Tải bản đầy đủ (.docx) (116 trang)

Nghiên cứu chất lượng sống bệnh nhân động kinh ở người lớn tại thành phố đà nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (710.82 KB, 116 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Động kinh là một bệnh mạn tính, chiếm tỉ lệ 0,5 % - 2 % dân số [1], [4],
[16], [43], [28]. Bệnh động kinh có thể ảnh hưởng sâu sắc đến hoạt động xã hội,
tâm thần và cơ thể của bệnh nhân và sự ảnh hưởng này có thể nặng nề hơn bất cứ
một tình trạng mạn tính nào [33].
Trong nhiều năm qua việc điều trị, quản lý và chăm sóc bệnh nhân động
kinh ở nước ta nói chung và tại Bệnh viện Tâm thần Đà Nẵng nói riêng chỉ dừng
lại ở việc điều trị cắt cơn động kinh, uống thuốc điều trị ngoại trú để kiểm soát
cơn mà chưa chú ý nhiều đến chất lượng sống (CLS) cũng như các yếu tố ảnh
hưởng xấu đến chất lượng sống của bệnh nhân động kinh.
Trong điều trị động kinh, việc cắt cơn là chưa đủ, vấn đề quan trọng trong
công tác điều trị bệnh nhân động kinh là đánh giá chất lượng sống và phát hiện
các yếu tố ảnh hưởng xấu đến chất lượng sống để can thiệp nhằm nâng cao chất
lượng sống cho bệnh nhân [45].
Một số nước như Hoa Kỳ, Thái Lan, Trung Quốc, Iran, ... đã có nhiều
nghiên cứu về chất lượng sống của bệnh nhân động kinh cũng như các yếu tố
ảnh hưởng đến chất lượng sống bệnh nhân động kinh. Dựa trên những kết quả
thu được các nước này đã đề xuất các biện pháp chăm sóc, hỗ trợ nhằm nâng cao
chất lượng sống cho bệnh nhân động kinh [38], [45], [63], [80].
Trong nhiều năm qua, tại Việt Nam hầu như chưa có một đề tài nào nghiên
cứu một cách có hệ thống về chất lượng sống của bệnh nhân động kinh cũng như
các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng sống bệnh nhân động kinh, do đó chúng ta
không có cơ sở để đề xuất các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng sống cho
bệnh nhân động kinh.

1

1



2

Xuất phát từ thực tế này, chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài: “Nghiên cứu
chất lượng sống bệnh nhân động kinh ở người lớn tại thành phố Đà Nẵng”
với các mục tiêu:
1. Đánh giá thực trạng chất lượng sống bệnh nhân động kinh tại thành

phố Đà Nẵng.
2. Xác định các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng sống của bệnh nhân

động kinh.
3.

Đề xuất giải pháp nhằm nâng cao chất lượng sống cho bệnh nhân động

kinh tại thành phố Đà Nẵng.

2

2


3

Chương 1

TỔNG QUAN TÀI LIỆU
I. KIẾN THỨC CƠ BẢN VỀ ĐỘNG KINH
1. Định nghĩa động kinh

Động kinh là những cơn ngắn, định hình, đột khởi, có khuynh hướng chu
kỳ và tái phát do sự phóng điện đột ngột quá mức từ vỏ não hoặc qua vỏ não của
những nhóm nơ ron, gây rối loạn chức năng của hệ thần kinh trung ương
(TKTW) (cơn vận động, cảm giác, giác quan, thực vật,…), điện não đồ ghi được
các đợt sóng kịch phát [1], [5], [59].
2. Tỷ lệ bệnh nhân động kinh
Được ghi nhận là 0,5 % - 2 % dân số [5], [7], [16], [68]. Khoảng 45 triệu
người trên thế giới mắc bệnh động kinh [66].
Về giới, hầu hết các nghiên cứu (không phải toàn bộ) ở Châu Á nhận thấy
tỉ lệ nam bị động kinh cao hơn đôi chút so với nữ [66].
Về tỉ lệ các loại cơn, theo tài liệu nước ngoài thì ở người lớn động kinh
cục bộ hoặc những cơn liên quan đến cục bộ chiếm 55 - 60 %, cơn toàn thể tiên
phát chiếm 26 - 32 %, cơn động kinh không phân loại chiếm 8 - 17 %. Tổng hợp
các nghiên cứu ở các nước phát triển cho thấy cơn cục bộ phổ biến hơn cơn toàn
thể ở cả trẻ em và người lớn mặc dù ưu thế của động kinh cục bộ vẫn trội hơn ở
người lớn. Trên lâm sàng nhiều cơn biểu hiện toàn thể nhưng bản chất là cơn cục
bộ toàn thể hóa [4], [66].
3. Đặc điểm lâm sàng động kinh
a. Cơn cục bộ
Cơn động kinh cục bộ đơn thuần vận động (cơn Bravais – Jackson) do tổn
thương thùy trán lên (vận động) giật khu trú nửa người, lan từ phần này đến phần
khác gọi là hành trình Jackson tay – chân – mặt; lưỡi – mặt – tay; chân – mặt –
tay. Mất ý thức thường xảy ra khi lan lên mặt. Vị trí khởi đầu có giá trị định khu
3

3


4


tổn thương. Sau cơn có thể có liệt gọi là liệt Todd, liệt này sẽ thoái lui trong vài
giờ [5].
Cơn cục bộ cảm giác ít gặp hơn, có khi đi kèm cơn vận động.
Cơn Động kinh thực vật (Động kinh não trung gian). Có hoặc không mất ý
thức, đỏ bừng mặt và cổ, vã mồ hôi, có khi chỉ nửa người, sởn gai ốc, tim đập
chậm hoặc nhanh, đột ngột hạ huyết áp, nấc, ngáp, sốt, ớn lạnh, đau bụng…
Cơn cục bộ phức tạp (Động kinh thái dương, cơn tâm thần - vận động)
gồm các nhóm triệu chứng sau:
Các ảo giác: ngửi mùi khó chịu, vị khó chịu, nhìn thấy cảnh như xa lạ
(trong giấc mộng), cảm giác chưa nhìn thấy, sợ, lo âu, cười ép buộc…
Động tác tự động: cơn nhai, liếm miệng, tặc lưỡi, nuốt liên tục, làm các
động tác như lái xe, cởi khuy áo, quay đầu mắt từ từ, hát định hình, đi lang thang
sau cơn kèm trạng thái mộng mị và có động tác tự động nên dễ gây nguy hiểm
cho người khác bằng hành vi phạm pháp, gây án mạng, hiếp dâm, ăn cắp,…
Cơn cục bộ toàn bộ hóa: bắt đầu cục bộ, thường là vận động chuyển nhanh
sang cơn lớn, nếu không hỏi kỹ hay không quan sát kỹ thì khó phát hiện. Lúc
này cần dựa vào điện não đồ (kịch phát một ổ sau toàn bộ hóa ở tất cả các đạo
trình) hoặc sau cơn để lại dấu khu trú [5].
b. Cơn toàn thể
- Động kinh cơn lớn: trước khi xảy ra cơn có thể có triệu chứng báo trước như
đau đầu, đầy hơi, rầu rĩ, lạnh lùng ít giờ hoặc ít ngày. Triệu chứng báo trước
thường là bất thường cảm giác, vận động, co cứng cơ chi trên, các ảo giác, rối
loạn tâm thần nhưng chỉ kéo dài 1/10 giây. Cơn thực sự có 3 giai đoạn:
Giai đoạn co cứng: đột ngột ngã xuống bất tỉnh nên có thể gây thương
tích, các chi duỗi cứng, các ngón tay gấp, đầu ưỡn ngửa quay sang một bên, hàm
nghiến chặt và có thể cắn vào lưỡi, hai mắt trợn ngược, tím vì không thở được,
tiểu dầm hoặc đại tiện không tự chủ. Giai đoạn này kéo dài 10 -20 giây.
4

4



5

Giai đoạn giật: cơ thân và chi giật liên tiếp, ngắn, mạnh, có nhịp; hai mắt
giật ngang hoặc giật lên. Có thể cắn phải lưỡi, sùi bọt mép. Giai đoạn này dài 1 2 phút, ít khi quá 6 phút.
Giai đoạn duỗi: hôn mê, các cơ doãi ra, phản xạ gân xương giảm, có thể
có Babinski, thở bù lại mạnh, nhanh, ồn ào, thở ngáy sau vài phút tỉnh lại, không
nhớ những gì đã xảy ra. Giai đoạn này kéo dài 5 – 10 phút.
Loại cơn này xuất hiện đầu tiên vào lứa tuổi 10 – 20 (80 % các trường
hợp), nếu ít cơn thì đáp ứng tốt với điều trị.
Động kinh cơn bé (cơn vắng ý thức): gồm nhiều loại nhưng chung một số
đặc điểm là thường gặp ở trẻ em, các cơn ngắn từ 1/10 – 10 giây, nhiều cơn trong
ngày. Thường đột ngột mất ý thức hoàn toàn nên bất động, rơi chén đũa khi ăn,
ngừng công việc,… Có thể không hoặc mất trương lực, giật cứng cơ… đó là cơn
vắng phức tạp. Tuổi thường gặp 3 – 12 tuổi, tiến triển có 3 khả năng:
- Hết cơn.
- Tiếp tục duy trì cơn (6 %).
- Xuất hiện cơn co cứng giật cơ (40 %): thường 6 năm sau cơn vắng ý thức. Nếu
cơn vắng ý thức đầu tiên sau 7 tuổi thường đáp ứng kém với điều trị, dễ bị kích
thích bởi ánh sáng, cũng thường cách ly với xã hội nên tiên lượng xấu.
- Hội chứng West: gặp ở trẻ 4 – 7 tháng tuổi. Có ba dấu hiệu chính sau:
+ Co cứng, gấp cổ, chi, thân mình.
+ Rối loạn tính tình và tác phong.
+ Điện não đồ có loạn nhịp biên độ cao của các nhọn.
+ Loại này tiên lượng xấu vì gây đần độn.
- Hội chứng Lennox – Gastaut: gặp ở trẻ từ 2 – 6 tuổi với tam chứng vắng ý thức
không điển hình, cơn cứng, mất trương lực. Suy sụp tâm thần vận động. Điện
não đồ có nhọn – sóng chậm lan tỏa. Tiên lượng xấu [5].


5

5


6

4. Cận lâm sàng
a. Điện não đồ
Giúp xác định động kinh, loại cơn, vị trí động kinh. Tuy nhiên điện não đồ
bình thường không loại được động kinh, ngược lại 10 – 15 % người bình thường
có bất thường điện não không bao giờ lên cơn [5].
b. Các xét nghiệm khác
Tìm nguyên nhân như chụp phim sọ, chụp động mạch não, glucoza máu,
điện giải đồ, dịch não tủy, chụp cắt lớp vi tính, cộng hưởng từ não,…
5. Phân loại động kinh
Năm 1981 Liên đoàn chống động kinh quốc tế (ILAE) đã đưa ra bảng
phân loại động kinh và cách phân loại này được sử dụng rộng rãi cho đến nay
Bảng 1.1: Phân loại năm 1981 của ILAE
I Các cơn cục bộ
A Các cơn cục bộ đơn giản (không có rối loạn ý thức)
1 Với các triệu chứng vận động
2 Với các triệu chứng cảm giác hay giác quan
3 Với các triệu chứng thực vật
4 Với các triệu chứng tâm thần
B Các cơn cục bộ phức tạp (có rối loạn ý thức)
1 Khởi phát cục bộ đơn giản, tiếp theo sau là rối loạn ý thức
2 Có rối loạn ý thức ngay lúc khởi phát
C Cơn cục bộ đơn giản hay cơn cục bộ phức tạp diễn tiến
thành cơn toàn thể hóa thứ phát

II Cơn toàn thể nguyên phát
A Cơn vắng ý thức (cơn bé)
B Cơn giật cơ
C Cơn co giật
D Cơn co cứng
E Cơn mất trương lực
F Cơn co cứng – co giật
III Cơn không phân loại vì không phù hợp hai nhóm trên do thiếu dữ
kiện để phân loại
6

6


7

6. Các thể động kinh thường gặp ở Việt Nam
Thể lâm sàng động kinh thường gặp nhất là cơn co cứng - co giật (cơn lớn)
chiếm khoảng 81 đến 86,1 % .
Động kinh cục bộ từ 3 đến 72 % [5].
7. Các phương pháp điều trị động kinh
a. Hóa liệu pháp
Bắt đầu phát triển từ năm 1938 khi Merritt và Putnam phát hiện ra
phenytoin [66]. Thời gian sau đó nhiều thế hệ thuốc chống động kinh mới ra đời
với nhiều ưu điểm so với các thuốc thế hệ trước, ví dụ: valproic acid,
carbamazepine,lamotrigine,topiramate,oxcarbazepine, vigabatrine, felbamate,….
Trong điều trị động kinh hóa liệu pháp nhằm mục đích chính sau: kiểm
soát hoàn toàn cơn co giật, giảm mức độ nghiêm trọng của cơn động kinh, tránh
tác dụng phụ, giảm tỉ lệ tử vong, tránh tương tác thuốc, nâng cao CLS bệnh nhân
động kinh.

b. Phẫu thuật
Các bằng chứng khảo cổ học cho thấy một số nền văn minh cổ đã thực
hiện khoan xương sọ để cắt bỏ mô bệnh (epileptogenic(bad) tissue) trong não.
Phẫu thuật chữa động kinh thực sự phát triển cuối thế kỷ 19 nhờ công trình
nghiên cứu của Victor Horsley, Bệnh viện Quốc gia, Luân Đôn. Ông đã tiến hành
nghiên cứu trên 100 con khỉ, dùng kích thích điện để xác định và vẽ bản đồ các
vùng chức năng và các đường dẫn truyền thần kinh trong não. Trên cơ sở các
nghiên cứu này, đến cuối năm 1886 ông đã tiến hành 10 ca phẫu thuật chữa bệnh
động kinh, trong đó 9 ca được đánh giá là rất thành công [66]. Tiếp theo Victor
Horsley nhiều tác giả khác đã thực hiện và tiếp tục nghiên cứu phẫu thuật chữa
động kinh cho đến nay.

7

7


8

Ngày nay phẫu thuật được chỉ định chủ yếu cho các thể động kinh sau:
động kinh cục bộ không có tổn thương lan rộng, động kinh cục bộ toàn bộ hóa,
động kinh do dị dạng mạch ở nông, động kinh do u não [5].
c. Điều trị các rối loạn tâm thần kết hợp
Trầm cảm, lo âu, loạn thần, kích động… Nguyên tắc là sử dụng các loại
thuốc ít có khả năng kích hoạt cơn động kinh. Để điều trị Trầm cảm có thể dùng
sertraline, venlafaxine. Điều trị lo âu có thể dùng các benzodiazepine, buspirone.
Điều trị loạn thần có thể dùng olanzapine, haloperidol. Riêng với trầm cảm và lo
âu có thể kết hợp điều trị bằng liệu pháp tâm lý [6].
d. Phục hồi chức năng tâm lý xã hội dựa vào cộng đồng.
e. Chế độ làm việc, nghỉ ngơi

Tránh làm việc trên cao, dưới nước, gần lửa, lái xe, tránh làm việc lâu
ngoài nắng, không làm việc có ánh sáng chói lòe như hàn…
f. Chế độ tiết thực tạo Keton
Ăn nhiều mỡ, ít hydrat carbon và protein.
Tuy nhiên, ở thời điểm hiện tại vẫn có 80 % bệnh nhân động kinh hoặc
không được điều trị đúng cách hoặc không được điều trị, hầu hết số bệnh nhân
này ở các nước có nguồn lực nghèo [66].
8. Tình hình quản lý và điều trị bệnh động kinh ở Việt Nam
Việt Nam chưa có một nghiên cứu trên quy mô toàn quốc về tỉ lệ và số
bệnh nhân động kinh, do vậy dựa vào tỉ lệ chung của các nghiên cứu đã có thì
với dân số 80 triệu người nước ta có khoảng 800.000 bệnh nhân động kinh.
Để thuận tiện cho công tác quản lý và chăm sóc bệnh nhân động kinh,
ngành Tâm thần Trung ương đã lồng ghép bệnh động kinh vào Chương trình
mục tiêu quốc gia chăm sóc sức khỏe ban đầu. Theo đó có một hệ thống để phát
hiện, điều trị, theo dõi và quản lý bệnh nhân động kinh. Hệ thống này được nhà

8

8


9

nước cấp kinh phí hoạt động do vậy các bệnh nhân động kinh được hưởng nhiều
ưu đãi trong quá trình điều trị chăm sóc. Mô hình này theo từng cấp như sau:
Bảng 1.2: Quản lý điều trị động kinh ở Việt Nam
Cấp

Cơ quan chịu trách nhiệm
Bệnh viện tâm thần trung ương

Bệnh viện tâm thần tỉnh/ thành phố

Trung ương
Tỉnh/ thành phố trực thuộc trung ương

hoặc Trung tâm phòng chống bệnh xã
Quận/ huyện

hội
Phòng khám tâm thần trực thuộc

Xã/ phường

Trung tâm y tế quận/ huyện
Cán bộ chuyên trách tâm thần
Cộng tác viên

Tại Đà Nẵng, Bệnh viện Tâm thần thành phố Đà Nẵng quản lý và điều trị
ngoại trú cho khoảng 1700 bệnh nhân động kinh (tính đến thời điểm 12/2011).
Những bệnh nhân này được chẩn đoán xác định bệnh bởi các bác sĩ chuyên khoa
tâm thần/ thần kinh, sau đó được lập hồ sơ bệnh án và chuyển về quản lý, điều trị
ngoại trú tại các trạm y tế xã/ phường. Những bệnh nhân này được nhận thuốc
điều trị ngoại trú tại trạm y tế và được khám, kiểm tra định kỳ bởi các bác sĩ
chuyên khoa tâm thần của bệnh viện.
II. CHẤT LƯỢNG SỐNG CỦA BỆNH NHÂN ĐỘNG KINH
1. Chất lượng sống là gì?
Trước đây nhiệm vụ của ngành y là làm sao để cứu được mạng sống của
bệnh nhân. Với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, nhiệm vụ này dần dần được
thực hiện một cách tốt đẹp. Nhưng bên cạnh đó tỉ lệ các bệnh mạn tính ngày
càng tăng, lúc này không còn đặt nặng vấn đề sống còn của bệnh nhân mà là vấn

đề khác, đó là sau khi điều trị bệnh nhân có thể có cuộc sống như thế nào?
Chính từ thực tiễn nêu trên mà các nhà khoa học y học trên thế giới đã
thống nhất đưa ra khái niệm CLS.
9

9


10

Có nhiều định nghĩa về CLS [34], nhưng hầu hết các tác giả trên thế giới
đều thống nhất rằng thuật ngữ CLS (quality of life) được sử dụng để đánh giá
cảm giác dễ chịu chung (general well – being) của các cá nhân và xã hội. Thuật
ngữ được sử dụng trong một bối cảnh rộng lớn, bao gồm các lãnh vực phát triển
quốc tế, chăm sóc sức khỏe, và khoa học xã hội. CLS phải không được nhầm lẫn
với khái niệm chuẩn cuộc sống (standard living), một khái niệm chỉ dựa chủ yếu
trên thu nhập. Thay vào đó, những chỉ định chuẩn của chất lượng sống bao gồm
không chỉ sức khỏe và công việc mà còn là xây dựng môi trường, sức khỏe tinh
thần và thể lực, giáo dục, thời gian nghỉ ngơi và giải trí, và sự hòa hợp xã hội
(social belonging).
CLS cũng liên quan đến các khái niệm như tự do, nhân quyền, và hạnh
phúc. Tuy nhiên, vì hạnh phúc mang tính chủ quan và khó đánh giá, do vậy các
tiêu chí khác thường được ưu tiên đánh giá. Thông qua nhiều khảo sát người ta
nhận thấy rằng hạnh phúc thì không nhất thiết tăng lên tỉ lệ với sự dễ chịu mang
lại từ sự tăng thu nhập. Do vậy, chuẩn cuộc sống không nên được xem như
phương tiện đánh giá hạnh phúc.
- Các lĩnh vực đánh giá CLS:
Tùy theo phạm vi, lãnh vực cần đánh giá mà các tổ chức, các chuyên gia
sẽ có những tiêu chí khác nhau đánh giá CLS. Ví dụ: để nghiên cứu CLS của các
quốc gia, Chương trình phát triển của Liên hợp quốc sử dụng chỉ số phát triển

con người (Human Development Index: HDI). HDI được tính dựa vào các lãnh
vực sau: tuổi thọ trung bình, tỉ lệ biết chữ ở người lớn và tỉ lệ nhập học chung
trong giáo dục, và thu nhập. HDI không tính các chỉ số quan trọng khác là bình
đẳng giới, tôn trọng nhân quyền. Ngày 09/11/2011 Liên hiệp quốc (LHQ) đã
thông báo trên toàn cầu về “Báo cáo phát triển con người 2011 ”, theo đó về
HDI, Việt Nam đứng thứ 128/187 nước được khảo sát.
- Ngoài ra còn các chỉ số khác được sử dụng là:
10

10


11

+ Chỉ số chất lượng sống thể lực (Physical Quality of Life Index: PQLI):
là một đánh giá được phát triển bởi nhà xã hội học David Morris trong những
năm 1970 dựa trên cơ sở văn hóa, tử vong trẻ em và kỳ vọng cuộc sống (life
expectancy).
+ Chỉ số hành tinh hạnh phúc (Happy Planet Index): Được giới thiệu năm
2006, là duy nhất các đánh giá CLS trong đó thêm vào yếu tố quyết định chuẩn
của sự dễ chịu.
- Các yếu tố ảnh hưởng đến CLS: Xét chung trên bình diện quốc gia thì các yếu
tố ảnh hưởng đến CLS gồm có:
+ Nhóm chỉ tiêu kinh tế: thu nhập bình quân đầu người.
+ Nhóm yếu tố xã hội: việc làm, nghèo đói, giáo dục, sức khỏe, nhà ở.
+ Nhóm yếu tố môi trường: chất lượng không khí, chất lượng nước, mức
độ phát triển của giao thông,…
Tùy theo mức độ phát triển và sự ưu tiên riêng mà mỗi quốc gia đặt ra các
yếu tố riêng cho mình.
Theo các nhà nghiên cứu ở Đơn vị nghiên cứu CLS của Viện Đại học

Toronto: CLS là “mức độ mà một người hưởng thụ (enjoy) những gì quan trọng
trong cuộc sống của họ”. Mô hình CLS mà các nhà nghiên cứu này xây dựng
dựa trên những khái niệm như “hiện diện” (being), “thuộc về” (belonging), và
“sẽ trở nên” (becoming).
Ví dụ: đối với một người cụ thể thì CLS của họ phụ thuộc các yếu tố như:
người đó là ai (being), làm sao người đó liên kết với môi trường xung quanh họ
(belonging), và liệu người đó có đạt được những mục tiêu cá nhân (becoming),
những hy vọng và những khát vọng của mình hay không.
Theo Tổ chức y tế thế giới: Năm 1998 Tổ chức y tế thế giới định nghĩa CLS
là “Nhận thức của mỗi cá nhân về vị trí của mình trong cuộc sống, phù hợp với
bối cảnh văn hóa và hệ thống giá trị mà cá nhân đó đang sống cũng như trong
11

11


12

mối quan hệ đối với những thước đo, những mục đích, những kỳ vọng và các
mối quan hệ xã hội” [67], [72].
Định nghĩa này phản ảnh quan điểm rằng CLS hướng tới một đánh giá chủ
quan, nó cũng bao gồm bối cảnh các yếu tố văn hóa, xã hội và môi trường. Vì
định nghĩa này đánh giá CLS thông qua cảm giác chủ quan hoặc nhận thức do đó
không cần đánh giá bệnh tật, mất khả năng (disability) hoặc các tình trạng khác.
Vì có nhiều định nghĩa về CLS và phạm vi đánh giá CLS cũng rất thay đổi
tùy theo mỗi quốc gia, tổ chức,… do vậy trong nghiên cứu này chúng tôi sử dụng
định nghĩa CLS của Tổ chức y tế thế giới.
2. Chất lượng sống của bệnh nhân động kinh
Trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe, CLS thường được xem như một thuật
ngữ nói về việc bệnh tật ảnh hưởng tiêu cực như thế nào đối với một cá nhân.

Động kinh là một bệnh lý não mãn tính được đặc trưng bởi những cơn lập
đi lập lại, thay đổi về tần số, cường độ và tiên lượng [4]. Động kinh là nguyên
nhân gây ra những vấn đề sức khỏe và các vấn đề tâm lý xã hội đối với bản thân
bệnh nhân động kinh và người nhà của bệnh nhân động kinh [26], [33], [78].
Chất lượng sống liên quan đến sức khỏe (HRQOL) là thuật ngữ hướng đến
cách thức mà trong đó chức năng của mỗi cá nhân và cảm nhận sự dễ chịu của
họ về các mặt của đời sống như thể lực, tinh thần và xã hội. Ở bệnh nhân động
kinh, chất lượng sống liên quan đến sức khỏe được dựa chủ yếu trên các chức
năng cảm xúc và xã hội và các biến liên quan đến bệnh [10].
Do vậy đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến Chất lượng sống liên quan đến
sức khỏe của bệnh nhân động kinh trở nên cần thiết vì chức năng và cảm nhận dễ
chịu là mục tiêu quan trọng.
Chất lượng sống tốt nhất là mục đích chính của điều trị động kinh [45].

12

12


13

Các yếu tố ảnh hưởng CLS của bệnh nhân động kinh: Theo các nghiên
cứu đã được làm ở các nước như Hoa Kỳ, Thái Lan, Iran, Trung Quốc thì những
yếu tố ảnh hưởng tới CLS bệnh nhân động kinh là:
- Trầm cảm và lo âu [45].
- Tác dụng phụ của thuốc chống động kinh [36], [60], [63].
- Tần số cơn động kinh [80].
- Đơn trị liệu hoặc đa trị liệu [63].
- Chức năng nhận thức [9].
- Chức năng xã hội [9].

3. Các công cụ đánh giá CLS của bệnh nhân động kinh
Có nhiều bộ công cụ được xây dựng một cách kỹ càng và được sử dụng
rộng rãi để đánh giá CLS bệnh nhân động kinh và đánh giá các yếu tố nguy cơ
gây giảm CLS ở bệnh nhân động kinh.
Ngày nay, bệnh nhân tự đánh giá tình trạng sức khỏe của họ thông qua
việc sử dụng bảng câu hỏi chuẩn được xem như là cơ sở cho việc đánh giá CLS
[29]. Cần nhấn mạnh một điểm là bệnh nhân phải tự điền vào phiếu đánh giá vì
câu trả lời tốt nhất là của bệnh nhân chứ không phải của điều tra viên [71].
Có nhiều nghiên cứu đánh giá CLS của bệnh nhân động kinh ở nhiều quốc
gia khác nhau. Các nghiên cứu cho thấy có nhiều nét giống nhau ở những bệnh
nhân này, nhưng cũng có nhiều sự khác biệt giữa các quốc gia. Các bảng câu hỏi
CLS phân tích nhiều chức năng hằng ngày, nó lệ thuộc vào văn hóa, chủng tộc
và sự khác biệt kinh tế của từng quốc gia.
Để đánh giá CLS bệnh nhân động kinh, các nhà nghiên cứu có thể dùng
các bộ đánh giá sau:
- Điều tra CLS bệnh nhân động kinh ở thanh thiếu niên (Quality of Life in
Epilepsy Inventory for Adolescents: QOLIE – AD – 48);

13

13


14

- Điều tra CLS bệnh nhân động kinh - 89 (Quality of Life in Epilepsy
Inventory – 89: QOLIE – 89);
- Điều tra CLS bệnh nhân động kinh - 31 (Quality of Life in Epilepsy
Inventory – 31: QOLIE – 31);
- Điều tra CLS bệnh nhân động kinh - 10 (Quality of Life in Epilepsy

Inventory – 10: QOLIE – 10);
- CLS liên quan đến sức khỏe Liverpool (Liverpool Health Related
Quality of Life Battery: Liverpool HRQOL)
- Đánh giá phẫu thuật động kinh (Epilepsy Surgery Inventoy: ESI – 55).
Trong các thang điểm thì QOLIE – 31 có độ ổn định, độ tin cậy cao và
được nhiều nhóm nghiên cứu sử dụng.
4. Các nghiên cứu của thế giới về CLS của bệnh nhân động kinh
Tất cả các bằng chứng có sẵn đều gợi ý rằng bệnh động kinh ảnh hưởng
tiêu cực và thỉnh thoảng tác động mạnh đến CLS [18].
Nghiên cứu CLS của 90 bệnh nhân động kinh ở độ tuổi từ 15 – 50, được
khám và điều trị tại Bệnh viện Songklanagarind ở Miền nam Thái Lan được tiến
hành từ tháng 9 năm 2005 đến tháng 1 năm 2007 cho thấy: lo âu và trầm cảm là
những yếu tố ảnh hưởng làm giảm CLS bệnh nhân động kinh. Các yếu tố như
tuổi, giới, trình độ văn hóa, bảo hiểm y tế, nghề nghiệp, tình trạng hôn nhân và
thuốc không ảnh hưởng đến CLS. Khi phân tích các thang điểm nhỏ hơn thì nhận
thấy tần số cơn động kinh kết hợp với lo lắng cơn động kinh; nghề nghiệp với
năng lượng/ mệt mỏi; lo âu với tất cả các thang điểm nhỏ của QOLIE - 31; trầm
cảm với cảm giác dễ chịu, điểm CLS tổng thể, năng lượng/ mệt mỏi và chức
năng nhận thức, chức năng xã hội; cuối cùng là bảo hiểm y tế với ảnh hưởng của
thuốc [45].
Nghiên cứu CLS của 200 bệnh nhân động kinh tại thành phố Tehran (Iran)
năm 2007 (sử dụng Bảng câu hỏi điều tra SF - 36) cho thấy bệnh nhân có điểm
14

14


15

thấp trên tất cả các thang điểm nhỏ của Bảng câu hỏi điều tra SF - 36, điểm thấp

hơn có ý nghĩa so với điểm CLS của dân số chung. Sức khỏe tâm thần và sinh
lực (vitality) bị ảnh hưởng nhiều nhất bởi bệnh và chức năng thể lực bị ảnh
hưởng ít nhất. Tuổi, tình trạng hôn nhân, số cơn, dạng cơn động kinh và thời gian
bệnh không ảnh hưởng đến CLS; nhưng giới tính, trình độ học vấn, nghề nghiệp
và thu nhập ảnh hưởng đến CLS. Những yếu tố lâm sàng ảnh hưởng có ý nghĩa
đến CLS là: số lượng thuốc sử dụng, số tác dụng phụ của thuốc, tần số cơn co
giật, và thời gian tính từ cơn động kinh gần nhất [63].
Nghiên cứu CLS của 37 bệnh nhân động kinh ở Khu tự trị Tây Tạng
(Trung Quốc) năm 2007 cho thấy điểm trung bình CLS tổng thể của QOLIE – 31
câu là 42,2 (SD 17,6) với điểm Lo cơn động kinh là thấp nhất 22,6 (SD 20,3) và
điểm Ảnh hưởng của thuốc là cao nhất 85,8 (SD 18,6). Cơn động kinh dày, thu
nhập thấp, tuổi cao, bệnh động kinh khởi phát muộn, và học vấn cao có tương
quan ý nghĩa với điểm tổng thể của QOLIE – 31 và/ hoặc các thang điểm nhỏ
hơn [80].
Nghiên cứu CLS của 65 bệnh nhân động kinh ở độ tuổi từ 65 trở lên tại
thành phố Kansas (Hoa Kỳ) năm 2007 cho thấy CLS bệnh nhân động kinh lớn
tuổi không khác với CLS bệnh nhân động kinh nói chung. Tuy nhiên, khi so sánh
với quần thể dân số chung không bị động kinh thì những người già bị bệnh động
kinh bị giảm rõ rệt CLS liên quan tới sức khỏe trên tất cả các lãnh vực. Nhiều
yếu tố đặc trưng ở người già ảnh hưởng đến CLS liên quan đến sức khỏe của
bệnh nhân động kinh lớn tuổi như: tuổi tác, các bệnh lý kết hợp, và các biến liên
quan đến động kinh. Tác dụng phụ của thuốc chống động kinh và trầm cảm có
thể gián tiếp ảnh hưởng đến CLS bệnh nhân động kinh [38].
Nghiên cứu tại Tehran (Iran) công bố năm 2008 cho thấy tần số cơn và
thời gian tính từ cơn gần nhất ảnh hưởng đến CLS bệnh nhân động kinh [35].

15

15



16

Nghiên cứu tại Tây Tạng 2007 cho thấy tần số cơn cao có tác dụng xấu rõ rệt lên
QOLIE – 31 [80].
Thuốc chống động kinh gây ra những thay đổi lớn trong sự kích hoạt hệ
TKTW và dẫn đến những thiếu sót trong nhận thức và hành vi [70]. Loại thuốc
đang sử dụng không ảnh hưởng đến CLS nhưng đơn trị liệu làm cải thiện CLS.
Đa trị liệu làm tăng tác dụng phụ và ảnh hưởng tiêu cực đến CLS [38].
III. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CHẤT LƯỢNG SỐNG CỦA BỆNH
NHÂN ĐỘNG KINH
1. Trầm cảm và lo âu
a. Lịch sử nghiên cứu và dịch tễ học trầm cảm, lo âu ở bệnh nhân động kinh
Bệnh nhân động kinh có tỉ lệ hiện mắc cao các rối loạn tâm thần kết hợp
so với quần thể dân số bình thường [19], [61].
Trong các rối loạn tâm thần kết hợp thì trầm cảm là rối loạn tâm thần kết
hợp thường gặp nhất ở bệnh nhân động kinh [79]. Khoảng năm 400 trước Công
nguyên, bộ sách y khoa Corpus đã viết “Melancholic ordinarily become
epileptics, and epileptics’ melancholics”, tạm dịch “Trầm cảm nặng thường gặp ở
những người bệnh động kinh, và gọi là những bệnh nhân động kinh bị trầm
cảm”. Thông qua phát biểu này chúng ta thấy ngay từ xa xưa y học đã nhấn
mạnh đến mối quan hệ giữa bệnh động kinh và trầm cảm.
Dịch tể học: những dự đoán tỉ lệ hiện mắc của trầm cảm ở bệnh nhân động
kinh rất thay đổi. Tỉ lệ hiện mắc cao nhất của trầm cảm là 50 -55 % ở những
bệnh nhân động kinh tại các phòng khám chuyên khoa [43] hoặc những đơn vị
có theo dõi qua video (videotelemetry units) [42]. Những nét này được dựa trên
những quần thể bao gồm những những người bị động kinh nặng, nhưng một số
nghiên cứu cộng đồng thì cho gợi ý rằng tỉ lệ lưu hành ở cộng đồng thì không
đặc trưng: 20 – 30 % ở những người có cơn động kinh tái diễn và 6 – 9 % ở
những người ổn định được phát hiện bị trầm cảm.

16

16


17

Một tổng kết khác của Hrvoje Hecimovie và cộng sự cho thấy những
nghiên cứu dịch tễ học gần đây nhất xác nhận 10 – 20 % bệnh nhân kiểm soát tốt
cơn động kinh bị trầm cảm và 20 – 60 % bệnh nhân động kinh có cơn tái diễn bị
trầm cảm [37].
Tháng 5 năm 2007 tác giả Stefan Beyenburg và các đồng nghiệp đã đăng
một bài báo trên tạp chí Epilepsy and Behavior có tựa đề “Lo âu ở bệnh nhân
động kinh: Hệ thống hóa và gợi ý can thiệp lâm sàng”. Bài báo nhấn mạnh:
nhiều nghiên cứu lớn đã chỉ ra rằng tỉ lệ rối loạn khí sắc cao hơn ở bệnh nhân
động kinh so với các bệnh lý nội khoa mạn tính khác như đái đường và hen
suyễn. Hầu hết sự chú ý đều tập trung vào trầm cảm, mặc dù thực tế là lo âu có
thể phổ biến hơn và gây tàn phế tương đương (equally disabling) [69]. Đầu năm
1971, Currie và các cộng sự xác định 19 % tỉ lệ lưu hành của rối loạn lo âu so
với 11 % tỉ lệ lưu hành của rối loạn trầm cảm ở bệnh nhân động kinh thùy thái
dương. Nhiều nghiên cứu gần đây sử dụng bảng phỏng vấn chuẩn đối với mọi
thể của bệnh nhân động kinh cho kết quả tương tự: tỉ lệ lưu hành 1 năm của rối
loạn lo âu là 25 % và tỉ lệ này của rối loạn khí sắc là 19 %. Tuy nhiên, ở một số
phòng khám chuyên khoa tỉ lệ lưu hành của rối loạn lo âu có thể hơn 50 %.
Bàn về trầm cảm kết hợp với bệnh động kinh hai tác giả Marco Mula và
Bettina Schmitz đã viết trầm cảm và động kinh có một mối quan hệ hai chiều
[53]. Qua nhận định này hai tác giả muốn nhấn mạnh đến sự ảnh hưởng qua lại
giữa động kinh và trầm cảm, động kinh làm xuất hiện trầm cảm và trầm cảm làm
nặng nề thêm động kinh.
Cuốn sách hướng dẫn chẩn đoán bệnh tâm thần của Hội tâm thần học Hoa

Kỳ (DSM-IV) phân biệt 11 loại lo âu khác nhau [27], [30]. Không loại lo âu nào
mô tả nét đặc trưng (nếu có) của lo âu xảy ra ở người bị động kinh, một cách tiếp
cận đã thành công ở trầm cảm. Do vậy không rõ ràng nếu những công cụ chẩn
đoán lo âu hiện tại trình diễn một cách đầy đủ ở quần thể này (quần thể động
17

17


18

kinh). Hơn nữa, hầu hết các nghiên cứu đã không cân nhắc đến những nhóm nhỏ
(subtybe) của rối loạn lo âu hoặc thiết lập nên một mẫu (chăm sóc ban đầu hoặc
chăm sóc thứ phát). Tuy nhiên, những thang điểm tự bản thân đánh giá gợi ý tỉ lệ
tăng cao của lo âu, các cơn hoảng sợ, rối loạn hoảng sợ, rối loạn lo âu lan tỏa, và
các triệu chứng ám ảnh cưỡng bức ở bệnh nhân động kinh so với nhóm đối
chứng khỏe mạnh. Ít có thông tin về tỉ lệ lưu hành của các triệu chứng lo âu ở
cộng đồng dựa trên quần thể bệnh nhân bị động kinh. Trong một nghiên cứu lớn
dựa trên những chẩn đoán được ghi nhận của các cơ sở chăm sóc sức khỏe ban
đầu, tỉ lệ của các rối loạn lo âu là 11 % trong số 5834 người bị động kinh, so với
5,6 % trong số 83163 người không bị động kinh. Rối loạn ám ảnh cưỡng bức
hiếm gặp, hiện diện chỉ ở 0,4 % trường hợp, mặc dù rối loạn này hiện diện một
nguy cơ liên quan (relative risk) là 2,5.
Một nghiên cứu nhận thấy 50-60 % bệnh nhân động kinh có các rối loạn
khí sắc khác nhau trong đó có trầm cảm và lo âu, trầm cảm và lo âu có ảnh
hưởng sâu sắc đến CLS bệnh nhân động kinh [16].
Trong các yếu tố kết hợp, trầm cảm và lo âu dường như là phổ biến nhất.
Thực tế, thông qua các bảng tự đánh giá thì tỉ lệ lưu hành (prevalence) của trầm
cảm từ 23 – 26 %, tỉ lệ lưu hành của lo âu được ước tính giữa 15 và 20 % [15],
[19], [28].


18

18


19

b. Biểu hiện của trầm cảm và lo âu ở bệnh nhân động kinh
Năm 2005 hai tác giả M.J. Jackson và D. Turkington đã có bài đăng trên
tạp chí Neurosurgery Psychiatry về vấn đề trầm cảm và lo âu trên bệnh nhân
động kinh với nội dung như sau:
Trầm cảm: trầm cảm ở bệnh nhân động kinh có thể liên kết tạm thời với
cơn co giật, nhưng rối loạn phổ biến nhất là trầm cảm giữa các cơn động kinh
(inter – ictal) [50], [58]. Trong đề tài này chúng tôi chủ yếu nghiên cứu trầm cảm
giữa các cơn động kinh.
Thêm vào những triệu chứng của mất hứng thú (anhedonia), giảm ngon
miệng, giảm sinh lực, và rối loạn giấc ngủ, trầm cảm trong cơn hoặc loạn khí sắc
thường kết hợp hơn với kích động và các yếu tố loạn thần hoặc xung động tự làm
hại bản thân hơn là trầm cảm ở người không bị động kinh.
Trầm cảm trước cơn có thể xuất hiện nhiều giờ trước khi lên cơn: nếu
được xử trí một loại bezodiazepine hoạt tính ngắn như clobazam thì có thể ngăn
được cơn. Trầm cảm trong cơn thì hiếm, ít phổ biến hơn nhiều so với sợ trong
cơn hoặc lo âu, nhưng có thể nặng.
Có những số liệu chống lại nhau trên những yếu tố làm tăng nguy cơ trầm
cảm. Hầu hết nghiên cứu cho thấy rằng những cơn động kinh không kiểm soát
được thì phối hợp với tỉ lệ lưu hành cao hơn so với không có cơn, nhưng những
người bị động kinh thùy thái dương có nguy cơ cao hơn so với những người bị
động kinh toàn thể vô căn, điều này gợi ý rằng không chỉ có sự hiện diện của các
cơn động kinh hoặc các hậu quả xã hội của chẩn đoán động kinh mới bị đổ lỗi.

Trầm cảm ở người thân thế hệ đầu tiên cũng đã được xác định như một yếu tố
nguy cơ độc lập chỉ ra vai trò của di truyền. Ngược lại, trầm cảm có thể đi theo
sự thoái lui của động kinh hoặc ngay sau phẫu thuật chữa động kinh hoặc bắt đầu
của thuốc chống động kinh phát huy hiệu quả, như một phần của hiện tượng bình
thường hóa áp lực (forced normalisation) được mô tả đầu tiên bởi Landolt. Thực
19

19


20

ra, vài tháng đầu sau phẫu thuật chữa động kinh, thành công hay không, đã được
xác định như một giai đoạn gia tăng nguy cơ của các rối loạn tâm thần, vì lý do
này, điều cần thiết là những bệnh nhân sử dụng phẫu thuật để điều trị cần phải
được đánh giá bởi một bác sĩ tâm thần liên quan đến chương trình.
Một số nghiên cứu mới đây đã cố gắng tìm hiểu ảnh hưởng của các triệu
chứng lo âu làm giảm CLS liên quan đến sức khỏe ở bệnh nhân động kinh.
Trong một nghiên cứu ở Hàn Quốc, lo âu là yếu tố có ý nghĩa nhất làm giảm
CLS liên quan đến sức khỏe. Johnson và cộng sự cũng tìm hiểu mối liên quan
của trầm cảm và lo âu đối với CLS liên quan đến sức khỏe ở bệnh nhân động
kinh thùy thái dương. Trầm cảm và lo âu phối hợp một cách độc lập với giảm
CLS liên quan đến sức khỏe và các biến của bệnh lý tâm thần kết hợp ảnh hưởng
đến CLS nhiều hơn các biến của cơn lâm sàng hoặc các biến dân số học [64].
Rối loạn lo âu lan tỏa và động kinh: triệu chứng chủ yếu của rối loạn lo âu
lan tỏa (RLLALT) là lo âu dai dẳng và làm cho người bệnh không làm được gì,
diễn ra trong hầu hết thời gian trong ít nhất 6 tháng. Thường kết hợp với các
triệu chứng thực vật hoặc cơ thể như tăng mệt mỏi, mất ngủ, khó tập trung, các
vấn đề về giấc ngủ.
Tần số cơn co giật liên quan đến độ nặng của lo âu ở một số nghiên cứu

chứ không phải tất cả. Tuổi và giới có ảnh hưởng liên quan một cách tế nhị, ví
dụ: cơn động kinh đầu tiên ở tuổi cao có thể phối hợp mức lo âu cao. Nguy cơ
của các rối loạn lo âu xuất hiện cao hơn ở động kinh cục bộ (động kinh thùy thái
dương) so với động kinh toàn thể. Tỉ lệ cao nhất của rối loạn tâm thần kết hợp
(bao gồm cả lo âu) được tường thuật ở những bệnh nhân với cơn động kinh mạn
tính. Trong những rối loạn này, các biến tâm thần có giá trị dự đoán mạnh mẽ
chất lượng sống nghèo nàn. Một yếu tố quan trọng liên kết cả hai trầm cảm và lo
âu là nhận thức về sự kỳ thị. Điều này quan trọng vì một nửa số bệnh nhân động

20

20


21

kinh có nhận thức bị kỳ thị cao và sự kỳ thị cao nhất trong nhóm bệnh nhân động
kinh trẻ tuổi [53].
Người bị động kinh tử vong do tự sát là phổ biến hơn so với dân số chung
(5 % so với 1,4 %). Những yếu tố phối hợp với tăng nguy cơ bao gồm: bệnh
nhân nam trẻ (25 – 49 tuổi), có các bệnh lý tâm thần kết hợp bao gồm rối loạn
nhân cách, động kinh thùy thái dương, những khó khăn cá nhân gồm những vấn
đề xã hội hoặc công việc, bệnh động kinh kéo dài và kiểm soát cơn không hoàn
toàn. Bệnh nhân động kinh thường dùng một lượng lớn thuốc chống động kinh
và 80 -90 trường hợp toan tự sát là do quá liều.
Một nghiên cứu tại Thái Lan công bố năm 2009 cho thấy tần số cơn động
kinh, trầm cảm và lo âu ảnh hưởng tới CLS bệnh nhân động kinh [45].
c. Ảnh hưởng của trầm cảm và lo âu đến CLS bệnh nhân động kinh
Trầm cảm và lo âu có thể tác động tiêu cực đến CLS [9]
Trầm cảm cũng được xem là yếu tố quan trọng nhất làm giảm CLS ở bệnh

nhân động kinh hơn là bản thân bệnh động kinh [44].
Ảnh hưởng của các cơn động kinh đến CLS: nhiều nghiên cứu đã xác
nhận mối liên quan của các biến liên quan đến tâm lý, xã hội và cơn động kinh
đối với điểm CLS ở bệnh nhân động kinh. Tracy và cộng sự chỉ ra rằng điểm
CLS bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi trầm cảm và các yếu tố như kiểm soát cơn động
kinh.
Choi-kwon và cộng sự thấy rằng triệu chứng lo âu là yếu tố quan trọng
nhất giải thích CLS thấp ở bệnh nhân động kinh, tiếp theo đó là trầm cảm, sự
không thỏa mãn các yếu tố đời sống xã hội, rối loạn chức năng các hoạt động
hằng ngày, và tần số cơn co giật.
Loring và cộng sự nhận thấy mặc dù CLS có nhiều yếu tố quyết định, các
triệu chứng trầm cảm và lo cơn động kinh là những yếu tố quan trọng nhất ảnh
hưởng đến CLS của những bệnh nhân động kinh nặng.
21

21


22

Johnson và cộng sự chỉ ra rằng những cơn động kinh thường xuyên, nặng
và mạn tính làm giảm CLS, nhưng chính lo âu và trầm cảm mới làm giảm CLS
nhiều hơn.
Cramer và cộng sự thấy rằng trầm cảm lâm sàng kết hợp rõ ràng với CLS
thấp ở bệnh nhân động kinh mọi thể.
Suurmeijer và cộng sự đã phát hiện sự kết hợp liên quan của các chức
năng cơ thể, xã hội và tâm lý của bệnh nhân trong khái niệm của họ về CLS. Các
tác giả tổng hợp khái niệm của họ rằng CLS của con người không bị ảnh hưởng
trực tiếp bởi một bệnh lý mãn tính mà phản ảnh những vấn đề và những mối liên
quan tạo ra do sự giảm hoặc mất của các nguồn lực cá nhân, xã hội và kinh tế (ví

dụ: sự xấu đi của các vấn đề trong gia đình, những thay đổi nghề nghiệp, mất thu
nhập, giảm lòng tự trọng và khả năng kiểm soát).
Khái niệm CLS này làm vững thêm khái niệm của Devins và cộng sự
trong đó quan tâm đến ảnh hưởng của bệnh lý trong các hoạt động và sự chú ý
của con người như các hoạt động xã hội, giải trí hoặc nghề nghiệp.
Không may là, đến nay trầm cảm vẫn chưa được phát hiện và chưa được
điều trị ở một số lớn bệnh nhân động kinh và cũng chưa tạo được chú ý trong
việc quản lý bệnh động kinh [9].
2. Các yếu tố khác
a. Thu nhập: Nghiên cứu năm 2002 của Rajesh Jacob và Prathap Tharyan về các
yếu tố ảnh hưởng trên CLS bệnh nhân động kinh tại Ấn Độ nhận thấy những
bệnh nhân động kinh có thu nhập thấp thì có tỉ lệ cao các rối loạn tâm thần kết
hợp và thông qua đó ảnh hưởng xấu đến CLS [64].
b. Công việc hiện tại: Năm 2008, một báo cáo khoa học của Hiệp hội động kinh
Bang Victoria (Epilepsy Foundation of Victoria) (Úc) đã khảo sát các chính sách
đối với bệnh nhân động kinh từ năm 1984 đến năm 2007 và rút ra nhận xét là
bệnh nhân động kinh thường không có việc làm và điều này ảnh hưởng xấu đến
22

22


23

CLS của họ. Bản báo cáo cũng nhấn mạnh giáo dục là cánh cửa dẫn đến có việc
làm và CLS tốt nhưng nhiều bệnh nhân động kinh trẻ đã không hoàn thành
chương trình học.
c. Nghề nghiệp: Nghiên cứu của tác giả F. Rajabi và cộng sự tại Tehran (Iran)
năm 2007 ghi nhận những bệnh nhân động kinh không có nghề nghiệp thì CLS
thấp hơn hẳn so với các bệnh nhân hiện đang có việc làm [63].

d. Các biến liên quan đến bệnh động kinh:
- Thể động kinh: Nghiên cứu CLS 147 bệnh nhân động kinh tại Khoa Thần kinh,
bệnh viện Cipto Mangunkusumo (Indonesia) năm 2005 kết luận động kinh toàn
thể làm giảm CLS nhiều hơn so với động kinh cục bộ [40].
Trong khi đó, một nghiên cứu của các tác giả Mexico là Alanis – Guevara
và cộng sự từ năm 2002 đến năm 2004 trên 401 bệnh nhân động kinh tại Viện
quốc gia động kinh và phẫu thuật thần kinh của Mexico cho thấy không có sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê về CLS giữa các thể động kinh khác nhau [12].
- Thời gian bị bệnh: Một số nghiên cứu về ảnh hưởng của thời gian bị bệnh động
kinh đến CLS có kết quả trái ngược nhau, có nghiên cứu nhận thấy thời gian bị
động kinh càng dài thì CLS càng giảm nhưng có nghiên cứu lại cho thấy thời
gian bị động kinh không ảnh hưởng đến CLS.
- Tần số cơn động kinh: Nhiều nghiên cứu đã ghi nhận rằng tần số cơn động kinh
càng dày càng ảnh hưởng tiêu cực tới CLS [31], [40], [45]. Tần số cơn động kinh
dày hơn, phản ánh sự khó khăn hơn trong kiểm soát cơn động kinh sẽ kết hợp với
CLS nghèo nàn hơn [9].
Nghiên cứu năm 2007 tại Tehran cũng xác nhận ảnh hưởng của tần số cơn
động kinh và thời gian tính từ cơn gần nhất đối với CLS [35].
Nghiên cứu CLS bệnh nhân động kinh ở Miền Nam Thái Lan cũng xác
nhận tần số cơn động kinh càng dày càng làm giảm CLS của bệnh nhân [45].

23

23


24

Nghiên cứu của Cynthya L. Harden và các cộng sự trên 118 bệnh nhân nữ
cũng xác nhận bằng chứng rằng có một liên hệ giữa độ nặng của cơn động kinh

và CLS, thậm chí khi kiểm soát được trầm cảm. Đặc biệt là những kết quả này
gợi ý rằng độ nặng của các cơn có thể khởi phát sự phát triển hoặc làm tăng lo âu
và/ những hành vi cách ly xã hội [24].
Nghiên cứu tại Tây Bengal (Ấn Độ) cũng ghi nhận CLS càng nghèo nàn
nếu tần số cơn động kinh càng dày [9].
- Dùng đơn trị liệu hay đa trị liệu: Nghiên cứu CLS của 147 bệnh nhân động kinh
tại Khoa Thần kinh, bệnh viện Cipto Mangunkusumo (Indonesia) năm 2005 kết
luận đa trị liệu làm giảm CLS [40].
Nghiên cứu CLS của bệnh nhân động kinh tại Tây Bengan ghi nhận bệnh
nhân dùng hai thuốc chống động kinh trở lên có CLS thấp [9].
Nghiên cứu CLS bệnh nhân động kinh tại Tehran (Iran) thì ghi nhận loại
thuốc sử dụng không ảnh hưởng đến CLS nhưng đơn trị liệu giúp bệnh nhân cải
thiện CLS [63].

24

24


25

Chương 2

ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
I. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu
- Gồm 300 bệnh nhân (nam và nữ) đã được chẩn đoán động kinh và đang được
điều trị ngoại trú tại các trạm y tế xã/ phường và Bệnh viện Tâm thần thành phố
Đà Nẵng.
- Thời gian bị bệnh động kinh của các bệnh nhân ít nhất là 12 tháng.

- Bệnh nhân động kinh thuộc ba thể phổ biến sau: Động kinh toàn thể co cứng –
co giật, động kinh cục bộ vận động và động kinh cục bộ vận động toàn thể hóa.
- Các bệnh nhân đều từ 16 – 60 tuổi.
- Mỗi bệnh nhân được chọn 1 lần.
- Những bệnh nhân gặp khó khăn khi làm các Bảng đánh giá thì điều tra viên có
thể đọc câu hỏi và các tình huống trả lời, bệnh nhân tự chọn phương án trả lời và
điều tra viên sẽ điền vào Bảng đánh giá.
2. Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu CLS của bệnh nhân động kinh và các yếu
tố ảnh hưởng đến CLS của họ.
3. Không gian nghiên cứu: Bệnh nhân động kinh đang được điều trị ngoại trú
tại 56 trạm y tế xã, phường thuộc thành phố Đà Nẵng và Bệnh viện Tâm thần.
4. Thời gian nghiên cứu: 01/2011 – 08/2011
5. Tiêu chuẩn chẩn đoán động kinh: Theo Gastaut bao gồm:
a. Bốn tiêu chuẩn lâm sàng:
- Triệu chứng lâm sàng đặc trưng của từng cơn: Do đề tài nghiên cứu chủ yếu
trên 3 thể động kinh chính là động kinh toàn thể co cứng – co giật, động kinh cục
bộ với các triệu chứng vận động và động kinh cục bộ diễn tiến thành cơn toàn
thể hóa thứ phát. Do vậy chúng tôi chẩn đoán 3 thể này bằng các tiêu chuẩn sau:
25

25


×