Tải bản đầy đủ (.doc) (2 trang)

bai van phan tich ma giam sinh mua kieu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (31.5 KB, 2 trang )

Mã Giám Sinh mua Kiều
I/ MỞ BÀI :
Nói đến Truyện Kiều là nói đến quyền sống của con người bị chà đạp. Tiêu biểu cho tình
trạng bị chà đạp đó là cảnh mua bán người thật thương tam trong truyện. “ Mã Giám Sinh mua
Kiều” là đoạn trích minh chứng cho điều trên. Ở đoạn trích, nhà thơ đã tố cáo thế lực đồng tiền
tàn bạo, phơi bày tình trạng con người bị biến thành hàng hóa; bày tỏ niềm đau đớn, căm phẫn
trước tình cảnh con người bị hạ thấp và chà đạp.
II/ THÂN BÀI:
Mở đầu đoạn trích, Nguyễn Du giới thiệu ngắn gọn quyết định bán mình của Kiều và âm
hưởng của quyết định đó. Quyết định được giới thiệu dưới hình thức ý nghĩ đau đớn của Kiều về
thân phận và tấm lòng hiếu thảo. Một tư tưởng đành phận chi phối hành động của nàng “ Hạt
mưa sá nghĩ phận hèn/ Liều đem tất cỏ quyết đền ba xuân”
Tư tưởng này không phải của riêng Kiều mà là chung cho biết bao thân phận người phụ nữ
phó mặc cuộc đời cho số phận may rủi như trong mấy câu ca dao “ Thân em như …ruộng cày”/ “
Thân em … vào vườn hoa” / Mấy câu thơ mở đầu đoạn trích đã khơi gợi một không khí chua sót
khiến người đọc cảm nhận được toàn bộ cảnh mua người đau đớn đó.
Tiếp theo nhà thơ kẻ đến mua. Lời giới thiệu thật trang nhã “ Đưa người…vấn danh”/
Nhưng sự biểu hiện qua lời ăn tiếng nói của con người của nhân vật thì hoàn toàn trái ngược, cộc
lốc, thiếu giáo dục “ Hỏi tên …cũng gần” / Mã Giám Sinh là học sinh trường Quốc Tử Giám –
trường học lớn nhất kinh đô xưa nhưng ăn nói thì vô lễ thực chất là một kẻ vô học. Vừa gới thiệu
lả mốt viễn khách thì bây giờ là cũng gần, thế nói dối, “tiền hậu bất nhất”.
Về ngoại hình, Mã Giám Sinh ăn mặt một cách trau chuốt, nhố nhăng : “ Quá niên …bảnh
bao” / “ Trạc ngoại tứ tuần” là người đã lớn tuổi, không còn trẻ tuổi. Tuổi ấy lẽ ra phải để râu
nhưng đây lại chẳng có dáng mày râu. Người xưa rất coi trọng hình thức mày râu. Hai chữ “
bảnh bao” là chỉ áo quần tử tế, chải chuốt, phẳng phiu. Có người nói “ bảnh bao” là từ dùng để
chỉ quần áo trẻ em, nay dùng để khen người lớn do đó nó mang hàm ý m** mai. Vậy là ngay cả
tư cách đàn ông, trượng phu của MGS cũng bị phủ định. Tuy nhiên, ca7u thơ cũng có thể hiểu
một cách khác : mày râu nhẵn nhụi là được cắt xén t** tót, trai lơ, đi đôi với bộ cách bảnh bao
ra dáng một chú rể.
Về hành vi, cử chỉ thì MGS càng thiếu văn hóa “ Trước thầy …sỗ sàng”/ “lao xao” là từ gợi tả
âm thanh vang lên từi nhiều phía, lộn xộn l\không thứ tự: tớ thầy cùng nói, không ai nhường ai.


“ ghế trên” là chỗ dành cho bậc trưởng gia , cao tuổi trong nhà, nay MGS đi hỏi vợ, bậc con cái
lại dành ghế trên thật chướng mắt. Tóm lại, kẻ đi mua, dù được ngụy trang bằng danh hiệu “
giám sinh” nhưng bản chất vô học hèn hạ vẫn bọc lộ trọn vẹn.
Phần còn lại của đoạn tích , tả cảnh mua người thật hiếm có. Ở đây có kẻ mua người bán.
Nhà thơ đã cực tả nỗi xót xanhu5c nhã của Kiều khi đem ra làm món hàng “ Nỗi mình …mặt dày”
/ “ Nỗi mình” là mối tình đối với Kim Trọng vẫn còn canh cánh. “ nỗi nhà” là việc cha, việc em bị
hành hạ không thể không cứu. Hai nỗi đau chồng chéo đé nặng trong lòng. Cho nên mỗi bước đi
của nàng làm rơi bao nhiêu hàng lệ : khóc cho mình , khóc cho tình, khóc cho cha và em. Ngoài
nỗi đau và uất ức, Kiều còn có nỗi đau xót thẹn thùng. Một người con gái khuê các, nay ra chào
khách, sao khỏi sượng súng xấu hổ. Nhà thơ dùng hình ảnh bông hoa với biện pháp ẩn dụ thật
tái tình. Kiều ra với MGS ví như cành hoa đem ra ngoài sương gió. Cho nên “ ngại ngùng..” Vì
sương gió làm cho hoa tàn hoa rụng. Vì tự ví mình là hoa nên Kiều nhìn hoa mà thấy thẹn, tự
thấy mình không xứng với hoa. Đó là tình cảm là đạo đức cao đẹp, thầm kín của Kiều mà chỉ
mình Kiều cảm thấy.
Trong khi đó, thì bà mối cứ giới thiệu Kiều như một món hàng một đồ vật. Mụ vén tóc bắt
tay cho khách xem; ép nàng làm thơ đánh đàn cho khách thấy mà không hề biết gì đến nỗi đau
bên trong đang giày vò nàng :’ Nét buồn như cúc , điệu gầy như mai” / Quả đúng là cảnh “ cành
hoa đem bán cho phường lái buồn” hết sức đau xót. Khách xem xong hàng thì ngã giá “ cò kè…
bốn trăm” / Giá mua bốn trăm là một con số không lớnmà người mua còn cò kè thêm bớt mất
nhiều thời giờ. Từ đó người đọc cảm nhận được sự mua bán róng riết, chi li biết chừng nào! Câu
thơ “ cò kè…hai” bộc lộ rõ nhất bản chất con buôn của MGS chứ không phải là người đi kiếm vợ
lẽ, nàng hầu. Tính toán của hắn hoàn toàn đặt ở tiền, chứ không đặt ở người.


Kết thúc cảnh mua bán là lời tổng kết chua chát của Nguyễn Du về sức mạnh của đồng tiền
chi phối số phận con người: “ Tiền lưng đã sẵn việc gì chẳng xong”
Bằng việc miêu tả ngoại hình, cử chỉ và ngôn ngữ đối thoại để khắc họa tính cách nhân vật,
tác giả đạ vạch trần bản chất xấu xa, đê tiện của MGS qua đó lên án những thế lực tàn bạo chà
đạp lên sắc đẹp tài năng và nhân phẩm của người phụ nữ.
III/ KẾT BÀI:

Đoạn thơ thật hay ; cạnh mua bán rất thật ; bộ mặt kẻ mua người bán cũng được khắc họa
đậm nét ; phơi bày hết bản chất, địa vị , nỗi lòng của từng loại người. Đoạn thơ là tiếng khóc cho
con người lương thiện, là một lời tố cáo công phẫn cháy bỏng.



×