Tải bản đầy đủ (.doc) (63 trang)

NGHỆ THUẬT TẠO SỨC MẠNH TỔNG HỢP BẰNG LỰC, THẾ, THỜI CỦA ĐẢNG TA TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (311.53 KB, 63 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
KHOA GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG

NGUYỄN THỊ KHUÊ
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
NGHỆ THUẬT TẠO SỨC MẠNH TỔNG HỢP BẰNG LỰC, THẾ,
THỜI CỦA ĐẢNG TA TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ
Ngành : Sư phạm GDCT – GDQP
Mã số : QP14-19
HÀ NỘI, 2014
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
KHOA GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG

NGUYỄN THỊ KHUÊ
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
NGHỆ THUẬT TẠO SỨC MẠNH TỔNG HỢP BẰNG LỰC, THẾ,
THỜI CỦA ĐẢNG TA TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ
Ngành : Sư phạm GDCT – GDQP
Mã số : QP14-19
Người hướng dẫn: Đại tá Nguyễn Ngọc Cư
HÀ NỘI, 2014
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
KHOA GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG

NGUYỄN THỊ KHUÊ
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
NGHỆ THUẬT TẠO SỨC MẠNH TỔNG HỢP BẰNG LỰC, THẾ,
THỜI CỦA ĐẢNG TA TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ
Giảng viên hướng dẫn
Đại tá Nguyễn Ngọc Cư
Hà Nội, tháng 4 năm 2014


Sinh viên thực hiện
Nguyễn Thị Khuê
LỜI CẢM ƠN!
Trong quá trình học tập, rèn luyện và tu dưỡng tại khoa Giáo dục
Quốc phòng trường Đại học sư phạm Hà Nội, được sự quan tâm dìu dắt của
các thầy, cô giáo trong khoa đến nay em đã hoàn thành xong khoá luận của
mình.
Với lòng biết ơn sâu sắc, em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Ban
Chủ nhiệm khoa Giáo dục Quốc phòng cùng toàn thể các thầy cô giáo đã tạo
điều kiện để em hoàn thành khoá luận.
Đặc biệt, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất đến thầy Nguyễn
Ngọc Cư, thầy đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn và giúp đỡ em trong quá trình
thực hiện khoá luận tốt nghiệp này.
Em xin cảm ơn những tình cảm tốt đẹp nhất tới gia đình, bạn bè và
người thân đã tạo điều kiện giúp đỡ, động viên để em hoàn thành khoá luận
của mình.
Vì thời gian nghiên cứu có hạn, khoá luận không tránh khỏi những
thiếu sót, em mong nhận được sự giúp đỡ, chỉ bảo và đóng góp của các thầy,
cô giáo và các bạn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 4 năm 2014
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Thị Khuê
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Công nghiệp hoá - hiện đại hoá CNH-HĐH
Lực lượng vũ trang LLVT
Quốc phòng – an ninh QP-AN
Quốc phòng toàn dân QPTD
Xã hội chủ nghĩa XHCN
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hơn 4000 năm lịch sử, dân tộc Việt Nam có truyền thống đấu tranh vũ
trang rất anh hùng.Trong suốt chiều dài lịch sử ấy, dân tộc ta liên tục phải
chống lại kẻ thù xâm lược trong tình thế chiến đấu không cân sức (so sánh lực
lượng đối kháng), chúng ta thua kém trên nhiều phương diện Kẻ thù xâm
lược có tiềm lực quân sự và kinh tế mạnh, số quân đông, vũ khí trang bị hiện
đại. Trong quá trình đấu tranh chống giặc ngoại xâm, nghệ thuật quân sự Việt
Nam đã được hình thành và không ngừng phát triển, góp phần quan trọng vào
thắng lợi của dân tộc. Những loại hình nghệ thuật quân sự tiêu biểu như: Nghệ
thuật chiến tranh nhân dân, nghệ thuật khởi nghĩa vũ trang, nghệ thuật tạo sức
mạnh tổng hợp bằng lực, thế, thời và mưu kế… Tuỳ vào tình hình cụ thể của ta
và địch nên trong mỗi trận đánh khác nhau mà ông cha ta đã sử dụng các loại
hình quân sự sao cho phù hợp. Nhưng trong các loại hình nghệ thuật ấy, nghệ
thuật tạo sức mạnh tổng hợp tổng hợp bằng lực, thế, thời được Đảng ta kế thừa
và vận dụng sáng tạo, phù hợp với tình hình thực tiễn ở Việt Nam.
Lực, thế, thời là ba yếu tố có mối quan hệ hữu cơ với nhau tạo ra chiến
thắng, đặc biệt trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, kẻ thù có sức mạnh quân
sự, tiềm lực kinh tế hơn ta nhưng Đảng ta đã vận dụng được lực lượng, thế
trận và nắm bắt, tạo thời cơ đúng lúc để giành chiến thắng đối phương điển
hình như Chiến dịch Điện Biên Phủ trên không, Chiến dịch Hồ Chí Minh…
Nghệ thuật tạo sức mạnh tổng hợp bằng lực, thế, thời có vai trò đặc biệt
quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc ta, có ý nghĩa quyết
định đến vận mệnh của một quốc gia, giúp chúng ta hiểu được nghệ thuật tạo
sức mạnh tổng hợp bằng lực, thế, thời là bài học kinh nghiệm vô cùng quý
báu, cũng là cơ sở để Đảng ta vận dụng nghệ thuật đó vào trong công cuộc
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay vì vậy tác giả chọn đề
tài: “Nghệ thuật tạo sức mạnh tổng hợp bằng lực, thế, thời của Đảng ta
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ”.
1

2. Mục đích nghiên cứu
- Cơ sở lý luận và thực tiễn của nghệ thuật tạo sức mạnh tổng hợp bằng
lực, thế, thời của Đảng ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ.
- Nghiên cứu nghệ thuật tạo sức mạnh tổng hợp bằng lực, thế, thời của
Đảng ta trong kháng chiến chống Mỹ
- Vận dụng sáng tạo nghệ thuật tạo sức mạnh tổng hợp lực, thế, thời
trong giai đoạn hiện nay.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của nghệ thuật tạo sức mạnh tổng
hợp bằng lực, thế, thời trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Đồng
thời đưa ra một số giải pháp vận dụng trong xây dựng thế trận quốc phòng
toàn dân ngày nay.
4. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu nghệ thuật tạo sức mạnh tổng hợp bằng lực, thế, thời dưới
sự lãnh đạo của Đảng ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, chứng minh…
- Sử dụng phương pháp lý luận thông qua việc nghiên cứu thu thập tài
liệu, các kênh thông tin quân đội, lịch sử quân sự Việt Nam.
- Sử dụng phương pháp hệ thống để thể hiện đầy đủ quá trình hình
thành và phát triển của nghệ thuật quân sự Việt Nam.
- Lấy ý kiến chuyên gia.
6. Cấu trúc khoá luận
Phần mở đầu, kết luận và kiến nghị, đề tài gồm 2 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn.
Chương 2: Nghệ thuật tạo sức mạnh tổng hợp bằng lực, thế, thời của
Đảng ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ.
2
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

1.1. Khái niệm
1.1.1. Nghệ thuật quân sự
Nghệ thuật quân sự, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: Là cách đánh, cách
dùng binh đã trở thành thông thạo, điêu luyện trong một trận chiến đấu, một
chiến dịch hay trên toàn bộ chiến trường; nghệ thuật quân sự không có một
khuôn mẫu cụ thể nào, nó biến hoá khôn lường muôn hình, muôn vẻ.
Nghệ thuật quân sự là lý luận và thực tiễn trong quá trình thực hiện
chiến tranh, chủ yếu là đấu tranh vũ trang ra đời cùng với quân đội và xuất
hiện khi có chiến tranh, xác định những nguyên tắc và phương thức tiến hành
đấu tranh vũ tranh, là nghệ thuật tạo ra và sử dụng có hiệu quả nhất thế và lực,
tận dụng thời cơ để chiến thắng.
Nghệ thuật quân sự được hình thành từ ba bộ phận: Chiến lược quân
sự, nghệ thuật chiến dịch và chiến thuật. Ba bộ phận nghệ thuật quân sự là
một thể thống nhất có quan hệ biện chứng chặt chẽ, trong đó chiến lược quân
sự đóng vai trò chủ đạo.
1.1.2. Lực, thế, thời
Theo từ điển Bách khoa Quân sự Việt Nam:
- Lực
Có lực lượng Quân sự, lực lượng chính trị, lực lượng kinh tế, lực lượng
vũ trang, lực lượng tinh thần…“Lực”: Gọi tắt của lực lượng, thường dùng đi
đôi với thuật ngữ thế. Lực là toàn bộ sinh lực, phương tiện vật chất và các khả
năng khác được dùng để tiến hành chiến tranh và các hoạt động quân sự.
Lực là sinh lực, phương tiện vật chất được sử dụng để tác chiến, bảo
đảm và phục vụ tác chiến như lực lượng chủ yếu, thứ yếu, tiến công
- Thế
Thế là tổng thể các hoàn cảnh, điều kiện cùng với xu thế vận động và
khả năng của các bên tham chiến dựa vào để phát huy sức mạnh trong
chiến tranh. Những yếu tố cơ bản của thế: Địa hình, trận địa, điểm đứng,
khí hậu, thuỷ văn, địa bàn tác chiến, số lượng, chất lượng của lực lượng
3

tham gia, hình thái bố trí, cách đánh…cùng với diễn biến, kết quả tác chiến
và sự chuyển biến so sánh lực lượng, trạng thái tâm lý – tinh thần giữa các
bên tham chiến, tình hình chính trị trong nước, khu vực, thế giới. Thế lợi
thì lực nhỏ trở thành mạnh, thế không lợi thì lực mạnh trở nên yếu. Nghệ
thuật quân sự Việt Nam coi thế là nhân tố quan trọng, thế lợi kết hợp với
lực tạo thành sức mạnh đánh thắng kẻ thù.
Thế trận là tổ chức, bố trí, triển khai lực lượng và thiết bị chiến trường
nhằm tạo “thế” có lợi và phát huy cao nhất sức mạnh chiến đấu của các lực
lượng tham chiến để giành thắng lợi trong tác chiến. Thế trận phải phù hợp
với ý định tác chiến. Thế trận luôn vận động và phát triển theo các hoàn cảnh,
điều kiện cụ thể của việc đối chọi mưu kế và cách đánh giữa hai bên đối địch.
Thế trận trong phạm vi chiến thuật là đội hình chiến đấu, trong phạm vi chiến
dịch là bố trí chiến dịch, trong phạm vi cả cuộc chiến tranh là thế bố trí chiến
lược. Thế trận càng hiểm với mưu kế càng hay thì sức mạnh của lực lượng
càng lớn. Trong chiến tranh nhân dân ở Việt Nam thế trận rất phong phú như:
Thế trận xen kẽ cài răng lược…
- Thời
Thời là tình thế xuất hiện trong thời điểm nhất định rất có lợi cho việc
phát huy sức mạnh giành thắng lợi trong khởi nghĩa, chiến tranh và trong tác
chiến. Thời cơ có thể do năng động chủ quan tạo nên và cũng có thể do sai
lầm của đối phương hoặc điều kiện khách quan đưa đến. Thời cơ thường xuất
hiện rất nhanh, đột ngột và đi cũng rất nhanh. Có thời cơ chiến lược, chiến
dịch, chiến thuật. Tạo thời cơ, nắm bắt đúng thời cơ, hành động đúng thời cơ
có ý nghĩa rất quan trọng trong việc giành thắng lợi.
Thời cơ khởi nghĩa là thời cơ bảo đảm cho khởi nghĩa giành thắng
lợi, đó là: Kẻ thù khủng hoảng, suy yếu nghiêm trọng, đa số quần chúng
ủng hộ khởi nghĩa, tổ chức lãnh đạo khởi nghĩa đã sẵn sàng hành động.
Thời cơ khởi nghĩa chỉ xuất hiện khi các điều kiện khách quan và chủ quan
đã chín muồi, có sự tác động, kết hợp chặt chẽ với nhau, chớp đúng thời cơ
4

khởi nghĩa thành công.
1.2. Cơ sở lý luận
1.2.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về nghệ thuật tạo sức mạnh
tổng hợp lực, thế, thời
Thời cơ là hoàn cảnh thuận lợi để làm một việc nào đó có kết quả, thường
đến và qua đi rất nhanh. Thời cơ là một yếu tố quan trọng trong mọi hoạt động
của con người. Trong lĩnh vực chiến tranh, đấu tranh vũ trang, trong nghệ thuật
tác chiến, thời cơ càng có ý nghĩa to lớn. Chính vì vậy, các nhà sáng lập chủ
nghĩa Mác - Lênin rất coi trọng việc tận dụng và nắm thời cơ cách mạng.
Ph.Ăngghen chỉ ra rằng “nếu trong buôn bán, thời gian là tiền bạc thì
trong chiến tranh thời gian là thắng lợi”. Vì thế, “bỏ lỡ thời cơ thuận lợi, không
lợi dụng cơ hội để tung vào chiến đấu với địch những lực lượng vượt trội thì có
nghĩa là sai lầm lớn nhất mà người ta có thể mắc phải trong chiến tranh”.
Phân tích đặc điểm, tình hình nước Nga năm 1917 V.I.Lênin đã kêu gọi
phải “lập tức chuyển sang khởi nghĩa”, vì thời cơ đã hoàn toàn chín muồi, “trì
hoãn là một tội ác”. Và “những người cách mạng sẽ phạm tội ác vô cùng lớn,
nếu họ bỏ mất thời cơ”. Nhờ đó, dưới sự lãnh đạo của Đảng bôn-sê-vích đứng
đầu là V.I.Lênin, giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao động ở Nga
đã đứng lên làm cuộc cách mạng vô sản thành công, mở ra kỷ nguyên mới
trong lịch sử nhân loại, kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
1.2.2 Tư tưởng Hồ Chí Minh về nghệ thuật tạo sức mạnh tổng hợp trong
chiến tranh
Lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin về vấn đề thời cơ được Đảng và Bác
Hồ đã vận dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh thực tiễn của Việt Nam.
Tranh thời kết hợp với tạo lực và lập thế ở cách mạng nước ta đã giành được
nhiều thắng lợi to lớn điển hình như hai cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp và Đế quốc Mỹ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là một nhà chính trị kiệt xuất, một danh
nhân văn hoá, mà còn là một nhà chiến lược quân sự thiên tài. Nét nổi bật trong
nghệ thuật quân sự theo tư tưởng Hồ Chí Minh là nghệ thuật tạo lực, lập thế,

5
tranh thời, biết đánh địch bằng mưu, thắng địch bằng thế, lấy ít thắng nhiều, trên
cơ sở chất lượng cao thắng số lượng đông, luôn đánh địch trên thế mạnh.
Người chỉ rõ việc tạo lực cách mạng như lúc mới bắt đầu "nhóm lửa".
Đây là công việc rất khó, nhưng biết cách làm, biết cách dựa vào dân thì chắc
chắn làm được. Do đó, người cách mạng phải có "tín tâm" và "quyết tâm",
biết đi vào quần chúng để thức tỉnh họ; tổ chức, đoàn kết, huấn luyện họ; làm
cho dân ta ai cũng biết "đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh".
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong điều kiện cụ thể của nước ta, lực
lượng để tiến hành khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng không chỉ
đơn thuần dựa vào lực lượng vũ trang, quân đội, mà trước hết và quan trọng
nhất là lực lượng chính trị của quần chúng được giác ngộ, được tổ chức chặt
chẽ và rộng khắp; phải bắt đầu bằng việc xây dựng lực lượng chính trị quần
chúng, rồi trên cơ sở đó xây dựng và phát triển lực lượng mọi mặt của cách
mạng. Lực lượng chính trị quần chúng không chỉ là nền tảng vững chắc và
nguồn tiếp sức vô hạn cho việc phát triển lực lượng vũ trang nhân dân, mà
còn là một lực lượng trực tiếp tiến công địch, tiến hành công tác binh vận,
địch vận, làm tan rã hàng ngũ địch. Hơn nữa theo Người, lực lượng của cách
mạng, của kháng chiến không ngừng được phát huy, phát triển trong quá trình
thực hiện đường lối "khởi nghĩa toàn dân" và "chiến tranh nhân dân". Đường
lối đó lôi cuốn được hết thảy mọi người Việt Nam yêu nước tham gia, "người
có tiền góp tiền", "người có sức góp sức", mỗi người dân là một chiến sĩ, đánh
địch trên tất cả các mặt trận: Quân sự, chính trị, kinh tế, văn hoá, ngoại giao,
tiến công địch ở khắp mọi lúc, mọi nơi, cả ở tiền tuyến và hậu phương. Nhờ
đó, đã huy động và tạo thành sức mạnh to lớn của toàn dân đánh giặc. Sức
mạnh ấy còn được nhân lên gấp bội bằng sự kết hợp lực lượng mọi mặt của
toàn dân tộc với lực lượng cách mạng của thời đại, tranh thủ được sự giúp đỡ
của các nước anh em, bầu bạn trong mặt trận chống đế quốc xâm lược.
Trong chỉ đạo thực tiễn, để tạo lực lượng cho cách mạng, từ năm 1941
khi về nước trực tiếp lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, Chủ tịch Hồ

6
Chí Minh chủ trương thành lập Mặt trận Việt Minh, thúc đẩy việc xây dựng
các tổ chức cách mạng của quần chúng, hình thành các đạo quân chính trị
ngày càng hùng hậu. Trên cơ sở đó, Người chỉ thị tổ chức các đội du kích,
thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, đồng thời chăm lo xây
dựng các vùng căn cứ địa và chính quyền cách mạng ở các địa phương. Nhờ
thế mà khi thời cơ đến, với lực lượng cách mạng được chuẩn bị sẵn sàng và
chu đáo, nhân dân ta trên mọi miền đất nước đã vùng lên giành toàn bộ chính
quyền bằng cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945. Kế đó, trong kháng
chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ
trương vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, ra sức phát triển kinh tế để bồi dưỡng
sức dân, tăng thực lực kháng chiến. Người và Đảng ta chăm lo chỉ đạo công
tác xây dựng và bảo vệ vững chắc hậu phương kháng chiến vững mạnh về
mọi mặt, xem đó là một nhân tố thường xuyên, quyết định thắng lợi của sự
nghiệp kháng chiến.
Trong tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh, tạo lực phải đi đôi với lập thế,
bởi thế và lực có mối quan hệ khăng khít. Nếu chỉ có lực không thôi thì chưa
đủ, mà còn phải có thế thì mới phát huy được tác dụng của lực. Trong chiến
tranh cũng vậy, chỉ có lực mà không có thế, thì cũng không thể đánh thắng
được quân địch. Thế trong nghệ thuật quân sự là tình thế, thế nước, thế trận
chiến tranh, thế bố trí lực lượng gắn với địa hình và điều kiện địa lý nhất định.
Để nâng cao hiểu biết cho các cấp chỉ huy của ta về thế và sự lợi hại của thế,
Người dẫn ý kiến Tôn Tử ví tính chất của mỗi thế trận như tính chất của
nước: nước lúc nào cũng chảy xuống chỗ trũng chứ không thể chảy ngược lên
cao được và được thế tốt thì đánh địch như xoay gỗ với đá. Gỗ với đá khi yên
thì nó tĩnh, khi nguy thì nó động. Vuông thì nằm, tròn thì nó lăn. Cho nên lúc
đánh địch, thì thế như lăn đá tròn xuống dốc núi cao mấy ngàn thước. Điều đó
còn có nghĩa rằng thế là nhân tố có thể làm tăng hiệu quả của lực, nhưng phải
là thế tốt, thế hay và chỉ có như vậy mới phát huy hết tác dụng của lực. Đành
rằng, thế bao giờ cũng lấy lực làm cơ sở và do lực quyết định, nhưng ở thế có

7
lợi, thế hiểm thì một lực nhỏ cũng có thể chuyển hoá thành lực lớn và ngược
lại, một lực lớn nhưng ở vào thế bất lợi hoặc bị mất thế cũng dễ bị suy yếu.
Do đó, trong chiến tranh cũng như trong từng trận đánh, người chỉ huy phải
luôn biết tạo thế lợi, thế hay để lấy thế bù lực, để tăng lực.
Nắm vững và vận dụng nhuần nhuyễn nguyên tắc tương tác giữa các
yếu tố “thế” và “lực” trong chiến tranh, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng
định: thế địch như lửa, thế ta như nước. Nước nhất định thắng lửa, thế ta ngày
càng mạnh, thế địch ngày càng yếu, thế ta thắng đã rõ ràng, thế địch thua đã
rõ ràng. Người giải thích: quả cân chỉ có một ki lô gam, ở vào thế lợi thì lực
của nó tăng lên nhiều lần, có sức mạnh làm bổng được vật nặng hàng trăm ki
lô gam, đó là “thế” thắng “lực”. Như vậy, theo tư tưởng quân sự Hồ Chí
Minh, muốn đánh địch phải có thế và được thế hay, thế tốt thì một lực lượng
quân sự dù nhỏ hơn, vũ khí, kỹ thuật ít và kém hiện đại nhưng vẫn có thể ít
biến thành nhiều, nhỏ biến thành lớn và nhất định giành thắng lợi. Người chỉ
rõ: Ta đánh Mỹ, lấy ít thắng nhiều được là nhờ cái thế của ta rất lợi. Vì thế, ta
phải biết lập thế ta đi đôi với phá thế địch, hạn chế chỗ mạnh, khoét sâu chỗ
yếu của địch, đồng thời không ngừng phát triển sức mạnh của lực lượng ta.
Tuy nhiên, Người không quên căn dặn rằng, thế mạnh và thế yếu giữa ta và
địch chỉ là tương đối, chứ không phải là tuyệt đối, do đó, không được chủ
quan, khinh địch mà phải luôn luôn chủ động, sáng tạo thế trận mới, ngày
càng hiểm hóc, lợi hại đối với địch và không ngừng nhân lên thế và lực của
ta. Ở một tầm rộng lớn hơn, trong quá trình lãnh đạo nhân dân ta làm cách
mạng và tiến hành chiến tranh giải phóng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta
luôn chủ động tạo thế cho cách mạng Việt Nam. Người đặc biệt chú trọng đến
vị thế đất nước trên trường quốc tế, thế chính nghĩa, thế trận chiến tranh nhân
dân, thế chiến lược vững chắc và lợi hại, tạo điều kiện cho toàn dân toàn quân
ta trên khắp chiến trường thực hiện chia cắt, vây hãm và chủ động tiến công
quân địch ở mọi nơi, mọi lúc bằng nhiều hình thức tác chiến, với mọi thứ vũ
khí trang bị có trong tay. Rơi vào thế trận hiểm hóc đó của chiến tranh nhân

8
dân Việt Nam, quân xâm lược dẫu đông mà hoá ít, mạnh mà hoá yếu và bị sa
lầy trong thế trận toàn dân đánh giặc của chúng ta, và cuối cùng chúng bị thất
bại hoàn toàn.
Lực và thế trong tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh luôn kết hợp chặt chẽ
với nhau, tạo điều kiện cho nhau, dùng lực để lập thế, tạo thời và cũng là để
phát huy lực, tạo thế để thúc đẩy thời cơ, dùng mưu kế tạo thế ta, phá thế
địch, hạn chế cái mạnh của địch, phát huy cái mạnh của ta, tranh thủ thời cơ
giành thắng lợi. Mối quan hệ đó đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta
giải quyết thành công trong cuộc đấu tranh vũ trang giành chính quyền và
trong hai cuộc kháng chiến. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945,
chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 và Đại thắng mùa Xuân 1975 là những
mốc son chói lọi của cách mạng Việt Nam và cũng là những mẫu mực về
nghệ thuật kết hợp lực, thế để giành toàn thắng dưới ngọn cờ lãnh đạo của
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Trong tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh, có lực, có thế nhưng phải biết
tạo thời và tranh thời. Mùa thu năm 1944, biết thời cơ chưa đến, Người đã kịp
thời chỉ thị hoãn cuộc khởi nghĩa Cao - Bắc - Lạng, tránh cho cách mạng khỏi
bị tổn thất. Tháng 10 năm 1944, Người dự đoán “Cơ hội cho dân tộc ta giải
phóng chỉ ở trong vòng một năm hoặc năm rưỡi nữa. Thời gian rất gấp. Ta
phải làm nhanh!”

. Tháng 8 năm 1945, trước tình hình thế giới, trong nước
chuyển biến dồn dập, Người khẳng định: Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù
phải hy sinh đến đâu, “dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên
quyết giành cho được độc lập”

.
Thời cơ là một hiện tượng khách quan. Nó là sản phẩm sự vận động
tổng hợp của nhiều yếu tố chủ quan và khách quan; nhưng động lực chủ yếu

và trực tiếp làm nảy sinh thời cơ là nỗ lực chủ quan của con người trong quá
trình hoạt động cải tạo sự vật, hiện tượng.
Thời cơ không phải là một yếu tố vật chất, nên tự nó không thể đem lại
hiệu quả vật chất nào hết. Thời cơ chỉ là điều kiện, khả năng và điều quyết
9
định là con người nhận biết và sử dụng điều kiện, khả năng ấy như thế nào để
đạt tới mục đích của mình. Nếu nắm đúng thời cơ và hành động phù hợp với
thời cơ thì sức mạnh được tăng lên gấp bội. Ngược lại, bỏ lỡ thời cơ thì hành
động không đạt được kết quả mong muốn, thậm chí có thể rơi vào thế bị động
suy thoái. Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong bài học đánh cờ đã viết: “Lạc nước,
hai xe đành bỏ phí, gặp thời, một tốt cũng thành công”. Nguyễn Trãi, Người
anh hùng dân tộc, nhà quân sự thiên tài của dân tộc ta cũng đã tổng kết “thời
cơ, thời cơ, chớ nên để lỡ”. Trong thực tiễn, Nguyễn Trãi cùng Lê Lợi luôn
chỉ đạo nghĩa quân Lam Sơn nắm đúng thời cơ, hành động đúng thời cơ.
Cũng như mọi sự vật, hiện tượng khác, thời cơ hình thành và phát triển
theo quy luật từ những biến đổi về lượng chuyển hoá thành biến đổi về chất,
từ sự phát triển tuần tự đến những bước nhảy vọt. Thời cơ là những điểm nút
trong suốt tiến trình tác chiến và chiến tranh, là sản phẩm của sự tích tụ những
điều kiện cần thiết cho sự nảy sinh cái mới. Tuy nhiên, khi đến những điểm
nút ấy, sự biến đổi về chất hay bước nhảy vọt có diễn ra được hay không còn
tuỳ thuộc vào hoạt động của con người. Thời cơ là lúc mâu thuẫn đã phát triển
đến độ chín muồi cần giải quyết. Vì vậy, nghệ thuật vận dụng thời cơ giữ một
vị trí quan trọng trong nghệ thuật chỉ đạo tiến hành chiến tranh, trong nghệ
thuật tác chiến.
Lực, thế, thời là ba yếu tố được Chủ tịch Hồ Chí Minh coi trọng và cần
phải vận dụng trong chiến đấu. Nhân lực và vật lực, vũ khí trang thiết bị luôn
thua kém quân địch, bởi vậy Người nói:
“Lạc nước hai xe đành bỏ phí.
Gặp thời một tốt cũng thành công”.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ ta lấy ít thắng nhiều, lấy ít thắng

nhiều được là nhờ cái thế của ta rất lợi. Thế ta thắng đã rõ ràng, thế địch thua
đã rõ ràng, nhưng chúng vẫn ngoan cố, chưa chịu từ bỏ âm mưu xâm lược
nước ta”.
Lực, thế, thời trong tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh luôn kết hợp chặt
10
chẽ với nhau, tạo điều kiện cho nhau, làm chuyển hoá lẫn nhau trong những
điều kiện cụ thể. Dùng lực để lập thế, tạo thời; tạo thế, tạo lực cũng chính là
để nhanh chóng thúc đẩy thời cơ.
Trong tương lai, nếu kẻ thù gây chiến tranh xâm lược nước ta; nhân dân
ta phải tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện bảo vệ Tổ
quốc. Trong điều kiện ấy, ta vẫn phải thực hiện “lấy nhỏ thắng lớn, lấy ít địch
nhiều”, “lấy vũ khí trang bị kém hiện đại để thắng kẻ thù có vũ khí thiết bị
hiện đại hơn.
1.3. Cơ sở thực tiễn
1.3.1. Nghệ thuật tạo sức mạnh tổng hợp bằng lực, thế, thời của ông cha ta
Việt Nam có truyền thống đấu tranh dựng nước và giữ nước vô cùng
oanh liệt. Trong suốt chiều dài lịch sử, dân tộc ta luôn phải liên tục chống lại
kẻ thù xâm lược và thường ở trong tình thế chiến đấu không cân sức, nhất là
vào thời kỳ đầu của cuộc khởi nghĩa hoặc chiến tranh. So với lực lượng đối
kháng, nói chung chúng ta thua kém trên nhiều phương diện, ngoại trừ tinh
thần yêu nước, tinh thần đoàn kết và ý chí độc lập tự do của nhân dân. Chính
trong cuộc chiến không cân sức kéo dài ấy mà dân tộc ta đã hình thành nên rất
nhiều loại hình nghệ thuật quân sự đặc sắc như nghệ thuật chiến tranh nhân
dân, nghệ thuật chiến tranh du kích, nghệ thuật chiến dịch và chiến thuật,
nghệ thuật khởi nghĩa vũ trang nghệ thuật toàn dân là binh, cả nước đánh
giặc…và nghệ thuật tạo sức mạnh tổng hợp bằng lực, thế, thời đã được ông
cha ta vận dụng một cách tài tình qua nhiều trận đánh và giành được nhiều
thắng lợi to lớn như: Kháng chiến chống quân Tống trên phòng tuyến sông
Như Nguyệt của Lý Thường Kiệt, chống quân xâm lược phương Bắc của
Quang Trung hay chiến thắng của Ngô Quyền trên sông Bạch Đằng… Tất cả

những thắng lợi đó đã đã cho ta thấy được sự tài ba của ông cha ta trong việc
vận dụng lực, thế, thời khi hoàn cảnh đất nước còn nghèo nàn, thường xuyên
bị quân giặc phương Bắc sang xâm lược, quân sĩ chưa đủ mạnh… Nhận thức
rõ được điều đó các vị tướng tài của dân tộc nhận thức được rằng không thể
dùng trứng chọi đá mà phải dùng mưu, mưu muốn thành thì phải lợi dụng thế
11
trận, lực lượng, thời cơ mà vận dụng trong chiến đấu.
Trong trận Bạch Đằng năm 938, Ngô Quyền đánh quân Nam Hán cũng
vận dụng thế, thời một cách tài tình. Ngô quyền chỉ có một đội quân nhỏ mà
trong mấy ngày đã đánh tan đội quân Nam Hán lớn mạnh hơn. Đội quân nhỏ
của Ngô Quyền đã biết dùng thế và thời để chiến thắng. Cọc dưới lòng sông
Bạch Đằng là “thế”, thuỷ triều là “thời”. Do vận dụng thế, thời một cách tài
tình nên Ngô Quyền đã giành thắng lợi, chiến tranh chỉ diễn ra trong có mấy
ngày. Đây là cuộc chiến tranh ngắn nhất trong lịch sử chiến tranh Việt Nam.
Nghệ thuật tạo sức mạnh tổng hợp bằng lực, thế, thời được hình thành và vận
dụng đạt hiệu quả cao trong chiến đấu.
Năm 1075 cuộc kháng chiến chống quân Tống của Lý Thường Kiệt trên
phòng tuyến sông Như Nguyệt cũng là một minh chứng cho tài thao lược của
ông cha ta trong việc vận dụng nghệ thuật tạo sức mạnh tổng hợp bằng lực, thế,
thời. Nổi bật trong trận chiến này là thế trận trên sông Như Nguyệt: Dưới sự
chỉ huy của Lý Thường Kiệt, chiến tuyến khúc sông này được xây dựng theo
thế “Hoành trận”. Sông sâu, thành luỹ cao, rào chắc… tất cả kết hợp lại một
cách có tổ chức, tạo thành một thê trận phòng ngự có quy mô lớn, vững chắc.
Đặc điểm nổi bật của thế trận này là bố trí trên diện rộng, có chiều sâu, có trọng
điểm, phối hợp chặt chẽ với quân chủ lực và quân địa phương nhằm đánh địch
cả phía trước và sau lưng. Về lực lượng ta có 60.000 quân trong khi lực lượng
địch có 100.000 quân và có sự hỗ trợ của lượng lượng thuỷ binh. Tuy rằng lực
lượng của ta kém hơn nhưng nhờ trí thông minh của Lý Thường Kiệt, sau vài
trận giao chiến ông nhận ra được quân địch vào nước ta bị suy yếu do không
chịu được khí hậu của Đại Việt cộng thêm chúng đang hoang mang và lo sợ

sau hai lần thất bại, nhận thấy thời cơ đã đến, Lý Thường Kiệt cho quân phản
công và giành được thắng lợi to lớn.
Các nhà nghiên cứu hiện đại đánh giá đây là chiến thắng lớn nhất và là
trận chiến ác liệt nhất kể từ sau trận Bạch Đằng năm 938 của dân tộc Việt
trong việc chống phương Bắc xâm lược. Chiến thắng này đã đánh dấu sự
thành công của ông cha ta trong việc vận dụng nghệ thuật tạo sức mạnh tổng
12
hợp bằng lực, thế, thời.
Cũng nói về nghệ thuật này, năm 1788-1789, Quang Trung đã sử dụng
loại hình nghệ thuật này trong kháng chiến chống quân xâm lược phương
Bắc. Đây là trận tiêu diệt chiến lược gọn gàng nhất và nhanh nhất của quân
dân Việt Nam chống quân xâm lược. Quang Trung diệt 29 vạn quân Thanh
chỉ trong 2 tháng (11-1788 – 30-12- 1788), nếu chỉ thời gian tham chiến thì
chỉ mất có 5 ngày. Quang Trung nhận định muốn lấy ít thắng nhiều thì cần tạo
ra bất ngờ, tạo thời cơ. Quang Trung đã nhận thấy trước thời cơ và chọn thời
cơ là tết Kỷ Dậu làm thời điểm quyết chiến chiến lược ngay từ khi ông còn ở
Phú Xuân. Về thế trận: 5 mũi tiến công của Quang Trung trong thành Thăng
Long được Quang Trung bố trí rất bài bản, vừa hợp lý, vừa rất lợi hại, khác
nào giăng lưới bủa vây con thú rừng để rồi sau đó phóng lao đâm chết nó.
Quang Trung đã tận dụng khả năng ở các con sông lớn để phát huy sức mạnh
của thuỷ quân. Lập thế trận hiểm hóc, tận dụng thời cơ, tập trung lực lượng ở
địa điểm và thời gian quyết định, đánh đòn quyết định, giành thắng lợi nhanh,
tiêu diệt gọn địch là đặc điểm của nghệ thuật quân sự của Nguyễn Huệ mà
chúng ta cần học tập.
Hơn 4000 năm lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước cũng là hơn
4000 năm nghệ thuật quân sự Việt Nam được hình thành và vận dụng trong
các trận chiến đấu và giành nhiều thắng lợi to lớn. Nghệ thuật tạo sức mạnh
tổng hợp bằng lực, thế, thời đã được hình thành và lưu truyền cho đến tận
ngày nay và được Đảng ta vận dụng và sáng tạo trong mỗi trận chiến đấu.
Đúng như Nguyễn Trãi và Hồ Chí Minh đã nói, nước nhỏ đánh một

nước lớn thì phải dùng “thế” và “thời”.
Trong Bình Ngô Đại Cáo, Nguyễn Trãi viết:
“Yếu đánh mạnh hay đánh bất ngờ,
Ít địch nhiều thường dùng mai phục”.
Trong Quân Trung Từ Mệnh Tập, Nguyễn Trãi viết: “Được thời có thế
thì mất biến thành còn, nhỏ hoá ra lớn. Không thời mất thế thì to hoá ra nhỏ,
13
mạnh hoá ra yếu, an lại thành nguy”.
1.3.2. Nghệ thuật tạo sức mạnh tổng hợp bằng lực, thế, thời từ khi có Đảng
lãnh đạo
Giai đoạn 1930 – 1945: Đây là giai đoạn được đánh dấu bằng nhiều
mốc son lịch sử đánh dấu cho sự chuẩn bị về lực lượng của Đảng ta. Năm
1930 Đảng cộng sản Việt Nam ra đời đã đưa ra đường lối và quyết sách đưa
cách mạng ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Một trong những đường
lối đó là việc xây dựng và chuẩn bị lực lượng, dự đoán thời cơ, xây dựng thế
trận để tiến hành khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng trong cuộc
kháng chiến chống Pháp. Trong điều kiện cụ thể của nước ta, lực lượng để
tiến hành khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng không chỉ đơn thuần
dựa vào lực lượng vũ trang, quân đội, mà trước hết và quan trọng nhất là lực
lượng chính trị của quần chúng được giác ngộ, được tổ chức chặt chẽ và rộng
khắp; phải bắt đầu bằng việc xây dựng lực lượng chính trị quần chúng, rồi
trên cơ sở đó xây dựng và phát triển lực lượng mọi mặt của cách mạng. Lực
lượng chính trị quần chúng không chỉ là nền tảng vững chắc và nguồn tiếp
sức vô hạn cho việc phát triển lực lượng vũ trang nhân dân, mà còn là một lực
lượng trực tiếp tiến công địch, tiến hành công tác binh vận, địch vận, làm tan
rã hàng ngũ địch. Hơn nữa lực lượng của cách mạng, của kháng chiến không
ngừng được phát huy, phát triển trong quá trình thực hiện đường lối "khởi
nghĩa toàn dân" và "chiến tranh nhân dân". Đường lối đó lôi cuốn được mọi
người Việt Nam tham gia, "người có tiền góp tiền", "người có sức góp sức",
mỗi người dân là một chiến sĩ, đánh địch trên tất cả các mặt trận: quân sự,

chính trị, kinh tế, văn hoá, ngoại giao, tiến công địch ở khắp mọi lúc, mọi nơi,
cả ở tiền tuyến và hậu phương. Nhờ đó, đã huy động và tạo thành sức mạnh to
lớn của toàn dân đánh giặc. Sức mạnh ấy còn được nhân lên gấp bội bằng sự
kết hợp lực lượng mọi mặt của toàn dân tộc với lực lượng cách mạng của thời
đại, tranh thủ được sự giúp đỡ của các nước anh em, bầu bạn trong mặt trận
chống đế quốc xâm lược.
14
Trong chỉ đạo thực tiễn, để tạo lực lượng cho cách mạng, từ năm 1941
khi về nước trực tiếp lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, Chủ tịch Hồ
Chí Minh chủ trương thành lập Mặt trận Việt Minh, thúc đẩy việc xây dựng
các tổ chức cách mạng của quần chúng, hình thành các đạo quân chính trị
ngày càng hùng hậu. Trên cơ sở đó, Người chỉ thị tổ chức các đội du kích,
thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, đồng thời chăm lo xây
dựng các vùng căn cứ địa và chính quyền cách mạng ở các địa phương. Nhờ
thế mà khi thời cơ đến, với lực lượng cách mạng được chuẩn bị sẵn sàng và
chu đáo, nhân dân ta trên mọi miền đất nước đã vùng lên giành toàn bộ chính
quyền bằng cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945. Cuộc cách mạng
tháng 8 năm 1945 đánh dấu bước thành công lớn của nghệ thuật tạo sức mạnh
tổng hợp bằng lực, thế, thời.
Giai đoạn 1945 – 1954: Sau thành công của Cách mạng tháng 8 năm
1945 là chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954.Trong chiến thắng Điện Biên
Phủ, chúng ta đã lợi dụng được địa hình hiểm trở của núi rừng để đề ra các
phương thức tác chiến trong mỗi trận đánh: cách thức kéo pháo vào trận địa,
dấu pháo ở sườn núi, đào công sự, hầm hào Nhưng tất cả những yếu tố đó
đều được đặt trên một nền tảng quan trọng là sự đồng lòng đồng sức của tinh
thần “tất cả cho tiền tuyến và tất cả để chiến thắng”.
Nhân dân ở vùng tự do Thanh - Nghệ Tĩnh, vùng mới giải phóng Tây
Bắc cũng như vùng sau lưng địch đều hăng hái tham gia phục vụ trận tuyến.
Chúng ta đã tổ chức những tuyến cung cấp dài 400 - 500 km từ Thanh Hóa,
Phú Thọ đến Tây Bắc. Chúng ta đã huy động mọi phương tiện hiện đại và thô

sơ có thể huy động được để vận chuyển lương thực, đạn dược ra mặt trận. Các
đoàn xe ôtô đi không đèn trong suốt nhiều đêm, hàng vạn xe đạp thồ, xe đẩy
thô sơ, hàng ngàn thuyền mảng, đoàn lừa, ngựa được sử dụng để vận chuyển
lương thực, đạn dược qua đường lớn, đường nhỏ, suối sâu, đèo cao, chi viện
cho tiền tuyến. Cả dân tộc Việt Nam đã đảm bảo công việc hậu cần cho một
lực lượng bộ đội lớn, tác chiến trên một mặt trận rất xa hậu phương, trong một
thời gian dài; một việc làm mà quân Pháp không thể lường trước được, nằm
15
ngoài sức tưởng tượng của chúng.
Như vậy tinh thần quyết chiến, quyết thắng, đoàn kết đồng lòng, đồng
sức của dân tộc ta và nghệ thuật phát huy yếu tố “thiên thời, địa lợi” đã là
những nhân tố quyết định tạo nên sức mạnh tổng lực làm nên chiến thắng
Điện Biên Phủ.
Phát huy nghệ thuật tạo sức mạnh tổng hợp bằng lực, thế, thời được
phát huy cao trong các cuộc kháng chiến, đặc biệt đã làm nên chiến thắng lớn,
chiến dịch Điện Biên Phủ và cuộc kháng chiến chống Pháp.
Kết luận chương 1
Trong nghệ thuật quân sự Việt Nam có nhiều loại hình nghệ thuật quân
sự khác nhau như lấy nhỏ đánh lớn, lấy ít địch nhiều, nghệ thuật chiến tranh
nhân dân, nghệ thuật khởi nghĩa vũ trang… và điển hình là nghệ thuật tạo sức
mạnh tổng hợp bằng lực, thế, thời. Nghệ thuật tạo sức mạnh tổng hợp bằng lực,
thế, thời đã được ông cha ta vận dụng một cách tài tình qua nhiều trận đánh và
giành được nhiều thắng lợi to lớn như: Kháng chiến chống quân Tống trên
phòng tuyến sông Như Nguyệt của Lý Thường Kiệt, chống quân xâm lược
phương Bắc của Quang Trung hay chiến thắng của Ngô Quyền trên sông Bạch
Đằng… Tất cả những thắng lợi đó đã đã cho ta thấy được sự tài ba của ông cha
ta trong việc vận dụng lực, thế, thời khi hoàn cảnh đất nước còn nghèo nàn,
thường xuyên bị quân giặc phương Bắc sang xâm lược, quân sĩ chưa đủ
mạnh… Nhận thức rõ được điều đó các vị tướng tài của dân tộc nhận thức
được rằng không thể dùng trứng chọi đá mà phải dùng mưu, mưu muốn thành

thì phải lợi dụng thế trận, lực lượng, thời cơ mà vận dụng trong chiến đấu.
Đảng cộng sản Việt Nam ra đời năm 1930 đánh dấu bước ngoặt lịch sử
của cách mạng Việt Nam. Đảng ra đời với những đường lối, quyết sách đúng
đắn đã đưa cách mạng ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đảng cộng
sản Việt Nam mà đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng quan điểm
của chủ nghĩa Mác – Lênin một cách sáng tạo vào trong hoàn cảnh của Việt
Nam, cùng với đó là những kinh nghiệm quý báu mà cha ông ta để lại. Trong
16
cuộc kháng chiến chống Pháp nghệ thuật tạo sức mạnh tổng hợp bằng lực,
thế, thời từ khi có Đảng lãnh đạo đã giành được nhiều thắng lợi to lớn như
cách mạng tháng 8 năm 1945 hay chiến dịch Điện Phủ… Các yếu tố về việc
sử dụng lực lượng kết hợp với thế trận cùng thời cơ đã làm phong phú thêm
nền nghệ thuật quân sự của nước nhà. Đảng ta đã vận dụng tài tình loại hình
nghệ thuật quân sự này vào trong các trận chiến đấu để làm nên những thắng
lợi to lớn và tạo tiền đề cho cuộc kháng chiến chống Mỹ.
17
Chương 2
NGHỆ THUẬT TẠO SỨC MẠNH TỔNG HỢP BẰNG LỰC, THẾ,
THỜI CỦA ĐẢNG TA TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ
2.1. Nghệ thuật tạo lực, tạo thế, tạo thời trong kháng chiến chống Mỹ
2.1.1. Tạo lực
Trong mỗi thời kì khác nhau của chiến tranh, việc xây dựng lực lượng,
xác định vị trí của các lực lượng cách mạng và chiến tranh cách mạng, và sử
dụng các lực lượng đều có khác nhau, nó phục tùng mục tiêu chiến lược và
phương thức tiến hành chiến tranh của từng giai đoạn.
Trong cuộc quyết chiến chiến lược kết thúc chiến tranh, để thực hiện
mục tiêu chiến lược tiêu diệt hàng triệu quân, phá tan cả bộ máy chính trị
phản động lớn, giải phóng hoàn toàn miền Nam, Đảng ta đã phát triển chưa
từng có, việc động viên và xây dựng lực lượng cả về số lượng và chất lượng
với những hình thức tổ chức thích hợp, bảo đảm thực hiện quyết tâm chiến

lược, kể cả khi có bước nhảy vọt lớn của cục diện chiến trường.
Trên cơ sở đường lối xây dựng lực lượng của Đảng là, động viên và tổ
chức toàn dân xây dựng lực lượng chính trị rộng rãi của quần chúng, đồng
thời xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân hùng mạnh gồm 3 thứ quân làm
nòng cốt cho toàn dân đánh giặc, phát huy sức mạnh tổng hợp của hai lực
lượng chính trị và quân sự trong trận quyết chiến chiến lược, kết thúc chiến
tranh. Chúng ta thấy trong quyết tâm chiến lược, Đảng ta chỉ rõ vai trò của
đòn bẩy của chủ lực thúc đẩy các lực lượng khác cùng phát triển để giải quyết
nhiệm vụ cơ bản, chủ yếu nhất của chiến tranh là tiêu diệt lực lượng vũ trang
của đối phương mà trước hết là khối chủ lực. Khối chủ lực của ta trong giai
đoạn cuối của chiến tranh đã có các quân đoàn chủ lực binh chủng hợp thành,
được trang bị mạnh, có pháo binh, cơ giới và cả xe tăng thiết giáp trong biên
chế, có khả năng tổ chức chiến dịch hiệp đồng binh chủng trên từng hướng
chiến dịch và có bộ máy chỉ huy chiến dịch, chiến lược quy mô nhiều quân
đoàn để tiêu diệt trung tâm Sài Gòn, do nhiều sư đoàn địch phòng giữ. Các
18
chiến dịch quy mô quân đoàn diễn ra liên tiếp và đồng thời trên các hướng
chiến trường chiến lược như Tây Nguyên - Trị Thiên, Quảng Nam, Đà Nẵng,
miền Đông Nam Bộ.
Trên bản thống kê tương quan lực lượng giữa ta và địch, chúng ta đã
thấy trong trận quyết chiến chiến lược với lực lượng ta và địch có sự chênh
lệch theo hướng có lợi cho địch, nhưng tương quan lực lượng đã thay đổi hết
sức nhanh chóng sau từng chiến dịch lớn.
Nói tới lực lượng là phải nói tới vật chất, lương thực, đạn dược, xăng
dầu bảo đảm cả số quân bổ xung với số lượng đủ cho các chiến dịch lớn, liên
tiếp trong thời gian ngắn. Thành công lớn của ta là, đã bảo đảm tốt các yêu
cầu vật chất các loại với một khối lượng lớn mà nếu không có sự chuẩn bị
trước, khi mở đầu chiến cuộc đã được bố trí vào các địa bàn dự kiến, thì
không thể bảo đảm kịp thời. Cụ thể trong mùa Xuân 1975, khối lượng vật
chất bảo đảm đã lên tới 576.963 tấn, đã phải sử dụng tới trên 17.000 chiếc ô

tô, xe kích, 270 tàu thuyền và xà lan, 300 toa xe lửa và nhiều chuyến máy bay
để vận chuyển.
Một vấn đề lớn cho việc sử dụng lực lượng trong trận quyết chiến chiến
lược là lực lượng dự bị chiến lược và quân bổ sung. Chúng ta đã có một quân
đoàn, 3 sư đoàn dự bị chiến lược ngoài 3 khối chủ lực mạnh đã bố trí sẵn trên
3 chiến trường chủ yếu khi mở đầu cuộc chiến, và đến khi tiến hành chiến
dịch Hồ Chí Minh, trong tay Bộ tổng tư lệnh còn 4 sư đoàn mạnh. Ngoài ra ta
đã chuẩn bị một lực lượng quân bổ sung đông đảo trong 2 năm 1973 – 1974 là
26 vạn, riêng mấy tháng đầu năm 1975, đã huy động 23 vạn quân bổ sung con
số hết sức lớn nếu so với tổng số quân là 418.225 lúc mở đầu chiến dịch.
Xây dựng, tích luỹ và sử dụng tối ưu các lực lượng dự bị chiến lược các
loại là một trong những nhiệm vụ quan trọng của chỉ đạo chiến lược. Đó là
một trong những nhân tố để giành và giữ quyền chủ động chiến lược. Xây
dựng những binh đoàn dự bị lớn trong một thời gian ngắn và bất ngờ đối với
địch, sẽ có thể có được ưu thế quyết định về lực lượng và khi có thời cơ, kịp
19

×