lý thức ăn tôm nuôi là giảm chi phí, đạt lợi nhuận cao nhất, phát triển
bền vững nghề nuôi tôm.
Tại cơ sở thực tập, công ty đã sử dụng thức ăn LOTUS do công ty cổ phần
chăn nuôi C.P Việt Nam sản xuất.
Bảng 4.2 : thành phần dinh dưỡng của thức ăn LOTUS
Thức ăn

HIPO
7701
LOTUS
4002

Độ tan trong Prôtêin Chất béo
nước
(%)
(%)
(h)
>2
40
5

Chất xơ
(%)

Tro
(%)

4


Độ ẩm
(%)
11

>2

40

6-8

3

14

11

LOTUS
4003- P

>2

38

5-7

4

15

11


LOTUS
4003- S

>2

38

5-7

4

15

11

4.2.3.2.Thời gian và kỹ thuật cho ăn
Kỹ thuật cho ăn là một những khâu quan trọng góp phần vào sự thành
công của vụ nuôi. Vì thức ăn là vấn đề mà người nuôi đầu tư nhiều nhất. Làm thế
nào để tôm sử dụng hết lượng thức ăn, đảm bảo không dư thừa, không thiếu là
nhiệm vụ của người nuôi.
Thức ăn thừa sẽ góp phần làm ô nhiễm ao nuôi và tăng chi phí. Nhưng nếu
cho ăn thiếu tôm sẽ sinh trưởng phát triển chậm, năng suất thấp.
21


Trong 30 ngày đầu cho ăn theo chương trình đã định trước mà công ty đã
đề ra. Tuy nhiên cũng tuỳ điều kiện thực tế ta có thể thay đổi lượng thức ăn cần
cho như: thời tiết hay sức khoẻ tôm.
* Thời gian cho tôm ăn : Ngày cho ăn 3 bữa vào lúc : 7h, 11h, 15h.

* Kỹ thuật cho tôm ăn:
Trước khi cho ăn tắt máy quạt nước để giảm tốc độ dòng chảy, tránh gom
tụ thức ăn vào giữa ao, sau khi cho ăn xong khoảng 30 phút sau mới bật quạt
nước.
Cách cho ăn : Dùng ca tạt thức ăn đều xung quanh ao.Cho ăn cách bờ 23m là tốt cho tôm nuôi. Vì đây là hành lang sạch, do máy quạt nước tạo thành
dòng chảy gom chất thải vào giữa ao. Cho tôm ăn vào hành lang sạch giúp tôm
bắt mồi tốt hơn và tránh lảng phí.
Tuỳ vào kích cỡ thức ăn mà ta có cách cho ăn phù hợp với từng giai đoạn
phát triển của tôm và hiệu quả nhất.
- Với thức ăn cỡ nhỏ 00,01,...: lúc cho ăn ta cho một lượng nước vào xô
trộn đều rồi dùng ca tạt đều khắp ao.
- Với thức ăn cỡ lớn : Tuỳ vào thời điểm nuôi mà trộn với chất phụ gia để
30 phút cho các loại thuốc ngấm vào thức ăn dùng ca tạt đều khắp ao.
Cách phối trộn thức ăn : Sau khi xác định tỷ lệ, lượng thức ăn ở mỗi lần
cho ăn và loại thuốc bổ sung cần thiết chúng ta tiến hành xác định khối lượng
nước cần để pha thuốc trộn với thức ăn theo công thức
Khối lượg nước = 20% khối lượng thức ăn.
Sau đó tiến hành hoà tan các loại thuốc bổ vào nước và trộn đều với thức ăn.
Khi chuyển mã số thức ăn thì chuyển một cách từ từ (chuyển 3 – 5 ngày) để
tránh hiện tượng tôm nhỏ bị bỏ đói hoặc giảm phân đàn, để tránh sự chênh lệch
về kích thước tôm.
Với phương pháp cho ăn này thì thức ăn được rãi đều khắp ao tôm sử
dụng hết tránh hiện tượng thức ăn dư thừa gây lãng phí và ô nhiễm đáy ao.
4.2.3.3 Quản lý thức ăn

22


Quản lý thức ăn là khâu rất quan trọng trong nuôi tôm Thẻ chân trắng,
quản lý tốt thức ăn sẽ giảm được giá thành sản phẩm, và có ý nghĩa hơn cả là

quản lý được môi trường nước.
* Quản lý thức ăn thông qua nhá
Để theo dõi khả năng sử dụng thức ăn của tôm người ta thường dùng nhá (vó)
cho ăn để kiểm soát lượng thức ăn hàng ngày:

Hình 4.1 : Vó (nhá) kiểm tra thức ăn
Nhá đặt sát đáy quanh bờ ao và cách bờ ao khoảng 1.5 – 2m.Tránh đặt nhá
ở các góc ao vì đây có thể là nơi tập trung nhiều chất thải sẽ hạn chế sự vào nhá
của tôm hoặc nếu tôm có vào ăn ở nhá đặt nơi nhiều chất thải sẽ làm tôm bị
bệnh. Nhá thường đặt cách máy quạt nước từ 10 – 13 m không đặt trước máy
quạt nước do sức nước sẽ cuốn thức ăn ra khỏi nhá.
Tại cơ sở thực tập thì cứ mỗi ao sẽ có 1 nhá để kiểm tra thức ăn, lượng
thức ăn cho vào nhá tuỳ thuộc vào tuổi và khối lượng tôm. Nhá bắt đầu đặt từ
tuần thứ 3 để tập cho tôm vào nhá.
Lượng thức ăn vào nhá = trọng lượng tôm(1,2,3.......) x lượng thức ăn cho
từng bữa.
Sau khoảng 2,5 giờ tiến hành kéo nhá kiểm tra. Số lượng tôm, số lượng
thức ăn còn lại trong nhá và kích cỡ tôm vào là căn cứ để xác định thức ăn đủ
hoặc thiếu. Lượng thức ăn còn lại trong nhá tại thời điểm kiểm tra còn khoảng 7
– 10% lượng thức ăn cho vào nhá là được.
23


Thông thường nếu cho tôm ăn thiếu tôm sẽ tập trung vào nhá đông tôm
lớn vào nhá nhiều do lượng thức ăn rải ngoài nhá không đủ.
Khi kiểm tra nhá có thể kết hợp kiểm tra độ no bằng cách quan sát lượng
thức ăn trong đường tiêu hoá của tôm. Độ no được chia theo thang 5 cấp từ cấp 0
- đến cấp 4.
 Cấp 0 – rất đói: Dạ dày và ruột tôm hoàn toàn không có thức ăn.
 Cấp 1 – đói: Dạ dày có thức ăn nhưng không đầy, ruột không có thức ăn.

 Cấp 2 – trung bình: Dạ dày đầy thức ăn ruột không có thức ăn.
 Cấp 3 – no: dạ Dày đầy thức ăn, ruột có thức ăn nhưng không đầy.
 Cấp 4 – rất no: Dạ dày và ruột đầy thức ăn.
Đây là một căn cứ quan trọng để xác định lượng thức ăn đủ hoặc thiếu, đánh
giá tình trạng sử dụng thức ăn của tôm trong ao. Bên cạnh việc quan sát ruột
tôm, theo dõi lượng tôm vào nhá cần quan tâm đến độ dài ngắn và màu sắc của
phân tôm trên nhá. Nếu phân tôm có màu thức ăn và tỉ lệ phân này trên nhá
chiếm tỉ lệ lớn thì tôm ăn no. Và ngược lại, phân tôm có màu sẫm đen thì tôm
còn đói. Nếu độ dài phân liên tục thì tôm ăn vừa đủ. Những phân đứt đoạn chứng
tỏ tôm thiếu ăn, những phân vừa tôm phải tranh giành thức ăn.
Khi kiểm tra nhá ta dựa vào lượng thức ăn còn lại sau khi kiểm tra nhá để
điều chỉnh lượng thức ăn cho mỗi buổi ăn sau.
 Thức ăn trong nhá hết tăng 10%.
 Thức ăn trong nhá còn 10 - 15% giữ nguyên.
 Thức ăn trong nhá còn 20 - 30% giảm 10%.
 Thức ăn trong nhá còn 50% cắt bữa sau.
Bảng 4.3 : Điều chỉnh thức ăn
Thức ăn
còn lại (%)
0
0
0
0
25
50
75

Bữa kế tiếp
Tăng (%) Giảm (%)
Tôm nhiều

5
Số lượng vừa phải, phân trong nhá dài
10
ít tôm ,phân trong nhá ngắn
20
Không có tôm, phân ngắn và khác màu thức ăn 30
Lột xác, tảo tàn, thời tiết xấu
5
Lột xác tảo tàn, thời tiết xấu
30
Lột xác tảo tàn, thời tiết xấu
50
Chi tiết quan sát trong nhã

24


100

Lột xác tảo tàn, thời tiết xấu

Bỏ bửa

Thông qua việc đặt nhá này thì cũng cho chúng ta biết được chất lượng
nước ở trong ao. Khi chất lượng nước bẩn nhiều chất thải tôm sẽ kém bắt mồi và
khi chất lượng nước tốt thì tôm bắt mồi tốt.
4.2.4 Quản lý các yếu tố môi trường
4.2.4.1 Nhiệt độ
Nhiệt độ nước là một yếu tố thủy lý rất quan trọng, nó ảnh hưởng trực tiếp
và gián tiếp lên đối tượng nuôi. Nhiệt độ cao qúa hay thấp qúa đều ảnh hưởng

đến tốc độ bắt mồi của tôm từ đó ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng của tôm, làm
giảm tỷ lệ sống, đồng thời nó liên quan chặt chẽ với hàm lượng Oxy hoà tan, pH
và sự phát triển của tảo … Do vậy trong quá trình nuôi phải luôn đảm bảo nhiệt
độ nằm trong khoảng thích hợp để tôm sinh trưởng, phát triển tốt hơn. Kết quả
theo dõi được thể hiện rõ ở bảng sau :
Bảng 4.4 : Biến động của nhiệt độ trong các ao nuôi
AO nuôi
A1
A2
A3
Thời
gian
nuôi(ngày)

Sáng

Chiều

Sáng

Chiều

Sáng

Chiều

Min – max Min – max Min – max Min – max Min – max Min – max
X±δ
X±δ
X±δ

X±δ
X±δ
X±δ

15

17 - 18,5
17,8 ± 0,5

19 – 21
20 ± 0,5

17 – 18,5
17,8 ± 0,5

18,5 – 21
19,9 ± 0,7

17 – 18,5
17,6 ± 0,5

19 – 21
20 ± 0,7

30

16.5 –18.5
17.6 ± 0,6

19 – 21

19,8 ± 0,7

16,5 –18,5
17,6 ± 0,7

18,5 –20,5
19,5 ± 0,6

16,5 –18,5
17,6 ± 0,7

18,5 - 20,5
19,4 ± 0,6

17,5 –19,5
18,4 ± 0,7
18,5 – 23
21,4 ± 1,5
22 – 29
24,7 ± 2,2
29,5 –31,5
30,5 ± 0,6

19 -22
20,5 ± 0,9
21,5 –25,5
23,5 ± 1,3
22,5 -31,5
26,4 ± 2,4
30,5 – 33

31,8 ± 0,6

17 – 19,5
18,3 ± 0,8
18,5 – 23
21,4 ± 1,4
22 – 29
24,7 ± 2,2
29,5 – 31
30,2 ± 0,5

19 – 22
20,5 ± 1,1
21,5 –25,5
23,7 ± 1,4
24 – 31
26,7 ± 2,3
31 – 32,5
31,7 ± 0,5

17 – 19,5
18,3 ± 0,8
18,5 – 23
21,4 ± 1,4
21,5 –28,5
24,6 ± 2,2
29 – 31,5
30,3 ± 0,7

19,5 – 22

20,5 ± 0,8
21,5 –25,5
23,7 ± 1,2
23,5 – 31
26,5 ± 2,3
31 – 32,5
32 ± 0,5

45
60
75
90

25


×