Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

Chính sách tiền tệ thực trạng và giải pháp hoàn thiện CSTT ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (226.39 KB, 37 trang )

Chuyên đề môn học

GVHD: ThS. Nguyễn Dụng Tuấn

NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
Thanh Hóa, ngày ..... tháng ....... năm 2015
Giảng viên hương dẫn

SVTH: Trịnh Thị Hằng Vân - Lớp CDTN13TH


Chuyên đề môn học

GVHD: ThS. Nguyễn Dụng Tuấn

MỤC LỤC


NỘI DUNG................................................................................................................................2

SVTH: Trịnh Thị Hằng Vân - Lớp CDTN13TH


Chuyên đề môn học

GVHD: ThS. Nguyễn Dụng Tuấn

MỞ ĐẦU
Nền kinh tế Việt Nam đang hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế
thế giới. Cùng với sự phát triển của thị trường tài chính, trong bối cảnh kinh tế
toàn cầu đầy biến động, các giao dịch kinh tế, tiền tệ ngày càng trở nên phức tạp
hơn. Trong khi đó, chính sách tiền tệ ở Việt Nam còn nhiều tồn tại, hạn chế. Cơ
chế điều hành chính sách tiền tệ trong thời gian qua tỏ ra không hiệu quả trong
việc kiểm soát lạm phát. Từ năm 2004 đến năm 2011, lạm phát cao và diễn biến
phức tạp. Kinh tế vĩ mô bất ổn. Từ năm 2012 đến nay, chính sách tiền tệ đã có
những thành công nhất định trong việc kiềm chế lạm phát ở mức một con số,
góp phần ổn định kinh tế vĩ mô. Để việc điều hành chính sách tiền tệ đạt được
hiệu quả cao thì nền kinh tế phải có những nền tảng vững chắc trên bình diện
kinh tế vĩ mô cũng như sự ủng hộ của công chúng và thể chế. Tuy nhiên, ở Việt
Nam, các thể chế tài chính, tài khóa, tiền tệ chưa thật vững mạnh, thể hiện ở
thực trạng hệ thống ngân hàng, tình hình thu chi ngân sách cũng như tính độc
lập của Ngân hàng Trung ương. Vì vậy, việc Việt Nam tiếp tục cải tổ các thể chế
này là rất cần thiết. Bài viết này sẽ đi sâu phân tích về hiệu quả điều hành chính
sách tiền tệ ở Việt Nam trong thời gian qua, tập trung vào giai đoạn từ năm 2011
đến nay, chỉ rõ những kết quả đạt được, cũng như những vấn đề đặt ra yêu cầu
phải đổi mới, đồng thời đưa ra các gợi ý chính sách và giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả của chính sách tiền tệ cũng như tiếp tục chính sách lạm phát mục tiêu
trong thời gian tới.

Trên cơ sở đó em đã quyết định chọn đề tài: “Chính sách tiền tệ - thực
trạng và giải pháp hoàn thiện CSTT ở Việt Nam”.

SVTH: Trịnh Thị Hằng Vân - Lớp CDTN13TH

1


Chuyên đề môn học

GVHD: ThS. Nguyễn Dụng Tuấn

NỘI DUNG
PHẦN I: VAI TRÒ CỦA NHNN TRONG VIỆC XÂY DỰNG VÀ THỰC
HIỆN CÁC MỤC TIÊU CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ.
I.1. NHNN đóng vai trò chủ đạo
Ổn định tài chính gồm nhiều thành tố, nhưng quan trọng nhất là ổn định
hoạt động của các trung gian tài chính, hạ tầng tài chính (hệ thống thanh toán và
hệ thống thông tin tín dụng) và thị trường tài chính.
NHNN đóng vai trò chủ đạo trong thực hiện chức năng ổn định tiền tệ –
tài chính. Một phần cũng bởi đặc thù của Việt Nam là hệ thống ngân hàng và
các công ty tài chính do NHNN quản lý chiếm hơn 90% tổng tài sản của các tổ
chức tài chính. Do đó, chức năng và nhiệm vụ quản lý của NHNN cũng là vai
trò quan trọng để kiểm soát ổn định hệ thống các tổ chức tín dụng.
Không chỉ vậy, với vai trò là NHTW, các chính sách và công cụ để thực
hiện ổn định hệ thống tài chính (hay nói cách khác là khuôn khổ an toàn vĩ mô)
phần lớn thuộc thẩm quyền điều hành của NHNN.
Thực tế cũng cho thấy, đảm bảo ổn định hệ thống tài chính là một vấn đề
quan trọng đối với NHNN do mối liên hệ mật thiết giữa các lĩnh vực trong hệ
thống tài chính, bao gồm ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm và hoạt động của

ngân sách với việc điều hành CSTT một cách có hiệu quả.
Sự bất ổn của hệ thống ngân hàng – tài chính sẽ ảnh hưởng đáng kể đối
với quá trình truyền tải tác động của CSTT đến nền kinh tế. Bong bóng giá bất
động sản, mức độ vay nợ cao cũng như tính kém hiệu quả của khu vực DN sẽ
ảnh hưởng tiêu cực đến những nỗ lực của NHNN trong việc kiềm chế lạm phát
và ổn định vĩ mô, đặc biệt khi cần xác định thời điểm, mức độ và qui mô của các
công cụ CSTT.
Bên cạnh đó, NHNN cần nắm sát diễn biến của tổng thể hệ thống tài
chính do nhu cầu vốn của các thành viên trên thị trường có thể biến động bất
thường khi gặp các cú sốc và mất cân bằng tài chính. Sự thiếu hụt thanh khoản
có thể nhanh chóng lan rộng và ảnh hưởng tiêu cực đến toàn bộ hệ thống tài
SVTH: Trịnh Thị Hằng Vân - Lớp CDTN13TH

2


Chuyên đề môn học

GVHD: ThS. Nguyễn Dụng Tuấn

chính, trong đó có hệ thống các TCTD và các định chế tài chính. Vì vậy, CSTT
và ổn định tiền tệ là vô cùng quan trọng góp phần ổn định khu vực tài chính.
I.2. Vai trò của NHNN:
- Thực hiện mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền quốc gia. Theo quy định tại
Điều 1 của Luật NHNN 12/1997.
“ Hoạt động NHNN nhằm ổn định giá trị đồng tiền, gốp phần bảo đảm an
toàn hoạt động ngân hàng, thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội theo định hướng xã
hội chủ nghĩa”. Như vậy mục tiêu đầu tưiên đặt ra đối với hoạt động của NHNN
chính là ổn định giá trị đồng tiền quốc gia.
Trong những năm qua, với những nỗ lực mới, NHNN tiếp tục góp phần

xứng đáng trong thành công ổn định giá trị đồng tiền quốc gia. Đặc biệt, trong
điều kiện nền kinh tế bị tác động của nhiều khó khăn như ảnh hưởng của thiên
tai, khủng hoảng tiền tệ Châu Á...
- Xây dựng dự án CSTT quốc gia để chính phủ xem xét trình Quốc hội
quyết định và tổ chức thực hiện chính sách này .
- NHNN là cơ quan của chính phủ và là NHTW của nước cộng hoà
XHCN Việt Nam. Trên thực tế, NHNN được coi như một bộ đặc thù trong chính
phủ. Trong hoàn cảnh cụ thể của Việt nam, mô hình này có ưu điểm:
+ Trong cơ chế Đảng lãnh đạo và chính phủ quản lý thống nhất toàn diện
các mặt đời sống, kinh tế xã hội thì việc Thống đốc NHNN là thành viên của
chính phủ và có sự quan tâm, hỗ trợ của chính phủ đối với các hoạt động của
ngân hàng
+ Trong khi nền kinh tế Việt nam vẫn còn trong giai đoạn chuyển đổi,
chưa thể vận hành hoàn toàn và đầy đủ theo cơ chế kinh tế thị trường thì với vị
trí là một Bộ trong chính phủ, NHNN có thể giúp việc đắc lực hơn cho chính
phủ. Điều này có nghĩa là góp phần được nhiều hơn vào công cuộc đổi mới,
phát triển kinh tế đất nước.
+ Trong bất cứ sự phát triển nào đều phải trải qua các giai đoạn, nếu
chuyển ngay sang một mô hình tổ chức hoàn toàn khác thì chẳng những các cơ
quan, đơn vị có liên quan chưa chấp nhận, gây ách tắc trong việc phối hợp lẫn
SVTH: Trịnh Thị Hằng Vân - Lớp CDTN13TH

3


Chuyên đề môn học

GVHD: ThS. Nguyễn Dụng Tuấn

nhau, mà bản thân NHNN cũng chưa chuẩn bị đầy đủ các điều kiện cần thiết để

theo cơ chế hoạt động hoàn toàn mới.

SVTH: Trịnh Thị Hằng Vân - Lớp CDTN13TH

4


Chuyên đề môn học

GVHD: ThS. Nguyễn Dụng Tuấn

PHẦN II: VẬN DỤNG HỆ THỐNG CÁC CÔNG CỤ ĐIỀU HÀNH
CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ HIỆN NAY
Mục đích của chính sách tiền tệ là nhằm điều tiết lượng tiền trong lưu
thông, sự điều tiết này thể hiện qua 2 hướng: mở rộng tiền tệ và thắt chặt tiền tệ.
Việc điều tiết lượng cung tiền như thế nào để cho nền kinh tế phát triển một
cách nhịp nhàng luôn là vấn đề nan giải của các quốc gia,thiếu hay thừa tiền
luôn tác động tiêu cực đến nó. Tuy nhiên, trong thực tế điều hành chính sách
tiền tệ, tuỳ vào từng thời kỳ phát triển kinh tế và hoàn cảnh cụ thể của kinh tế
xã hội mà sử dụng chính sách thắt chặt hay mở rộng tiền tệ. Đây cũng là vấn đề
mang tính nhạy cảm của các nhà điều hành CSTT.
Để làm được điều này NHTW phải sử dụng hàng loạt các công cụ .Công
cụ của CSTT là hệ thống các biện pháp mà NHTW có thể sử dụng để tác động
vào mục tiêu của CSTT.
Mỗi loại công cụ đều có cơ chế tác động riêng và đem lại những kết quả
trên những khía cạnh khác nhau. Tuy nhiên các công cụ này đều nhằm ảnh
hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến lượng tiền cung ứng và lãi suất để từ đó đạt
được các mục tiêu của CSTT .
II.1 Công cụ trực tiếp:
Công cụ trực tiếp là công cụ có tác động về lượng và NHTW kiểm soát

công cụ bằng biện pháp hành chính. Khi NHTW sử dụng công cụ trực tiếp nó
tác động trực tiếp vào mục tiêu trung gian, từ mục tiêu trung gian đã tác động
đến tổng cầu.
II.1.1. Hạn mức tín dụng:
Hạn mức tín dụng là công cụ trực tiếp của CSTT, đó chính là mức dư nợ
tối đa mà NHTW buộc các TCTD phải tôn trọng khi cấp tín dụng cho nền kinh
tế. Khi sử dụng hạn mức tín dụng là khống chế dư nợ tín dụng của các NHTM,
từ đó nó quyết định đến lượng tiền cung ứng trong nền kinh tế, vì mỗi khoản cho
vay cấu thành dư nợ tín dụng của các NHTM thì tương đương với nó là một
nguồn vốn tiền gửi huy động, từ đó ảnh hưởng đến tỷ trọng vốn tín dụng so với
SVTH: Trịnh Thị Hằng Vân - Lớp CDTN13TH

5


Chuyên đề môn học

GVHD: ThS. Nguyễn Dụng Tuấn

lượng tiền cung ứng. Để cho hạn mức tín dụng có hiêu quả thì khi đưa ra hạn
mức tín dụng bao giờ cũng phải nhỏ hơn nhu cầu vay của nền kinh tế dẫn đến
khan hiếm tiền. Khi đó viêc thay đổi HMTD mới có ý nghĩa tác động vào hạn
mức đồng thời tác động đến vốn trong nền kinh tế. Tuy nhiên, hạn mức tín dụng
nhỏ hơn nhu cầu vay của nền kinh tế là bao nhiêu còn là vấn đề cần xem xét.
NHTƯ căn cứ vào mục tiêu của CSTT, vào lượng tiền cung ứng để xác định
HMTD. Nếu HMTD quá nhỏ thì dẫn đến các NHTM sẽ độc quyền tín dụng và
ảnh hưởng đến lãi suất cho vay. Nếu HMTD lớn hơn so với nhu cầu vay thì các
NHTM sử dụng không hết hạn mức nên việc thay đổi hạn mức cũng không có
hiệu quả.
*Ưu điểm: Hạn mức tín dụng là công cụ hành nên NHTW chủ động thay

đổi quy định hạn mức theo mong muốn để đạt được các mục tiêu của CSTT. Khi
các công cụ khác không có điều kiện áp dụng thì công cụ này có thể phát huy
hiệu quả trong trường hợp lạm phát cao.
*Nhược điểm: Do đây là công cụ mang tính hành chính và do con người
xác định nên không thể chính xác và sẽ không có hiệu quả khi HMTD quy định
không phù hợp với nhu cầu tín dụng của nền kinh tế. Đây là công cụ kém linh
hoạt, không thể thay đổi thường xuyên. Một khi HMTD xác định không chính
xác thì NHTƯ không thể chủ động sử dụng hạn mức để điều tiết tiền cung ứng.
Ở Việt nam, NHNN bắt đầu sử dụng HMTD như một công cụ của CSTT từ
tháng 6/1994. Thời kỳ đầu chỉ áp dụng cho 4NHTM quốc doanh là: NH ngoại
thương, NH công thương, NH đầu tư và phát triển. Nhưng sau vài năm đổi mới,
quy mô mở rộng tín dụng của các NHTM quá nhanh, nên NHNN quyết định áp
dụng HMTD cho hầu hết các NHTM .
Tính đến cuối năm 1997 có 26 NHTM trong nước phải áp dụng HMTD.
Tuy nhiên ngay từ năm 1995, 1996 công cụ HMTD đã bộc lộ những hạn chế là
mức tăng dư nợ tín dụng thực tế đã vượt quá HMTD cho phép và đến năm 1998
công cụ HMTD đã mất dần vai trò của nó trong việc hạn chế sự gia tăng của
tổng phương tiện thanh toán. Hơn nữa việc mở rộng tín dụng trong giai đoạn này
là cần thiết để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nếu tiếp tục thực hiện HMTD sẽ tạo
SVTH: Trịnh Thị Hằng Vân - Lớp CDTN13TH

6


Chuyên đề môn học

GVHD: ThS. Nguyễn Dụng Tuấn

thêm những nhân tố khó khăn cho các NHTM trong việc mở rộng tín dụng. Vì
vậy từ quý II năm 1998, NHNN đã không áp dụng công cụ này như một công cụ

thường xuyên để điều hành CSTT.
Theo chiều hướng phát triển của nền kinh tế, những năm tiếp theo khi thị
trường tiền tệ đã ổn định và thị trường vốn đã đi vào hoạt động thì công cụ
HMTD sẽ được xoá bỏ.
II.1.2. Công cụ lãi suất:
Bên cạnh HMTD, NHTW còn sử dụng công cụ lãi suất ấn định dưới các
hình thức như: ấn định khung lãi suất, ấn định trần lãi suất cho vay, sàn lãi suất
tiền gửi. NHTƯ ấn định trực tiếp trần lãi suất cho vay để khống chế mức lãi suất
mà các NHTM áp dụng cho vay với nền kinh tế Khi NHTW tăng, giảm trần lãi
suất cho vay, NHTM cũng phải tăng, giảm lãi suất cho vay đối với nền kinh tế
từ đó ảnh hưởng tới nhu cầu về vốn của các tổ chức kinh tế. Công cụ này không
phù hợp với cơ chế thị trường, hạn chế sự cạnh tranh của các NHTM. Đặc biệt
trong trường hợp NHTW ấn định mức lãi suất không phù hợp như mức lãi suất
quá thấp sẽ làm cho cầu tiền tăng nhanh hơn dự đoán, các ngân hàng gặp khó
khăn về nguồn vốn để đáp ứng nhu cầu này, mặt khác nếu mức lãi suất quá cao
sẽ làm cầu tiền giảm dẫn đến đầu tưư giảm, hệ thống NHTM sẽ không kịp điều
chỉnh theo, bỏ lỡ cơ hội đầu tư. Khi NHTW ấn định lãi suất buộc các NHTM
phải chấp hành làm hạn chế tính linh hoạt của thị trường tiền tệ.
II.2 Công cụ gián tiếp:
Công cụ gián tiếp của chính sách tiền tệ là công cụ tác động vào mục tiêu
trung gian qua việc điều chỉnh các mục tiêu hoạt động .
II.2.1. Dự trữ bắt buộc:
Dự trữ bắt buộc là số tiền mà các TCTD phải gửi tại NHTW để thực hiện
CSTT quốc gia. Nó được xác định bằng một tỷ lệ % nhất định trên tổng số dư
tiền gửi tuỳ theo tính chất và thời hạn mà các TCTD huy động được. Tỷ lệ này
gọi là tỷ lệ dự trữ bắt buộc.
Từ năm 1991, DTBB được áp dụng như là một công cụ chủ yếu để điều
hành CSTT ở Việt nam. Theo pháp lệnh ngân hàng, tỉ lệ DTBB có thể ở mức từ
SVTH: Trịnh Thị Hằng Vân - Lớp CDTN13TH


7


Chuyên đề môn học

GVHD: ThS. Nguyễn Dụng Tuấn

10% đến 30% tổng nguồn vốn huy động của các NHTM. Song xét hoàn cảnh
thực tế lúc bấy giờ: Tiềm lực của các NHTM Việt nam còn nhỏ bé và lạm phát
đã được kiềm chế ở mức đáng kể nên NHNN đã quy định tỉ lệ DTBB đối với
các NHTM ở nước ta là mức 10%. Lúc đầu, kỷ luật chấp hành tỉ lệ DTBB của
các NHTM chưa nghiêm, rất ít NHTM dự trữ đủ 10%, nhất là cácNHTM cổ
phần.
Để nâng cao tính hiệu lực của các công cụ này, tạo cơ sở cho việc quản lý
cung tiền một cách gián tiếp, trong năm 1994, NHNN đã hai lần điều chỉnh tỉ lệ
DTBB quy định mức DTBB thống nhất đối với tất cả các NHTM, đồng thời
đẩy mạnh việc áp dụng qui chế phạt đối với những trường hợp không tuân thủ
đúng quy định về DTBB.
Vào tháng 10/1995, NHNN đã ban hành quy chế DTBB mới nhằm tăng
thêm hiệu lực của công cụ này. Theo qui chế mới thì DTBB chỉ được tính đối
với các loại tiền gửi có kỳ hạn từ 12 tháng trở xuống, tỉ lệ DTBB thống nhất ở
mức 10% và được áp dụng cho tất cả các NHTM. Đến 1/12/1997 Thống đốc
NHNN tiếp tục ban hành quyết định về quy chế DTBB. Qui chế DTBB lần này
đã được quy định cụ thể hơn, linh hoạt hơn thể hiện ở việc quy định tiền gửi
DTBB tại NHNN được tính bình quân trong cả kỳ duy trì. Tỉ lệ DTBB được áp
dụng chung cho các NHTM và các loại tiền gửi huy động có kỳ hạn dưới 12
tháng là 10%, NHNN không phải trả lãi cho tiền gửi DTBB. Những quy định
mới đã khuyến khích các NHTM chủ động hơn trong điều hành nguồn vốn kinh
doanh và thực hiện DTBB đúng như quy định phù hợp với mục tiêu điều hành
CSTT trong giai đoạn này.

Vào cuối năm 1998 đầu năm 1999, NHNN tiếp tục hạ thấp tỉ lệ DTBB đối
với các NHTM nhằm mở rộng tín dụng và kích thích đầu tư. Tuy nhiên, qua vài
tháng sau nền kinh tế vẫn tiếp tục có những biểu hiện khác thường. Trước tình
hình đó, NHNN ra quyết định giảm tỉ lệ DTBB đối với tiền gửi không kỳ hạn
và có kỳ hạn dưới 12 tháng của các NHTM do lãi suất giảm tạo điều kiện để các
NHTM giảm lãi suất cho vay, từ đó tăng khả năng cung ứng vốn cho nền kinh tế
góp phần đưa nền kinh tế tăng trưởng trở lại .
SVTH: Trịnh Thị Hằng Vân - Lớp CDTN13TH

8


Chuyên đề môn học

GVHD: ThS. Nguyễn Dụng Tuấn

Công cụ này có ưu, nhược điểm sau:
*Ưu điểm:

DTBB là công cụ chủ động của NHTW, NHTW có quyền

quy định mà các NHTM không có quyền phản đối, sự thay đổi tỉ lệ DTBB là tuỳ
thuộc vào ý muốn của NHTW. Thay đổi một tỉ lệ DTBB sẽ gây tác động mạnh
tới thay đổi lượng tiền cung ứng vì NHTW chỉ cần thay đổi một tỉ lệ % nhỏ tỉ lệ
DTBB thì sẽ dẫn đến thay đổi bội số của lượng tiền cung ứng vì nó tác động đến
tát cả các TCTD.
*Nhược điểm: Tuy nhiên tăng, giảm DTBB không thể thay đổi thường
xuyên vì nếu thay đổi thường xuyên sẽ gây xáo trộn hoạt động của các TCTD
dẫn đến việc quản lý vốn khả dụng của các NHTM trở nên khó khăn. Tiền gửi
DTBB không tính lãi nên sẽ ảnh hưởng đến chi phí của các TCTD, nếu DTBB

cao dẫn đến chi phí lớn coi như một khoản thuế đánh vào các TCTD.
Vì vậy, sử dụng công cụ DTBB là giải pháp tình thế khi cần thiết phải
thắt chặt tiền tệ. Hiện nay một số nước không còn chú ý đến công cụ này nữa và
có thể quy định mức DTBB bằng 0 hoặc kết hợp với các công cụ khác để thực
thi CSTT.
II.2.2. Công cụ cho vay chiết khấu:
Cho vay chiết khấu được coi là một công cụ gián tiếp để giúp NHTW các
nước thực hiện CSTT của mình. Tuy nhiên, việc áp dụng công cụ này ở Việt
nam những năm vừa qua còn đang ở trạng thái giản đơn do các phương tiện
làm căn cứ để NHNN thực hiện cho vay chiết khấu còn chơa phát triển đầy đủ.
Tuy vậy ngay từ năm đầu của quá trình đổi mới để thực hiện CSTT, NHNN đã
áp dụng hìmh thức cho vay chiết khấu đối với cácNHTM. Cơ sở để thực hiện
chiết khấu là các khế ước tín dụng tức là các văn bản pháp lý ghi nhận một
khoản vay với một mức lãi suất vàmột thời hạn nợ nhất định của một DN đối
với một NHTM Thông qua việc thế chấp các khế ước tín dụng này, NHNN đã
cho vay ngắn hạn đối với các NHTM, nhờ vậy mà các NHTM đã khắc phục
được những khó khăn tạm thời trong thanh toán, lại có thể đáp ứng được nhu
cầu tín dụng cho nền kinh tế.

SVTH: Trịnh Thị Hằng Vân - Lớp CDTN13TH

9


Chuyên đề môn học

GVHD: ThS. Nguyễn Dụng Tuấn

Bên cạnh đó, NHTW đã áp dụng lãi suất tái chiết khấu. Đây là loại lãi
suất được NHTW áp dụng để chiết khấu lại các chứng từ có giá của các NHTM.

Lãi suất tái chiết khấu tác động vào giá tín dụng nên khi lãi suất tái chiết khấu
tăng sẽ tác đôngj vào mặt bằng giá vốn đầu vào của NHTM, gây áp lực và lãi
suất nền kinh tế sẽ tăng theo dẫn đến thu hẹp khả năng cho vay của NHTM, làm
cho hệ số tạo tiền giảm và ngược lại. Đi kèm với lãi suất tái chiết khấu, NHTW
còn quy định hạn mức tái chiết khấu tức là quy định mức cho vay tối đa trên cơ
sở lãi suất đã quy định để gây ảnh hưởng về lượng vốn mà các TCTD vay của
NHTW .
Ưu, nhược điểm của công cụ này:
*Ưu điểm: Chính sách tái chiết khấu là công cụ có khả năng tác động vào
các mục tiêu trung gian của CSTT. NHTW chủ động sử dụng công cụ này thể
hiện qua việc chủ động quy định lãi suất tái chiết khấu, hạn mức tái chiết khấu
và các điều kiện chiết khấu cho từng đối tượng cụ thể. Chính sách tái chiết khấu
là công cụ linh hoạt, sự nhạy cảm của CSTT với lãi suất sẽ ảnh hưởng đến toàn
bộ cơ cấu cho vay của các TCTD với hiệu ứng thông báo mạnh có tác động đến
nền kinh tế. NHTW có thể dùnh chính sách này để thực hiện vai trò người cho
vay cuối cùng cung cấp dự trữ cho hệ thống NHTM khi nó thiếu vốn khả dụng,
nhất là trong điều kiện xảy ra khủng hoảng ngân hàng, lúc này cửa sổ chiết khấu
giống như cái van an toàn cho hệ thống tiền tệ của quốc gia.
*Nhược điểm: Công cụ này không phát huy hiệu quả khi các điều kiện tái
chiết khấu không đảm bảo. Nhiều khi NHTW không thể chủ động chi phối được
số tiền tái chiết khấu vì nó còn phụ thuộc vào nhu cầu vốn của TCTD. Mặt khác,
công cụ này còn có ý nghĩa tác động một chiều, khi cần tăng lượng tiền cung
ứng thì NHTW sẽ điều chỉnh lãi suất thấp để các NHTM có nhu cầu vay và sẽ
gặp khó khăn khi cần thu tiền về vì bị ràng buộc bởi thời gian. Hơn nữa, chính
sách tái chiết khếu có thể làm lẫn lộn những ý định của NHTW do việc thay đổi
lãi suất, vì thế để khắc phục phải biết kết hợp công cụ này với các công cụ khác
như công cụ dự trữ bắt buộc.

SVTH: Trịnh Thị Hằng Vân - Lớp CDTN13TH


10


Chuyên đề môn học

GVHD: ThS. Nguyễn Dụng Tuấn

II.3. Công cụ nghiệp vụ thị trường mở:
Thị trường mở là thị trường tiền tệ mà ở đó người ta thực hiện việc muabán các công cụ tài chính ngắn hạn. Nghiệp vụ thị trường mở là hoạt động muabán các chứng từ có giá ngắn hạn của NHTƯ trên thị trường mở.
Ở Việt nam, sau nhiều năm tích cực chuẩn bị triển khai, tới ngày
12/7/2000, nghiệp vụ thị trường mở do NHNN chủ trì đã mở phiên giao dịch
đầu tiên đánh dấu một bước phát triển quan trọng trong điều hành CSTT của
NHTW theo phương pháp gián tiếp. Ở đây ta trình bày vài nét về mục tiêu và
nhiệm vụ của CSTT-Xuất phát điểm để NHTW đưa ra các công cụ điều hành. Ở
góc độ khái quát, CSTT là những mục tiêu và những giải pháp đồng bộ mà
NHTW sử dụng trong điều hành nhằm tác động vào khả năng sẵn có và giá của
vốn khả dụng, qua đó ảnh hưởng lên toàn bộ các hoạt động tiền tệ, tín dụng
trong nền kinh tế.

Nói cách khác, CSTT phải nhằm vào mục tiêu bảo đảm

ổn định giá trị đồng tiền và an toàn hệ thống tín dụng bằng cách kiểm soát các
kênh bơm và rút tiền NHTW trong lưu thông. Theo thuật ngữ tiền tệ, đây là
nhiệm vụ kiểm soát lượng tiền cung ứng được điều tiêt qua hai kênh bao gồm
kênh tín dụng và kênh mua bán.
Các tăng hay giảm tiền cung ứng qua các kênh này đều có những ưu
nhược điểm khác nhau phụ thuộc vào điều kiện khách quan của nền kinh tế và
khả năng cho phép của NHTW.
Theo đánh giá của các chuyên gia NHTW, điều tiết lượng tiền cung
ứng qua nghiệp vụ thị trường mở có nhiều ưu thế hơn các kênh khác. Tại đây

NHTW đóng vai trò người chủ trì có điều kiện thực hiện ý đồ kiểm soát của
mình một cách chủ động. Thông qua việc mua bán các giấy tờ có giá trên thị
trường thứ cấp giữa một bên là NHTW với một bên khác là các TCTD, làm
lượng tiền biến thiên chỉ theo một chiều hoặc tăng giảm phù hợp với yêu cầu
can thiệp của NHTW.

SVTH: Trịnh Thị Hằng Vân - Lớp CDTN13TH

11


Chuyên đề môn học

GVHD: ThS. Nguyễn Dụng Tuấn

PHẦN III: THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG TỒN TẠI TỪ HOẠT ĐỘNG
CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ VIỆT NAM
III.1 Thực trạng thi hành chính sách tiền tệ
Trước những diễn biến phức tạp của nền kinh tế, trong thời gian qua,
CSTT được điều hành linh hoạt, thận trọng và liên tục được điều chỉnh cho phù
hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô trong từng giai đoạn. Năm 2012 và 2013, Chính
phủ đã đưa ra những giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, hỗ trợ thị trường
nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong điều kiện ổn định vĩ mô còn chưa vững
chắc là cần thiết, có ý nghĩa quan trọng để đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế đất
nước. Trong đó, những gói giải pháp tài khóa và tiền tệ được triển khai đồng bộ
luôn có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả cũng như mục tiêu đề ra.
Cụ thể, tình hình kinh tế - xã hội năm 2012 đã có những kết quả tích cực,
cơ bản hoàn thành được các mục tiêu đề ra. Các giải pháp kiềm chế lạm phát và
ổn định kinh tế vĩ mô tiếp tục phát huy hiệu quả. Lạm phát được kiểm soát ở
mức thấp, chỉ số giá tiêu dùng tăng thấp so với năm 2011. Cán cân thanh toán

quốc tế cải thiện; lãi suất giảm mạnh; thanh khoản của hệ thống ngân hàng được
đảm bảo; kim ngạch xuất khẩu ước tăng đáng kể so với chỉ tiêu kế hoạch đề ra;
dự trữ ngoại hối được cải thiện; tỷ giá ổn định. Khó khăn trong sản xuất, kinh
doanh từng bước được tháo gỡ và có chuyển biến tích cực.
Nhìn lại diễn biến kinh tế vĩ mô và điều hành chính sách tiền tệ cho thấy,
năm 2012, tình hình kinh tế thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp, thương mại và
tăng trưởng toàn cầu phục hồi chậm, ảnh hưởng xấu tới các hoạt động kinh tế
đối ngoại của Việt Nam. Trong nước, nền kinh tế phải đối mặt với nhiều thách
thức như cầu nội địa giảm mạnh, lượng hàng tồn kho lớn, hoạt động sản xuất
kinh doanh gặp nhiều khó khăn. Trong bối cảnh đó, NHNN đã triển khai nhiều
biện pháp chính sách quyết liệt và chủ động trong điều hành hoạt động ngân
hàng.
Đầu tiên phải kể đến là chính sách lãi suất. Trong năm 2012, NHNN đã
liên tiếp thực hiện giảm mặt bằng lãi suất, điều chỉnh giảm 4 lần đối với lãi suất

SVTH: Trịnh Thị Hằng Vân - Lớp CDTN13TH

12


Chuyên đề môn học

GVHD: ThS. Nguyễn Dụng Tuấn

tái cấp vốn từ 15% xuống 10%, lãi suất chiết khấu từ 13% xuống 8%. Lãi suất
trên thị trường mở giảm 6 lần. Điều chỉnh giảm 4 lần trần lãi suất tiền gửi tối đa
bằng VNĐ, từ 14%/năm xuống 9%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn 1 tháng đến
12 tháng; từ 6%/năm xuống 2% năm đối với tiền gửi không kỳ hạn. Đồng thời,
áp dụng lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng VNĐ đối với bốn lĩnh vực ưu tiên
(nông nghiệp nông thôn, xuất khẩu, doanh nghiệp vừa và nhỏ, ngành công

nghiệp hỗ trợ), lãi suất điều chỉnh giảm từ 15% xuống còn 13%. Riêng đối với
tiền gửi trên 12 tháng, NHNN cho phép các tổ chức tín dụng tự ấn định trên cơ
sở quan hệ cung cầu. Nhờ đó, đã góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ
mô. Bởi, theo phân tích của các chuyên gia kinh tế, ngoài nguyên nhân sâu xa từ
những bất cập của nền kinh tế như năng suất lao động thấp, chất lượng đầu tư
kém hiệu quả, giá cả thế giới và yếu tố kỳ vọng lạm phát... thì yếu tố tăng trưởng
tiền tệ cao, tín dụng tăng cao trong nhiều năm qua cũng là một trong những tác
nhân gây ra lạm phát. Thậm chí, tín dụng tăng cao cũng là một trong những
nhân tố gây ra sự thiếu thanh khoản của thị trường và là yếu tố tiềm ẩn phát sinh
những bất ổn của hệ thống ngân hàng.
Mặt khác, đánh giá thực trạng của hệ thống ngân hàng cho thấy, mặc dù
các sản phẩm dịch vụ khác đã phát triển tương đối đa dạng, song, doanh thu hoạt
động của các ngân hàng vẫn chủ yếu dựa vào hoạt động tín dụng, do vậy, để có
lợi nhuận, không ít các ngân hàng thương mại, nhất là ngân hàng thương mại
nhỏ mới thành lập, đã đẩy mạnh việc cho vay vượt cả năng lực tài chính và khả
năng quản trị... Như vậy càng khẳng định rằng, việc thực hiện biện pháp hạn
mức tín dụng của NHNN là rất cần thiết và phù hợp.
Trong năm 2012, hạn mức tín dụng được NHNN xác định phù hợp với
năng lực, quy mô hoạt động của các tổ chức tín dụng, theo đó, hạn mức tín dụng
được chia thành bốn nhóm, tương ứng với các mức: 17%, 15%, 8% và 0%; quy
định tỷ trọng dư nợ tín dụng cho lĩnh vực không khuyến khích 16%; đồng thời
áp dụng các biện pháp giám sát chặt chẽ việc thực hiện của các tổ chức tín dụng.
Giải pháp này đã được NHNN thực hiện quyết liệt từ những tháng cuối năm
2011 và tiếp tục triển khai trong năm 2012, tạo ra những tác động tích cực đến
SVTH: Trịnh Thị Hằng Vân - Lớp CDTN13TH

13


Chuyên đề môn học


GVHD: ThS. Nguyễn Dụng Tuấn

thị trường, lạm phát được kiềm chế ở mức thấp, thanh khoản thị trường cũng đã
được cải thiện, góp phần hạ thấp mặt bằng lãi suất.
Bên cạnh việc thực hiện hạn mức tín dụng, trong năm 2012, NHNN cũng
đã thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ để tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, tạo
điều kiện cho người dân và doanh nghiệp vay vốn ngân hàng, như: chỉ đạo các
tổ chức tín dụng tiết kiệm chi phí để giảm mặt bằng lãi suất, thúc đẩy chuyển
dịch cơ cấu tín dụng theo hướng tập trung vốn cho các lĩnh vực ưu tiên theo chỉ
đạo của Chính phủ.
Để khuyến khích chuyển dịch nguồn vốn vào lĩnh vực nông nghiệp, nông
thôn, NHNN đã áp dụng một tỷ lệ dự trữ bắt buộc thấp hơn đối với các tổ chức
tín dụng có tỷ trọng cho vay nông nghiệp nông thôn, và có chính sách tín dụng
chỉ đạo các tổ chức tín dụng trong việc cho vay đối với các hộ gia đình, trang
trại, hợp tác xã, doanh nghiệp sản xuất chăn nuôi, nuôi cá tra, chế biến cá tra
xuất khẩu (theo chỉ đạo của Chính phủ tại văn bản 1149/TTg-KTN ngày
20/8/2012), hỗ trợ giảm tổn thất sau thu hoạch đối với nông sản, thủy sản. Theo
đó, các tổ chức tín dụng được phép giãn nợ tối đa 24 tháng, hạ lãi suất đối với
các khoản vốn đã cho vay, tiếp tục cho vay mới với lãi suất thấp hơn thị trường
(11%/năm), cho vay vốn để đầu tư máy móc giảm tổn thất sau thu hoạch đối với
các đối tượng trên; yêu cầu các ngân hàng thương mại chủ động rà soát, đánh
giá khả năng trả nợ của khách hàng vay vốn; thực hiện cơ cấu lại thời hạn trả nợ
đối với khách hàng vay vốn; thực hiện phân loại nợ đối với các khoản nợ cơ cấu
lại thời hạn nợ (Quyết định 780/QĐ-NHNN ngày 24/4/2012); xem xét cho vay
mới đối với các nhu cầu vay có hiệu quả, đảm bảo khả năng trả nợ; thực hiện tiết
kiệm, giảm chi phí để có thể hạ thấp lãi suất cho vay đối với doanh nghiệp, kể cả
đối với những khoản vay đã ký hợp đồng trước đó, và xem xét miễn trả lãi đối
với những khách hàng bị tổn thất về tài sản dẫn đến khó khăn về tài chính theo
quy định của NHNN .

Các biện pháp chính sách này thực tế đã đi vào cuộc sống, với chưa đầy
một tháng, hầu hết các ngân hàng thương mại đã đồng loạt hạ lãi suất. Đến cuối
tháng 10/2012, mặt bằng lãi suất huy động và cho vay trong lĩnh vực sản xuất đã
SVTH: Trịnh Thị Hằng Vân - Lớp CDTN13TH

14


Chuyên đề môn học

GVHD: ThS. Nguyễn Dụng Tuấn

có sự giảm mạnh so với đầu năm (huy động tối đa là 9%, lãi suất cho vay lĩnh
vực ưu tiên ở mức 9% - 13%, các lĩnh vực sản xuất khác 12% - 15%).
Đối với ngoại tệ, lãi suất huy động và cho vay tương đối ổn định, lãi suất
huy động phổ biến ở mức 2%/năm đối với tiền gửi của dân cư và 0,5 - 1%/năm
đối với tiền gửi của tổ chức kinh tế, lãi suất cho vay phổ biến ở mức từ 5,3% 7,5%/năm. Trong khi đó, lãi suất cho vay bằng VNĐ giảm mạnh từ 4 - 5% so
với thời điểm cuối năm 2011. Cùng đó, mức tăng trưởng tín dụng trong ba quý
cuối năm đã được cải thiện hơn so với quý I và tăng trưởng tín dụng hàng tháng
đều đạt giá trị dương.
Điểm đáng lưu ý nữa trong điều hành chính sách tiền tệ năm 2012 phải kể
tới đó chính là sự chủ động cao của NHNN trong quá trình thực hiện các mục
tiêu của chính sách tiền tệ, các công cụ chính sách tiền tệ, tỷ giá trong quá trình
điều hành có sự kết hợp với chính sách quản lý ngoại hối đã góp phần ổn định tỷ
giá, tăng lòng tin vào đồng Việt Nam, từng bước thực hiện chủ trương giảm dần
tình trạng đô la hóa. Cán cân thanh toán thặng dư sau nhiều năm thâm hụt, thanh
khoản của VNĐ và USD trong toàn hệ thống được đảm bảo và cải thiện, trật tự
kỷ cương thị trường được tăng cường; phần lớn các tổ chức tín dụng đáp ứng
được tỷ lệ đảm bảo an toàn vốn.
Ngoài ra, NHNN đã thực hiện tái cơ cấu mạnh mẽ các ngân hàng thương

mại yếu kém, thực hiện các biện pháp ổn định thị trường vàng, thu hẹp đối
tượng cho vay bằng ngoại tệ. Đồng thời, NHNN cũng đã thiết lập được “cửa sổ”
của thị trường tiền tệ, đây có thể nói là một thành công lớn để NHNN nắm bắt
được thông tin thị trường một cách kịp thời phục vụ cho việc điều hành chính
sách tiền tệ. Qua cửa sổ này, NHNN đã theo dõi rất sát những biến động về lãi
suất, các giao dịch hàng ngày trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng, từ đó kịp
thời đưa ra các biện pháp can thiệp, điều tiết những biến động bất thường của thị
trường.
Tuy nhiên, sự phối hợp chính sách kinh tế vĩ mô trong năm 2012 đôi lúc
còn thiếu đồng bộ. Do đó, diễn biến của thị trường cuối năm 2012 vẫn nổi nên
một số vấn đề cần tiếp tục xử lý: áp lực về thanh khoản vẫn còn, lãi suất trên thị
SVTH: Trịnh Thị Hằng Vân - Lớp CDTN13TH

15


Chuyên đề môn học

GVHD: ThS. Nguyễn Dụng Tuấn

trường có xu hướng biến động do áp lực lạm phát vẫn còn cao, các giao dịch
trên thị trường chưa thực sự thông suốt, các ngân hàng thương mại là thành viên
chính của thị trường có sự phát triển chưa đồng đều, nhiều ngân hàng thương
mại nhỏ đang phải đối mặt với tình hình thanh khoản khó khăn, nợ xấu gia
tăng…
III.2 Đánh giá về việc thi hành chính sách tiền tệ
Chính sách tiền tệ giữ vai trò quan trọng trong việc quản lý, điều tiết nền
kinh tế thị trường.Trong những năm qua, việc quản lý, điều hành CSTT có nhiều
chuyển biến tích cực, góp phần quan trọng vào việc ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm
chế lạm phát, thúc đẩy kinh tế tăng trởng và phát triển nhất là trong điều kiện tác

động nhiều mặt của cuộc khủng hoảng tài chính-tiền tệ khu vực vào nền kinh tế
nước ta. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt được việc quản lý, điều hành CSTT
trong thời gian qua ở nước ta đang nổi lên một số vấn đề cần được quan tâm giải
quyết.
Mặc dù không nằm trong “tâm điểm” của cơn bão tiền tệ Đông Nam Á,
nhưng thời gian gần đây diễn biến kinh tế phức tạp và ảm đảm của hàng loạt các
nước trong và cận kề ngoài khu vực cho phép khẳng định Việt Nam cũng khó có
thể thoát khỏi vòng xoáy tụt dốc “đô mi nô” về tăng trưởng kinh tế đang diễn ra
ít nhất là trong vòng 2-3 năm kể từ cuối năm 1997.
III.2.1 Các thành quả đạt được
III.2.1.1 Góp phần tăng trưởng kinh tế:
Để tăng trưởng kinh tế, tránh nguy cơ tụt hậu thì một trong những điều
kiện cơ bản là các ngành kinh tế phải có vốn đầu tưư để phát triển sản xuất, kinh
doanh. Kể từ khi có hai pháp lệnh ngân hàng cho đến nay, hệ thống ngân hàng
đã không ngừng tăng cường và mở rộng nguồn vốn tín dụng để cung cấp vốn
đầu tư cho các DN và các hộ gia đình. Điều đó đã giúp nền kinh tế Việt nam nói
chung cũng như từng ngành sản xuất nói riêng đạt được tốc độ tăng trưởng cao
và tương đối ổn định trong nhiều năm. Xét trên giác độ vĩ mô thì thông qua việc
thực thi chính sách tiền tệ, NHNN đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở
hai khía cạnh:
SVTH: Trịnh Thị Hằng Vân - Lớp CDTN13TH

16


Chuyên đề môn học

GVHD: ThS. Nguyễn Dụng Tuấn

Thứ nhất: Chính sách tiền tệ đã góp phần tạo ra môi trường kinh tế vĩ mô

ổ định để thu hút được nguồn vốn ddáng kể cho đầu tư.
Thứ hai: Gián tiếp tạo vốn và kích thích đầu tưư để phát triển kinh tế.
Vai trò tạo vốn một cách gián tiếp của NHNN thể hiện như sau:
Do nguồn vốn trong nước để cung cấp cho nền kinh tế của các tổ chức tín
dụng lấy từ hai nguồn vốn: Nguồn vay từ NHNN và nguồn huy động từ nền
kinh tế.
Với mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ của NHNN Việt nam những
năm qua là “thắt chặt” cung tiền để chống lạm phát cho nên lãi suất cho vay
chiết khấu thường ở mức cao buộc các TCTD phải có nhiều hình thức đa dạng
và linh hoạt để huy động vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế. Bên cạnh đó, với việc
sử dụng linh hoạt và mềm dẻo chính sách lãi suất trong quá trình điều hành
chính sách tiền tệ, NHNN thực sự đã thành công trong vai trò người “cầm
chịch” để các tổ chức tín dụng điều chỉnh mức lãi suất huy động một cách hợp
lý. Mức lãi suất huy động trong từng thời kỳ có thể huy động một cách hợp lý.
Mức lãi suất huy động trong từng thời kỳ có thể tăng giảm tuỳ theo diễn biến
của nền kinh tế, nhưng cũng vừa đủ cho các TCTD có lợi nhuận trong kinh
doanh tiền tệ đồng thời vẫn đủ hấp dẫn đối với người gửi tiền trong nước.
Nhờ những cố gắng đó của hệ thống ngân hàng mà nguồn vốn huy động
từ trong nước đã tăng liên tục trong nhiều năm. Cùng với sự tăng lên của nguồn
vốn huy động trong nước, nguồn vốn huy động từ nước ngoài cũng được hệ
thống ngân hàng khai thác triệt để, nhằm đáp ứng chiến lược vốn phục vụ tăng
trưởng kinh tế và CNH - HĐH đất nước.
Sau khi nhà nước ban hành luật đầu tưư nước ngoài ( tháng 12 - 1987 ) đã
mở ra một triển vọng mới trong việc thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp của
nước ngoài. Đặc biệt từ năm 1993 đến nay, nhờ khai thông tín dụng với quỹ tiền
tệ quốc tế và các tổ chức tài chính tiền tệ thế giới, NHNN Việt nam đã đàm
phán, ký kết được nhiều hiệp định tín dụng quan trọng cho các dự án phát triển
kinh tế.

SVTH: Trịnh Thị Hằng Vân - Lớp CDTN13TH


17


Chuyên đề môn học

GVHD: ThS. Nguyễn Dụng Tuấn

Có thể nói rằng: Những thành tựu đổi mới của nền kinh tế nói chung và
của hệ thống ngân hàng nói riêng đã đủ sức thuyết phục các tổ chức tiền tệ ngân
hàng thế giới mở rộng quan hệ hợp tác với Việt nam. Nhờ đó mà trong nhiều
năm qua nền kinh tế Việt nam đã đạt được tốc độ tăng trưởng cao và tương đối
ổn định. Riêng năm 1998, do nhiều nguyên nhân khác nhau mà nền kinh tế Việt
nam đạt tỷ lệ tăng trưởng thấp nhất kể từ năm 1992 đến nay, sau năm 1999 tốc
độ tăng trưởng có xu hướng chậm lại ở một số ngành. Đặc biệt nền kinh tế có
dấu hiệu giảm phát. Đây là một nguy cơ kìm hãm sản xuất và tăng trưởng kinh
tế. Vì vậy liên tiếp trong những tháng gần đây, Thống đốc NHNN Việt nam đã
ra các quyết định, chỉ thị nhằm hạ trần lãi suất, giảm lãi suất cho vay chiết khấu
và tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các TCTD. Mục đích của các biện pháp này là
nhằm “nới lỏng” cung tiền để khuyến khích đầu tư, từ đó thúc đẩy nền kinh tế
tăng trưởng trở lại.
III.2.1.2 Góp phần làm giảm lạm phát:
Trước hết phải thừa nhận một sự thật là: trong nhiều năm qua NHNN
Việt nam đã đóng vai trò chủ chốt trong việc ổn định sức mua đối nội và đối
ngoại của đồng tiền Việt nam, góp phần ổn định giá cả và kiềm chế lạm phát,
phục vụ sự tăng trưởng kinh tế.
Trong thời kỳ 1986 - 1988, nền kinh tế Việt nam lâm vào tình trạng lạm
phát phi mã, lòng tin của nhân dân vào đồng tiền - biểu tượng cho uy tín của
chính phủ bị giảm sút. Nhưng cho đến nay, sau gần một thập kỷ tiến hành đổi
mới bằng việc áp dụng một loạt các biện pháp tích cực ( thực hiện hai pháp lệnh

ngân hàng, thực thi các công cụ của CSTT một cách linh hoạt, phù hợp với từng
hoàn cảnh, điều kiện cụ thể ). NHNN đã dần dần lấy lại lòng tin của nhân dân
vào đồng Việt nam, vào công cuộc đổi mới của Đảng. Có được lòng tin đó là
nhờ nền kinh tế Việt nam đang đi dần vào thế ổn định. Tỷ lệ lạm phát trong
nhiều năm liền được kiềm chế ở một con số ( từ năm 1992 - 1998: bình quân là
9,6%/năm ), giá trị của Việt nam đồng được coi là khá ổn định trong khu vực.
Chính sự ổn định của môi trường kinh tế vĩ mô như trên, một mặt đã thu hút
được nguồn vốn đáng kể từ trong nước và nước ngoài, mặt khác cũng khuyến
SVTH: Trịnh Thị Hằng Vân - Lớp CDTN13TH

18


Chuyên đề môn học

GVHD: ThS. Nguyễn Dụng Tuấn

khích các nhà đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh ở tất cả các lĩnh vực của nền
kinh tế.
Như vậy việc đổi mới hệ thống ngân hàng đã tạo điều kiện cho ngân hàng
nhà nước thông qua các công cụ của CSTT để chỉ đạo, hướng dẫn toàn bộ hệ
thống ngân hàng thực hiện có hiệu quả chiến lược huy động vốn phục vụ cho
quá trình phát triển nền kinh tế đất nước, góp phần quan trọng vào việc đưa nền
kinh tế Việt nam cùng một lúc đạt được hai chỉ tiêu kinh tế vĩ mô lớn là đẩy lùi
lạm phát mà vẫn đạt tỷ lệ tăng trưởng cao. Đây là một minh chứng cho sự đúng
đắn của đường lối đổi mới kinh tế nói chung và vận hành có hiệu quả CSTT của
hệ thống ngân hàng nói riêng.
III.2.1.3 Góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội khác:
Ngoài những thành tựu kể trên, quá trình thực thi CSTT của hệ thống
ngân hàng Việt nam những năm qua còn góp phần đáng kể vào qúa trình thực

hiện các mục tiêu kinh tế xã hội khác như: chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo thêm
công ăn việc làm...
Trong những năm qua cơ cấu kinh tế Việt nam đã và đang chuyển dịch
theo chiều hướng tiến bộ. Xét về cơ cấu kinh tế thì các thành phần kinh tế ngoài
quốc doanh ngày càng mở rộng, trong khi thành phần kinh tế nhà nước vẫn giữ
vị trí quan trọng ở các ngành, các khâu then chốt. Xét về cơ cấu ngành thì tỷ
trọng ngành công nghiệp và dịch vụ ngày càng tăng trong tổng GDP của xã hội,
trong khi tỷ trọng ngành nông nghiệp ngày càng giảm một cách tương đối. Quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nóitrên có sự đóng góp tích cực của hệ thống
ngân hàng. Bởi vì ở thời kỳ bao cấp, nguồn vốn đầu tưư cho nền kinh tế của
ngân hàng tập trung tới > 90% cho kinh tế quốc doanh, 10% cho kinh tế tập thể
và hầu như không cho vay cá thể. Nhưng đến nay hoạt động tín dụng đã có sự
thay đổi lớn. Bằng việc ban hành các văn bản pháp quy, NHNN đã hướng dẫn
các TCTD thực hiện cho vay đối vơi mọi thành phần kinh tế không phân biệt đối
xử. Tỷ trọng cho vay đối với các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh đã tăng
dần. Bên cạnh đó NHNN còn có văn bản hướng dẫn các TCTD ưu tiên đầu tư

SVTH: Trịnh Thị Hằng Vân - Lớp CDTN13TH

19


Chuyên đề môn học

GVHD: ThS. Nguyễn Dụng Tuấn

tín dụng vào các ngành trọng điểm, mũi nhọn có lợi thế nhằm thúc đẩy chuyển
dịch cơ cấu ngành.
Việc mở rộng vốn đầu tưư cho mọi thành phần kinh tế không những thúc
đẩy nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng cao trong khoảng thời gian dài, mà còn

tạo ra nhiều việc làm cho xã hội. Theo báo cáo thống kê thì những năm gần
đây,Việt nam có tỷ lệ tạo việc làm nhanh hơn tốc độ tăng dân số, vì vậy tỷ lệ
thất nghiệp có chiều hướng giảm đi. Rõ ràng, thông qua việc mở rộng đầu tư tín
dụng cho các thành phần kinh tế, tạo điều kiện để mở rộng sản xuất kinh doanh
thì hệ thống ngân hàng đã gián tiếp tạo công ăn việc làm cho người lao động.
III.2.2 Những khó khăn và tồn tại của việc thực hiện chính sách tiền tệ
Thứ nhất: Tổng nguồn vốn huy động và mức dư nợ cho vay nền kinh tế
tăng chậm, tốc độ huy động vốn tăng nhanh hơn dư nợ Vốn giữ vai trò quan
trọng trong việc thúc đẩy kinh tế tăng trưởng, đổi mới kỹ thuật và công nghệ,
thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Có tới 70% sản lượng vốn
đầu tư nước ngoài và 60% kim ngạch thương mại của Việt nam là nhờ quan hệ
với các quốc gia Châu Á. Việt nam đang chịu ảnh hưởng chủ yếu bởi sự sụt
giảm đáng kể trong đầu tư nước ngoài trực tiếp và tụt giảm nhu cầu xuất khẩu
chung.
Ngoài nguyên nhân do ảnh hưởng khủng hoảng tiền tệ, sự sụt giảm đầu
tưư nước ngoài vào Việt nam còn bắt nguồn sâu xa từ môi trường đầu tư chưa
đủ hấp dẫn, trong khi rủi ro đầu tư tiếp tục gia tăng cùng với mức độ khắc phục
chậm về hiệu quả thấp và sức cạnh tranh yếu tố của sản xuất kinh doanh nội địa.
Hiện tượng thiếu lành mạnh trong hệ thống tài chính-tiền tệ nói chung và sự
thiếu nhất quán về một số mặt chính sách vĩ mô trong đó CSTT cũng bộc lộ khá
sớm, đe doạ sự ổn định kinh tế về trung,dài hạn ngay cả trước khi khủng hoảng
tài chính-tiền tệ khu vực chưa nổ ra.
Thứ hai: Tỷ lệ tín dụng trung,dài hạn tăng và không tương xứng với tốc
độ tăng nguồn huy động các loại vốn này. Vốn trung, dài hạn giữ vị trí đặc biệt
quan trọng trong việc gia tăng đầu tư, tăng năng lực sản xuất-kinh doanh trong
nền kinh tế. Năm 1998, tỷ lệ cho vay trung, dài hạn của hệ thống ngân hàng
SVTH: Trịnh Thị Hằng Vân - Lớp CDTN13TH

20



Chuyên đề môn học

GVHD: ThS. Nguyễn Dụng Tuấn

nước ta tăng nhanh, chiếm 42% tổng dư nợ cho vay nền kinh tế, chủ yếu tập
trung đầu tư cho các công trình thực hiện theo kế hoạch nhà nước. Việc sử dụng
một phần vốn vay ngắn hạn để cho vay trung,dài hạn là cần thiết, đáp ứng một
phần nhu cầu vốn đầu tư trong nền kinh tế nhưng tỷ lệ sử dụng vốn ngắn hạn để
cho vay trung dài hạn phải được tính toán cân nhắc thận trọng, bảo đảm khả
năng thanh toán,an toàn hoạt động của từng ngân hàng cũng như của toàn hệ
thống
Thứ ba: Việc xử lý mối quan hệ giữa lãi suất và tỷ giá hối đoái .Các công
cụ điều hành CSTT chưa được hoàn chỉnh theo cơ chế thị trường và còn ở dạng
sơ khai, yêu cầu kiện toàn chính sách lãi suất trong mối tương quan chế độ tỷ giá
hối đoái thích hợp vẫn chưa được xử lý tốt.
Việc quy định “trần” lãi suất đã và đang gây trở ngại cho mở rộng tín
dụng một cách tích cực.Vẫn còn nhiều mức lãi suất “trần” và mặt bằng lãi suất
chung chưa phản ánh linh hoạt quan hệ cung cầu vốn của nền kinh tế,chưa bao
quát đủ mức rủi ro tiền tệ thông thường. Lãi suất cho vay cuối cùng còn cao,kinh
doanh của hầu hết các NHTM bị gò bó, thiếu chủ động tự chủ. Nguồn vốn tín
dụng còn hạn hẹp, mất cân đối cơ cấu với việc sử dụng, cho vay còn rải mảnh,
phân tán dẫn đến hiệu quả thấp.
Hoạt động của thị trường tiền tệ liên ngân hàng chưa phát triển sôi động,
chưa trở thành giao điểm hội đủ và định hướng chuyển dịch các dòng vốn nhàn
rỗi giữa các NHTM. Chưa có những điều kiện căn bản để từng bước tự do hoá
lãi suất và thả nổi tỷ giá hối đoái. NHNN chưa thực sự là người cho vay cuối
cùng của nền kinh tế, các giao dịch ngoại tệ chính thức bị gò bó, chi phối chưa
mạnh và kịp thời với biến động tỷ giá hối đoái thị trường.
Thứ tư: Mặc dù chính phủ đã thực hiện nhiều giải pháp để tăng cường

quản lý,kiểm soát hoạt động ngân hàng, xử lý nợ quá hạn nhưng chất lượng tín
dụng vẫn ở mức thấp. Việc nâng cao chất lượng và hiệu quả tín dụng có ý nghĩa
sống còn trong cạnh tranh,trong việc củng cố và phát triển hệ thống ngân hàng,
không ngừng nâng cao vai trò của nó trong việc góp phần thực hiện các mục tiêu
kinh tế-xã hội.
SVTH: Trịnh Thị Hằng Vân - Lớp CDTN13TH

21


Chuyên đề môn học

GVHD: ThS. Nguyễn Dụng Tuấn

Đến ngày 31/12/1998, tổng dư nợ quá hạn chiếm 12,5% tổng dư nợ cho
vay, trong đó nợ quá hạn của một số NHTM cổ phần chiếm tỷ lệ cao có nguy cơ
gây mất an toàn trong hệ thống ngân hàng và tác động xấu đến đời sống kinh tếxã hội.
Mặt khác, sự thâm hụt lớn của cán cân vãng lai do nhập siêu triền miên và
gánh nặng nợ nước ngoài chồng chất như: bội chi ngân sách còn cao luôn tạo ra
những áp lực từ nhiều phía đe doạ tính ổn định,độc lập tương đối của CSTT mà
bước đầu đã tạo dựng được ở giai đoạn chống lạm phát trước đây. Thâm hụt cán
cân vãng lai chủ yếu phải bù đắp bằng “nhập khẩu” vốn là nguyên nhân chính
gây ra nạn “đô la hoá” khiến VND bị định giá quá cao, kích thích tâm lý tích trữ
giá trị dưới dạng ngoại tệ,không gian tiền tệ bị méo mó.
Trong khi đó, sự nôn nóng uốn nắn một cách cứng nhắc hoạt động tiền tệ,
tín dụng và ngân hàng sau một số vụ đổ vỡ tài chính làm tái phát xu hướng bao
cấp tràn lan qua hạn mức tín dụng, qua lãi suất ưu đãi. Đó là những trở ngại
không dễ dỡ bỏ trong quá ttrình hoàn thành CSTT hiện nay.
Thứ năm: Quá ttrình thực thi CSTT còn thiếu sự kết hợp giữa hệ thống
ngân hàng và các cơ quan hữu quan khác. Là một bộ phận quan trọng của hệ

thống chính sách kinh tế vĩ mô, CSTT có liên quan trực tiếp tới nhiều biến số
kinh tế thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau. Điều đó đòi hỏi phải có sự kết hợp chặt
chẽ giữa hệ thống ngân hàng với cơ quan hữu quan khác trong quá trình hoạch
định và thực thi CSTT .
Ở Việt nam,quá trình thực thi CSTT những năm vừa qua của hệ thống
ngân hàng vẫn còn thiếu sự hợp tác của các cơ quan hữu quan hay các bộ, ngành
liên quan. Chính điều này đã phần nào hạn chế hiệu lực của CSTT đối với quá
trình điều tiết kinh tế vĩ mô.
Để có thể thiết kế CSTT một cách khoa học và phù hợp với điều kiện thực
tế, trước hết các số liệu thông tin về tình hình kinh tế của đất nước phải được
cung cấp đầy đủ, kịp thời và chính xác. Ở Việt nam, các số liệu mà các ngành,
các cơ quan cung cấp thiếu thống nhất và nhiều khi chưa chính xác, đặc biệt là
những số liệu phục vụ cho việc lập và dự báo cán cân thanh toán quốc tế.
SVTH: Trịnh Thị Hằng Vân - Lớp CDTN13TH

22


Chuyên đề môn học

GVHD: ThS. Nguyễn Dụng Tuấn

Những năm vừa qua, nguồn vốn tín dụng cung cấp cho nền kinh tế của hệ
thống ngân hàng còn bị thất thoát nhiều. Một phần do thiếu sót chủ quan của
ngành ngân hàng, mặt khác do các bộ, ngành liên quan còn buông lỏng vai trò
quản lý nhà nước đối với hoạt động sản xuất kinh doanh cuả ngành mình.Ngoài
ra,cũng có trường hợp những văn bản điều hành hoạt động tiền tệ tín dụng của
ngân hàng và những văn bản khác của các bộ, ngành có liên quan có những sự
chồng chéo,mâu thuẫn tạo ra những lực cản vô hình đối với quá trình thực thi
CSTT những năm vừa qua.

Những tồn tại trong quá trình điều hành chính sách tiền tệ:
Trong quá trình đổi mới kinh tế nói chung và chính sách tài chính tiền tệ
nói riêng, thu chi ngân sách của chính phủ Việt nam đã có những cải thiện đáng
kể. Tuy nhiên, thâm hụt ngân sách vẫn triền miên và ở mức cao. Nguồn bù đắp
thiếu hụt ngân sách từ việc vay dân rất hạn chế. Phần còn lại, chính phủ phải vay
từ nước ngoài và vay từ NHNN Việt nam.
Vì NHNN là thành viên của chính phủ nên NHNN không thể trực tiếp
trình dự án CSTT quốc gia trước Quốc hội mà phải thông qua chính phủ.
Chưa thực sự chủ động trong thực thi CSTT Định kỳ lượng tiền bổ sung
cho lưu thông hàng năm đều đã được chính phủ chỉ định để chi cho các mục tiêu
cụ thể vì vậy NHNN khó có thể chủ động trong việc sử dụng công cụ này để
điều tiết lượng tiền trong lưu thông. Còn khá nhiều cơ quan, tổ chức tham gia
chỉ đạo, giám sát xây dựng và thực hiện CSTT.
Trong những năm qua, căn bệnh giảm phát đã tăng mạnh. Từ đầu năm
1999 với triệu chứng rõ nhất là sức mua nội địa giảm sút, hàng hoá tồn đọng lớn,
xuất khẩu tăng chậm lại,chỉ số giá cả xuống rất thấp (suốt 9 tháng đầu năm 1999
chỉ tăng 0,2%) trong lúc tăng trởng kinh tế giảm mạnh, đang đặt ra những thử
thách lớn cho việc tìm đối sách đồng bộ, hữu hiệu để khắc phục những khó khăn
nội tại và đối phó với ảnh hưởng khủng hoảng từ bên ngoài dội vào.
Ngoài ra quá ttrình thực thi CSTT của hệ thống ngân hàng đôi khi còn
thiếu tính tự chủ. Là cơ quan của chính phủ đóng tại các địa phương, các ngân
hàng phần nào đó phải chịu sự giám sát của cơ quan chính quyền địa phương.
SVTH: Trịnh Thị Hằng Vân - Lớp CDTN13TH

23


×