Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

Tìm hiểu nghệ thuật kết hợp đánh và đàm của đảng ta trong cuộc kháng chiến chống mỹ cứu nước 1954 1975

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (12.62 MB, 76 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA SƯ PHẠM
BỘ MÔN SƯ PHẠM LỊCH SỬ

--  --

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
TÌM HIỂU NGHỆ THUẬT KẾT HỢP ĐÁNH VÀ ĐÀM CỦA
ĐẢNG TA TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ
CỨU NƯỚC 1954-1975

Sinh viên thực hiện:
Thị Hồng Oanh
Lớp: SP. Lịch Sử K34
MSSV: 6086342

Giáo viên hướng dẫn:
Ths. Khoa Năng Lập

C n th

04/2012


LỜI CÁM ƠN

Để hoàn thành được luận văn này ngoài sự nổ lực của bản thân thì trước hết
tôi gửi lời cám ơn đến Thầy Cô bộ môn Lịch Sử, các cán bộ thư viện khoa Sư
phạm, Trung Tâm Học Liệu – Đại Học Cần Thơ, Nhà Văn Hóa – Bộ Tư Lệnh
Quân Khu 9, Thư Viện - Trung Đoàn Thông Tin 29, Thư Viện – Thành Phố Cần
Thơ đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi nghiên cứu đề tài. Tôi xin gửi lời cám ơn


đến Thầy Cô bộ môn đã tận tình giảng dạy và truyền thụ những kiến thức lẫn
phương pháp trong suốt quá trình học vừa qua. Đó là động lực là cơ sở vững chắc
cho tôi hoàn thiện luận văn.
Đặc biệt tôi chân thành cám ơn Thầy Khoa Năng Lập, người đã tận
tình hướng dẫn, động viên, chỉ dạy, sữa chữa, đóng góp ý kiến cho tôi trong suốt
quá trình tôi thực hiện đề tài luận văn. Ngoài ra, tôi không quên gửi lời cám ơn
đến bạn bè, gia đình đã động viên an ủi và ủng hộ tôi trong suốt thời gian qua.
Trong quá trình thực hiện đề tài này, mặc dù đã cố gắng rất nhiều song vì
đây là lần đầu tiên tôi thực hiện đề tài nghiên cứu mang tính chất khoa học vì vậy
khó có thề tránh khỏi những sai sót và hạn chế. Rất mong được sự đóng góp ý kiến
quý báu từ quý Thầy Cô và các bạn để đề tài của tôi được hoàn thiện hơn.
Trân trọng cám ơn!
Sinh viên thực hiện

Thị Hồng Oanh


LỜI NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
....................................................................................................
....................................................................................................
....................................................................................................
....................................................................................................
....................................................................................................
....................................................................................................
....................................................................................................
....................................................................................................
....................................................................................................
....................................................................................................
....................................................................................................
....................................................................................................

....................................................................................................
....................................................................................................
....................................................................................................
....................................................................................................
....................................................................................................
....................................................................................................
....................................................................................................
....................................................................................................
....................................................................................................
....................................................................................................
....................................................................................................


LỜI NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN PHẢN BIỆN

....................................................................................................
....................................................................................................
....................................................................................................
....................................................................................................
....................................................................................................
....................................................................................................
....................................................................................................
....................................................................................................
....................................................................................................
....................................................................................................
....................................................................................................
....................................................................................................
....................................................................................................
....................................................................................................
....................................................................................................

....................................................................................................
....................................................................................................
....................................................................................................
....................................................................................................
....................................................................................................
....................................................................................................
....................................................................................................


Luận Văn Tốt Nghiệp

GVHD: Khoa Năng Lập

Mục lục
A PHẦN MỞ ĐẦU ..................................................................................... 4
1. Lí do chọn đề tài: .................................................................................. 4
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề: ................................................................... 5
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu: ....................................................... 5
4. Phương pháp nghiên cứu:...................................................................... 5
5. Phạm vi nghiên cứu: ............................................................................. 5
6. Bố cục luận văn: ................................................................................... 5
B - PHẦN NỘI DUNG ............................................................................... 7
Chương 1: CƠ SỞ CỦA SỰ HÌNH THÀNH NGHỆ THUẬT KẾT HỢP
ĐÁNH VÀ ĐÀM ...................................................................................... 7
1.1 Truyền thống đánh và đàm của dân tộc ta trong lịch sử chống giặc
ngoại xâm. ................................................................................................ 7
1.2 Kinh nghiệm đúc kết từ thực tiễn của cuộc kháng chiến chống Pháp
1945-1954. .............................................................................................. 10
1.3 Điều kiện quốc tế và trong nước tác động đến cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước. ............................................................................... 11

1.1.1 Bối cảnh quốc tế. ........................................................................ 11
1.1.2 Bối cảnh đất nước. ...................................................................... 14
1.4 Mục tiêu và chủ trương vừa đánh vừa đàm của Đảng ta trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ. ........................................................................... 16
Chương 2 ................................................................................................ 21

SVTH: Thị Hồng Oanh

Trang 1


Luận Văn Tốt Nghiệp

GVHD: Khoa Năng Lập

QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN NGHỆ THUẬT KẾT
HỢP ĐÁNH VÀ ĐÀM CỦA ĐẢNG TA TRONG KHÁNG CHIẾN
CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC (1954-1975)................................................. 21
2.1 Thời kỳ đấu tranh đòi thi hành Hiệp định Giơnevơ 1954-1960.......... 21
2.2 Kết hợp đánh và đàm chống chiến lược “chiến tranh đặt biệt” và
“chiến tranh cục bộ”. Thời kỳ 1959-1967. .............................................. 22
2.2.1 Thời kỳ chống “Chiến tranh đặc biệt” (1961-1965). ................... 22
2.2.2 Thời kỳ chống Chiến tranh cục bộ (1965-1968). ......................... 24
2.3 Lãnh đạo đàm phán của Đảng ta góp phần phá sản chiến lược “Việt
Nam hóa chiến tranh” buộc Mỹ ký Hiệp định Paris. Thời kỳ 1967-1973. 27
2.3.1 Cuộc đàm phán Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – Hoa Kỳ và Tết
Mậu Thân năm 1968. ........................................................................... 27
2.3.2 Mở hội nghị bốn bên – củng cố cục diện “đánh và đàm”, kéo Mỹ
xuống thang chiến tranh, ép Mỹ đơn phương rút quân. Tranh thủ sự
ủng hộ của quốc tế. .............................................................................. 28

2.3.3 Đàm phán kết thúc chiến tranh – Hiệp định Paris được ký kết. .. 30
2.4 Đánh và đàm của Đảng ta từ sau Hiệp định Paris trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ cứu nước, thời kỳ 1973-1975. ....................................... 34
2.4.1 Tình hình chung sau ngày Hiệp định Paris có hiệu lực và thi hành
Hiệp định 1973-1974. .......................................................................... 34
2.4.2 Đấu tranh phục vụ cho Tổng tiến công và nổi dậy Mùa Xuân
1975 giải phóng hoàn toàn miền Nam năm 1974-1975. ....................... 35
Chương 3 ................................................................................................ 37
NGUYÊN NHÂN THẮNG LỢI VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CỦA
NGHỆ THUẬT ĐÁNH VÀ ĐÀM TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN
CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC 1954-1975. .................................................. 37
SVTH: Thị Hồng Oanh

Trang 2


Luận Văn Tốt Nghiệp

GVHD: Khoa Năng Lập

3.1 Nguyên nhân thắng lợi. ..................................................................... 37
3.1.1 Đánh giá đúng so sánh lực lượng giữa ta và Mỹ.......................... 37
3.1.2 Tranh thủ sự giúp đỡ của hai đồng minh chiến lược Liên Xô và
Trung Quốc trụ cột của mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam. . 38
3.1.3 Khéo kết hợp “đánh – đàm” góp phần làm thay đổi cơ bản so
sánh lực lượng hai bên. ........................................................................ 39
3.1.4 Dựa vào sức ta là chính, kết hợp với khai thác mâu thuẫn trong
nội bộ Mỹ để kết thúc chiến tranh. ....................................................... 40
3.2 Bài học kinh nghiệm. ........................................................................ 42
3.2.1 Về độc lập, tự chủ và thời cơ. ..................................................... 42

3.2.2 Đánh – đàm hỗ trợ và thúc đẩy lẫn nhau. .................................... 43
3.2.3 Muốn hoạt động ngoại giao có hiểu quả, đàm phán thắng lợi, ta
phải có thực lực, nội bộ ổn định và có đường lối đối nội đúng đắn. ..... 44
3.2.4 Muốn đàm phán có kết quả, phải dựa vào ba tầng mặt trận, do
mặt trận đại đoàn kết dân tộc làm nòng cốt. ......................................... 44
3.2.5 Đàm phán Paris là cuộc đấu trí giữa Việt Nam và Mỹ, phải phát
huy bản lĩnh và trí tuệ để giành thắng lợi. ............................................ 45
3.2.6 Đàm phán Paris thắng lợi do Đảng ta xây dựng được hệ thống tổ
chức có hiệu quả. ................................................................................. 46
C - PHẦN KẾT LUẬN ............................................................................. 47
Phụ lục hình ảnh....................................................................................... 49
Tài liệu tham khảo ................................................................................... 61

SVTH: Thị Hồng Oanh

Trang 3


Luận Văn Tốt Nghiệp

GVHD: Khoa Năng Lập

A PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
Các cuộc chiến tranh đi qua đã để lại cho chúng ta biết bao đau thương và
mất mát ai cũng biết hậu quả chiến tranh là to lớn biết bao, cho dù đó là chiến
tranh chính nghĩa hay phi nghĩa thì đất nước đó phải chịu những tổn thất nặng nề.
Song, không phải đất nước nào cũng có quyền chọn lựa cho mình nền hòa bình,
tự do, có những lúc họ không muốn chiến tranh nhưng họ buộc phải chiến đấu
cho nền độc lập nước nhà. Và Việt Nam đất nước chúng ta đã rơi vào tình thế đó.

Hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ đi qua, chúng ta không khỏi kinh hoàng
trước những con số thiệt hại cả về người và của. Bây giờ chúng ta đang tẩn
hưởng nền hạnh phúc hòa bình, chúng ta đang độc lập điều đó không có nghĩa là
chúng ta quên đi quá khứ, bởi lẽ không có quá khứ sẽ không có hiện tại và tương
lai. Chúng ta đã chiến đấu anh dũng trong các cuộc kháng chiến. Ngoài những
người lãnh đạo tài giỏi, chúng ta còn có sự lãnh đạo tài tình của Đảng và nghệ
thuật kết hợp đánh và đàm của Đảng ta trong cuộc kháng chiến, và sức mạnh
đoàn kết dân tộc và chúng ta đã chiến thắng.
Có rất nhiều yếu tố để tạo nên thắng lợi vẻ vang trong các cuộc kháng
chiến chống Pháp và Mỹ, nhưng ở đây tôi xin nêu ra một trong những nguyên
nhân dẫn đến thắng lợi trong các cuộc kháng chiến mà ít ai nghĩ đến đó là "Nghệ
thuật kết hợp đánh và đàm" có thể nói "Nghệ thuật kết hợp đánh và đàm như một
nghệ sĩ" họ phải biết cân nhắc, sáng tạo đưa ra những sách lượt, chiến lược đúng
vào các thời kì thời điểm khác nhau nhằm đem lại chiến thắng mà ít thiệt hại nhất
về người và của.
Qua đó, để thấy rõ tầm quan trọng của Đảng trong kháng chiến bảo vệ tổ
quốc. Và để hiểu rõ hơn thì chúng ta cùng quay ngược trở về quá khứ, vào thời
kỳ kháng chiến chống Mỹ để cùng phân tích nghệ thuật kết hợp đánh và đàm của
Đảng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Xuất phát từ vấn đề nói trên,
tôi đã chọn đề tài " Tìm hiểu nghệ thuật kết hợp đánh và đàm của Đảng ta trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954 - 1975).

SVTH: Thị Hồng Oanh

Trang 4


Luận Văn Tốt Nghiệp

GVHD: Khoa Năng Lập


2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề:
Đề tài được nghiên cứu nhằm tìm hiểu quá khứ hào hùng của dân tộc, ôn
lại truyền thống đấu tranh giữ nước của ông cha ta và hơn hết làm rõ tầm quan
trọng của Đảng ta trong công cuộc đấu tranh bảo vệ giành độc lập cho dân tộc.
Từ đó khơi dậy lòng yêu nước, lòng trung thành với Đảng và rút ra những kinh
nghiệm quý báu từ nghệ thuật kết hợp đánh và đàm của Đảng trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ 1954-1975.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
Đề tài nhằm mục đích nghiên cứu tình hình đất nước trong giai đoạn 1954
- 1975, phân tích và làm rõ nghệ thuật kết hợp đánh và đàm của Đảng ta trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975.

4. Phương pháp nghiên cứu:
Để hoàn thành đề tài này ngoài phương pháp trò chuyện, trao đổi,
tham khảo và ghi nhận ý kiến từ Thầy Cô và các bạn tôi đã sử dụng tổng
hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học, phương pháp lịch sử, phương
pháp logic và phân tích tổng hợp các tài liệu liên quan.

5. Phạm vi nghiên cứu:
Chỉ nghiên cứu điều kiện tác động đến cuộc kháng chiến, nghệ thuật kết
hợp đánh và đàm của Đảng ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước
(1954-1975) của đất nước ta không nghiên cứu sâu các phạm vi khác trong các
cuộc kháng chiến khác.

6. Bố cục luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo thì phần nội
dung chính của bài luận văn gồm có ba chương như sau:


SVTH: Thị Hồng Oanh

Trang 5


Luận Văn Tốt Nghiệp

GVHD: Khoa Năng Lập

Chương 1: CƠ SỞ CỦA SỰ HÌNH THÀNH NGHỆ THUẬT KẾT HỢP ĐÁNH
VÀ ĐÀM.
Chương 2: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN NGHỆ THUẬT
KẾT HỢP ĐÁNH VÀ ĐÀM CỦA ĐẢNG TA TRONG KHÁNG CHIẾN
CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC (1954-1975).

Chương 3: NGUYÊN NHÂN THẮNG LỢI VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
CỦA NGHỆ THUẬT ĐÁNH VÀ ĐÀM TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN
CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC (1954-1975).

SVTH: Thị Hồng Oanh

Trang 6


Luận Văn Tốt Nghiệp

GVHD: Khoa Năng Lập

B - PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: CƠ SỞ CỦA SỰ HÌNH THÀNH NGHỆ THUẬT

KẾT HỢP ĐÁNH VÀ ĐÀM
1.1 Truyền thống đánh và đàm của dân tộc ta trong lịch sử
chống giặc ngoại xâm.
Bác Hồ vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam đã từng nói: “Dân ta có một
lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay,
mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn
sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm khó khăn, nó nhấn
chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”. “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất
định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”, là quyết tâm sắt đá
của dân tộc Việt Nam. “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc
lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá,
song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do.
Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp
hơn”. Vì thế truyền thống đánh và đàm của Đảng ta trong đấu tranh chống giặc
ngoại xâm là rất quan trọng và cần thiết mỗi khi đất nước có giặc ngoại xâm.
Những lời nói đanh thép của Chủ tịch Hồ Chí Minh làm rung động lòng
người dân Việt Nam, như những lời nhắc nhủ, lời kể chuyện của ông bà, cha mẹ
cho trẻ thơ Việt Nam. Mỗi khi có xâm lăng, bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ thiêng
liêng của mỗi người dân sống trên lãnh thổ này. Ý thức độc lập tự chủ là tư
tưởng, tình cảm của dân tộc. Ý thức đó, từ rất sớm đã trở thành mục đích đấu
tranh chung của tất cả các tầng lớp, mọi dân tộc trong nước. “Tình làng nghĩa
nước”, “nước mất thì nhà tan” là nếp sống, là những suy nghĩ chung. Cho nên,
người dân ta từ ngàn xưa đã có ý thức rất sâu rộng, nếu để kẻ thù cướp nước dày
xéo quê hương, thì mất cả gia đình, mất cả của cải, mất cả nền văn hóa dân tộc,
mất cả lẽ sống và đạo lý làm người. Tất cả nhân dân đều nhận thức rằng: “Quốc
gia hữu sự toàn dân hữu trách” (Quốc gia có ngoại xâm thì toàn dân đều phải có

SVTH: Thị Hồng Oanh

Trang 7



Luận Văn Tốt Nghiệp

GVHD: Khoa Năng Lập

trách nhiệm). Đó là tình cảm lớn nhất thúc đẩy mỗi người dân yêu nước đứng lên
chiến tranh giữ nước với những thử thách gian lao, dân tộc ta ai cũng hiểu rõ giá
trị thiêng liêng của độc lập dân tộc, nên đã “dĩ thân tuẫn quốc” (sẵn sàng hy sinh
vì sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc). Sự sống còn của dân tộc đoàn kết toàn dân, thúc
đẩy mọi tầng lớp góp sức chiến đấu và chiến thắng quân thù cường bạo.
Ở nước ta, sức mạnh giữ nước không chỉ là sức mạnh của một nhà nước,
mà là sức mạnh của cả nước và sự kết hợp khéo léo giữa đánh và đàm của Đảng
ta. Thấm nhuần quan điểm đó trong lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã viết: “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không
chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc, hể là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh
giặc Pháp cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm, ai không
có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc, ai cũng phải ra sức chống thực dân cứu
nước”. Quan điểm chiến tranh toàn dân được Đảng ta xác định năm 1951, trong
chính cương của Đảng ở đại hội Đảng lần thứ 2, đã bắt nguồn từ truyền thống
lịch sử lâu đời đó của dân tộc. Tư tưởng chiến lược “cả nước chung lòng, toàn
dân đánh giặc” cũng xuất phát từ yêu cầu khách quan của các cuộc chiến tranh
chống ngoại xâm của dân tộc. Đất nước ta đất không rộng, người không đông,
nhân tài vật lực của ta có hạn, lực lượng quân đội của ta không nhiều. Trái lại, kẻ
thù của dân tộc có đất rộng, người đông, có tiềm lực quân sự và kinh tế mạnh,
chúng cậy số đông, trang bị mạnh và có nhiều kinh nghiệm trong chiến tranh
xâm lược. Với điều kiện tương quan lực lượng giữa ta và địch như vậy, nếu dùng
lực lượng quân đội đơn thuần thì chắc chắn không thể đánh thắng được. Muốn
thắng quân thù to lớn và cường bạo, thì phải dựa vào sức mạnh cả nước, huy
động toàn dân đánh giặc.

Truyền thống chiến tranh toàn dân, toàn diện vừa đánh vừa đàm đã được
phát triển cao độ trong thời đại Hồ Chí Minh, trong kháng chiến chống Pháp và
đặc biệt là trong chiến tranh chống Mỹ giải phóng miền Nam. Đế quốc Mỹ mạnh
nhất trong phe đế quốc hiện đại, có một tiềm lực quân sự, kinh tế lớn nhất thế
giới đã huy động trên một triệu quân Mỹ và chư hầu (trong đó có trên 50 vạn
quân Mỹ), với các phương tiện vũ khí hiện đại có uy lực lớn, có sức cơ động rất
cao, hòng đè bẹp lực lượng kháng chiến Việt Nam. Chúng đã sử dụng lực lượng
SVTH: Thị Hồng Oanh

Trang 8


Luận Văn Tốt Nghiệp

GVHD: Khoa Năng Lập

quân sự hùng hậu và sức mạnh kinh tế lớn lao của tên đế quốc giàu nhất thế giới
vào cuộc chiến tranh mà từ xưa đến nay kẻ thù của nhân dân Việt Nam chưa hề
có và sử dụng. Không những ta phải đấu tranh vũ trang chống lại một đạo quân
đông, trang bị hiện đại, mà còn phải đấu tranh toàn diện trên các mặt kinh tế,
chính trị, ngoại giao chống một kẻ thù giàu có và nhiều thủ đoạn chính trị ngoại
giao xảo quyệt. Đế quốc Mỹ không phải chỉ dùng quân sự đánh ta mà còn dùng
sức mạnh kinh tế để buộc dân ta phải khuất phục. Chúng đã dồn dân vào các ấp
chiến lược, các thị trấn, thành phố hòng cô lập cách mạng, đây là một thủ đoạn
hết sức nguy hiểm mà từ xưa đến thời kỳ kháng chiến chống pháp chưa từng có.
Đối với một kẻ thù như vậy, nhân dân Việt Nam đã phát huy mạnh mẽ chiến
tranh toàn dân, toàn diện, đấu tranh của toàn dân trên các mặt trận chính trị, kinh
tế, đã phối hợp với đấu tranh quân sự của lực lượng vũ trang trên quy mô chưa
từng có trong lịch sử. Sức mạnh của chiến tranh nhân dân Việt Nam trong thời
đại Hồ Chí Minh đã đánh bại tên hung nô của thời đại, làm cho toàn thế giới

sửng sốt, khâm phục và đem lại lòng tin cho cách mạng của các dân tộc nhỏ
chống các đế quốc to trên phạm vi thế giới.
Sức mạnh đó được phát huy cao như vậy vì có sự lãnh đạo đúng đắn của
Đảng Cộng sản Việt Nam - đội tiên phong của giai cấp công nhân, của nhân dân
lao động Việt Nam, có sức mạnh của chính nghĩa độc lập dân tộc chống ngoại
xâm. Nó đã đoàn kết toàn dân và phát huy tinh thần chiến đấu chống kẻ thù. Nó
tạo ra sức sáng tạo phong phú trong việc tìm kiếm các thủ đoạn đánh địch trên
các mặt trận quân sự, chính trị, kinh tế của mọi tầng lớp, mọi thành phần trong xã
hội. Trong thời đại Hồ Chí Minh, phương thức tiến hành chiến tranh nhân dân
của ta là huy động toàn dân đánh giặc một cách toàn diện trên cả ba vùng chiến
lược, phát huy sức mạnh tổng hợp của lực lượng vũ trang và lực lượng chính trị
kết hợp đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị và binh địch vận; kết hợp khởi
nghĩa vũ trang với chiến tranh, kết hợp nổi dậy của quần chúng với tác chiến của
lực lượng vũ trang; kết hợp tiêu diệt địch với giành và giữ quyền làm chủ của
dân, kết hợp chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy.
Với nghệ thuật đánh và đàm của Đảng ta đã huy động được hàng triệu
người ra tiền tuyến, đã khai thác và phát huy đến mức cao nhất tiềm lực cửa đất
SVTH: Thị Hồng Oanh

Trang 9


Luận Văn Tốt Nghiệp

GVHD: Khoa Năng Lập

nước. Nó đã làm cho đội quân xâm lược khổng lồ bị sa lầy trong biển lửa của
toàn dân, bị lúng túng, bị động, bị cột chặt vào mâu thuẫn giữa phân tán và tập
trung, giữa phòng ngự và tiến công, giữa đánh nhanh và đánh kéo dài, làm cho
lực lượng địch ngày càng hao mòn, ý chí xâm lược ngày càng sa sút. Và cuối

cùng, đế quốc Mỹ, đế quốc mạnh nhất thời đại chưa hề bị thất bại, đã phải nuốt
hận chịu thua trong cuộc chiến tranh kéo dài nhất và tốn kém nhất trong lịch sử
nước Mỹ.

1.2 Kinh nghiệm đúc kết từ thực tiễn của cuộc kháng chiến
chống Pháp 1945-1954.
Cùng với chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Geneve đã kết thúc cuộc
kháng chiến chống Pháp lâu dài và gian khổ của dân tộc Việt Nam. Giải phóng
hoàn toàn miền Bắc, xóa bỏ cơ đồ thực dân cũ của Pháp ở Đông Dương, góp
phần thúc đẩy sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên thế giới, cổ vũ mạnh mẽ
phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước Á, Phi, Mĩ La tinh. Việt Nam
– Điện Biên Phủ - Hồ Chí Minh trở thành biểu tượng và niềm tin chiến thắng của
các dân tộc đang đấu tranh cho độc lập, tự do.
Như vậy, chúng ta thấy rằng năm 1946 qua nhiều lần thương lượng, đàm
phán, thực dân Pháp vẫn ngoan cố không chịu thừa nhận các quyền dân tộc cơ
bản của nước Việt Nam là độc lập dân tộc và thống nhất đất nước. Khi ký bản
hiệp định Sơ Bộ ngày 6/3/1946, Pháp mới chỉ công nhận tính thống nhất của Việt
Nam là “một quốc gia tự do” nhưng không công nhận là độc lập và họ quyết tâm
xâm lược nước ta bằng một cuộc chiến tranh đẫm máu. Vì vậy, trái với mong
muốn hòa bình của ta, thực dân Pháp đã biến hiệp định Sơ Bộ thành hiệp định đổ
bộ đưa quân ra miền Bắc Việt Nam để gây chiến.
Tuy nhiên, cùng với thắng lợi to lớn tại Điện Biên Phủ, tại Hội nghị
Geneve – một hội nghị quốc tế với sự tham gia của các nước lớn đã thừa nhận
độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ - các quyền dân tộc cơ bản
của Việt Nam, Lào, Campuchia. Tạo cơ sở pháp lí cho Việt Nam tiếp tục đấu
tranh trong hai thập kỉ tiếp theo để giành độc lập, thống nhất hoàn toàn. Những
thắng lợi đạt được trên đây là kết quả của sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, Chính
SVTH: Thị Hồng Oanh

Trang 10



Luận Văn Tốt Nghiệp

GVHD: Khoa Năng Lập

phủ ta qua việc kết hợp nhuần nhuyễn đấu tranh quân sự và đấu tranh ngoại giao
để có thể giành được thắng lợi.
Trong các cuộc kháng chiến, ông cha ta luôn biết kết hợp chặt chẽ đấu
tranh quân sự và đấu tranh ngoại giao, vừa đánh vừa đàm để kết thúc chiến tranh,
điều đó trở thành một nghệ thuật quân sự của dân tộc như thời nhà Lê chống
quân Minh xâm lược, Lê Lợi đã mở hội thề Đông Quan để kết thúc chiến tranh
một cách hòa bình, đỡ tốn xương máu của nhân dân cả hai nước, mở đường cho
quân giặc rút về nước trong danh dự và làm cho chúng kính nể ta…Vận dụng và
phát huy một cách sáng tạo truyền thống đánh giặc đó, cũng như học tập kinh
nghiệm của hầu hết các cuộc chiến tranh trên thế giới luôn có sự kết hợp đấu
tranh quân sự và đấu tranh ngoại giao. Lấy đấu tranh quân sự làm cơ sở để đấu
tranh ngoại giao và đấu tranh ngoại giao để tạo những điều kiện thuận lợi cho
đấu tranh quân sự phát triển mạnh. Đặc biệt chúng ta tranh thủ sự ủng hộ về tinh
thần của nhân dân lao động tiến bộ trên thế giới, sự giúp đỡ về vật chất lẫn tinh
thần của các nước trong phe xã hội chủ nghĩa, sự giúp đỡ của các nước láng
giềng trong cuộc đấu tranh chính nghĩa vì độc lập, tự do của dân tộc ta. Và một
khi quân sự mạnh lên, thế và lực vững vàng, sẽ tiến hành đấu tranh quân sự để
giành một thắng lợi quyết định buộc kẻ thù phải ngồi vào bàn đàm phán với ta.
Thắng lợi Điện Biên Phủ và Hiệp định Geneve được ký kết là hai sự kiện
lớn thể hiện sự kết hợp tuyệt vời giữa hai mặt trận quân sự và ngoại giao, trong
đó quân sự làm cơ sở để đánh bại ý chí xâm lược của thực dân Pháp, kết thúc
chiến tranh. Đây cũng là một nghệ thuật kết hợp đấu tranh đánh và đàm, một bài
học quý báu mà chúng ta tiếp tục vận dụng và phát huy trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước để giành thắng lợi trọn vẹn, vẻ vang nhất.


1.3 Điều kiện quốc tế và trong nước tác động đến cuộc kháng
chiến chống Mỹ cứu nước.
1.1.1 Bối cảnh quốc tế.
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, một loạt các nước xã hội chủ nghĩa
ra đời. chủ nghĩa xã hội từ phạm vi một nước đã trở thành một hệ thống. Hệ

SVTH: Thị Hồng Oanh

Trang 11


Luận Văn Tốt Nghiệp

GVHD: Khoa Năng Lập

thống xã hội chủ nghĩa thế giới lúc này đang ở thời kỳ phát triển mạnh mẽ, có tác
động to lớn tới quá trình phát triển của thế giới. Hệ thống xã hội chủ nghĩa thế
giới nối liền từ châu Á sang châu Âu, không ngừng phát triển và củng cố về mọi
mặt. Ở Việt Nam, nếu miền Bắc là hậu phương trực tiếp cho cách mạng miền
Nam, thì hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới lúc này nối liền với miền Bắc xã hội
chủ nghĩa của Việt Nam là hậu phương rộng lớn đáng tin cậy, một thuận lợi chưa
bao giờ có đối với cách mạng nước ta.
Chiến thắng Điện Biên Phủ của Việt Nam năm 1954, Cùng với sự lớn
mạnh của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới, phong trào giải phóng dân tộc cuồn
cuộn dâng cao ở châu Á châu Phi và châu Mỹ La tinh, hệ thống thuộc địa của
chủ nghĩa đế quốc bị thu hẹp và đi vào quá trình tan rã. Cuộc đấu tranh cho dân
sinh, dân chủ và hoà bình ở các nước tư bản chủ nghĩa phát triển rộng khắp và
liên tục. So sánh lực lượng trên thế giới lúc đó ngày càng thay đổi có lợi cho chủ
nghĩa xã hội, cho lực lượng cách mạng. Chủ nghĩa đế quốc tiếp tục suy yếu và

khó khǎn. Cách mạng thế giới lúc này đang ở thế tiến công. Cách mạng Việt
Nam đã hoà được vào trào lưu chung của cách mạng thế giới.
Thời kỳ này cũng cần lưu ý rằng, tuy chủ nghĩa đế quốc đã suy yếu nhưng
chừng nào còn chủ nghĩa đế quốc thì vẫn còn miếng đất để xảy ra chiến tranh.
Lực lượng xâm lược gây chiến chủ yếu trên thế giới là đế quốc Mỹ. Chúng đang
dẫn đầu các thế lực đế quốc hiếu chiến chạy đua vũ trang, củng cố các khối liên
minh quân sự xâm lược, xây dựng các cǎn cứ quân sự, phục hồi chủ nghĩa phát
xít ở Tây Đức và quân phiệt ở Nhật Bản, nhóm lên những lò lửa chiến tranh ở
châu Âu và châu Á, ra sức chuẩn bị chiến tranh mới. Nguy cơ chiến tranh thế
giới vẫn tồn tại. Nhân dân các nước đang đứng trước sự đe dọa hết sức nghiêm
trọng của một cuộc chiến tranh hạt nhân. Mặt khác, sự tàn sát và huỷ diệt ghê
gớm trong cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai và hậu quả của nó còn làm cho
nhiều người lo ngại và lẫn lộn giữa chiến tranh chính nghĩa và chiến tranh phi
nghĩa. Trong điều kiện đó đã nảy sinh nhiều tư tưởng và khuynh hướng của chủ
nghĩa xét lại, chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa dân tộc làm cho tình hình thế giới phức
tạp. Họ tuyệt đối hoá đường lối chung sống hoà bình, đi vào phòng ngự bị động,
gây không ít khó khǎn cho phong trào cách mạng thế giới, đặc biệt với phong
SVTH: Thị Hồng Oanh

Trang 12


Luận Văn Tốt Nghiệp

GVHD: Khoa Năng Lập

trào giải phóng dân tộc. Trong tình hình đó, nhân dân ta tiến hành cách mạng giải
phóng miền Nam, Đảng và nhân dân ta phải giải quyết thành công mối quan hệ
giữa hoà bình và cách mạng. Giải quyết mối quan hệ này, đòi hỏi Đảng ta hết sức
sáng suốt và có sách lược đúng đắn. Thực tế Đảng ta đã giải quyết tốt mối quan

hệ đó, góp phần bảo vệ hoà bình, đồng thời thúc đẩy sự nghiệp cách mạng tiến
lên hoàn thành độc lập dân tộc và thống nhất Tổ quốc.
Khi nhân dân ta tiến hành kháng chiến chống Mỹ cứu nước, trên thế giới
tồn tại bốn mâu thuẫn chủ yếu: mâu thuẫn giữa hệ thống xã hội chủ nghĩa thế
giới với các lực lượng tư bản chủ nghĩa thế giới; mâu thuẫn giữa các nước đế
quốc với nhau; mâu thuẫn giữa các dân tộc đòi độc lập với các lực lượng đế quốc
thực dân; mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản với giai cấp tư sản.
Đế quốc Mỹ xâm chiếm và thiết lập sự thống trị của chúng ở miền Nam
nước ta đã làm nảy sinh và sâu sắc thêm cả bốn mâu thuẫn trên ở miền Nam. Đế
quốc Mỹ thực hiện âm mưu xâm lược lâu dài miền Nam, biến nơi đây thành cǎn
cứ quân sự của chúng nhằm ngǎn chặn "làn sóng" cộng sản tràn xuống Đông Nam á, và chuẩn bị tiến công các nước xã hội chủ nghĩa. Mỹ tuyên bố chiến
tranh ở Việt Nam là chiến tranh hệ tư tưởng, giữa hệ tư tưởng cộng sản với hệ tư
tưởng "tự do" kiểu Mỹ. Đế quốc Mỹ hất cẳng thực dân Pháp, độc chiếm miền
Nam, đẩy dần các đế quốc châu Âu ra khỏi Đông Nam á, chèn ép quyền lợi của
tư bản thực dân nhiều nước ở vùng này, càng làm cho mâu thuẫn giữa Mỹ với
các đế quốc khác thêm sâu sắc. Đế quốc Mỹ áp đặt chủ nghĩa thực dân mới ở
miền nam, chia cắt đất nước ta làm cho cả dân tộc ta mâu thuẫn gay gắt với
chúng, nhân dân ta đã đồng tâm đứng dậy chống Mỹ xâm lược, kiên quyết giành
độc lập dân tộc, thống nhất đất nước. Đế quốc Mỹ cố xây dựng ở miền Nam một
giai cấp tư sản mại bản làm tay sai cho chúng, làm mâu thuẫn giữa giai cấp công
nhân và tư bản ở miền Nam càng trở nên sâu sắc. Để phục vụ chiến tranh của
chúng ở miền Nam, đế quốc Mỹ bóc lột giai cấp công nhân và nhân dân lao động
Mỹ, bắt họ sang miền Nam làm bia đỡ đạn để bọn tư bản Mỹ thu những món lợi
kếch xù tử cuộc chiến tranh này. Mỹ còn lôi kéo các nước tay sai đổ của đổ
người vào cuộc chiến tranh của chúng ở miền Nam. Do vậy, giai cấp công nhân,
nhân dân lao động Mỹ và các nước chư hầu của Mỹ bị lôi cuốn vào cuộc chiến
SVTH: Thị Hồng Oanh

Trang 13



Luận Văn Tốt Nghiệp

GVHD: Khoa Năng Lập

tranh, ngày càng mâu thuẫn quyết liệt với tư bản Mỹ, với các nhà cầm quyền Mỹ
và giai cấp tư bản các nước chư hầu Mỹ, làm rung chuyển hậu phương của
chúng. Điều đó nói lên rằng, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân
ta là cuộc đụng đầu lịch sử mang tính thời đại sâu sắc.

1.1.2 Bối cảnh đất nước.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ở miền Nam (19541975) là sự tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân dưới sự lãnh đạo
của Đảng. Từ khi ra đời (3-2-1930), Đảng ta đã chỉ rõ: đất nước ta vốn là một Tổ
quốc thống nhất và nhân dân ta có truyền thống đoàn kết chống ngoại xâm bảo
vệ bờ cõi và cùng nhau xây dựng đất nước. Nhưng từ khi thực dân Pháp xâm
lược, chúng đã cùng bọn vua quan phong kiến đầu hàng, thống trị nhân dân ta, xã
hội Việt Nam thành một xã hội thuộc địa nửa phong kiến, với hai mâu thuẫn cơ
bản: mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc ta với đế quốc xâm lược và mâu thuẫn giữa
nhân dân ta, mà chủ yếu là nông dân, với giai cấp địa chủ phong kiến. Đảng ta
gánh vác sứ mệnh lãnh đạo dân tộc giải quyết hai mâu thuẫn trên là thực hiện hai
nhiệm vụ của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân: chống đế quốc xâm
lược, giành độc lập thống nhất Tổ quốc và chống phong kiến, giành lại ruộng đất
cho nông dân.
Tháng 7-1954, miền Bắc được giải phóng, nhưng miền Nam còn dưới ách
thống trị của đế quốc và bọn tay sai. Đế quốc Mỹ hất cẳng thực dân Pháp, cùng
bọn tay sai Ngô Đình Diệm tiếp tục thống trị nhân dân ta ở miền Nam, hai mâu
thuẫn cơ bản trên vẫn tồn tại và đất nước tạm thời bị chia cắt. Nhân dân ta tiến
hành kháng chiến chống đế quốc Mỹ và bọn tay sai là tiếp tục cuộc cách mạng đã
được tiến hành dưới sự lãnh đạo của Đảng từ đâu nǎm 1930, nhằm hoàn thành sự
nghiệp giành độc lập dân tộc và thống nhất Tổ quốc để tiến lên xây dựng chủ

nghĩa xã hội. Đây là sự tiếp nối lịch sử tất yếu. Đúng như Đảng ta đã khẳng định
tại Đại hội tân thứ III (tháng 9-1960): "Cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân
miền Nam là sự tiếp tục các cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ, khởi nghĩa Ba tơ, tổng
khởi nghĩa tháng Tám và cuộc kháng chiến trường kỳ của nhân dân ta trong điều
kiện mới của lịch sử". Từ bối cảnh lịch sử chiến đấu và chiến thắng ấy, nhân dân
SVTH: Thị Hồng Oanh

Trang 14


Luận Văn Tốt Nghiệp

GVHD: Khoa Năng Lập

ta ở miền Nam bước vào cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược với tư
thế của người chiến thắng và đã kế thừa được nhiều kinh nghiệm quý báu của
Cách mạng tháng Tám và kháng chiến chống thực dân Pháp. Đó cũng là nhân tố
bảo đảm thắng lợi của cách mạng miền Nam. Đồng chí Lê Duẩn nói: “Chúng ta
thắng Mỹ là nhờ có những kinh nghiệm quý báu của Cách mạng tháng Tám và 9
nǎm kháng chiến chống Pháp. Không có Cách mạng tháng Tám, không có 9 nǎm
kháng chiến chống Pháp thì không thể có thắng lợi của kháng chiến chống Mỹ”.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước diễn ra trong điều kiện đất nước bị
chia làm hai miền, phải tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng khác nhau
dưới sự lãnh đạo thống nhất của Đảng. Đây là đặc điểm lớn nhất và cũng là nét
độc đáo của cách mạng nước ta từ tháng 7 nǎm 1954 đến tháng 5 nǎm 1975.
Trong suốt thời gian đó việc hoạch định đường lối chiến lược và sách lược cách
mạng của Đảng phải phản ánh rõ đặc điểm lớn này. Từ mục tiêu chung của cách
mạng cả nước và mục tiêu cụ thể của từng miền đến những vấn đề chủ trương,
sách lược và phương pháp tiến hành phải phù hợp với đặc điểm trên và sát đúng
với điều kiện lịch sử cụ thể của từng miền. Đồng thời, phải xác định rõ vị trí cách

mạng từng miền và mối quan hệ khǎng khít giữa cách mạng hai miền trong thế
chiến lược chung của cả nước.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (9-1960), xác định đường lối
cách mạng của nước ta:
- Một là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.
- Hai là, giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bọn tay sai,
thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước.
Hai nhiệm vụ chiến lược ấy có quan hệ mật thiết với nhau và có tác dụng thúc
đẩy lẫn nhau.
Về vị trí chiến lược cách mạng của từng miền, Đảng ta xác định: miền Bắc
là cǎn cứ địa chung của cách mạng cả nước và sự nghiệp cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở miền Bắc có vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển cách mạng cả
nước.

SVTH: Thị Hồng Oanh

Trang 15


Luận Văn Tốt Nghiệp

GVHD: Khoa Năng Lập

Cách mạng miền Nam có tác dụng quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp
giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và tay sai. Thông qua
thực hiện nhiệm vụ cách mạng ở mỗi miền mà góp phần thực hiện nhiệm vụ
chung của cả nước là hoàn thành độc lập, thống nhất đất nước.
Việc xác định đường lối cách mạng tiến hành đồng thời hai chiến lược
cách mạng khác nhau ở hai miền là nét độc đáo, chưa có tiền lệ trong lịch sử, là
thành công lớn của Đảng ta. Đó là đường lối duy nhất đúng, biểu hiện tinh thần

độc lập tự chủ, sáng tạo của Đảng ta. Miền Bắc hoàn toàn giải phóng, tiến hành
cách mạng xã hội chủ nghĩa và là hậu phương lớn của cả nước, đã tạo cho cách
mạng miền Nam có điều kiện thuận lợi mới khác hẳn các thời kỳ lịch sử trước
đây. Đó là một nguyên nhân chủ yếu để cách mạng miền Nam đánh thắng đế
quốc Mỹ và tay sai.
Với nghệ thuật kết hợp đánh và đàm, Đảng ta tiến hành đồng thời hai chiến
lược cách mạng khác nhau trên hai miền Nam - Bắc chẳng những không mâu
thuẫn, mà lại từng bước đưa cách mạng hai miền cùng phát triển, cùng đi lên
trong thế tương hỗ, thúc đẩy nhau phát triển, tạo ra sức mạnh tổng hợp đánh
thắng hoàn toàn đế quốc Mỹ xâm lược và chế độ tay sai của chúng, giải phóng
miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

1.4 Mục tiêu và chủ trương vừa đánh vừa đàm của Đảng ta
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ.
Đặc điểm nổi bật trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam là
luôn phải chiến đấu chống lại những kẻ thù mạnh hơn về quân số, vũ khí. Trong
điều kiện ấy Việt Nam luôn phải áp dụng nghệ thuật lấy yếu đánh mạnh, lấy ít
địch nhiều. Nghệ thuật đó không chỉ được áp dụng trong từng trận đánh, từng
chiến dịch quân sự mà trong nhiều cuộc kháng chiến còn là sự phối hợp tiến công
địch về quân sự ngoại giao dó chính là phương thức vừa đánh vừa đàm.
Phương thức vừa đánh vừa đàm của Đảng ta và chủ tịch Hồ Chí Minh kế
thừa, phát triển trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Mở đầu kháng chiến chống
Pháp, cục diện vừa đánh vừa đàm do Đảng ta mở ra thành công. Mặc dù kết thúc

SVTH: Thị Hồng Oanh

Trang 16


Luận Văn Tốt Nghiệp


GVHD: Khoa Năng Lập

cục diện này là toàn quốc kháng chiến nhưng Đảng đã đặt được mục tiêu đề ra
bấy giờ là bớt đi một kẻ thù là quân tưởng cùng bọn tay sai đề tập trung đối phó
với quân Pháp và có thêm thời gian để chuẩn bị kháng chiến lâu dài. Cục diện
này cũng xuất hiện vào cuối cuộc kháng chiến nhưng kết quả “đàm” ở Hội nghị
Giơnevơ không phán ánh đầy đủ kết quả đánh ở chiến trường. Đây là một bài học
quý báu của Đảng cho những giai đoạn cách mạng sau.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, một lần nữa Đảng vận dụng
sách lược vừa đánh vừa đàm, nhưng chủ trương vừa đánh vừa đàm của Đảng
trong kháng chiến chống Mỹ có từ khi nào và đến thời điểm nào là thích hợp để
vừa đánh vừa đàm. Yêu cầu bức thiết phải đặt ra sau 7-1954 là vạch ra mục tiêu
chủ trương vừa phù hợp với tình hình mỗi miền và cả nước, vừa phù hợp với xu
thế chung của thời đại.
Tháng 9-1954, Bộ chính trị ra nghị quyết đã chỉ ra đặc điểm chủ yếu của
tình hình trong lúc cách mạng Việt Nam bước vào giai đoạn mới là: từ chiến
tranh chuyển sang hòa bình; nước nhà tạm chia làm hai miền; từ nông thôn
chuyển sang thành thị; từ phân tán chuyển sang tập trung. Tại Hội nghị làn thứ
bảy (3-1955) và lần thứ tám (8-1955) Trung ương Đảng nhận định: muốn chống
đế quốc Mỹ và tay sai, củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất hoàn thành độc
lập và dân chủ, điều cốt lõi là phải ra sức cũng cố miên Bắc, đồng thời giữ vững
cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam.
Tháng 12-1957, tại Hội nghị Trung ương lần thứ 13 đã xác định mục tiêu
và nhiệm vụ của toàn Đảng toàn dân ta hiện nay là củng cố miền Bắc và đấu
tranh thống nhất nước nhà trên cơ sở hòa bình. Tháng 1-1959, Hội nghị Trung
ương lần thứ 15 họp về cách mạng miền Nam nhằm phương hướng chung là giữ
vững hòa bình và thống nhất nước nhà. Hội nghị có ý nghĩa to lớn, chẳng những
mở đường cho cách mạng miền Nam tiến lên mà còn thể hiện rõ độc lập tự chủ,
sáng tạo của Đảng trong những năm tháng khó khăn của cách mạng. Đại hội lần

thứ III của Đảng họp tại Hà Nội từ ngày 5 đến ngày 10-9-1960, Đại hội đã hoàn
chỉnh chủ trương chiến lược của cách mạng Việt Nam.

SVTH: Thị Hồng Oanh

Trang 17


Luận Văn Tốt Nghiệp

GVHD: Khoa Năng Lập

Như trên đã nói, cho đến cuối năm 1966, Đảng chủ yếu nhấn mạnh quyết
tâm đánh thắng chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ. Về ngoại giao, Đảng
khẳng định tính chất chính nghĩa của cuộc kháng chiến chống Mỹ, vạch trần âm
mưu của Mỹ trong các chiến dịch vận động ngoại giao “hòa bình” qua đó kêu gọi
nhân dân thế giới ủng hộ nhân dân Việt Nam kháng chiến. Tuy nhiên những chủ
trương vừa đánh vừa đàm đã được Đảng tính từ trước đó. Trong thư gửi Trung
ương cục miền Nam ngày 18-7-1962, đồng chí Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất Ban
chấp hành Trung ương Đảng đã phân tích tình hình cách mạng Lào để làm bài
học cho cách mạng miền Nam và lưu ý đến phương châm “có tác chiến và có
đàm phán”.
Tháng 2-1965, cũng trong thư Trung ương cục miền Nam, đồng chí Lê
Duẩn tính đến khả năng dùng đấu tranh chính trị đòi thành lập ở Sài Gòn một
chính phủ chủ trương chấm dứt chiến tranh thương lượng với Mặt trận: Chính
quyền mới đề ra các yêu cầu: Đình chỉ chiến sự. Đặt vấn đề giao thiệp công khai
với Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam để bàn việc chấm dứt chiến tranh.
Thực hiện chính sách trung lập, giao thiệp với Pháp, Mỹ và đặt vấn đề yêu cầu
quân đội Mỹ rút; Yêu cầu hai chủ tịch Hội nghị Giơnevơ năm 1954 triệu tập
ngay hội nghị để bàn về bảo đảm trung lập cho miền Nam và đình chỉ chiến sự;

Có thể chưa cần đặt vội vấn đề miền Bắc; Tạo diều kiện cho Mỹ rút lui.
Trong hội nghị, chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “phải thấy trong quá trình tiến
hành chiến tranh chống Mỹ, phải vừa kiên quyết vừa khéo léo. Lúc nào Mỹ
muốn đi ra thì tạo điều kiện cho Mỹ rút”. Ý kiến của chủ tịch Hồ Chí Minh chính
là tư tưởng chỉ đạo cho cuộc đấu tranh ngoại giao chống Mỹ sau đó. Kinh
nghiệm của cuộc kháng chiến chống Pháp cho thấy khi quân địch còn đang tin
tưởng vào sức mạnh quân sự, chưa bị tiêu diệt nhiều sinh lực và chưa nhận thấy
không thương lượng hòa bình không được thì cũng chưa phải là lúc Việt Nam có
thể đàm phán với kẻ thù. Chính vì vậy tuyên bố 5 điểm của Mặt trận Dân tộc giải
phóng miền Nam Việt Nam ngày 22-3-1965 theo chủ trương của bộ chính trị dù
đã đưa ra những điều kiện làm cơ sở về vấn đề miền Nam nhưng cũng thể hiện
một lập trường sắt đá kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, trước sau như một. Nghị
quyết Hội nghị lần thứ 11 Ban chấp hành Trương ương (họp vào cuối tháng 3SVTH: Thị Hồng Oanh

Trang 18


Luận Văn Tốt Nghiệp

GVHD: Khoa Năng Lập

1965) củng chỉ rõ phải nêu cao tinh thần tự lực cánh sinh, “chống tư tưởng sợ
Mỹ, đánh giá địch quá cao, hoặc chủ quan khinh địch, tư tưởng hoang mang, dao
động, cầu an, tư tưởng muốn đàm phán khi chưa có điều kiện có lợi, muốn kế
thúc chiến tranh với bất cứ giá nào, tư tưởng ỷ lại vào sự giúp đỡ của nước ngoài
và không tin vào sức mình.
Từ tháng 7-1965, Bộ chính trị bắt đầu nghiên cứu các khả năng đàm phán
với Mỹ. Trong cuộc họp Bộ Chính trị ngày 7-8-1965, đồng chí Lê Duẩn đã nêu
lên kế hoạch ba bước đấu tranh ngoại giao: Ta với Mỹ thăm dò, miền Bắc với
Mỹ ngồi nói chuyện, miền Nam cứ đánh, Mỹ phải nói chuyện với cả miền Bắc

lẫn miền Nam. Trong Hội nghị lần thứ 12 Ban Chấp hành Trung ương họp từ
ngày 21 đến ngày 27-8-1965, nhận định: Hiện nay đế quốc Mỹ lúng túng, bị
động về quân sự về quân sự và chính trị, nhưng chúng con ngoan cố đang âm
mưu tăng cường và mở rộng chiến tranh xâm lược nước ta. Do đó, lúc này chưa
có điều kiện chính mùi cho một giải pháp chính trị về vấn đề Việt Nam. Chỉ khi
nào ý chí xâm lược Việt Nam của đế quốc Mỹ bị đè bẹp, những mục tiêu độc lập,
hòa bình dân chủ, trung lập của nhân dân miền Nam. Phát biểu về vấn đề đánh và
đàm tại Hội nghị Trung ương lần thứ 12 Ban Chấp hành Trung ương, chủ tịch Hồ
Chí Minh cho rằng: hướng của ta không phải là thắng rồi mới đàm mà có thể
đàm rồi mà vẫn tiếp tục đánh như trận Điên Biên Phủ.
Như vậy, cho đến Hội nghị lần thứ 12 Ban Chấp hành Trung ương, tư
tưởng vận dụng sách lược vừa đánh vừa đàm trong kháng chiến chống Mỹ của
Đảng đã hình thành và được khẳng định. Tư tương đó được đúc rút từ những bài
học lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc đặc biệt là kinh nghiệm của Đảng trong
kháng chiến chống Pháp. Tư tưởng đó còn được thử nghiệm, khẳng định qua
những lần thăm dò trực tiếp kẻ thù là đế quốc Mỹ. Đây là sự chuẩn bị cần thiết
cho cuộc đấu tranh ngoại giao về sau giữa ta và Mỹ khi có điều kiện vận dụng
vừa đánh vừa đàm. Đến ngày 18-10-1966, các bước thực hiện sách lược vừa
đánh vừa đàm được Bộ Chính trị nhất trí là: Miền Bắc tiếp xúc với Mỹ nếu Mỹ
ngừng ném bơm và chỉ bàn đến các vấn đề liên quan giữa Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa và Mỹ. Miền Bắc và mặt trận, Mỹ và chính quyền Sài Gòn đàm phán,

SVTH: Thị Hồng Oanh

Trang 19


Luận Văn Tốt Nghiệp

GVHD: Khoa Năng Lập


giải quyết những vấn đề thuộc miền Nam và vấn đề thống nhất đất nước. Tổ chức
hội nghị quốc tế xác nhận về mặt quốc tế được thực hiện ở bước hai.
Để có một hậu phương quốc tế thống nhất với Việt Nam trước khi bước
vào thời kì đánh và đàm. Nhất là đối với Liên Xô và Trung Quốc, cuối tháng 101966, các đồng chí Lê Duẩn, Nguyễn Chí Thanh, Nguyễn Văn Linh đã đi Bắc
Kinh vào giữa tháng 12-1966, các đồng chí Lê Đức Thọ, Nguyễn Duy Trinh đã
đi Matxcowa. Hai đoàn đại biểu Việt Nam nói rõ quyết tâm chiến lược và sách
lược của mình trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước với các nhà lãnh đạo
Liên Xô, Trung Quốc. Đối với Việt Nam việc thiết lập mặt trận nhân dân thế
giới chống Mỹ là rất cần thiết.
Chủ trương vừa đánh vừa đàm của Đảng được khẳng định ở mức cao hơn
tại Hội nghị lần thứ 13 của Ban Chấp hành Trung ương họp từ ngày 23 đến ngày
27-1-1967. Sau khi nêu bật những thắng lợi về chính trị, quân sự ngoại giao của
Việt Nam và đã nhận định rằng: “trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
của nhân dân ta hiện nay, đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị ở miền Nam là
nhân tố chủ yếu quyết định thắng lợi trên chiến trường làm cơ sở cho thắng lợi
trên mặt trận ngoại giao. Chúng ta chỉ có thể giành được trên bàn hội nghị nhưng
cái mà chúng ta được trên chiến trường. Tuy nhiên, đấu tranh ngoại giao không
chỉ đơn thần là phản ánh cuộc đấu tranh trên chiến trường, mà trong tình quốc tế
hiện nay với tính chất chiến tranh giữa ta và địch, đấu tranh ngoại giao giữ một
vai trò quan trọng, tích cực và chủ động”. Hội nghị đề ra ba phương châm cần
nắm vững trong đấu tranh ngoại giao là: “phát huy thế mạnh thế thắng của ta, chủ
động tiến công địch, giữ vững tính độc lập, đồng thời phối hợp chặt chẽ các nước
xã hội chủ nghĩa anh em.”. Kiên định về nguyên tắc “kiên quyết bảo vệ độc lập,
chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ thể hiện trong lập trường 4 điểm của
chính phủ ta và tuyên bố 5 điểm của Mặt trận Dân tộc giải phóng”.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 13 của Ban Chấp hành Trung ương có giá trị
như là một bản cương lĩnh về đấu tranh ngoại giao của Đảng trong thời kỳ chống
Mỹ cứu nước.
…….


SVTH: Thị Hồng Oanh

…….

Trang 20


Luận Văn Tốt Nghiệp

GVHD: Khoa Năng Lập

Chương 2
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN NGHỆ
THUẬT KẾT HỢP ĐÁNH VÀ ĐÀM CỦA ĐẢNG TA
TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC
(1954-1975)
“Vừa đánh vừa đàm” nghệ thuật kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh
ngoại giao. Quân sự và ngoại giao là hai mặt trận gắn liền và hộ trợ cho nhau.
Trên bàn đàm phán không thể giành được những gì không giành được trên chiến
trường. Nhưng những gì giành được trên chiến trường sẽ không được khẳng định
nếu không có nghệ thuật giành thắng lợi trên bàn đàm phán. Hơn thế nữa, thắng
lợi trên bàn đàm phán tạo điều kiện thuận lợi để giành thắng lợi lớn hơn trên
chiến trường. Hội nghị Paris là sự thể hiện trình độ cao của nghệ thuật vừa đánh
vừa đàm của Đảng ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

2.1 Thời kỳ đấu tranh đòi thi hành Hiệp định Giơnevơ 19541960.
Sau Hiệp định Giơnevơ, Việt Nam bị chia cắt làm hai miền, ở miền Nam
Mỹ gạt Pháp thực hiện chủ nghĩa thực dân kiểu mới, âm mưu chia cắt lâu dài đất
nước ta. Cách mạng Việt Nam bước sang thời kỳ mới như chủ tịch Hồ Chí Minh

đã khẳng định: “nhiệm vụ chung của chúng ta hiện nay là: thi hành đúng đắn
hiệp định đình chiến, đấu tranh để giữ gìn và củng cố hoa bình, để thực hiện
thống nhất đất, hoàn thành độc lập và dân chủ trong toàn quốc”.
Nhiệm vụ chính của ngoại giao lúc này là tập trung vào đấu tranh đòi thi
hành nghiêm chỉnh Hiệp định Giơnevơ. Chúng ta giương cao ngọn cờ pháp lý
của Hiệp định, kêu gọi sự ủng hộ quốc tế đối với cuộc đấu tranh của các tầng lớp
nhân dân hai miền Nam Bắc đòi thi hành Hiệp định đòi lập lại quan hệ bình
thường giữa hai miền, đòi mở hội nghị hiệp thương để tổ chức Tổng tuyển cử
thống nhất nước nhà. Việc đấu tranh đòi thi hành các điều khoản quân sự tương
đối thuận lợi vì chính phủ Pháp đã quyết định thực hiện chiến lược rút khỏi Đông

SVTH: Thị Hồng Oanh

Trang 21


×