Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Từ xưng hô trong một số tác phẩm của nguyễn quang sáng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (811.67 KB, 96 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA SƯ PHẠM

BỘ MÔN NGỮ VĂN


NGUYỄN THỊ THẢO LY

TỪ XƯNG HÔ TRONG MỘT SỐ TÁC PHẨM
CỦA NGUYỄN QUANG SÁNG

Luận văn tốt nghiệp Đại học
Ngành Ngữ Văn

Cán bộ hướng dẫn: Th.S GV BÙI THỊ TÂM

Cần Thơ, năm 2011


ĐỀ CƯƠNG TỔNG QUÁT
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
3. Mục đích nghiên cứu
4. Phạm vi nghiên cứu
5. Phương pháp nghiên cứu

CHƯƠNG 1
MẤY VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỪ VÀ TỪ XƯNG HÔ
TRONG TIẾNG VIỆT
1.1. KHÁI NIỆM VỀ TỪ TIẾNG VIỆT


1.1.1 Các quan niệm về từ tiếng Việt
1.1.2 Đặc điểm của từ tiếng Việt
1.1.3 Các loại từ tiếng Việt
1.1.3.1 Trong Giáo trình tiếng Việt của Bùi Tất Tươm (chủ biên),
Nguyễn Văn Bằng, Hoàng Xuân Tâm, Nguyễn Thị Quy, Hoàng Diệu Minh
1.1.3.2 Trong Ngữ pháp tiếng Việt của Nguyễn Hữu Quỳnh

1.2 TỪ XƯNG HÔ
1.2.1 Khái niệm về từ xưng hô
1.2.2 Các loại từ xưng hô trong tiếng Việt
1.2.2.1 Các đại từ nhân xưng
1.2.2.2 Từ xưng hô dùng trong quan hệ gia đình
1.2.2.2.1 Xưng hô theo quan hệ giữa ông, bà và cháu
1.2.2.2.2 Xưng hô theo quan hệ giữa cha, mẹ và con cái
1.2.2.2.3 Xưng hô theo quan hệ giữa vợ, chồng
1.2.2.2.4 Xưng hô theo quan hệ giữa anh, chị, em
1.2.2.2.5 Xưng hô theo quan hệ bà con, họ hàng
1.2.2.3 Từ xưng hô dùng trong quan hệ tình yêu
1.2.2.3.1 Xưng hô khi mới quen
1.2.2.3.2 Xưng hô khi tỏ tình


1.2.2.3.3 Xưng hô khi đang yêu
1.2.2.3.4 Xưng hô khi không còn tình yêu
1.2.2.4 Từ xưng hô dùng trong quan hệ xã hội
1.2.2.4.1 Xưng hô theo giai cấp trong xã hội
1.2.2.4.2 Xưng hô theo chức danh, vai vế, thứ bậc
1.2.2.4.3 Xưng hô theo quan hệ với bà con hàng xóm
1.2.2.4.4 Xưng hô theo quan hệ đồng đội
1.2.3 Tác dụng của việc sử dụng từ xưng hô

1.2.4 Một số đặc điểm chung trong cách xưng hô của người Nam Bộ

CHƯƠNG 2
KHẢO SÁT TỪ XƯNG HÔ TRONG MỘT SỐ TÁC PHẨM
CỦA NGUYỄN QUANG SÁNG
2.1 VÀI NÉT VỀ TÁC GIẢ VÀ SỰ NGHIỆP VĂN CHƯƠNG
2.1.1 Tác giả
2.1.2 Sự nghiệp văn chương

2.2 KHẢO SÁT TỪ XƯNG HÔ TRONG MỘT SỐ TÁC PHẨM CỦA
NGUYỄN QUANG SÁNG
2.2.1 Từ xưng hô dùng trong quan hệ gia đình
2.2.2 Từ xưng hô dùng trong quan hệ tình yêu
2.2.3 Từ xưng hô dùng trong quan hệ xã hội
2.2.4 Tác dụng của việc sử dụng từ xưng hô trong tác phẩm
2.2.5 Một số đặc điểm chung của cách xưng hô của người Nam Bộ thể hiện
trong tác phẩm

CHƯƠNG 3
GIÁ TRỊ CỦA VIỆC SỬ DỤNG TỪ XƯNG HÔ TRONG
MỘT SỐ TÁC PHẨM CỦA NGUYỄN QUANG SÁNG
3.1 SỬ DỤNG TỪ XƯNG HÔ THỂ HIỆN THÁI ĐỘ, NHÂN CÁCH CỦA
NHÂN VẬT
3.1.1 Sử dụng từ xưng hô thể hiện thái độ của nhân vật
3.1.2 Sử dụng từ xưng hô thể hiện nhân cách của nhân vật


3.2 SỬ DỤNG TỪ XƯNG HÔ THỂ HIỆN VĂN HÓA GIAO TIẾP,
VĂN HÓA ỨNG XỬ CỦA NHÂN VẬT
3.2.1 Sử dụng từ xưng hô thể hiện văn hóa giao tiếp

3.2.2 Sử dụng từ xưng hô thể hiện văn hóa ứng xử
3.2.3 Sử dụng từ xưng hô thể hiện văn hóa tiếp nhận

KẾT LUẬN
BẢNG PHỤ LỤC
TÀI LIỆU THAM KHẢO
MỤC LỤC
DANH MỤC TÁC PHẨM
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN PHẢN BIỆN


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong truyền thống gia đình Việt Nam, cách xưng hô là một trong những nét
văn hóa tiêu biểu. Trong một gia đình các thế hệ chung sống với nhau với nhiều mối
quan hệ như: ông bà - cha mẹ, ông bà - cháu, cha mẹ - con cái, anh, chị, em… Từng
cách xưng hô tương ứng, đúng mực sẽ tạo nên một nét văn hóa, lối cư xử thể hiện tính
trật tự, tạo nên sự bền vững, hòa thuận trong gia đình.
Không chỉ trong gia đình mà thực tế giao tiếp hàng ngày trong xã hội, qua cách xưng
hô của mọi người với nhau cũng cho ta biết về mối quan hệ thể hiện thứ bậc, văn hóa,
tình cảm, thái độ của mỗi người. Và tùy theo mỗi vùng, mỗi địa phương, mỗi thời
điểm khác nhau mà có những cách xưng hô khác nhau sao cho phù hợp với phong tục,
tập quán của mỗi nơi.
Thêm vào đó, qua cách xưng hô của người Việt, qua cách dùng đại từ nhân xưng ta
thấy được sự phong phú, đa dạng, độc đáo của từ xưng hô trong tiếng Việt. Trong
tiếng Việt, so với các lớp từ vựng khác, lớp từ vựng của ngôn ngữ tuy có số lượng
không nhiều nhưng lại có giá trị sử dụng rất lớn và được dùng thường xuyên trong
giao tiếp. Có thể thấy một trong những yếu tố tạo nên tính phong phú của ngôn từ
tiếng Việt là đại từ nhân xưng. Nhưng cũng chính vì sự đa dạng, phong phú ấy nên

người sử dụng đôi khi cũng gặp không ít khó khăn khi chọn đại từ nhân xưng xưng hô
cho phù hợp.
Từ việc muốn tìm hiểu rõ hơn về sự phong phú trong đại từ nhân xưng, từ xưng hô
trong tiếng Việt, hiểu rõ thêm về chức năng của đại từ nhân xưng và muốn hiểu thêm
về sự đa dạng, độc đáo trong cách xưng hô của người Việt nên người viết đã chọn đề
tài luận văn: “Từ xưng hô trong một số tác phẩm của Nguyễn Quang Sáng”.
Người viết chọn tác phẩm của Nguyễn Quang Sáng bởi Nguyễn Quang Sáng không
chỉ nổi tiếng là nhà văn xuất sắc của miền đất Nam Bộ mà nghệ thuật sử dụng từ trong
các tác phẩm của ông cũng rất sinh động, linh hoạt, mới lạ và phong phú, nhất là cách
dùng từ xưng hô. Các tác phẩm của ông không chỉ được viết với bút pháp gần gũi với
lời ăn, tiếng nói của đời sống nhân dân, lời văn mộc mạc, giản dị mà còn rất giàu kịch
tính, cốt truyện có nhiều tình tiết bất ngờ, độc đáo. Đọc tác phẩm của ông, ta như hiểu


thêm về vùng đất, con người Nam Bộ, về cách nói năng, ứng xử của người dân miền
Nam.
Chính vì những điều này và thêm sự yêu thích của bản thân đối với tác phẩm của
Nguyễn Quang Sáng mà người viết đã chọn một số tác phẩm của Nguyễn Quang Sáng
để làm đối tượng khảo sát từ xưng hô trong đề tài luận văn.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Từ trước đến nay đã có rất nhiều tác giả cùng các công trình nghiên cứu về từ
xưng hô trong tiếng Việt và nghiên cứu về tác phẩm của Nguyễn Quang Sáng.
Về từ xưng hô trong tiếng Việt thì từ trước đến nay đã có không ít những công trình
nghiên cứu về từ xưng hô hay đại từ xưng hô thì đã có hàng loạt những bài nghiên
cứu, bài viết, bài phê bình, nhận định, nhận xét… của các nhà nghiên cứu.
Trong Ngữ pháp tiếng Việt tập 1, Diệp Quang Ban có nhận xét: “Đại từ xưng hô
dùng thay thế và biểu thị các đối tượng tham gia quá trình giao tiếp” [3;tr.111]
Đỗ Thị Kim Liên với Ngữ pháp tiếng Việt đã nhận định đại từ xưng hô dùng để thay
thế và “chỉ trỏ người khi giao tiếp” [18;tr.58]. Tác giả còn chỉ ra bên cạnh đại từ xưng
hô thì các danh từ thân tộc như: ông, bà, cha, mẹ, anh, em, cô, chú, bác… cũng còn

được dùng để xưng hô và những cặp từ như anh/em, cha/mẹ, ông/bà, cô/bác, chú/thím,
ông/cháu, bà/cháu ngoài việc được sử dụng trong phạm vi gia đình, thân tộc thì còn
được dùng xưng hô ngoài xã hội.
Nguyễn Hữu Quỳnh có nhận định trong Ngữ pháp tiếng Việt: “Đại từ xưng hô trong
tiếng Việt gồm các đại từ chuyên dùng để xưng hô và các đại từ xưng hô lâm thời”
[25;tr.151]. Tác giả đã đặt các danh từ thân tộc vào nhóm các đại từ xưng hô lâm thời.
Bài viết của Bùi Thùy Linh: “Ý nghĩa của sự thay đổi cách xưng hô và tha xưng
(khảo sát gia đình người Việt) có đề cập: “Trong giao tiếp, việc người nói tự đưa mình
vào diễn ngôn bằng các từ xưng hô không chỉ thể hiện vai giao tiếp mà còn có tác
dụng xác lập khung quan hệ giữa những người tham gia giao tiếp. Các mức độ thân
cận, các mối quan hệ thân sơ cũng từ đó mà hình thành, chi phối mạnh đến khả năng
tiến triển hội thoại. Kết quả của việc thay đổi cách xưng hô là một khung quan hệ mới
được thiết lập, đồng thời kéo theo cả sự thay đổi trong cách gọi các đối tượng thứ ba
có quan hệ với cả hai bên tham gia giao tiếp”. [20;tr.115]
Bài viết Khảo sát các từ xưng hô thân tộc “thím, mợ, dượng” của Trương Thị Diễm
có nhận định: “Cách sử dụng từ xưng hô luôn luôn thay đổi của xã hội. Hệ thống ngôn


ngữ nói chung và hệ thống từ xưng hô nói riêng luôn là hệ thống động và mở. Sự thay
đổi về lượng của các yếu tố trong hệ thống xưng hô tất yếu kéo theo sự thay đổi về
chất - cấu trúc của hệ thống”. [8;tr.33]
Đặng Quang Hàm với bài viết Giao tiếp ngôn ngữ trong các tình huống giao tiếp xã
hội nhận định: “Khi bàn về giao tiếp ngôn ngữ, chúng ta có thể gọi là hình thức giao
tiếp cơ bản và quan trọng nhất trong xã hội loài người” [13;tr.41]. Và ông kết luận:
“…giao tiếp là hành vi xã hội của con người. Con người luôn ở vị thế quan hệ giao
tiếp đa dạng với nhiều lớp người, loại người khác nhau về địa vị xã hội, lứa tuổi, giới
tính, nghề nghiệp, học vấn… Vì thế mỗi cá nhân bao giờ cũng có một bộ vai xã hội để
phản ảnh quan hệ ứng xử của cá nhân đó”. [13;tr.44]
Tạ Văn Thông với bài viết Hệ thống từ ngữ xưng gọi trong tiếng Hrê (so sánh với
tiếng Việt) đã chỉ ra: “…Khi giao tiếp các nhân vật nói và nghe được những gì, nói và

nghe như thế nào, có phần chịu ảnh hưởng từ vị thế xã hội của họ. Trong giao tiếp
bằng lời, mối quan hệ này được xác lập và thể hiện ra thành vai giao tiếp, trước hết là
nhờ hệ thống xưng gọi”. Và ông cho rằng: ““Xưng gọi” hiểu theo ý nghĩa phổ thông,
là cách tự xưng đối với mình và gọi người khác, để biểu thị tính chất của các mối quan
hệ với nhau trong giao tiếp”. [38;tr.22]
“Đối với người Việt, tuổi càng cao thì những nghi thức xã giao càng được xem
trọng. Xu hướng chung của người Việt là ưa sử dụng những nghi thức xã giao sao cho
vừa thân mật, gần gũi mà vẫn giữ được thái độ trang trọng, lịch sự. Lời chào cao hơn
mâm cỗ - đó là ý thức văn hóa - giao tiếp của người Việt. Việc sử dụng từ xưng hô
cũng không thể vượt ra khỏi ý thức văn hóa này” là nhận định của Phạm Ngọc Thưởng
trong bài viết Cách sử dụng đại từ xưng hô ngôi thứ nhất số ít trong tiếng Nùng (xét
trong mối liên hệ với tiếng Việt). [39;tr.47]
Trong Ngữ pháp tiếng Việt của Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia
có nhận định: “Cách xưng hô có chú ý tới những quan hệ xã hội, tình cảm rất tế nhị,
chứ không phải chỉ phân biệt các “ngôi” thứ nhất, thứ hai, thứ ba và các “số” nhiều,
ít”. [52;tr.110]
Trong Ngữ pháp tiếng Việt (Từ loại), Đinh Văn Đức cho rằng các đại từ chỉ định
như: “đây, đấy, đó, kia, kìa, vậy, thế… nhiều khi cũng được dùng để chỉ người”.
[12;tr.204]


Lê Biên với Từ loại tiếng Việt hiện đại đã có những nghiên cứu khá sâu về đại từ
xưng hô. Ông còn chia từ xưng hô trong tiếng Việt thành hai lớp có phạm vi sử dụng
khác nhau, gồm những từ xưng hô dùng trong gia tộc và những từ xưng hô dùng ngoài
xã hội. Và ông còn nhận định rằng: “Xưng hô trong giao tiếp là một vấn đề lớn, liên
quan đến nhiều nhân tố”. [4;tr.123]
Theo Đỗ Hữu Châu trong Đại cương ngôn ngữ học - tập 2: Ngữ dụng học thì :
“Bằng cách lựa chọn từ để tự xưng và để “hô” người giao tiếp, người nói định một
khung quan hệ liên cá nhân cho mình và cho người đối thoại với mình” [5;tr.78]. Ông
còn chỉ ra: “Vì phải thể hiện quan hệ liên cá nhân cho nên các ngôn ngữ mới có nhiều

từ xưng hô và việc dùng từ xưng hô trở nên rắc rối”. [5;tr.78]
Đinh Trọng Lạc (chủ biên), Nguyễn Thái Hòa với Phong cách học tiếng Việt khẳng
định: “tiếng Việt còn dùng lối trống không, dùng tên riêng và những từ trống (người
ta, đây, đấy, đằng ấy…) để xưng và hô nữa. Vì vậy, chỉ có thể miêu tả bằng tình huống
giao tiếp thì mới có thể đầy đủ”. [16;tr.172]
Cù Đình Tú nhận xét trong quyển Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt rằng
ngoài các đại từ nhân xưng và các từ chỉ quan hệ họ hàng, thân thuộc thì còn “lấy cả
tiếng đệm giữa họ và tên của nữ giới (thị) để dùng làm từ xưng hô, thậm chí còn dùng
cách nói trống không (từ xưng hô zêrô) để xưng hô”. Và ông còn cho rằng: “Trong
tiếng Việt, từ xưng hô, cách xưng hô, mô hình xưng hô là phương tiện biểu cảm, là
phương tiện phong cách”. [44;tr.168]
Trong bài viết Các biểu hiện lịch sự chuẩn mực trong xưng hô, Vũ Tiến Dũng cho
rằng: “Xưng hô là một họat động diễn ra liên tục, thường xuyên trong khi trò chuyện
và là lời của người nói lẫn người nghe. Hành động xưng hô chỉ xảy ra trong cuộc
thoại và một người có thể (hoặc thường) thực hiện cả hai hành động: xưng (tự qui
chiếu đến mình) và hô (qui chiếu đến người đối thoại). Ngôi thứ ba không phải là
nhân vật hội thoại do đó nhân vật này không tham dự vào họat động xưng hô. Như
vậy, chức năng của xưng hô là chỉ thị người nói, người nghe trong một cuộc thoại”.
[9;tr.329]
Bài viết Từ xưng hô trong một số tác phẩm của Nam Cao của Nguyễn Thị Hương
khảo sát từ xưng hô trong một số tác phẩm của Nam Cao, đồng thời có nhận xét về từ
xưng hô trong tiếng Việt: “Cách xưng hô của người Việt rất phong phú và linh hoạt.


Ngoài các đại từ xưng hô, tiếng Việt còn có một số lượng khá lớn các danh từ và một
số ít các loại từ khác nhau để sử dụng làm từ xưng hô”. [15;tr.532]
Cao Xuân Hạo với Tiếng Việt - văn Việt - người Việt có bài viết Mấy vấn đề về văn
hóa trong cách xưng hô của người Việt. Ông đề cập đến một số vấn đề về cách xưng
hô của người Việt trong xã hội hiện nay và đề cập đến một số vấn đề xung quanh đại
từ xưng hô. Ông cho rằng: “Tất cả các từ thường dùng để xưng hô trong điều kiện giao

tiếp bình thường đều là những danh từ, trước hết là những thuật ngữ chỉ quan hệ thân
tộc (trừ: dâu, rể, vợ, chồng, ông nhạc, bà nhạc…) rồi đến những thuật ngữ chỉ chức vụ
hay cương vị có ít nhiều màu sắc tôn vinh như: thầy giáo, giáo sư, chủ tịch, bác sĩ,
sếp, thủ trưởng, sư ông, sư cụ rồi đến các cấp bậc quân đội - nếu không kể một vài
trường hợp dùng danh từ chỉ người nhà như vú”. [14;tr.297-tr.298]
Trong Để tiếng Việt ngày càng trong sáng, Phan Hồng Liên có đưa ra nhận xét: “
Người Việt không chỉ sử dụng một nhóm từ xưng hô là danh từ thân tộc mà sử dụng tất
cả các nhóm từ xưng hô nhưng linh hoạt trong từng tình huống cụ thể, tạo ra cho hệ
thống từ xưng hô Việt Nam một diện mạo hết sức phong phú, mới mẻ”. [19;tr.46]
Nguyễn Ngọc Ẩn có bài viết Xác định từ xưng gọi với người dạy học nhận định
rằng: “…Người Việt Nam thường mượn các từ chỉ quan hệ gia đình, nghề nghiệp chức
vụ, học hàm, học vị... để xưng gọi, đặc biệt là các từ chỉ quan hệ gia đình chiếm số
lượng lớn và xuất hiện trong mọi môi trường hoạt động của con người. Trong tâm lý
của người Việt Nam, mọi người dân sống trên đất nước Việt Nam đều có quan hệ gần
gũi, thân thích, xem như “người một nhà”. Cho nên trong giao tiếp, các nhân vật tham
gia giao tiếp thường “nhắm nhắm” xem người nói chuyện với mình khoảng bao nhiêu
tuổi để chọn từ mà xưng hô “cho phải đạo” - ai lớn tuổi hơn mình một tí thì gọi bằng
“anh”, bằng “chị”, ai lớn hơn nữa thì gọi bằng “chú” bằng “bác”,…và xưng mình là
“em”, là “con”, là “cháu”…” . [2;tr.17-tr.18]
Ta thấy rằng từ xưng hô trong tiếng Việt rất đa dạng và phong phú. Ở từng
vùng, miền khác nhau sẽ có từng cách xưng hô tương ứng khác nhau.Và từ xưng hô ở
Nam Bộ cũng có những nét đa dạng, phong phú nhưng bên cạnh đó thì nó cũng mang
những khác biệt, mới lạ, độc đáo của riêng vùng đất miền Nam. Đã có rất nhiều nguồn
tài liệu nhắc đến vấn đề này.
Bài viết của Mai Văn Thắng về Một vài kỉ niệm về tiếng Nam Bộ” có nhắc đến cách
nói năng rất riêng của người Nam Bộ. Ông còn so sánh giữa tiếng Nam Bộ và tiếng


Bắc Bộ: “…tiếng Nam Bộ có nét khác tiếng Bắc cả ở cách kết hợp các từ để tạo ra
một câu nói. Nói cách khác, rõ ràng có những khác biệt giữa cách nói của tiếng Nam

Bộ và tiếng toàn dân. Thêm nữa là thói quen lướt âm, bớt âm, nhấn âm và cách xưng
hô có nhiều nét riêng trong khi nói”. [36;tr.44]
Trong Cảm nhận bản sắc Nam Bộ, Huỳnh Công Tín với bài viết Điểm khác biệt giữa
hai phương ngữ Bắc Bộ và Nam Bộ đã so sánh giữa hai phương ngữ và đưa ra nhận
xét: “Sự khác biệt giữa hai phương ngữ còn được nhận biết trên cơ sở khác biệt của
hai nhóm từ chỉ quan hệ họ hàng, thân tộc, đồng thời cũng là từ xưng gọi”. [48;tr.136]
Ông nhận xét: “Trong gia đình Nam Bộ có thói quen dùng thứ để xưng gọi: “Hai, ba,
bốn, năm, sáu, út…” từ xưng hô họ hàng như: “cậu, mợ; dì, dượng; chú, thím…”
được dùng trong gia đình và cả trong làng xóm; cách gọi ngôi thứ có tính chất lược
âm: “Ổng, bả, chỉ, ảnh…”. [48;tr.136-tr.137]
Trần Thị Ngọc Lang với Phương ngữ Nam Bộ nhận xét rằng: “Các từ xưng hô tiếng
Việt rất phong phú và đa dạng. Tuy nhiên, trong cái đa dạng của cách xưng hô hàng
ngày, chúng ta vẫn thấy mức độ thống nhất giữa các phương ngữ của tiếng Việt khá
cao. Những khác biệt nhỏ trong cách xưng hô làm nên các sắc thái riêng của các
phương ngữ”. [17;tr.87]
Trong bài viết Mô hình “anh ấy - ảnh” trong phương ngữ Nam Bộ Cái Văn Thái có
nhận xét: “… khi sử dụng dưới dạng tắt theo mô hình “anh ấy - ảnh” trong phương
ngữ Nam Bộ, nhìn chung nó biểu thị một sắc thái duy nhất, đó là: sự thân thiện, gần
gũi” và tác giả đưa ra kết luận “… Hiện tượng ngôn ngữ này là một trong những biểu
hiện độc đáo, không thấy xuất hiện ở nơi khác, chắc chắn có liên quan đến tính chất
văn hóa, tính cách con người của một vùng đất”. [35;tr.48]
Qua những ý kiến, nhận xét, đánh giá trên, ta thấy được sự đa dạng, phong phú
nhưng cũng không kém phần phức tạp của từ xưng hô trong tiếng Việt và cách xưng
hô ở miền Nam.
Còn khi nói về nhà văn Nguyễn Quang Sáng cũng đã có rất nhiều công trình
nghiên cứu về nghệ thuật ngôn từ trong tác phẩm của ông và có rất nhiều tác giả cùng
nhiều bài viết viết về nhà văn Nam Bộ này.
Trần Mạnh Thường với Từ điển tác giả văn học Việt Nam thế kỉ XX đã có nói đến: “
Nguyễn Quang Sáng trở thành nhà văn bởi sự đam mê câu chuyện cô Tư và cũng vì



muốn phục vụ cách mạng kháng chiến bằng ngòi bút. Đời văn của ông khá phong phú
về truyện ngắn, truyện vừa, truyện dài, tiểu thuyết, còn có kịch bản phim. [42;tr.690]
Trong Văn học 1975 - 1985: Tác phẩm và dư luận, các tác giả đã có đề cập đến nhận
xét của Nguyễn Văn Bổng về Nguyễn Quang Sáng: “Nguyễn Quang Sáng là một cây
bút có tài viết về truyện ngắn”. [43;tr.274]
Trong Nhà văn về làng của Nguyễn Quang Sáng có nhận xét của Nguyễn Thái Sơn
về sự độc đáo trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn Quang Sáng: “Viết về cuộc
kháng chiến chống Mĩ cứu nước, Nguyễn Quang Sáng có những chi tiết sống mà chỉ
có những nhà văn trong cuộc mới phát hiện ra: đi tắm sông không được để nước rợn
sóng, chú gà trống ngứa cổ mà không được phép gáy. Chi tiết “độc” điển hình được
thể hiện trong phim “Cánh đồng hoang”: mỗi lần máy bay địch nhào xuống bắn, bao
ni lông trong có đứa trẻ lại được nhấn chìm xuống nước để tránh đạn. Về nghệ thuật
sử dụng chi tiết, có lẽ phải nói tới cảnh hết của phim “Cánh đồng hoang”: người mẹ
trẻ Việt Nam ôm đứa con nhỏ, không nhìn chiếc máy bay đang bốc cháy, cũng không
nhìn xác tên phi công Mĩ vừa giết chồng mình, mà nhìn chằm chằm vào tấm ảnh rơi từ
túi ngực xác tên phi công Mĩ, chụp vợ và đứa con nhỏ của hắn, rồi hướng cái nhìn về
phía chân trời”. [ 26;tr.235]
Trong Phê bình bình luận văn học Anh Đức - Nguyễn Quang Sáng - Nguyên Ngọc Đoàn Giỏi đã có ba viết của các tác giả về Nguyễn Quang Sáng.
Bài viết của Trần Hữu Tá giới thiệu vài nét về Nguyễn Quang Sáng và ông có nhận
xét: “Nguyễn Quang Sáng có phong cách viết truyện độc đáo. Truyện thường lắm tình
huống bất ngờ, ngẫu nhiên nhưng tự nhiên, giàu chi tiết sống động và kì diệu nhưng
hợp lí, tính kịch rất nỗi nhưng cũng đậm đà chất trữ tình”. [51;tr.114]
Vân Thanh có bài viết về Truyện ngắn của Nguyễn Quang Sáng và nhận xét truyện
Nguyễn Quang Sáng luôn chứa đựng những yếu tố “kì diệu” và “Nguyễn Sáng là
người viết có ý thức khai thác đề tài và khơi nguồn cảm hứng của mình trong những
điều kì diệu đó của cuộc sống” [51;tr.118]. Vân Thanh còn nhận định: “Truyện Nguyễn
Sáng giàu chi tiết sống. Nhưng chi tiết đối với anh không phải là một thứ trang sức để
phô bày. Chi tiết được anh dùng trước hết là để khắc họa nhân vật” [51;tr.120] và
“Nguyễn Sáng vốn là cây bút khéo sử dụng các yếu tố ngẫu nhiên, tự nhiên, có thể xảy

ra, đóng vai trò là chất xúc tác thật sự, đẩy các tình huống phát triển” [51;tr.124].
Cuối bài viết, cũng như Trần Hữu Tá, Vân Thanh nhận xét: “Truyện ngắn của Nguyễn


Sáng tuy đậm tính kịch nhưng vẫn mang nhiều chất trữ tình”. [51;tr.124]
Bài viết Đất nước và con người miền Nam trong Chiếc lược ngà của Nguyễn Nghiệp
có nói: “toàn truyện là một bài thơ, trong đó chất hùng ca quyện chặt với chất trữ tình
làm một, cái trữ tình riêng của tác giả lẫn kín trong không khí tình cảm khách quan
của câu chuyện. Có thể nói “Chiếc lược ngà” là một tác phẩm trong bản lĩnh riêng
của Nguyễn Sáng được bộc lộ rõ trên khá nhiều mặt đặc sắc. Lối kể chuyện tưởng
chừng như rất thoải mái, tùy hứng nhưng thực ra đã thông qua bàn tay rất chủ động
của tác giả. Nguyễn Sáng đã tập trung ánh sáng miêu tả vào những chỗ thật đáng tập
trung làm nổi lên được tính cách của nhân vật”. [51;tr.133]
Trong Văn học và văn hóa từ một góc nhìn, Phùng Quí Nhâm với bài viết Điều thấy
thêm ở truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng có nhận xét: “Nguyễn Quang Sáng không đi
tìm cái đẹp, mà hòa nhập và phát hiện những vẻ đẹp trong cuộc sống và con người
Nam Bộ, từ đó ca ngợi sức mạnh tinh thần của con người trong chiến tranh, đề cao
đạo lý làm người trong cuộc sống”. [23;tr.205] Tác giả còn nhận thấy: “Sự thu hút
truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng còn thấy ở cách kiến tạo cốt truyện”, “cốt truyện có
những chi tiết ly kỳ mà không mất đi vẻ hợp lý, tự nhiên của nó. Tình huống, biến cố
thường có những bước ngoặt bất ngờ”. [23;tr.211]
Trong Văn học và văn hóa từ một góc nhìn, Phùng Quý Nhâm còn có bài viết Khát
vọng về tình yêu thương về cái đẹp. Trong bài viết này tác giả có nói đến vài nét về nội
dung và nghệ thuật của tập truyện “Con mèo của Foujita”: “điều nhận thấy trước tiên
là trong nguồn cảm xúc và văn mạch truyện ngắn của anh vẫn tuôn chảy theo hướng
chính của cảm xúc nghệ thuật: tình yêu mặn mà, sâu đậm đối với con người và vùng
đất Nam Bộ, là khát vọng về đạo lý, về nhân lý. Là tính kịch trong truyện”. [23;tr.215]
Tác giả còn thừa nhận: “Nguyễn Quang Sáng là người viết truyện ngắn khá nhuần
nhuyễn và có bản lĩnh nghề nghiệp” và tác giả thấy ở Nguyễn Quang Sáng: “sáng tạo
đó là một quá trình sống, là một sự trải nghiệm, là một luyện công nghệ thuật của cả

một đời văn. Mỗi truyện của anh là kết đọng cả tâm huyết, là sự tìm tòi về ý tưởng, về
cách thể hiện nghệ thuật, sự định hình nghệ thuật của Nguyễn Quang Sáng chắc sẽ kết
đọng ở thể truyện ngắn”. [23;tr.215-tr.216]
Trong Tuyển tập Nguyễn Quang Sáng tập 1, bài viết Còn lại tình yêu của Bùi Việt
Thắng có nhận định: “Những truyện ngắn của Nguyễn Quang Sáng viết trước 1975,
trong đó cốt truyện thường tiêu biểu hấp dẫn, chi tiết chọn lọc, tình huống đặc sắc và


kịch tính cao” và tác giả còn thấy: “Truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng viết trước 1975,
như người ta nói “ ròng ròng sự sống”, một sự sống đa dạng cung bậc, màu sắc, có
tiếng khóc và tiếng cười, có khổ đau và hi vọng. Một cuộc sống biến ảo đầy bất ngờ
thú vị. Dường như cái chất sống này tự nhiên như khí trời nên sự triết lý của nhà văn
cũng từ đó mà tự nhiên, nhuần nhị”. [37;tr.12]
Trong bài viết Truyện ngắn miền Nam trên đà phát triển của cách mạng, Hà Minh
Đức có nhận xét: “Nguyễn Sáng đã tạo cho mình một bản sắc riêng… Truyện của ông
giàu chất sống thực tế và thường có cốt truyện hay… Nguyễn Sáng có nhiều khả năng
để xây dựng những nhân vật giàu tính chất khắc họa, có cá tính, gây được ấn tượng
mạnh. Mạch truyện sáng sủa, cách dẫn truyện sinh động, lôi cuốn”. [34;tr.585].
Hà Minh Đức còn có nhận xét về truyện ngắn của Nguyễn Quang Sáng trong bài viết
Sự phát triển của truyện ngắn Việt Nam sau cách mạng tháng Tám năm 1945: “Truyện
ngắn của Nguyễn Quang Sáng thường có cốt truyện hay, xúc động, kết hợp được cái
riêng, cái lạ của một tình huống, của xung đột với ý nghĩa xã hội rộng rãi… nghệ
thuật miêu tả và dẫn dắt truyện rất khéo, tạo được sức hấp dẫn với người đọc”.
[34;tr.568]
Nhận xét về truyện ngắn của Nguyễn Quang Sáng còn có ý kiến của Nguyễn văn
Long trong bài viết Sự vận động và những thành tựu văn xuôi Việt Nam giai đoạn
1945 - 1975: “Truyện của Nguyễn Quang Sáng thường có cốt truyện hấp dẫn và
những tình huống bất ngờ, giàu kịch tính, nhưng không bị đẩy tới khác thường nên vẫn
khá tự nhiên và đặc biệt tác giả có một lối kể chuyện rất giản dị, gần với lối kể dân
gian mà vẫn linh hoạt và hấp dẫn nhờ vốn hiểu biết đời sống phong phú”. [21;tr.175]

Trong bài viết Về một nền văn xuôi cách mạng 30 năm (1945 - 1975), Phan Cự Đệ
nhận xét: “Nguyễn Sáng thích những xung đột giàu kịch tính, nhân vật có tính tạo
hình, góc cạnh dữ dội”. [11;tr.36]
Phạm Văn Sỹ có nhận xét trong Văn học giải phóng miền Nam 1954 - 1970:
“Nguyễn Sáng được chú ý hơn hết với những truyện viết về cuộc sống của người dân
Nam Bộ trong chiến tranh… Anh tỏ ra có tài năng, tìm tòi trong thể loại truyện ngắn”.
[32;tr.83]
Trong Nguyễn Quang Sáng, nhà văn của B2, Hoàng Như Mai cho rằng: “Tác phẩm
của Nguyễn Quang Sáng mở cổng cho độc giả đi sâu vào một thế giới… Một thế giới
thú vị và hấp dẫn” và “Qua những nhân vật “một thuở” của Nguyễn Quang Sáng,


người đọc thấy được tính cách “muôn thuở” của người miền Nam”. [22;tr.8 - tr.9]
Bài viết Con gà trống của nhà văn Nguyễn Quang Sáng, Cát Vũ nhận xét: “Qua cái
nhìn của Nguyễn Quang Sáng, con gà trống trở thành hình tượng của một dân tộc, một
dân tộc tuy nhỏ bé song có một sức sống mãnh liệt. Dẫu có bị đè bẹp, tàn phá thế nào
đi nữa, dân tộc ấy vẫn cứ sống, sống một cách quật cường”. [49;tr.24]
Phan Đắc Lập có nhận xét trong Lời ngỏ của một tác giả trong cuốn tiểu thuyết
Dòng sông thơ ấu: “Phong cách của Nguyễn Quang Sáng thể hiện trước hết ở những
trang viết về tình yêu. Văn Nguyễn Quang Sáng không phải là loại văn óng mượt. Văn
của anh bình dị mà trong sáng” và “Dù viết về đề tài chiến tranh hay chuyện đời
thường, phần lớn tác phẩm của Nguyễn Quang Sáng đều hấp dẫn. Sức hấp dẫn ấy do
nhiều yếu tố: chủ đề, bố cục, chi tiết… nhưng trước hết ở tác phẩm của anh là giàu
kịch tính”. [30;tr.302]
Trong bài viết này, Phan Đắc Lập còn dẫn ra nhận xét của nhà văn Tô Hoài về Nguyễn
Quang Sáng: “Các tác phẩm của anh rất Nam Bộ. Đúng, dù ở xa hay ở gần, cái hồn
Nam Bộ cứ ẩn tàng trong tiềm thức của anh. Tiếng rì rào của dòng sông Cửu Long,
tiếng xào xạc của cây lá trong mùa gió chướng, tiếng lóc cóc của vó ngựa trên đường
làng cứ âm vang trong tâm trí anh. Bao nhiêu khuôn mặt người quê hương phảng phất
trong anh. Xa làng quê từ thuở 13, trong anh vẫn đầy ắp những kỉ niệm về quê làng,

về dòng sông thơ ấu. Làng Mỹ Luông của anh tuy không sầm uất về kinh tế nhưng lại
“trù phú” về những tính cách và những tấm lòng”. [30;tr.299]
Bên cạnh những công trình nghiên cứu, bình luận trên về Nguyễn Quang Sáng thì
cũng còn có nhiều bài viết cùng các công trình nghiên cứu khác về tác giả Nguyễn
Quang Sáng và tác phẩm của ông như: Đặc sắc truyện ngắn của Nguyễn Quang Sáng
của Lâm Thị Thiên Lan (Luận văn thạc sĩ Ngữ văn - Trường Đại học Cần Thơ), Tìm
hiểu tính từ chỉ màu sắc trong một số tác phẩm của Nguyễn Quang Sáng của Trà Thúy
Trinh ( Luận văn tốt nghiệp ngành Sư phạm Ngữ văn K30 - Trường Đại học Cần Thơ),
Thành ngữ, tục ngữ trong truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng của Phùng Thị Hương Lan
(Luận văn tốt nghiệp ngành Sư phạm Ngữ văn K27 - Trường Đại học Cần Thơ) …
Có thể thấy nghiên cứu đề tài “Từ xưng hô trong một số tác phẩm của Nguyễn
Quang Sáng” là một công việc còn khá mới mẻ, hầu như chưa có tác giả thực hiện
hoàn chỉnh. Và dù nghiên cứu sâu hay sơ lược thì các công trình trên cũng đã trở thành
nguồn tư liệu quý báu cho luận văn của người viết, giúp người viết có cái nhìn rộng và


toàn diện hơn về từ xưng hô cũng như về tác phẩm của Nguyễn Quang Sáng.
3. Mục đích nghiên cứu
Người viết chọn đề tài này với mong muốn được hiểu thêm về sự đa dạng,
phong phú của từ xưng hô trong ngôn từ tiếng Việt. Người viết thấy được sự phong
phú, linh hoạt trong cách dùng từ của Nguyễn Quang Sáng trong tác phẩm của ông khi
viết về con người, về nghị lực, ý chí chiến đấu, tình người trong chiến đấu của con
người miền Nam trong cuộc chiến đấu của dân tộc. Người viết còn được hiểu biết
thêm về cách xưng hô trong cách ăn nói, ứng xử của người dân Nam Bộ, hiểu thêm về
con người Nam Bộ và về sự độc đáo trong văn hóa ứng xử, văn hóa giao tiếp của
người miền Nam.
4. Phạm vi nghiên cứu
Với phạm vi là một đề tài luận văn, người viết chỉ có thể nghiên cứu một khía
cạnh cụ thể về từ xưng hô, đó là từ xưng hô trong tác phẩm của Nguyễn Quang Sáng.
Và do số lượng tác phẩm của nhà văn Nguyễn Quang Sáng rất nhiều nên khi

nghiên cứu về từ xưng hô trong tác phẩm của ông, người viết chỉ có thể khảo sát từ
xưng hô ở một số tác phẩm tiêu biểu của ông. Người viết khảo sát ở một số tác phẩm
như phần truyện ngắn trong tuyển tập Nguyễn Quang Sáng (tập 1) (như: Con chim
vàng, Chiếc lược ngà, Chị xã đội trưởng, Người đàn bà Tháp Mười, Bông cẩm thạch);
tuyển tập Nguyễn Quang Sáng (tập 2) (Thế võ); tiểu thuyết Cánh đồng hoang; tiểu
thuyết Dòng sông thơ ấu.
Đây là những tác phẩm tiêu biểu nổi tiếng làm nên tên tuổi của ông. Những tác
phẩm này rất gần gũi với lời ăn, tiếng nói, văn hóa ứng xử của người dân.
Đây cũng là những tác phẩm tiêu biểu đề cập khá nhiều đến cách xưng hô của
người dân miền Nam. Những tác phẩm này cũng thể hiện được những nét độc đáo,
linh hoạt trong cách dùng từ xưng hô của Nguyễn Quang Sáng.
5. Phương pháp nghiên cứu
Sau khi nhận đề tài và được giáo viên hướng dẫn cách làm, điều cần thiết đầu
tiên là người viết tìm, sưu tầm, chọn lọc đọc những tài liệu, sách báo liên quan đến đề
tài. Người viết tìm hiểu kĩ về từ xưng hô, về tác giả và tác phẩm của Nguyễn Quang
Sáng và tìm hiểu về từ xưng hô trong tác phẩm của Nguyễn Quang Sáng.


Người viết vận dụng phương pháp khảo sát để tìm hiểu, nghiên cứu, thống kê
các ý kiến, nhận xét, phê bình của các nhà nghiên cứu văn học về những vấn đề có liên
quan đến đề tài.
Với phương pháp tổng hợp, sử dụng việc phân tích, chứng minh trong quá trình
tìm hiểu người viết sẽ đưa ra những chi tiết, dẫn chứng cụ thể để làm sáng tỏ vấn đề
vận dụng từ xưng hô trong tác phẩm Nguyễn Quang Sáng.
Với phương pháp đối chiếu, so sánh người viết sẽ chỉ ra sự vận dụng linh hoạt,
đa dạng trong từng cách xưng hô trong mỗi tác phẩm của Nguyễn Quang Sáng.

CHƯƠNG 1
MẤY VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỪ VÀ TỪ XƯNG HÔ
TRONG TIẾNG VIỆT

1.1KHÁI NIỆM VỀ TỪ TIẾNG VIỆT
1.1.1 Các quan niệm khác nhau về từ tiếng Việt
Có thể thấy vấn đề xác định thế nào là từ và ranh giới của chúng như thế nào thì
đó còn là một vấn đề phức tạp. Hiện nay, các nhà ngôn ngữ học vẫn chưa đưa ra một


khái niệm nào thống nhất và thỏa đáng khi định nghĩa về từ tiếng Việt. Mỗi nhà nghiên
cứu lại có một định nghĩa riêng, cách hiểu riêng về từ.
“Từ, mặc dù khó định nghĩa, vẫn là một đơn vị mà trí tuệ buộc phải chấp nhận, một
cái gì đó có địa vị trung tâm trong cơ thể ngôn ngữ” [31;tr.193] là câu nói của
F.D.Saussure trong Giáo trình ngôn ngữ học đại cương khi nói đến định nghĩa về từ.
Đỗ Hữu Châu định nghĩa về từ trong Giáo trình từ vựng học tiếng Việt là: “Từ của
tiếng Việt là một hoặc một số âm tiết cố định, bất biến về hình thức ngữ âm theo quan
hệ hình thái học (như quan hệ về số, về giống…) và cú pháp trong câu, nằm trong một
kiểu cấu tạo nhất định, mang những đặc điểm ngữ pháp nhất định, ứng với những
nghĩa nhất định, sẵn có đối với mọi thành viên của xã hội Việt Nam, lớn nhất trong hệ
thống tiếng Việt và nhỏ nhất để tạo câu”. [6;tr.29]
Trong Ngữ pháp tiếng Việt 1 Nguyễn Văn Tư đã định nghĩa: “Từ trong tiếng Việt là
một hoặc một số âm tiết cố định bất biến, mang những đặc điểm ngữ pháp nhất định,
nằm trong những kiểu cấu tạo nhất định, tất cả ứng với một kiểu nghĩa nhất định, lớn
nhất trong tiếng Việt và nhỏ nhất để tạo câu”. [45;tr.37]
Trong Bài giảng từ vựng học tiếng Việt, Nguyễn Thị Thu Thủy còn đưa ra một số khái
niệm của một số nhà ngôn ngữ học xung quanh khái niệm về từ.
Trong Từ và nhận diện từ tiếng Việt Cao Xuân Hạo cho rằng: “Chúng ta hiểu tính đa
dạng về tên gọi mà các tác giả khác nhau đề nghị cho đơn vị khác thường đó của các
ngôn ngữ đơn lập là: tiết vị (syllabophoneme), hình tiết (morphosyllabeme), từ tiết
(wordsyllabe), đơn tiết (monosyllable) hoặc đơn giản là từ (word). Thực ra, nó chính
là âm, hình vị hoặc từ và tất cả là đồng thời. Nếu chúng ta so sánh với các ngôn ngữ
Châu Âu về cơ cấu xoay quanh ba trục được tạo thành bởi các đơn vị cơ bản là âm vị,
hình vị và từ, thì cơ cấu của tiếng Việt hầu như là sự kết hợp ba trục đó thành một trục

duy nhất, âm tiết”. [40;tr.12]
Cũng trong Từ và nhận diện từ tiếng Việt, Nguyễn Thiện Giáp định nghĩa: “Từ của
tiếng Việt là một chỉnh thể nhỏ nhất có ý nghĩa dung để tạo câu nói; nó có hình thức
của một âm tiết, một khối viết liền”. [40;tr.12]
Theo Nguyễn Văn Tu quan niệm trong Từ và nhận diện từ tiếng Việt thì: “Từ là đơn
vị nhỏ nhất và độc lập, có hình thức vật chất (vỏ âm thanh là hình thức) và có nghĩa,
có tính chất biện chứng và lịch sử”. [40;tr.12]


Theo Nguyễn Kim Thản thì: “Từ là đơn vị cơ bản của ngôn ngữ có thể tách khỏi đơn
vị khác của lời nói để vận dụng một cách độc lập và là một khối hoàn chỉnh về ngữ
âm, ý nghĩa (từ vựng, ngữ pháp) và chức năng ngữ pháp”. [40;tr12]
Hồ Lê có định nghĩa về từ trong Vấn đề cấu tạo từ tiếng Việt hiện đại: “Từ là đơn vị
ngữ ngôn có chức năng định danh phi liên kết hiện thực, hoặc chức năng mô phỏng
tiếng động, có khả năng kết hợp tự do, có tính vững chắc về cấu tạo và tính chất nhất
thể về ý nghĩa”. [40;tr.12]
Trong Mấy vấn đề ngôn ngữ học Việt Nam, Đái Xuân Ninh quan niệm: “Từ là đơn vị
cơ bản của cấu trúc ngôn ngữ ở giữa hình vị và cụm từ. Nó được cấu tạo bằng một
hay nhiều đơn vị ở hang ngay sau nó tức là hình vị và lập thành một thành một khối
hoàn chỉnh”. [40;tr.12]
Lưu Văn Lăng trong Ngôn ngữ và tiếng Việt quan niệm rằng: “…Những đơn vị dùng
tách biệt nhỏ nhất mới là từ. Có thể nói từ là đơn vị tách biệt nhỏ nhất. Nói cách khác,
từ là ngữ đoạn (tĩnh) nhỏ nhất”; và “Từ có thể gồm nhiều tiếng không tự do hoặc chỉ
một tiếng tự do hay nhiều tiếng tự do kết hợp lại không theo quan hệ thuần cú pháp
tiếng Việt”. [40;tr.12]
Trong Từ vựng - ngữ nghĩa tiếng Việt, Đỗ Hữu Châu có định nghĩa về từ: “Từ của
tiếng Việt là một hoặc một số âm tiết cố định, bất biến, có một ý nghĩa nhất định, nằm
trong một phương thức (hoặc kiểu cấu tạo) nhất định, tuân theo những kiểu đặc điểm
ngữ pháp nhất định, lớn nhất trong từ vựng và nhỏ nhất để tạo câu”. [40;tr.12]
Trong Bài giảng Cơ sở ngôn ngữ học Huỳnh Công Tín cũng có nói đến khái niệm về

từ. Và giống như Nguyễn Thị Thu Thủy, ông cũng cho rằng: “Từ là đơn vị nhỏ nhất,
có nghĩa, dùng để tạo câu” và ông còn nói thêm: “Bất kì đơn vị nào lớn nhất trong hệ
thống của một ngôn ngữ và là đơn vị nhỏ nhất để tạo câu thì đều là từ. Trong tiếng
Việt những đơn vị đó là: cha, anh, chị, áo, hoa, tre, giỏ, da, trời, lối, nét, gương,
mặt…”. [47;tr.76]
Lê A, Đỗ Xuân Thảo định nghĩa về từ trong Giáo trình tiếng Việt 1 (dành cho học
viên ngành Giáo dục tiểu học hệ đào tạo tại chức và từ xa) rằng: “Từ là một đơn vị
được tạo ra từ một hình vị có chức năng định danh và có khả năng độc lập gánh vác
các vai trò khác nhau trong câu”. Các tác giả còn đưa ra ví dụ: “Từ “người” được
tạo ra từ một hình vị, từ “xe đạp” từ hai hình vị, cả hai từ này đều biểu thị tên gọi của


các sự vật khác nhau. Chúng có khả năng độc lập, đảm nhận các chức năng ngữ pháp
khác nhau trong câu như: chủ ngữ, định ngữ, bổ ngữ…”. [1;tr.78]
Theo Nguyễn Hữu Chỉnh, Nguyễn Thị Thu Thủy định nghĩa trong Giáo trình Cơ sở
ngôn ngữ học thì: “Từ là đơn vị cơ bản và quan trong nhất của ngôn ngữ, là đơn vị có
sẵn, có tính hiện thực cao nhất của ngôn ngữ”. [7;tr.192]
Qua những ý kiến nghiên cứu về từ của các nhà ngôn ngữ, các tác giả trên có thể
thấy từ là một khái niệm còn rất khó nắm bắt mặc dù nó là một đơn vị cơ bản của ngôn
ngữ, là đơn vị tồn tại trong thực tế.
1.1.2 Đặc điểm của từ tiếng Việt
Hiện nay định nghĩa về từ như thế nào cho thống nhất, chặt chẽ, bao quát vẫn
còn là một vấn đề chưa được giải quyết trọn vẹn nhưng tổng hợp những công trình
nghiên cứu về từ, ta có thể chỉ ra được những đặc điểm cơ bản của nó nhằm giúp ta
phân biệt được giữa từ với các đơn vị ngôn ngữ khác.
Có thể thấy từ là một loại đơn vị ngôn ngữ có nghĩa. Đặc điểm này giúp ta phân
biệt giữa từ với các đơn vị ngữ âm, là những đơn vị thuộc bình diện hình thức biểu đạt,
được trừu tượng hóa, tách khỏi mặt nội dung của tín hiệu ngôn ngữ.
Từ tiếng Việt thường có cấu tạo trùng khít với một âm tiết (trừ từ ghép, từ láy) nhưng
vẫn khác âm tiết vì khi nhắc đến từ ta phải nhắc đến cả hai mặt về hình thức lẫn nội

dung.
Từ cũng khác âm vị vì từ có nghĩa còn âm vị thì không có nghĩa mà chỉ có khả năng
phân biệt nghĩa giữa các âm đơn vị gần âm với nhau. Qua đặc điểm này ta có thể thấy
từ khác với âm tiết và từ cũng khác với âm vị.
Tính chỉnh thể của từ là đặc điểm nữa có thể nhận thấy khi nghiên cứu về từ. Tính
chỉnh thể của từ là tính chất làm cho từ xuất hiện với tư cách là một khối chặt chẽ, trọn
vẹn về cả nội dung ngữ nghĩa lẫn hình thức cấu tạo. Đặc điểm này giúp ta phân biệt
được giữa từ và cụm từ.
Đặc điểm kế tiếp của từ đó là từ mang tính độc lập. Tính độc lập của từ thể hiện ở
chỗ nó làm cho từ kết hợp không hạn chế với các yếu tố khác đứng trước và sau nó có
thể có để tạo nên cụm từ - câu. Đặc điểm này giúp ta phân biệt được giữa từ với hình
vị, vì hình vị có hình vị độc lập và hình vị không độc lập. Ví dụ: So sánh hai đơn vị
đồng nghĩa trong tiếng Việt:


tư - gia - hạn

nước - nhà - bác học

quốc - gia - phả

nhớ - nhà - đá

nhớ - gia - tộc

quê - nhà - nước

quê - gia - đình

mua - nhà - tranh

bán - nhà - giàu

Qua ví dụ trên ta thấy, xét về mặt lý thuyết tương đối, yếu tố “gia” có sự kết hợp hạn
chế. Còn nếu kết hợp được thì nó cũng tạo nên đơn vị lớn hơn nó: là từ. Còn yếu tố
“nhà” thì kết hợp không hạn chế và đơn vị nó kết hợp được tạo nên đơn vị lớn hơn từ:
là cụm từ. Vì vậy mà có thể thấy “gia” là hình vị, “nhà” là từ.
Một đặc điểm của từ nữa là từ có tác dụng định danh. Chức năng định danh dùng
để gọi tên sự vật, sự việc, hoạt động, tính chất… cụ thể trong thực tế khách quan. Tác
dụng định danh là của từ và cụm từ. Còn chức năng giao tiếp thuộc về của câu. Qua
đặc điểm này giúp ta phân biệt giữa từ và câu.
Trong tiếng Việt có một loại đơn vị đặc biệt gọi là “tiếng”. Về mặt ngữ âm, mỗi tiếng
là một âm tiết. Khi tạo câu, tạo lời, người Việt rất chú ý đến sự hài hoà về ngữ âm, đến
nhạc điệu của câu văn.
Mỗi tiếng, nói chung, là một yếu tố có nghĩa. Tiếng là đơn vị cơ sở của hệ thống các
đơn vị có nghĩa của tiếng Việt. Từ tiếng, người ta tạo ra các đơn vị từ vựng khác để
định danh sự vật, hiện tượng... chủ yếu nhờ phương thức ghép và phương thức láy.
Việc tạo ra các đơn vị từ vựng ở phương thức ghép luôn chịu sự chi phối của quy luật
kết hợp ngữ nghĩa, ví dụ: đất nước, máy bay, nhà lầu xe hơi, nhà tan cửa nát... Hiện
nay, đây là phương thức chủ yếu để sinh ra các đơn vị từ vựng. Theo phương thức này,
tiếng Việt triệt để sử dụng các yếu tố cấu tạo từ thuần Việt hay vay mượn từ các ngôn
ngữ khác để tạo ra các từ, ngữ mới, ví dụ: tiếp thị, karaoke, thư điện tử (e-mail), thư
thoại (voice mail), phiên bản (version), xa lộ thông tin, siêu liên kết văn bản, truy cập
ngẫu nhiên,…
Việc tạo ra các đơn vị từ vựng ở phương thức láy thì quy luật phối hợp ngữ âm chi
phối chủ yếu việc tạo ra các đơn vị từ vựng, chẳng hạn: chôm chỉa, chỏng chơ, đỏng
đa đỏng đảnh, thơ thẩn, lúng lá lúng liếng,…


Vốn từ vựng tối thiểu của tiếng Việt phần lớn là các từ đơn tiết (một âm tiết, một
tiếng). Sự linh hoạt trong sử dụng, việc tạo ra các từ ngữ mới một cách dễ dàng đã tạo

điều kiện thuận lợi cho sự phát triển vốn từ, vừa phong phú về số lượng, vừa đa dạng
trong hoạt động.
Từ của tiếng Việt không biến đổi hình thái. Đặc điểm này sẽ chi phối các đặc điểm
ngữ pháp khác. Khi từ kết hợp từ thành các kết cấu như ngữ, câu, tiếng Việt rất coi
trọng phương thức trật tự từ và hư từ.
Việc sắp xếp các từ theo một trật tự nhất định là cách chủ yếu để biểu thị các quan hệ
cú pháp. Ví dụ: trong tiếng Việt khi nói “Anh ta lại đến” là khác với “Lại đến anh ta”.
Khi các từ cùng loại kết hợp với nhau theo quan hệ chính phụ thì từ đứng trước giữ vai
trò chính, từ đứng sau giữ vai trò phụ. Trật tự chủ ngữ đứng trước, vị ngữ đứng sau là
trật tự phổ biến của kết cấu câu tiếng Việt.
Qua những đặc điểm nêu trên ta thấy được những đặc điểm cơ bản của từ. Nó là
đơn vị cơ bản của ngôn ngữ và khác với các đơn vị ngôn ngữ khác.
1.1.3 Các loại từ tiếng Việt
1.1.3.1 Trong Giáo trình tiếng Việt của Bùi Tất Tươm (chủ biên), Nguyễn Văn
Bằng, Hoàng Xuân Tâm, Nguyễn Thị Quy, Hoàng Diệu Minh [46]
Các tác giả chia từ loại tiếng Việt thành 9 từ loại, xếp thành hai nhóm: thực từ và
hư từ.
Thực từ gồm có: danh từ, động từ, tính từ, số từ, đại từ. Chúng có ý nghĩa thực và về
hoạt động cú pháp thì có khả năng làm trung tâm của thành phần câu.
Danh từ
Là những từ chỉ sự vật và những khái niệm được ngôn ngữ phản ánh như sự vật. Ý
nghĩa khái quát của danh từ là ý nghĩa sự vật, ý nghĩa này được khái quát hóa từ hàng
loạt khái niệm về sự vật (cụ thể hoặc trừu tượng).
Phân loại danh từ
 Danh từ riêng: là danh từ chỉ tên riêng của từng người, từng sự vật.
 Danh từ chung:
Danh từ đếm được (danh từ đơn vị). Gồm:
­

Danh từ chỉ đơn vị tự nhiên (danh từ loại thể, loại từ)



­

Danh từ chỉ đơn vị quy ước.

Danh từ không đếm được. Gồm:
­

Danh từ chỉ khái niệm trừu tượng

­

Danh từ chỉ người

­

Danh từ chỉ đồ vật và động thực vật

­

Danh từ chỉ chất liệu

­

Danh từ chỉ tổng hợp.

Động từ
Là từ chỉ hoạt động, trạng thái của sự vật và của những khái niệm được ngôn ngữ
phản ánh như những thực thể.

Động từ có thể làm trung tâm trong một ngữ mà thành tố phụ trước thường là các từ
hãy, đừng, cho, đã, sẽ, đang, đều, vẫn, cũng… và thành tố phụ sau là các từ xong, rồi,
nữa, mãi. Động từ không thể kết hợp với từ chỉ lượng nói chung, không kết hợp với từ
chỉ mức độ.
Phân loại:
 Động từ chỉ hoạt động: bao gồm động từ tác động và động từ không tác động.
Động từ tác động gồm:
-

Động từ chỉ hoạt động tác động tạo vật (động từ tác tạo)

-

Động từ sai khiến

-

Động từ trao nhận (gồm loại động từ trao và loại động từ nhận).

Động từ không tác động gồm:
-

Động từ chuyển động (gồm loại động từ chuyển động có hướng và động từ
chuyển động mà tự thân ý nghĩa chưa xác định hướng)

-

Động từ chỉ hoạt động nhận thức, tâm lý (động từ nhận thức, tâm lý, gồm: động
từ cảm nghĩ, nói năng; động từ chỉ trạng thái, tâm lý; động từ đánh giá, nhận
xét)


-

Động từ tư thế

- Động từ chỉ trạng thái
-

Động từ tồn tại

-

Động từ so sánh

-

Động từ biến hóa

-

Động từ tình thái (động từ biểu thị ý chí và động từ tiếp thụ).


Tính từ
Là từ loại chỉ tính chất của sự vật, của hoạt động và của trạng thái. Ý nghĩa khái
quát của tính từ là ý nghĩa tính chất.
Phần lớn tính từ tiếng Việt không tự thân có nghĩa về mức độ, vì vậy tính từ có thể
kết hợp với từ chỉ mức độ. Tính từ có thể tự nó hoặc kết hợp với một số từ khác trực
tiếp làm vị ngữ; vừa có khả năng bổ nghĩa cho danh từ, vừa có khả năng bổ nghĩa cho
động từ là đặc điểm tiêu biểu của từ tiếng Việt.

Phân loại:
Giáo trình này đưa ra cách phân loại tính từ theo ý nghĩa:
 Tính từ phẩm chất
 Tính từ màu sắc
 Tính từ chỉ lượng (gồm tính từ chỉ dung lượng và tính từ chỉ kích thước)
 Tính từ chỉ hình thể
 Tính từ chỉ cách thức.
Số từ
Là từ loại chỉ số lượng của sự vật và những khái niệm được ngôn ngữ phản ánh
như những thực thể. Số lượng có thể là chính xác, có thể là ước chừng.
Với ý nghĩa số lượng, số từ luôn luôn có thể là thành tố phụ trước trong ngữ danh từ.
Số từ không kết hợp với các từ chỉ định, các từ chỉ mệnh lệnh và các từ chỉ mức độ.
Chức năng ngữ pháp của số từ là trong hoạt động tạo câu, số từ (cùng với tổ hợp số
từ) có thể làm thành phần chính của câu.
Phân loại:
 Số từ chỉ số lượng chính xác: không, rưỡi, một, hai, ba…
 Số từ chỉ số lượng ước chừng: vài, dặm, mươi…
Đại từ
Là từ loại dùng để trỏ và thay thế cho sự vật, hoạt động, tính chất hay sự việc. Ý nghĩa
của đại từ do chức năng thay thế các từ, ngữ… khác của nó quy định, không liên quan
đến ý nghĩa từ vựng.
Phân loại
Có thể chia đại từ thành hai loại:
 Đại từ chỉ cái đã xác định (đại từ xác định). Gồm:


- Đại từ chỉ sự vật: dùng để trỏ và thay thế người, vật, địa điểm, số lượng, thời gian.
Gồm: Đại từ chỉ người: tôi, tớ, mày, mi, nó, hắn, y, họ…
- Đại từ chỉ định: này, nọ, ấy, kia…
- Đại từ chỉ số lượng: tất cả, bấy nhiêu…

- Đại từ chỉ họat động, tính chất, sự việc: thế, vậy.
 Đại từ chưa xác định. Gồm:
- Đại từ chưa xác định về sự vật: ai, gì, nào, đâu, bao giờ, bấy, bao nhiêu.
- Đại từ chưa xác định về hoạt động, tính chất: sao, thế nào.
Phụ từ
Là những từ dùng để bổ nghĩa cho các thực từ cơ bản hoặc biểu thị một số ý nghĩa
liên quan đến câu, nó có thể làm thành tố phụ trong ngữ, như: đã, sẽ, đang, không,
chưa, chẳng, đều, vẫn, cứ, những, các, mỗi, từng…
Phân loại:
 Phụ từ chỉ lượng. Gồm hai nhóm:
- Nhóm chỉ lượng: các, những, mấy, một. Có sự phân biệt giữa các và những.
- Nhóm chỉ sự phân phối: mỗi, mọi, từng. Có sự đối lập giữa mỗi, mọi, từng và có sự
phân biệt giữa mỗi với từng.
 Phụ từ tình thái. Gồm:
- Phụ từ cầu khiến: hãy, đừng, chớ…
- Khẳng định hay phủ định: nhất định, còn, không, chưa, chẳng…
- Chỉ tính chất hiện thực hay phi hiện thực của hành động tính chất: từng, đã, sẽ, sắp…
- Chỉ thể thức diễn biến: cũng, đều, vẫn, mãi, nữa…
- Chỉ mức độ: rất, hơi, khá, lắm, quá…
Quan hệ từ
Là từ loại biểu thị quan hệ ngữ pháp giữa các từ và kết cấu ngữ pháp.
Phân loại
 Quan hệ từ biểu hiện quan hệ đẳng lập (quan hệ từ đẳng lập) gồm: và, hay,
hoặc, rồi, còn, không những… mà…
 Quan hệ từ biểu hiện quan hệ chính phụ (quan hệ từ chính phụ) gồm: của, vì,
do, nếu… thì…, tuy… nhưng…
Trợ từ


Là từ loại biểu thị ý nghĩa tình thái nhằm thể hiện thái độ người nói đối với hiện thực

khách quan và với đối tượng tham dự giao tiếp. Trợ từ thường ở hai vị trí: khi bổ sung
ý nghĩa tình thái cho thành tố hay thành phần nào thì trợ từ ở vị trí trước thành tố hay
thành phần đó; khi bổ sung ý nghĩa tình thái cho thông báo của câu, trợ từ bao giờ
cũng ở vị trí cuối câu.
Phân loại
 Trợ từ bổ sung ý nghĩa tình thái cho thành tố của ngữ hay thành phần của câu.
Ví dụ: chính, ngay, cả, những, hàng, đích, cái…
 Trợ từ bổ sung ý nghĩa tình thái cho câu. Ví dụ: à, ư, nhỉ, nhé, đi, chứ, thôi,
nha…
Thán từ
Trong giáo trình này các tác giả tạm xếp thán từ vào hư từ nhưng vẫn quan niệm
đây là một từ loại đặc biệt, khác với các từ loại thuộc hư từ.
Thán từ là từ loại dùng để biểu hiện cảm xúc (ngạc nhiên, đau đớn, vui mừng, tức
giận…) của người nói hoặc dùng làm lời gọi, đáp.
Phân loại:
 Thán từ biểu hiện cảm xúc (thán từ cảm xúc).
 Thán từ dùng để gọi đáp (thán từ gọi đáp).

1.1.3.2 Theo Nguyễn Hữu Quỳnh trong Ngữ pháp tiếng Việt [25]
Theo tác giả, trong tiếng Việt, có thể phân chia các loại từ sau: thực từ gồm danh từ,
động từ, tính từ, số từ, đại từ; hư từ gồm phó từ, quan hệ từ; tình thái từ gồm trợ từ và
thán từ.
Danh từ
Là những từ có ý nghĩa từ vựng khái quát chỉ sự vật và các khái niệm trừu tượng khác.
Danh từ có thể làm thành tố chính kết hợp với các số từ một, hai, từng mấy… với các
phó từ những, các… ở trước hoặc kết hợp với đại từ chỉ định này, kia, ấy, nọ.
Phân loại
Tác giả chia danh từ thành 9 nhóm nhỏ khác nhau.
 Danh từ riêng. Ví dụ: Việt Nam, Cần Thơ, chùa Một Cột, đồng chí Trần Phú….
 Danh từ chỉ loại thể. Ví dụ: bà giám đốc, chú bộ đội, cái bàn, quyển sách, cây

cam, con cá, con sông, chiếc nhẫn, tấm ảnh, cơn gió, cuộc sống…


×