Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

bài văn tham khảo lớp 9 HKII

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (228.65 KB, 24 trang )

NHỮNG BÀI VĂN CHỌN LỌC LỚP 9
Bài 1: Phân tích bài thơ "Sang thu" - Hữu Thỉnh

Mùa thu mùa của thiên nhiên và đất trời cùng hòa quyện với nhau để tạo nên những khoảnh
khắc tuyệt vời.Mùa thu với những cơn gió nhẹ, tiếng chim, dòng sông...đã làm ngất ngây tâm
hồn bao con người, và Hữu Thỉnh, với tài năng và tâm hồn của mình, ông đã cảm nhận hết cái
tinh tế cuả phút giao mùa để viết lên bài thơ "Sang Thu"đặc sắc.
"Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như Thu đã về."
Như 1 qui luật của tự nhiên, hạ đi thu lại đến.Nhưng sao mùa thu này đến với Hữu Thỉnh 1 cách
quá bất ngờ.Từ "bỗng", nó thất nhẹ nhàng nhưng mang trong đó biết bao cảm xúc của tác giả,
vui mừng, hồi hộp...Từ ngọn gió se mang theo hương ổi đến hình ảnh màng sương chùng chình
qua ngõ, tất cả như đều có sự sống.Nhà thơ đã cảm nhận mùa thu bằng những giác quan tinh
tế, mới mẻ -"hương ổi phả vào trong gió se".Từ "phả"- nó thật có hồn, không phải là ngọn gió se
mang theo hương ổi mà là những quả ổi chín "phả" mùi hương vào gió làm những cơn gió cũng
thơm tho khác lạ."Sương chùng chình qua ngõ"- làn sương mờ ảo như cố ý chậm lại để báo hiệu
mùa thu thật êm đềm đã đến.Và từ "hương ổi,màn sương"mùa Thu đã hiện ra giữa không gian
bao la của vũ trụ,giữa con tim Hữu Thỉnh.
"Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nữa mình sang thu."
Từ dòng sông, cánh chim, tất cả đều rạo rực và đầy chất thơ, đầy sức sống.Dòng sông dềnh
dàng có vẻ như không muốn chảy, đó là sự biến chuyển nhẹ nhàng của đất trời trong khoảnh
khắc giao mùa.Nhưng đối lập với hinhg ảnh đó là những cánh chim vội vã, chũng vội vã bỡi
chũng đã cảm nhận được mùa thu đã sang, đong sắp tới...Chúng vộ vã về với tổ ấm trước lúc
hoàng hôn .Tất cả đã dệt nên một bức tranh hữu tình, thơ mộng.Song hình ảnh nổi bật hơn cả
vẫn đám mây.Hình ảnh đám mây "vắt" nữa mình sang thu là 1 hình ảnh khá mới lạ và đặc
sắc.Với một nghệ thuật nhân hòa điêu luyện,Hữu Thỉnh đã gợi 1 không gian bao la tuyệt vời


trong lòng đọc giả.Trong khổ thơ hoàn toàn không có 1 tiếng động nhưng lại khiến ta hình dung
đây là 1 không gian nhộn nhịp,lãng mạn,đầy sức sống của đất trời sang thu.
"Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi".
Có thể nói đây là khổ thơ đặc sắc nhất của bài thơ với những suy ngấm về cuộc đời.Thu - nắng
đã nhạt dần,những cơn mưa cũng vơi dàn tạo nên 1 bức tranh êm đềm và đằ thắm.
"Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi"
Hai câu thơ đã gợi cho người đọc những cảm xúc sâu sắc.Với hai tầng nghĩa,câu thơ là 1 lời suy
ngẫm triết lí của Hữu Thinhg với cuộc đời.Sấm cũng bớt trên hàng cây già hay hàng cây già
không còn giật mình bởi tiếng sấm.Nhưng qua đó ta liên tưởng đến hình ảnh khác nhiều ý nghĩa
hơn."Con người đã từng trải thì bao giờ cũng ít bị chấn động bỡi những biến cố bất thường của
cuộc đời.Bao giờ cũng vững vàng cho dù có bao tác dộng lớn lao.Nghệ thuật ẩn dụ đã được thể
hiện cực kì tinh tế trong khổ thơ này.
Khép lại bài thơ ta đã cảm nhận hết cái đẹp đẽ, nhẹ nhàng của phút giao mùa. .Trời đất bao la
và mùa thu mãi mãi là êm đềm và thơ mộng.Với dọng thơ nhẹ nhàng, thắm đượm. Hữu Thỉnh đã
cho chúng ta thấy hết vẻ đẹp huyền diệu của phút giao mùa qua bài thơ "Sang Thu".


Bài 2: Phân tích bài thơ " Mùa xuân nho nhỏ" - Thanh Hải

Nếu là con chim, chiếc lá,
Con chim phải hót, chiếc lá phải xanh
Lẽ nào vay mà không trả,
Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình.”
(Tố Hữu)
Tố Hữu – nhà thơ cùng quê hương xứ Huế với Thanh Hải – đã viết trong bài “Một khúc ca xuân”
những lời tâm niệm thật chân thành, giản dị và tha thiết. Đó là “lặng lẽ dâng cho đời”. Còn

Thanh Hải khi viết bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” trước lúc ra đi, không những đã giải bày những
suy ngẫm mà còn mong ước được dâng hiến một mùa xuân nho nhỏ của mình cho mùa xuân vĩ
đại của đất nước Việt Nam.
Sinh ra, lớn lên, hoạt động cách mạng và tham gia công tác văn nghệ suốt hai thời kháng chiến
chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ ngay chính trên quê hương ruột thịt của mình. Ở địa diểm
nào, hoàn cảnh nào ông cũng thể hiện được lẽ sống của mình. Đó là sự giản dị, chân thành, yêu
người và khát vọng dâng hiến sức mạnh cho đời như chính cuộc sống và tâm hồn ông. Chúng ta
có thể coi bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” là món quà cuối cùng mà Thanh Hải dâng tặng cho đời
trước lúc về cõi vĩnh hằng. Chính vì vậy nó bâng khuâng, tha thiết và sâu lắng hơn tất cả để cuối
cùng thể hiện một Thanh Hải yêu người, yêu cuộc sống, yêu quê hương đất nước và còn là một
Thanh Hải sống cho thơ và sống cho đời.
Trước lúc vĩnh viễn ra đi ông cũng để lại cho đời những vần thơ thật nhân hậu, thiết tha và
thanh thản, không hề gợn một nét u buồn nào của một cuộc đời sắp tắt. Khi cuộc đời mình đã
bước vào cuối đông, nhà thơ vẫn nghĩ đến một mùa xuân bất diệt, muôn thuở và nguyện dâng
hiến cho đời.
Hình ảnh của một mùa xuân rất Huế đã được tác giả mở đầu cho bài thơ:

“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc.
Ơi con chim chiền chiện
Hót cho mà vang trời,
Từng giọt long lanh rơi,
Tôi đưa tay tôi hứng”.
Một nét đặc trưng nơi xứ Huế là hình ảnh màu tím. Một màu tím thật gợn nhẹ như màu tím hoa
sim mọc giữa con sông xanh biếc hay như những tà áo dài với màu tím thật nhẹ nhàng của
những cô gái Huế. Cảm xúc về mùa xuân mở ra thật ngỡ ngàng, bất ngờ, không gian như tươi
tắn hơn, trẻ trung hơn, thánh thoát hơn:

“Ơi con chim chiền chiện
Hót cho mà vang trời,

Từng giọt long lanh rơi,
Tôi đưa tay tôi hứng”.
Trong không gian vang vang vui tươi của tiếng chim càng đậm đà chất Huế hơn nhờ dùng đúng
chỗ những ngôn từ đặc trưng xứ Huế. Một từ “Ơi” đặt ở đầu câu, một từ “chi” đứng sau động từ
“hát” đã đưa cách nói ngọt ngào, thân thương của Huế vào nhạc điệu của thơ. Từ “giọt” được
hiểu theo rất nhiều nghĩa: có thể là “giọt nắng bên thềm”, giọt mưa xuân, giọt sương sớm hay cả
tiếng hót của những chú chim chiền chiện. Nhưng đối với khung sắc trời xuân thì giọt xuân càng


làm tăng thêm vẻ đẹp và sự quyến rũ của nó. Một từ “hứng” cũng đủ diễn tả sự trân trọng của
nhà thơ đối với vẻ đẹp của trời, của sông, của chim muông hoa lá; đồng thời cũng thể hiện cảm
xúc trọn vẹn của Thanh Hải trước mùa xuân của thiên nhiên đất trời.
Từ mùa xuân của thiên nhiên đất trời, tác giả đã chuyển cảm nhận về mùa xuân của cuộc sống,
nhân dân và đất nước. Với hình ảnh “người cầm súng” và “người ra đồng”, biểu tượng của hai
nhiệm vụ: chiến đấu bảo vệ tổ quốc và lao động tăng gia để xây dựng đất nước với những câu
thơ giàu hình ảnh và mang tính gợi cảm:
“Mùa xuân người cầm súng,
Lộc giắt đầy trên lưng.
Mùa xuân người ra đồng,
Lộc trãi dài nương mạ.
Tất cả như hối hả,
Tất cả như xôn xao…”
Hình ảnh mùa xuân của đất trời đọng lại trong lộc non đã theo người cầm súng và người ra
đồng, hay chính họ đã đem mùa xuân đến cho mọi miền của tổ quốc thân yêu.
Tác giả đã sử dụng biện pháp điệp từ, điệp ngữ như nhấn mạnh và kết thúc một khổ thơ bằng
dấu ba chấm. Phải chăng dấu ba chấm như còn muốn thể hiện rằng: đất nước sẽ còn đi lên, sẽ
phát triển, sẽ đến với một tầm cao mới mà không có sự dừng chân ngơi nghỉ.
Sức sống của “mùa xuân đất nước” còn được cảm nhận qua nhịp điệu hối hả, những âm thanh
xôn xao của đất nước bốn ngàn năm, trải qua biết bao vất vả và gian lao để vươn lên phía trước
và mãi khi mùa xuân về lại được tiếp thêm sức sống để bừng dậy, được hình dung qua hình ảnh

so sánh rất đẹp:

“Đất nước bốn ngàn năm
Vất và vào gian lao
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước”
Đó chính là lòng tự hào, lạc quan, tin yêu của Thanh Hải đối với đất nước, dân tộc. Những giọng
thơ ấy rất giàu sức suy tưởng và làm say đắm lòng người.
Từ cảm xúc của thiên nhiên, đất nước, mạch thơ đã chuyển một cách tự nhiên sang bày tỏ suy
ngẫm và tâm niệm của nhà thơ trước mùa xuân của đất nước. Mùa xuân của thiên nhiên, đất
nước thường gợi lên ở mỗi con người niềm khát khao và hi vọng; với Thanh Hải cũng thế, đây
chính là thời điểm mà ông nhìn lại cuộc đời và bộc bạch tâm niệm thiết tha của một nhà cách
mạng, một nhà thơ đã gắn bó trọn đời với đất nước, quê hương với một khát vọng cân thành và
tha thiết:

“Ta làm con chim hót,
Ta làm một cành hoa.
Ta nhập vào hoà ca,
Một nốt trầm xao xuyến”
Lời thơ như ngân lên thành lời ca. Nếu như đoạn đầu Thanh Hải xưng tôi kín đáo và lặng lẽ thì
đến đoạn này ông chuyển giọng xưng ta. Vì sao có sự thay đổi như vậy? Ta ở đây là nhà thơ và
cũng chính là tất cả mọi người. Khát vọng của ông là được làm con chim hót, một cành hoa để
hoà nhập vào “mùa xuân lớn” của đất nước, góp một nốt trầm vào bản hoà ca bất tận của cuộc
đời. Hiến dâng “mùa xuân nho nhỏ” nghĩa là tất cả những gì tốt đẹp nhất, dù nhỏ bé của mỗi
người cho cuộc đời chung cho đất nước. Điều tâm niệm đó thật chân thành, giản dị và tha thiết –
xin được làm một nốt trầm trong bản hoà ca của cuộc đời nhưng là “một nốt trầm xao xuyến”.


Điều tâm niệm của tác giả: “lặng lẽ dâng cho đời” chính là khát vọng chung của mọi người, ở mọi
lứa tuổi, chứ đâu phải của riêng ai. Thanh Hải đã thể hiện hết mình vì lòng tin yêu cuộc sống và

khiêm tốn hiến dâng cho đất nước, cho cuộc đời, bởi vậy, xuất phát từ tiếng lòng thiết tha, nhỏ
nhẹ, chân thành của tác giả nên lời thơ dễ dàng được mọi người tiếp nhận và chia sẻ cho nhau:

“Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc”.
Đã gọi là cống hiến cho đời thì dù ở tuổi nào đi chăng nữa cũng phải luôn biết cố gắng hết tâm
trí để phục vụ và hiến dâng cho quê hương, đất nước mến yêu của chính mình. Già - cống hiến
tuổi già, trẻ - cống hiến sức trẻ để không bao giờ thất vọng trước chính bản thân mình.
Thật cảm động và kính phục biết bao khi đọc những vần thơ như lời tổng kết của cuộc đời. “Dù
là tuổi hai mươi” khi mới tham gia kháng chiến cho đến khi tóc bạc là thời điểm hiện thời vẫn
lặng lẽ dâng hiến cho đời và bài thơ này là một trong những bài thơ cuối cùng. “Một mùa xuân
nho nhỏ” cuối cùng của Thanh Hải dâng tặng cho đời trước lúc ông bước vào thế giới cực lạc,
chuẩn bị ra đi mãi mãi.
Kết thúc bài thơ bằng một âm điệu xứ Huế: điệu Nam ai, Nam Bình mênh mang tha thiết, là lời
ngợi ca đất nước, biểu hiện niềm tin yêu và gắn bó sâu nặng của tác giả với quê hương, đất
nước, một câu chân tình thắm thiết
“Mùa xuân ta xin hát
Câu Nam ai, Nam Bình
Nước non ngàn dặm tình
Nước non ngàn dặm mình
Nhịp phách tiền đất Huế”
Đánh giá chung
Những lời tâm sự cuối cùng của người sắp mất luôn là những lời thực sự, luôn chứa chan tình
cảm, ước nguyện sâu lắng nhất… và bài thơ này cũng chính là những điều đúc kết cả cuộc đời
của ông. Ông đã giải bày, tâm tình những điều sâu kín nhất trong lòng, và chính lúc đó Thanh
Hải đã thả hồn vào thơ, cùng chung một nhịp đập với thơ để ông và thơ luôn được cùng nhau,
hiểu nhau và giải bày cho nhau.
Tóm lại bài thơ đã sử dụng thể thơ năm chữ, mang âm hưởng dân ca nhẹ nhàng tha thiết, giàu

hình ảnh, nhạc điệu, cất trúc thơ chặt chẽ, giọng điệu đã thể hiện đúng tâm trạng, cảm xúc của
tác giả. Nét đặc sắc của bài thơ là ở chỗ nó đề cập đến một vấn đề lớn và quan trọng “nhân
sinh”, vấn đề ý nghĩa cuộc sống của mỗi cá nhân được Thanh Hải thể hiện một cách chân thành,
thiết tha, bằng giọng văn nhỏ nhẹ như một lời tâm sự, gửi gắm của mình với cuộc đời. Nhà thơ
ước nguyện làm một “mùa xuân” nghĩa là sống đẹp, sống với tất cả sức sống tươi trẻ của mình
nhưng rất khiêm nhường; là “một mùa xuân nho nhỏ” góp vào “mùa xuân lớn” của đất nước của
cuộc đời chung và bài thơ cũng có ý nghĩa hơn khi Thanh Hải nói về “mùa xuân nho nhỏ” nhưng
nói được tình cảm lớn, những xúc động của chính tác giả và của cả chúng ta.


Bài 3: Phân tích bài thơ " Viếng lăng Bác" - Viễn Phương
Sinh thời, Bác Hồ luôn luôn nghĩ đến miền Nam, ngày đêm thương nhớ miền Nam. Với Bác, miền
Nam là niềm vui, là hạnh phúc, là nỗi đau không lúc nào nguôi: “Miền Nam trong trái tim tôi”.
Niềm mong mỏi thiết tha của Bác là miền Nam mau được giải phóng. Miền Nam cũng ngày đêm
thương nhớ Bác, mong ngày giải phóng để được gặp Bác kính yêu. Nhưng tiếc thay, khi Bắc Nam
sum họp một nhà thì Bác không còn nữa. Lòng thương nhớ, nỗi niềm đau đớn của đồng bào và
chiến sĩ miền Nam dồn nén bao nhiêu năm đã được nhà thơ Viễn Phương thể hiện trong bài
Viếng lăng Bác. Bài thơ không những chỉ thể hiện dòng cảm xúc trào dâng của nhà thơ mà còn
thể hiện hình tượng lãnh tụ Hồ Chí Minh bằng những hình ảnh vừa quen thuộc, vừa giàu sức khái
quát, vừa lung linh gợi cảm. Bằng cảm xúc chân thực và ngôn ngữ thơ gợi cảm, Viễn Phương đã
nói hộ chúng ta một chân lý: Bác Hồ vĩ đại sống mãi trong lòng nhân dân ta.
Bài thơ ra đời năm 1976, khi lần đầu tiên sau giải phóng miền Nam, Viễn phương ra thăm Lăng
Bác. Bài thơ rất ngắn gọn, súc tích nhưng có sức gợi tạo nên sự xúc động cho người đọc. Ngôn
ngữ thơ tuôn trào theo theo dòng cảm xúc chân thành, tha thiết.
Mở đầu bài thơ, Viễn Phương đã bày tỏ ngay tình cảm sâu nặng, ruột thịt của mình bằng câu thơ
giản dị: Con ở miềm Nam ra thăm lăng Bác.
Tình cảm giữa miền Nam và Bác Hồ luôn luôn là tình cảm ruột thịt “Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ
nhà” (Tố Hữu) và tình cảm của miền Nam đối với Bác cũng là tình cảm nhớ mong da diết “Miền
Nam mong Bác nỗi mong cha” (Tố Hữu). Tự đáy lòng của người con đến thăm cha, Viễn Phương
nói với Bác: Con ở miền Nam…. Câu thơ giản dị nhưng bao hàm một ý nghĩa lớn. Trong tim Bác

và trong tim miền Bắc, Miền Nam luôn luôn là nỗi đau chia cắt, nỗi nhớ thương, là niềm tự hào,
là biểu tượng anh hùng, bất khuất, dũng cảm, kiên cường, là thành đồng Tổ Quốc… Giờ đây, nhà
thơ mang theo cả niềm tự hào đó của đồng bào miền Nam để đến với Bác.
Hình ảnh đầu tiên quanh lăng làm nhà thơ xúc động là hình ảnh hàng tre:

Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng
Hàng tre bát ngát cuốn hút cảm xúc của nhà thơ. Qua hình ảnh hàng tre quen thuộc tác giả gửi
gắm một ý nghĩa tượng trưng nhằm ca ngợi Bác, ca ngợi dân tộc. Chắc rằng, cũng như mọi
người Việt Nam, trong tâm khảm nhà thơ, cây tre là hình ảnh giản dị, thân thuộc, đời đời gắn bó
với quê hương làng xóm. Hàng tre xanh xanh trong vườn Bác gợi cho người đọc nhiều liên
tưởng. Hàng tre gợi hình ảnh mọi miền quê hương đất nước, nhất là hình ảnh miền Nam yêu
thương. Tre kiên cường trong bão táp mưa sa như dân tộc ta vững vàng qua phong ba bão tố,
như Bác Hồ suốt đời sống giản dị nhưng kiên cường tranh đấu vì độc lập tự do của dân tộc.
Hoà vào dòng người thăm lăng, nhà thơ tiếp tục dòng suy tưởng. Lời thơ bỗng dạt dào một cảm
xúc tự hào, thành kính, thương nhớ Bác:

Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân
Ai đã từng một lần đi viếng lăng Bác mới hiểu hết hàm ý trong câu thơ của Viễn Phương. Ngày
ngày, mặt trời - chúa tể của thiên nhiên - thán phục một mặt trời trong lăng rất đỏ. Mặt trời rất


đỏ, hình ảnh tượng trưng cho Bác Hồ - là mặt trời cách mạng, là nguồn ánh sáng rực rỡ không
bao giờ tắt, mãi mãi chiếu rọi con đường đi tới của dân tộc Việt Nam. Nhiều nhà thơ đã sử dụng
hình ảnh mặt trời để thể hiện ánh sáng của lý tưởng cách mạng, nhưng đối sánh hai hình ảnh
mặt trời của Viễn Phương quả là rất độc đáo. Đây là một sáng tạo nghệ thuật có tác dụng bộc lộ

nội dung rất hiệu quả. Không nhiều lời, chỉ một hình ảnh mặt trời rất đỏ, nhà thơ đã khái quát
được hình ảnh Bác Hồ vĩ đại. Nhà thơ đã nói hộ chúng rằng: Bác Hồ là mặt trời cách mạng đẹp
nhất, rực rỡ nhất, chói lọi nhất luôn luôn toả sáng trong tâm hồn người Việt Nam.
Cùng với mặt trời ngày ngày đi qua trên lăng là dòng người đi trong thương nhớ. Nhịp thơ chầm
chậm như bước chân của dòng người lặng lẽ đi trong suy tưởng, bao trùm một một không khí
thương nhớ Bác không nguôi, thành kính kết tràng hoa tình yêu dâng bảy mươi chín mùa xuân
của Người. “Người ta là hoa của đất”, nhà thơ thật sâu sắc và tinh tế khi tôn quí nhân dân. Mỗi
người dân là một bông hoa và dòng người đi trong thương nhớ chính là tràng hoa dâng lên Bác.
Ngày ngày… ngày ngày …, thời gian không ngừng trôi và lòng người Việt Nam không bao giờ
nguôi tình cảm nhớ thương, yêu quí, kính trọng đối với Bác.
Đặc biệt xúc động là khi vào trong lăng, thấy Bác nằm nghỉ, nhà thơ sững sờ, nghẹn ngào, đau
đớn:

Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền,
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi ,
Mà sao nghe nhói ở trong tim
Bác nằm đó như đang trong giấc ngủ bình yên sau bảy mươi chín mùa xuân không hề nghỉ. Từ
ánh điện mờ ở trong lăng, nhà thơ liên tưởng đến một hình ảnh rất đẹp: vầng trăng sáng dịu
hiền. Hình ảnh đó đã đưa người đọc vào một thế giới huyền diệu, trong sáng và thanh khiết;
càng gợi ta nghĩ đến tình yêu thiên nhiên, yêu trăng nồng nàn của Bác. Vầng trăng kia đã bao
lần sáng lên trong thơ Người. Cả khi trong ngục: “Người ngắm trăng soi qua cửa sổ, trăng nhòm
khe cửa ngắm nhà thơ”. Cả những khi bận rộn việc nước việc quân, Bác vẫn thấy “trung thu
trăng sáng như gương”, “rằm xuân lồng lộng trăng soi”, “trăng ngân đầy thuyền”, “trăng vào cửa
sổ đòi thơ”, “trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa…” Giờ đây, Bác nằm đó, trong giấc ngủ bình yên,
giữa vầng trăng sáng dịu hiền. Vẫn biết rằng Bác như trời xanh, mãi mãi sống trong sự nghiệp
của chúng ta. Nhưng con tim nhà thơ đau đớn vô cùng khi đứng trước Người. Mà sao nghe nhói
ở trong tim, chỉ một chữ nhói cũng đủ nói lên nỗi quặn đau, thương nhớ không gì bù đắp được vì
mất Bác, vì nỗi thiếu vắng Bác.
Và nỗi đau không còn kìm ném được nữa, nó trào lên dữ dội khi nhà thơ chia tay với Bác:


Mai về miền Nam, thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng
Muốn làm bông hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.
Thương Bác, thương đến trào nước mắt, một tình cảm yêu quý mãnh liệt, trọn vẹn như tình cảm
của người con đối với người cha ruột thịt. Nhà thơ chia tay Bác trong tiếng khóc nấc nở nghẹn
ngào. Làm sao ngăn được dòng nước mắt thương nhớ Bác-một con người vừa vĩ đại, thanh cao,
vừa gần gũi thân thiết với chúng ta, một con người suốt đời hy sinh, cống hiến cho dân tộc nay
vĩnh viễn nằm lại trong lăng? Nhà thơ lưu lưyến không muốn rời xa Bác, chỉ ước muốn biến
thành con chim, bông hoa, cây tre, góp tiếng hót, làn hương quanh nơi Bác nghỉ cho trọn niềm
trung hiếu với Người. Đoạn thơ dạt dào tình cảm, nhịp điệu thiết tha, cùng với hình ảnh cây tre
trung hiếu một lần nữa truyền đến người đọc sự xúc động nghẹn ngào.


Bài thơ ngắn, nhưng tác giả đã thành công khi sử dụng hàng loạt hình ảnh ẩn dụ mang tính
tượng trưng sâu sắc. Các hình ảnh hàng tre xanh xanh, giữa bão táp mưa sa, đến các hình ảnh
mặt trời rất đỏ, tràng hoa, bảy mươi chín mùa xuân, vầng trăng sáng dịu hiền, trời xanh là mãi
mãi đã gợi cho người đọc thấy trọn vẹn hình tượng Bác Hồ gần gũi, cao quý, thanh khiết, vĩ đại
biết bao. Ngoài ra, nó còn gợi đến hình ảnh quê hương, đất nước, nhân dân. Nhà thơ đã có
nhiều dụng ý khi sử dụng các hình ảnh rất đẹp, rất lớn lao của vũ trụ: mặt trời, vầng trăng, trời
xanh. Những hình ảnh đó tượng trưng cho cái vĩ đại, lớn lao của Bác Hồ. Bác như vầng mặt trời
rực rỡ, như vầng trăng sáng dịu hiền, như bầu trời xanh. Ở Bác toả ra ánh sáng của trí tuệ thiên
tài và lấp lánh ánh sáng của một tâm hồn cao đẹp. Còn hình ảnh hàng tre xanh xanh lại tượng
trưng cho cái bình dị, gần gũi của Người. Và hơn thế nữa, tất cả các hình ảnh ấy đều gợi cho ta
thấy sự bất tử của Bác Hồ. Người sống mãi trong lòng nhân dân ta, trong sự nghiệp của chúng
ta. Mãi mãi là vị cha già thân thiết, yêu quý của chúng ta.
Viếng lăng Bác không những là tiếng khóc đau đớn, nghẹn ngào trước sự ra đi của Bác, là lòng
thương nhớ không nguôi, lòng kính phục vô hạn của nhà thơ Viễn Phương và của nhân dân ta
đối với Bác Hồ mà bài thơ còn diễn tả thành công hình tượng Bác Hồ vĩ đại bằng những hình ảnh

đẹp, nhịp điệu tha thiết, cảm xúc nồng nàn chân thực. Âm hưởng của bài thơ ngân vang mãi
trong lòng người đọc. Bài thơ được phổ nhạc càng trở nên truyền cảm sâu xa, làm xúc động
hàng triệu trái tim Việt Nam từ 1976 đến nay.

Bài 4: Hình ảnh con cò trong bài thơ " con cò" - Chế Lan Viên
Con cò là hình ảnh quen thuộc với làng quê Việt Nam tự bao đời. Chính vì thế mà từ lúc nào
không biết, hình ảnh cò đã đi vào ca dao, dân ca Việt Nam một cách bình thường nhưng lại
mang ý nghĩa sâu sắc biểu trưng cho hình tượng người phụ nữ Việt Nam chịu thương chịu khó.
Và cũng có khi hình ảnh cò được mượn để ví cho thân phận người phụ nữ thấp bé trước xã hội
phong kiến lúc bấy giờ. Cảm nhận từ tình mẹ thiêng liêng, cảm nhận vẻ đẹp sâu sắc của hình
ảnh cò, tác giả Chế Lan Viên đã mượn chất liệu là những bài ca dao, dân ca Việt Nam để dệt nên
bài thơ "Con cò" ca ngợi tình mẫu tử thiêng liêng và nỗi nhọc nhằn nuôi con khôn lớn của người
phụ nữ, người mẹ. Bài thơ đã nhanh chóng được mọi người biết đến và trở thành một trong
những tác phẩm tiêu biểu viết về tình mẹ.
Khổ thơ đầu được viết một cách nhẹ nhàng, êm, ái:
Con còn bế trên tay
Con chưa biết con cò
Nhưng trong lời mẹ ru
Có cánh cò đang bay
"Con cò bay la
Con cò bay lả
Con cò cổng phủ
Con cò Đồng Đăng"
Cò một mình, cò phải kiếm lấy ăn
Con có mẹ, con chơi rồi lại ngủ
"Con cò ăn đêm
Con cò xa tổ
Cò gặp cành mềm
Cò sợ xáo măng..."
Ngủ yên! ngủ yên! Cò ơi, chớ sợ

Cành có mềm, mẹ đã sẵn tay nâng
Trong lời ru của mẹ thấm hơi xuân


Con chưa biết con cò, con vạc
Con chưa biết cành mềm mẹ hát
Sữa mẹ nhiều, con ngủ chẳng phân vân.
Đúng là đứa trẻ còn quá bé bỏng để hiểu được thế nào là "con cò", "con vạc", thế nhưng ngay
từ giấc ngủ đầu nôi, người mẹ đã nhẹ nhàng đem cánh cò đến với con bằng lời ru dịu dàng,
nồng ấm. Điệp từ "con cò" được nhắc đi, nhắc lại ở câu bốn đến câu tám của khổ thơ đầu như
một điệp khúc ngân nga, nhịp nhàng. Người đọc cảm nhận được trong thơ có nhạc. Nhạc điệu là
lời ru của mẹ đối với con, là lời kể, tả của mẹ về hình ảnh cò trong dân gian cho con nghe. Hình
ảnh "con cò bay la,..... bay lả", từ "cổng phủ" cho đến "Đồng Đăng" miêu tả hình ảnh cò thung
dung bay lượn một cách tự do trên khắp mọi nẻo quê hương, trở thành biểu tượng gắn bó với
làng quê Việt Nam. Hình ảnh cò "xa tổ", cò "ăn đêm", sợ gặp "cành mềm", sợ bị "xáo măng" gợi
hình ảnh cò lẻ loi một mình đi kiếm mồi trong đêm tăm tối có muôn vàn cạm bẫy đang chực chờ
phía trước. Phải chăng, tác giả muốn nhắc đến thân phận yếu đuối của người phụ nữ và nỗi vất
vả gian truân trong cuộc mưu sinh để nuôi con âm thầm, khi bên ngoài xã hội còn nhiều cạm bẫy
đang chực chờ. Mặc dù người mẹ biết con mình còn quá bé bỏng trước cuộc đời. Nhưng mẹ
muốn hát cho con nghe để con hình thành tình yêu thương đối với những gì thuộc về quê
hương, đất nước, hiểu được tình thương bao la mà mẹ dành cho con. Bên cạnh đó, mẹ muốn
con hãy yên tâm trước cuộc đời, vì đã có mẹ chở che trong câu: "sữa mẹ nhiều, con ngủ chẳng
phân vân". Đọc đến đây, ta cảm động trước tình mẹ bao la, sâu sắc, vỗ về, chở che ta từ khi còn
tấm bé. Để rồi, khi ta từng bước trưởng thành, vẫn có mẹ bên cạnh xẻ chia:
Ngủ yên! Ngủ yên! Ngủ yên!
Cho cò trắng đến làm quen
Cò đứng ở quanh nôi
Rồi cò vào trong tổ
Con ngủ yên thì cò cũng ngủ
Cánh của cò, hai đứa đắp chung đôi.

Mai khôn lớn con theo cò đi học
Cánh trắng cò bay theo gót đôi chân
Lớn lên! Lớn lên! Lớn lên!
Con làm gì?
Con làm thi sĩ!
Cánh cò trắng lại bay hoài không nghỉ
Trước hiên nhà và trong hơi mát câu văn.
Khổ thơ thứ hai có thể chia làm ba giai đoạn, tựu chung lại vẫn là ý nghĩa của hình ảnh cò gắn
bó mật thiết và trở nên người bạn đồng hành đối với cuộc đời con trẻ từ lúc ấu thơ cho đến khi
trưởng thành.
Đoạn đầu từ:
Ngủ yên! Ngủ yên! Ngủ yên!
Cho cò trắng đến làm quen
Cò đứng ở quanh nôi
Rồi cò vào trong tổ
Con ngủ yên thì cò cũng ngủ
Cánh của cò, hai đứa đắp chung đôi.
Là mối tương quan mật thiết giữa cò với con trẻ trong suốt thời thơ ấu. Cò "đứng ở quanh nôi",
rồi cò "vào trong tổ"; còn có ngủ thì cò mới ngủ. Hình ảnh cò tới đây không còn là hình ảnh con
cò giản dị nữa, mà đã ẩn dụ cho hình tượng người mẹ chăm sóc, vỗ về, ấp iu cho con từng
miếng ăn, giấc ngủ. Khi con lớn hơn một chút thì tình yêu mẹ dành cho con như thế nào? Đoạn
thứ hai:


" Mai khôn lớn con theo cò đi học
Cánh trắng cò bay theo gót đôi chân"
là hình ảnh đồng hành của người mẹ với con mình trong thời niên thiếu. Buổi ban đầu chập
chững bước vào cuộc đời, đứa trẻ cần lắm đôi tay dìu dắt của mẹ. Thế nhưng, người mẹ sẽ
không dìu dắt con mãi mãi, mà theo năm tháng, mẹ tập cho con tự bước đi trên đôi chân chính
mình. Có thể thấy: ban đầu, thì cò dắt con đi học. Nhưng dần dà, cánh trắng cò chỉ bay theo gót

chân con. Khi con đến giai đoạn niên thiếu, tình thương của mẹ dành cho con đã có cách thể
hiện khác. Mẹ không còn nâng niu con nữa, mà chỉ đồng hành bên con, dõi theo mỗi bước chân
con. Mẹ muốn con tự đi trong cuộc đời bằng đôi chân của chính mình. Vì chỉ có thế, bước chân
con mới vững chãi, không sợ bị vấp ngã. Ta cảm nhận được tình mẹ vừa sâu sắc, lại vừa phong
phú, cách thể hiện đa dạng. Một lần nữa, ta hiểu thêm về mẹ, chợt nhận hối hận ra ta cũng đã
có lúc hiểu lầm về mẹ. Đoạn thứ ba nói lên hình ảnh cò-hình ảnh mẹ đã đi vào tiềm thức, hóa
nên tâm hồn phong phú cho con người khi trưởng thành:
Lớn lên! Lớn lên! Lớn lên!
Con làm gì?
Con làm thi sĩ!
Cánh cò trắng lại bay hoài không nghỉ
Trước hiên nhà và trong hơi mát câu văn.
Cho dù lúc trưởng thành con có làm bất cứ nghề nghiệp gì, thì hình ảnh mẹ luôn là nguồn cảm
xúc dạt dào, là chất xúc tác giúp con thành công hơn trên bước đường công danh sự nghiệp.
Hình ảnh thân thương của mẹ trở nên ý nghĩa lớn lao với cuộc đời mỗi người.
Khổ thơ thứ ba thật giản dị mà lại gây nên xúc động với người đọc bởi lời mẹ chân tình, tha
thiết:
Dù được gần con
Dù ở xa con
Lên rừng, xuống bể
Cò sẽ tìm con
Cò mãi yêu con
Con dù lớn, vẫn là con của mẹ
Đi hết đời, lòng mẹ vẫn yêu con.
Phải chăng đây cũng chính là lời tự sự của tất cả những người mẹ có con cái đã trưởng thành, có
khung trời và lối đi riêng? Cho dù bất cứ nơi đâu, bất cứ hoàn cảnh nào, mẹ vẫn dang rộng vòng
tay yêu thương, vẫn là bến bờ, là điểm tựa cho con bởi:" con dù lớn vẫn là con của mẹ". Thế nên
"đi hết đời, lòng mẹ vẫn theo con". Có biết bao nhiêu thứ tình cảm trên đời, nhưng có tình nào
bao la, sâu sắc và vô tận như tình mẹ dành cho ta.
Bài thơ được mở đầu bằng những câu hát ru và kết lại cũng bằng lời ru à ơi:

À ơi!
Một con cò thôi
Con cò mẹ hát
Cũng là cuộc đời
Vỗ cánh qua nôi
Ngủ đi! Ngủ đi!
Cho cánh cò, cánh vạc
Cho cả sắc trời


Đến hát
Quanh nôi.
Lời ru đến lúc này sao thắm đượm quá đỗi tình mẫu tử thiêng liêng của mẹ.
Lại một lần nữa các cụm từ:"ngủ đi", "cánh cò, cánh vạc", "nôi" được nhắc lại nhằm gợi về kỉ
niệm tuổi thơ, nhắc nhớ về giấc ngủ đầu nôi cũng là dấu ấn thiêng liêng trong tâm thức của mỗi
người.
Chế Lan Viên đã sáng tác bài thơ này với một sự chiêm nghiệm sâu sắc về tình mẹ con. Ông đã
thể hiện niềm yêu kính đối với hình tượng người mẹ bằng giọng thơ nhẹ nhàng, trau chuốt.
Tình mẹ, chắc có lẽ trong tâm thức mỗi con người đều cảm nhận được. Thế nhưng, với bài thơ
"Con Cò" của Chế Lan Viên, ta như được trãi nghiệm và hiểu thêm một cách sâu sắc về ý nghĩa
của tình mẹ trong cuộc đời của mỗi con người.

Bài 5: Phân tích bài thơ " Nói với con" - Y Phương

Sinh ra và lớn lên trên mảnh đất Trùng Khánh - Cao Bằng ,thấm nhuần những tinh hoa, cái đẹp
của dân tôôc Tày , Y Phương (1948) là môôt nhà thơ tiêu biểu cho các dân tôôc miền núi ."Thơ Y
Phương như môôt bức tranh thổ cẩm đan dêôt nhiều màu sắc khác nhau ,phong phú và đa dạng
,nhưng trong đó có môôt màu sắc chủ đạo ,âm điêôu chính là bản sắc dân tôôc rất đâôm nét và đôôc
đáo .Nét đôôc đáo đó nằm ở cả nôôi dung và hình thức .Với Y Phương ,thơ của dân tôôc Tày nói
riêng và thơ Viêôt Nam nói chung có thêm môôt giọng điêôu mới ,môôt phong cách mới "( Từ điển tác

giả ,tác phẩm văn học Viêôt Nam ).
Đi từ đề tài quen thuôôc :tình cảm cha con ,phụ tử thiêng liêng ,nhưng với Y Phương ,trong làng
thơ Viêôt Nam đã có thêm môôt lối đi ,1 giai điêôu mới . Khác với "Chiếc lược ngà ",tình cha con
được đăôt trong hoàn cảnh éo le của chiến tranh ,tình cha con trong bài thơ được thể hiê n
ô qua lời
tâm tình của người cha .Người cha đã bôôc lôô lòng yêu thương con qua ước mong con sống
xứng đáng ,phát huy truyền thống của,gia đình , quê hương.
Mượn lời người cha nói với con về tình yêu thương của cha mẹ ,sự đùm bọc của quê hương với
con ,nhà thơ đã gợi về nguồn sinh dưỡng trong mỗi người chúng ta .Mở đầu bài thơ là khung
cảnh gia đình ấm cúng ,đầy ắp tiếng nói cười .Mười môôt câu thơ như tràn đầy những đầm ấm
,yên vui của tình cảm gia đình ,tình cảm quê hương :
"Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Môôt bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười
Người đồng mình yêu lắm con ơi
Đan lờ caì nan hoa
Vách nhà ken câu hát
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng
Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới
Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời ."
Môôt mái nhà có mẹ có cha và con hạnh phúc vì được sống hạnh phúc trong tình yêu thương
.Cha mẹ đã dìu dắt ,nâng đỡ con từ những bướcđi đầu tiên ,đã tìm thấy niềm vui từ con .Hơn thế
nữa ,con còn được sinh ra ,lớn lên trong tình yêu thương ,vẻ đẹp của "đồng mình ". "Người đồng


mình" yêu lắm con ơi !" Lao đôông tuy vất vả nhưng cuôôc sống của "người đồng mình"tươi vui,
mà rất ngọt ngào . Dáng vẻ tuy thô sơ , công viêôc tuy năông nhọc (đan lờ , ken vách ) nhưng tâm
hồn "người đồng mình "lãng mạn biết bao nhiêu :Họ làm môôt cách nghêô thuâôt những công viêôc

của mình (cài nan hoa ,câu hát ) .Con thâôt hạnh phúc vì con được sống giữa những con người
như vâôy -- những con người khéo tay ,yêu thiên nhiên ,yêu lao đôông, lạc quan và nhân hâôu
.Thiên nhiên đồng mình cũng rất đẹp : Rừng núi quê hương thơ môông đã dành cho con những gì
tinh tuý nhất (hoa ) ,đã nuôi dưỡng con về cả tâm hồn ,lối sống ,"tấm lòng ". Và từng ngày ,con
đã lớn lên …có cha mẹ nâng đón và mong chờ ,có thiên nhiên thơ môông, có cuôôc sống lao đôông
gắn bó .Con đã trưởng thành trong nghĩa tình của quê hương như vâôy đó . Nói với con những
điều đó ,cha mong cho con hiểu những tình cảm côôi nguồn đã sinh dưỡng con ,để con yêu cuôôc
sống hơn .
Dăôn dò con về quê hương ,về "đồng mình ", cha càng muốn con phải khắc cốt ghi xương nơi
mình đã sống ,đã trưởng thành . Cuôôc sống của "người đồng mình " vất vả ,gian nan "thương
lắm con ơi ": "Sống trên đá ..đá gâôp ghềnh / Sống trong thung ..thung nghèo đói ../Lên thác
xuống ghềnh ..cực nhọc .." Nhưng tự hào lắm con ơi ,người đồng mình đã,đang và sẽ luôn sống
đẹp .Họ có sức sống mạnh mẽ :vất vả nhưng khoáng đạt ,gắn bó với quê hương .Họ " ko chê ,ko
lo "gian khổ, mà vẫn sống tràn đầy "như sông như suối " .Họ môôc mạc,chân chất nhưng giàu ý
chí ,niềm tin ,mong xây dựng quê hương tốt đẹp hơn :
"Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục ".
Sự đối lâôp giữa bên ngoài :"thô sơ da thịt" nhưng bên trong ko hề nhỏ bé về tâm hồn ,người
đồng mình có ý chí tự làm chủ cuôôc sống của mình. Qua "sự liên tưởng phong phú sáng tạo "tự
đục đá kê cao quê hương ",người đồng mình là những con người lao đôông cần cù ,có nghị lực
,niềm tin ,mà tầm vóc ,nỗi buồn ,chí hướng của họ là cái cao ,xa chiều kích của trái đất (Cao đo
nỗi buồn /Xa nuôi chí lớn ) .Họ giữ gìn bản sắc dân tôôc mà vẫn làm rạng rỡ quê hương như vâôy
bởi họ yêu quê hương sâu năông và luôn lấy quê hương làm chỗ dựa tinh thần .Người cha muốn
con yêu là yêu những điều đó , yêu những đức tính cao đẹp của người đồng mình .
Cả đoạn thơ như âm vang trong những lời tự hào ,sự gắn bó và tình yêu tha thiết của người cha
về quê hương .Nó như trở thành môôt hành khúc mạnh mẽ ngợi ca quê hương .Và ,lời nhắc nhở
của người cha với con chính là môôt nốt nhấn kết lại bản hành khúc của quê hương :
"Con ơi tuy thô sơ da thịt

Lên đường
Ko bao giờ được nhỏ bé
Nghe con ".
Cho con thấy tình yêu thương ,niềm tin tưởng của cha ,người cha mong con biết sống sao cho
tốt ,cho xứng đáng với tình cảm của cha .Cho con hiểu cuôôc sống của người đồng mình ,người
cha muốn con cảm thương với những khó khăn ,vất vả để khao khát đi xây dựng quê hương .Ca
ngợi những đức tính cao đẹp của người đồng mình ,cha đã truyền cho con vẻ đẹp sức mạnh của
truyền thống quê hương ,mong con sống có tình nghĩa ,biết chấp nhâôn gian khó ,vươn lên bằng
ý chí của mình ,vững vàng trên đường đời.
Điều lớn lao nhất mà người cha muốn truyền cho con chính là lòng tự hào với quê hương và
niềm tự tin khi bước vào đời .Nói với con mà chính là cha đã trao tăông cho con .Cha đã vun đắp
cho con những tình cảm tốt đẹp , cho con môôt hành trang quý và đã sẵn sàng tung cánh cho con
bay đi khắp mọi nơi .
Bài thơ ko dài với 28 câu thơ tự do ,có câu 2 chữ ,có câu 10 chữ ,tất cả bay theo cảm xúc tự
nhiên ,dạt dào của ý thơ .Giọng thơ tha thiết ,trìu mến . Ngọt ngào làm sao từng tiếng nhắc
nhở ,dăôn dò " yêu lắm con ơi ", "thương lắm con ơi " ,"Con ơi ..nghe con !" .Đẹp làm sao các


hình ảnh thơ vừa cụ thể, môôc mạc,cô đọng mà vừa phong phú ,sinh đôông,giàu chất thơ."Rừng
cho hoa / Con đương cho những tấm lòng …".Những đăôc sắc về nghêô thuâôt côông hưởng hài hoà
với những cung bâôc tình cảm khác nhau của cha đã tạo nên dư âm sâu lắng cho bài thơ .Tiếng
thơ trong "Nói với con " là tiếng lòng của Y Phương ,tiếng lòng về tình yêu và niềm tự hào đối với
quê hương ,dân tôôc .
Tiếng cha nói với con hay chính là lời trao gửi thế hêô vâôy !
NOI VỚI CON
* Xưa nay tình mẫu tử là đề tài phong phú cho thơ ca. Nhưng những bài thơ về tình cha con thì
có lẽ khá ít. Bài thơ "Nói với con" cuả Y Phương là 1 trong những tác phẩm hiếm hoi đó. Bài thơ
thể hiện tình cảm gia đình êm ấm, tình quê hương tha thiết, ngọt ngào và ngợi ca truyền thống
nghĩa tình, sức sống mạnh mẽ của người dân tộc miền núi.
Cảm nhận đầu tiêntrong lời cha nói là hình ảnh con lớn lên trong tình yêu thương của cha mẹ, sự

đùm bọc, che chở của người đồng mình, của quê hương. Bài thơ mở ra với khung cảnh gia đình
ấm cúng, đầy ấp giọng nói tiếng cười:
Chân phải....
....tiếng cười.
Khung cảnh ấy đẹp như 1 bức tranh: hình ảnh em bé ngây thơ lẫm chẫm tập đi, bi bô tập nói
trong vòng tay, trong tình yêu thương, chăm sóc, nâng niu của cha mẹ; hình ảnh cha mẹ giang
rộng vòng tay, chăm chút từng bước đi, từng bước đi, từng nụ cười, tiếng nói của con. Gia đình
chính là cái nôi êm ái, tổ ấm để con sống, lớn khôn và trường thành trong niềm yêu thương con
cái. Đó là không khí thường thấy trong các gia đình hạnh phúc. Nhưng cách diễn đạt ở đay có
nét độc đáo riêng cảu người miền núi: nói bằng hình ảnh cụ thể. Điệp ngữ "bước tới", trong tình
cảm người cha, ko khỏi niềm sung sướng, tự hào.
Không chỉ có gia đình, con còn lớn lên, trưởng thành trong cuộc sống lao động, trong quê hường
sâu nặng nghĩa tình:
Người đồng mình yêu lắm con ơi
...........tấm lòng
Một cách nói rất riêng, rất ngộ : "người đồng mình", là người miền mình, người vùng mình, là
những người cùng sống trên 1 miền đất, cùng quê hương, cùng 1 dân tộc. Đó là cách nói mộc
mạc, mang túnh địa phương của dân tộc Tày nhưng giàu sức biểu cảm, Tác giả vận dụng lối
diễn đạt của người dân tộc miền núi để xây dựng hình ảnh thơ. Những suy nghĩ, tình cảm, cảm
xúc đều được diễn tả trực tiếp bằng hình ảnh. Đan lờ để bắt cá, dưói bàn tay của người Tày,
những nan trúc, nan tre đã trở thành "nan hoa". Vách nhà ko chỉ ken bằng gỗ mà còn đc ken
bằng "câu hát". Rừng đâu chỉ cho nhìu gỗ quý, lâm sản mà còn cho hoa. Ba đông từ "đan", "cài",
"ken" còn thể hiện sự đoàn kết, gắn bó cảu quê hương. Lao động đã đem đến cho con bao điều
tốt đẹp, "người đồng mình" và quê hương ấp ủ, nuôi sống con trong tình thương yuê, trong tình
đoàn kết buôn làng. Và con đường đâu chỉ để đi mà nó còn cho "những tấm lòng" nhân hậu, bao
dung, nghĩa tình. Con đường đó là hình bóng thân thuôc của quê hương, còn in dấu những bước
chân đi xuôi ngược, làm ăn sinh sống của buôn làng, nên nó mang 1 ý nghĩa thật to lớn trong
quá trình khôn lớn của con. Sung sứong nhìn con khôn lớn, nha thơ suy ngẫm về tình làng bản
quê nhà, về cội nguồn hạnh phúc:
Cha mẹ ...

....trên đời
Không chỉ gọi cho con về nguồn sinh dưỡng, cha còn nói với con về những đức tính cao đẹp của
"người đồng mình" và ước mơ của cha về con. Đó là lòng yêu lao động, hăng say lao động với
cả tấm lòng. Đó là sức sống bền bỉ mạnh mẽ vượt qua mọi khó khăn, gian khổ.
Người đồng mình thương lắm con ơi
...........Không lo cực nhọc
Trước hết đó là tình thương yêu, đùm bọc nhau. Cách nói mộc mạc mà chứa đựng bao ân tình
rất cảm động đó được lặp đi lặp lai như một điệp khúc trong bài ca. Chính tình thưong đó là sức
mạnh để "người đồng mình" vượt wa bao gian khổ cuộc đời. Những câu thơ ngắn, đối xứng
nhau "cao đo nỗi buồn xa nuôi chí lớn" diễn tả thật mạnh mẽ chí khí của "người đồng mình":
sống vất vả, nghèo đói, cực nhọc, lam lũ nhưng có chí lớn, luôn yêu quý tự hào, gắn bó với quê
hương. Đó là phẩm chất thứ hai. Thứ ba, về cách sống, người cha muốn giáo dục con sống phải


có nghĩa tình, chung thủy với quê hương, bit chấp nhận vượt wa gian nan, thử thách bằng ý chí
và niềm tin của mình. Không chê bai, phản bội quê hưong : "không chê...không chê....không lo"
dù quê hương còn nghèo, còn vất vả. "Người đòng mình sống khoáng đạt, hồn nhiên, mạnh mẽ
"như sông như suối-lên thác xuống ghềnh-ko lo cực nhọc". Lời cha nói với con mà cũng là lời
dạy con về bài học đạo lý làm người. Đoạn thơ rất dồi dào nhạc điệu, tạo nên bởi điệp từ, điệp
ngữ, điệp cấu trúc câu và nhịp thơ rất linh họat , lúc vươn dài, khi rút ngắn, lời thơ giản dị, chắc
nịch mà lay độg, thấm thía, có tác dụng truyền cảm manh mẽ.
Để nhắc nhở giáo dục con, người cha nhấn mạnh truyền thống của người đồng mình:
Người đồng mình thô sơ da thịt
.......Nghe con
Truyền thống ấy thật đáng tự hào, tuy "thô sơ da thịt", ăn mặc giản dị, áo chàm, khăn piêu, cuộc
sống mộc mạc thiếu thốn... nhưng ko hề nhỏ bé về tâm hồn, ý chí nghị lực và đặc biệt là khát
vọng xây dựng quê hương. Họ xây dựng quê hương bằng chính sức lực và sự bền bỉ của mình:
"tự đục đá kê cao quê hương". Họ sáng tạo, lưu truyền và bảo vệ phong tục tốt đẹp của mình
biết tự hào với truyền thống quê hương, dặn dò con cần tự tin, vững bước trên đường đời, ko
bao giờ được sống tầm thường, nhỏ bé, ích kỷ. Hai tiếng "nghe con" kết thúc bài thơ với tấm

lòng thương yêu, kỳ vọng, vừa là lời dặn dò nhắc nhở ý chí tình của nhười cha đối với đứa con
thân yêu. Hai tiếng ấy nghe sao mà thân thương trìu mến quá.
Bài thơ có giọng điệu nhỏ nhẹ, chân tình và rất mới lạ trong phong cách, một phong cách miền
núi với ngôn ngữ "thổ cẩm" rất độc đáo, với cảm xúc, tư duy rất riêng. Qua đó, Y Phương đã thể
hiện tình cảm gia đình ấm cúng, ca ngợi truyền thống cần cù, sức sống mạnh mẽ của quê hưong
và dân tộc mình. Bài thơ giúp ta hiểu thêm sức sống và vẻ đẹp tâm hồn của 1 dân tộc miền núi,
gợi nhắc tình cảm gắn bó với truyền thống, với quê hương và ý chí vươn lên trong cuộc sống.
Bài 6

Cảm nhận về nhân vật Nhĩ trong tác phẩm "Bến quê" của Nguyễn
Minh Châu

Là một trong những cây bút tiêu biểu của nền văn học kháng chiến chống Mỹ, Nguyễn Minh
Châu có nhiều những tìm tòi quan trọng góp phần đổi mới văn học nước nhà .Truyện ngắn của
ông thường chứa đựng những suy ngẫm trải nghiệm sâu sắc về con người và cuộc đời. “Bến quê
” là tác phẩm tiêu biểu cho đề tài đó.
Toàn bộ câu chuyện xoay quanh nhân vật Nhĩ trong những ngày cuối đời .Chuỗi nghịch lý bắt
đầu chính trong những ngày ấy. Bị cột chặt trên giuờng bệnh, Nhĩ phát hiện ra vẻ đẹp lạ lùng
của bãi bồi bên kia sông. Cảnh vật nơi ấy đẹp như thơ như hoạ: Những bông bằng lăng cuối mùa
thưa thớt nhưng đậm sắc, con sông Hồng màu đỏ nhạt, ánh nắng sớm, vùng phù sa lâu đời của
bãi bồi bên kia sông …Những cảnh sắc vốn quen thuộc gần gũi nhưng dường như rất mới mẻ đối
với anh. Chính vào lúc nhận ra vẻ đẹp và sự giàu có của bến quê cũng là lúc Nhĩ hiểu ra một
cách đau xót, bởi một người “đã từng đi tới không sót một xó xỉnh nào trên trái đất ” lại chưa
từng đặt chân lên “cái bờ bên kia sông Hồng ngay trước cửa sổ nhà mình ”.
Căn bệnh liệt gắn chặt Nhĩ vào giường bệnh. Mọi sinh hoạt của anh trông cả vào sự chăm sóc
của vợ con. Sáng hôm ấy, bằng trực giác, anh nhận ra thời gian của mình chẳng còn bao lâu
nữa, anh mới cảm nhận thấm thía về người vợ của mình. Nhĩ để ý “thấy Liên mặc áo vá ”,
“những ngón tay gầy guộc âu yếm vuốt ve bên vai anh ”, anh nói với vợ những lời xót xa, ân hận
: “Suốt đời anh chỉ làm em khổ tâm ”. Giờ đây Nhĩ mới thực sự thấu hiểu và biết ơn vợ sâu sắc
bởi “tâm hồn Liên vẫn giữ nguyên vẹn những nét tảo tần và chịu đựng hy sinh từ bao đời xưa và

cũng chính nhờ điều đó, mà sau nhiều tháng ngày bôn tẩu tìm kiếm, Nhĩ đã tìm thấy được nơi


nương tựa là gia đình trong những ngày này ”. Nhĩ -con ngưuời của một thời huy hoàng, cho đến
khi không còn khả năng đi lại mới phát hiện ra vẻ đẹp của bến quê cũng như sự tảo tần và đức
hy sinh của vợ. Trước khi ốm anh chỉ biết đến những chân trời xa ngái với những công việc cao
sang mà thờ ơ, vô tình với tất cả những gì gần gụi xung quanh, kể cả nguười vợ suốt một đời
yêu thương và tận tuỵ. Sự thấu hiểu muộn màng trong những ngày cuối đời dù sao cũng đem lại
cho anh sự bình yên, tin cậy sau cả một đời bôn tẩu, kiếm tìm.
Song nghịch lý của câu chuyện không chỉ có thế. Cũng trong buổi sáng hôm ấy, khi nhận ra vẻ
đẹp qua ô cửa sổ, Nhĩ bừng dậy nỗi khát khao cháy lòng và vô vọng là một lần được đặt chân
lên bãi bồi bên kia sông. Khát khao đó mang ý nghĩa sâu sắc bởi đó chính là sự thức tỉnh về
những giá trị bền vững, bình dị mà sâu xa của cuộc sống, những giá trị dễ bị ta vô tình, bỏ qua
và quên lãng nhất là lúc còn trẻ khi những khát vọng xa vời vẫy gọi, cuốn người ta đi. Sự nhận
thức này chỉ đến được với ta khi đã từng trải. Với Nhĩ, đó là lúc cuối đời khi phải nằm liệt trên
giường bệnh. Vì thế đó là sự thức tỉnh pha lẫn niềm ân hận xót xa : “Hoạ chăng chỉ có anh đã
từng trải, đã từng in gót chân khắp mọi chân trời xa lạ mới nhìn thấy hết mọi sự giàu có lẫn vẻ
đep của bãi bồi sông Hồng ngay bờ bên kia cả trong những nét tiêu sơ và cái điều riêng anh
khám phá thấy giống như một niềm say mê pha lẫn nỗi ân hận đau đớn ”. Với anh, bây giờ đó
thực sự là miền đất xa lắc vì Nhĩ “lực bất tòng tâm ” . Không thể tự làm điều mình khao khát, Nhĩ
nhờ con trai thay mình sang sông, đặt chân lên bãi phù sa màu mỡ. Oái oăm thay, đứa con
không hiểu ước muốn của cha ,đã đi một cách miễn cưỡng và bị cuốn vào trò chơi phá cờ thế
trên hè phố. Cậu con trai có thể lỡ chuyến đò duy nhất trong ngày. Từ đó Nhĩ nghiệm ra một qui
luật khá phổ biến của đời người “Con nguười ta trên đường đời thật khó tránh đuợc những điều
vòng vèo hoặc chùng chình”. Anh không trách con vì “nó đã thấy gì hẫp dẫn bên kia sông đâu ”.
Ở cuối truyện, khi Nhĩ tưởng tượng chính mình như một nhà thám hiểm đang chậm rãi đặt từng
bước chân lên mặt đất dấp dính phù sa. Nhĩ xúc động mạnh, chân dung anh khác thường “mặt
mũi đỏ rựng, hai mắt long lanh chứa môt nỗi say mê đầy đau khổ ”. Khi con đò sắp chạm vào bờ
đất bên này, Nhĩ thu hết tàn lực, đu người lên cửa sổ, giơ cánh tay gầy guộc “khoát khoát y như
đang khẩn thiết ra hiệu cho một người nào đó ”. Phải chăng anh đang nôn nóng thúc giục con

trai hãy mau hơn kẻo lỡ chuyến đò duy nhất trong ngày? Và duờng như nó còn có ý nghĩa khái
quát hơn: Muốn thức tỉnh mọi người vượt lên những cái vòng vèo hoặc chùng chình trên đường
đời để hướng tới những giá trị đích thực vốn rất gần gũi bình dị mà bền vững !
Bằng cách tạo dựng chuỗi nghịch lý để nhân vật tự nhận thức, suy ngẫm và cách xây dựng nhiều
hình ảnh, chi tiết mang ý nghĩa biểu tượng tác giả đã tạo nên ý nghĩa sâu xa cho tác phẩm. Ngòi
bút miêu tả thiên nhiên đẹp, tinh tế, giọng văn thầm trầm ẩn chứa những chiêm nghiệm, suy
ngẫm của tác giả đã góp phần không nhỏ tạo nên những ấn tượng riêng cho tác phẩm.
Những dòng cuối cùng của “Bến quê” khép lại nhưng dư âm từ những trải nghiệm sâu sắc của
nhà văn về cuộc đời và con người dường như vẫn còn lan toả đâu đây, thức tỉnh trong ta sự trân
trọng vẻ đẹp về những gì bình dị, gần gũi của gia đình, quê hưuơng, xứ sở.


ĐỀ: Phân tích nhân vật Phương Định trong đoạn trích truyện ngắn “Những ngôi
sao xa xôi” của Lê Minh Khuê
Nhắc đến khoảng trời Trường Sơn là nhắc đến biết bao sự hy sinh mất mát, nơi mà lính
Mỹ đã thả bom dồn dập nhằm ngăn cản bước tiền dũng mãnh của các đoàn quân tiến
về Sài Gòn giải phóng miền Nam. Nhưng Trường Sơn đâu chỉ mang trong mình bao sự
thương đau, Trường Sơn con là nơi ghi dấu của những tâm hồn tự nhiên, lạc quan của
những người chiến sĩ lái xe không kính, những chàng trai cô gái thanh niên xung phong
đã hy sinh tuổi trẻ để cống hiến cho đất nước. Là một người đã từng gắn bó với khoảng
trời bom đạn ấy, nhà văn Lê Minh Khuê đã khai thác đề tài quen thuộc đã làm nên nhiều
tên tuổi lớn trân văn đàn chống Mỹ nhưng cùng với sự sáng tạo và một chút lãng mạn
của mình, “Những ngôi sao xa xôi” của bà, đã khắc họa hình ảnh của những cô gái
thanh niên xung phong, mà tiêu biểu là nhân vật Phương Định với những vẻ đẹp hồn
nhiên vốn có của tuổi trẻ Việt Nam trong thời chống Mỹ.
Câu chuyện kể về ba cô gái, ba cô gái thanh niên xung phong Nho, Thao và Phương
Định, sống trên một cao điểm giữa mênh mông khói bụi Trường Sơn, nơi mà “màu đất
đỏ, trắng lẫn lộn”. Công việc của họ là “ngôi đây”,”khi có bom nổ thì chạy lên, đo khối
lượng đất lấp vào hồ bom, đếm bom chưa nổ và nếu cần thì phá bom”. Trong lúc đơn vị
thường làm việc khi mặt trời lặn, thì tổ trinh sát lại làm việc ban ngày, khi thần chết luôn

“lẩn trong ruột những quả bom”, khi mà lính Mỹ thả bom nhiều nhất và cái chết luôn theo
sát ba cô gái ấy. Công việc của họ là công việc quan trọng và cũng đầy gian khổ hy
sinh, đòi hỏi tinh thần dũng cảm, sự nhạy bén quyết đoán và sự nhanh nhẹn. Trong
hoàn cảnh ấy, ta mới thấy sáng ngời lên là những phẩm chất cao đẹp của ba nhân vật,
và đặc biệt là Phương Định, nhân vật chính của truyện.
Phương Định là một cô gái Hà Nội, “một cô gái khá”, chỉ vừa mới bước ra khỏi cuộc đời
hồn nhiên vô tư lự của mình. Cô có vẻ bề ngoài đáng yêu trẻ trung và xinh xắn, “ hai
bím tóc dày, tương đối mềm, một cái cổ cao, kiêu hãnh như đài hoa loa kèn”, còn đôi
mặt thì có “cái nhìn sao mà xa xăm”. Những nét đẹp của cô đã được những anh lái xe
để ý đến, bằng chứng là những bức thư dài gửi đường dây mặc dù có thể chào nhau
hằng ngày, nhưng Phương Định cũng không săn sóc vồn vã, cô gái vẫn hay đứng ra xa,
khoanh tay trước mặt và nhìn đi nơi khác mỗi khi một đám con gái xúm lại đối đáp với
một anh bộ đội nói giỏi nào đấy. Một hành động đó thôi đã làm Phương Định trở nên
thật kiêu kì, cái điệu của cô thật đáng yêu và cũng thật phù hợp với một người con gái
như vậy.
Tâm hồn cô giữa khoảng trời Trường Sơn thật làm cho người ta thật ngạc nhiên. Cô mê
hát, “thường cứ thuộc một điệu nhạc nào đó rồi bịa ra lời mà hát”, lời cô bịa lộn xộn ngớ,
ngẩn ngởn đến không ngờ, đôi lúc nó cũng làm cho cô bò ra mà cười một mình, cô
thích “những bài hành khúc bộ đội hay hát trên những ngả đường mặt trận”, cô thích
“dân ca quan họ mềm mại dịu dàng” và kể cả “Ca-chiu-sa của Hồng quân Liên Xô”, “
ngồi bó gối mơ màng: “Về đây khi mái tóc còn xanh xanh””. Và Phương Định hát khi có


sự im lặng không bình thường, “tiếng máy bay trinh sát rè rè”, cô hát để cổ động viên
hai người đồng đội Nho, Thao và cũng là hát để động viên chính bản thân mình. Chính
những lúc mê hát ấy đã làm cô quên đi cái sự buồn chán của cuộc sống Trường Sơn,
quên đi mùi khói bom đạn mà cô vẫn tiếp xúc hằng ngày, và đó cũng là bước đà để cô
có được một tâm hồn mơ mộng khi cơn mưa đá vừa ập đến. Mang theo tuổi trẻ của
mình vào Trường Sơn, Phương Định còn mang theo cả những kỉ niệm đẹp về góc phố
Hà Nội của mình, đó là hình ảnh người mẹ, cái cửa sổ, tiếng rao của bà bán xôi có cái

mủng đội trên đầu, kể cả những cú sút vô tội vạ của bọn trẻ con trong một góc phố. Cơn
mưa đá đi nhanh cũng như lúc nó vừa đến, nhưng lại mang những dòng kí ức tuổi thơ
về cho Phương Định, và tất cả như xoáy mạnh trong tâm trí cô. Có lẽ chính những điều
ấy đã tiếp thêm sức mạnh cho cô gái, để cô luôn nghĩ rằng, gia đình, bạn thân và cả
những kỉ niệm kia sẽ luôn theo cô trong suốt quãng đời ở Trường Sơn.
Tâm hồn, tính cách của Phương Định hồn nhiên như thế, nhưng nổi bật lên trên tất cả
vẫn là tinh thần dũng cảm, vượt lên trên hiểm nguy luôn ẩn chứa trong thân hình nhỏ bé
của cô gái Hà Nội kia. Đó là những lúc mà bom của giặc Mỹ vẫn còn chưa nổ, và cô
phải làm nhiệm vụ của mình, còn thần chết thì có vẻ vẫn đang “lẩn trong ruột những quả
bom” chờ đợi cô. Tuy vậy, Phương Định vẫn tỏ ra thật bình thản, cái chết thì cô có nghĩ
đến nhưng lại là “một cái chết mờ nhạt, không cụ thể”, mà cô quan tâm nhất là liệu bom
có nổ hay không, không thì làm cách nào để châm mìn lần thứ hai, cô luôn đặt nhiệm vụ
của mình lên hàng đầu. Và trong những lúc phá bom như vậy, ta vẫn còn thấy thấp
thoáng cái sự nhạy cảm, tinh tế trong cảm xúc của cô, “một tiếng động sắc đến gai
người, cứa vào da thịt tôi. Tôi rùng mình và bỗng thấy tại sao mình làm quá chậm.
Nhanh lên một tí! ! Vỏ quả bom nóng. Một dấu hiệu chẳng lành.”, phải là một người bình
tĩnh mới có dược những cảm nhận chân thực như vậy. Chính những lúc đó, ta mới thấy
được cái sự dũng cảm của cô gái. Công việc không có một chút gì là an toàn, nhưng do
“quen rồi”, ngày nào cũng phải phá bom đến năm lần, ngày nào ít thì ba lần, mà
Phương Định luôn cố gắng hoàn thành nhiệm vụ của mình.
Và trong cái sự dũng cảm ấy, ta vẫn thấy Phương Định luôn thường trực một tình cảm
đồng chí đồng đội nồng ấm và chân thành. Đó là tấm lòng vị tha với mọi người mà cô
quan tâm, cô lo lắng khi Thao lên cao điểm chưa về, cô tận tình, vỗ về chăm sóc Nho
khi cô ấy bị thương lúc phá bom. Ngược lại, chính tình cảm đồng chí đồng đội, đã làm
cho Phương Định thêm một chút tự tin, ấm lòng khi được sống giữa tình yêu thương
của mọi người. Hiểu được công việc của mình là gian khổ, nhưng Phương Định vẫn
luôn ngưỡng mộ “những người mặc quân phục, có ngôi sao trên mũ” bởi họ là những
đẹp nhất, thông mình, can đảm và cao thượng nhất. Những lúc chạy đi phá bom, vẫn
mang một chút lo sợ trong người, nhưng nhờ những cái nhìn của những người chiến sĩ,
đã dập tan đi nỗi sợ trong cô và chỉ còn một mục tiêu hoàn thành nhiệm vụ, “ cảm thấy

có ánh mắt các chiến sĩ dõi theo mình, tôi không sợ nữa. Tôi sẽ không đi khom. Các
anh ấy không thích cái kiểu đi khom khi mà có thể đàng hoàng mà bước tới”.
Trong truyện ngắn, nhân vật kể chuyện cũng là nhân vật chính, điều đó giúp cho tác
phẩm càng trở nên chân thực, những cảm xúc, thế giới nội tâm của nhân vật đều được
thể hiện tự nhiên rõ nét, vẽ lên một khoảng trời mộng mơ ngay giữa Trường Sơn mênh
mông và ác liệt.
Mang trong mình những phẩm chất cao đẹp, Phương Định xứng đáng là biểu tượng của
những cô gái thanh niên thời chồng Mỹ, là hình tượng người con gái Việt Nam trong
thời gian chiến đấu, là đại diện của thế hệ trẻ Việt Nam thời kháng chiến chống Mỹ.
Cũng giống như tựa đề “Những ngôi sao xa xôi”, những con người được ví như vì sao


lấp lánh giữa bầu trời đêm, mang trong mình những phẩm chất đáng quý, “xa xôi” là bởi
vì phải ngắm nhìn thật kỹ thì mới có thể thấy được những tâm hồn cao đẹp ấy.

Bài 4: Phân tích hình ảnh con cò trong bài thơ " Con cò" - CLV
Con cò là hình ảnh quen thuộc với làng quê Việt Nam tự bao đời. Chính vì thế mà từ lúc
nào không biết, hình ảnh cò đã đi vào ca dao, dân ca Việt Nam một cách bình thường
nhưng lại mang ý nghĩa sâu sắc biểu trưng cho hình tượng người phụ nữ Việt Nam chịu
thương chịu khó. Và cũng có khi hình ảnh cò được mượn để ví cho thân phận người phụ
nữ thấp bé trước xã hội phong kiến lúc bấy giờ. Cảm nhận từ tình mẹ thiêng liêng, cảm
nhận vẻ đẹp sâu sắc của hình ảnh cò, tác giả Chế Lan Viên đã mượn chất liệu là những
bài ca dao, dân ca Việt Nam để dệt nên bài thơ "Con cò" ca ngợi tình mẫu tử thiêng liêng
và nỗi nhọc nhằn nuôi con khôn lớn của người phụ nữ, người mẹ. Bài thơ đã nhanh
chóng được mọi người biết đến và trở thành một trong những tác phẩm tiêu biểu viết về
tình mẹ.
Khổ thơ đầu được viết một cách nhẹ nhàng, êm, ái:
Con còn bế trên tay
Con chưa biết con cò
Nhưng trong lời mẹ ru

Có cánh cò đang bay
"Con cò bay la
Con cò bay lả
Con cò cổng phủ
Con cò Đồng Đăng"
Cò một mình, cò phải kiếm lấy ăn
Con có mẹ, con chơi rồi lại ngủ
"Con cò ăn đêm
Con cò xa tổ
Cò gặp cành mềm
Cò sợ xáo măng..."


Ngủ yên! ngủ yên! Cò ơi, chớ sợ
Cành có mềm, mẹ đã sẵn tay nâng
Trong lời ru của mẹ thấm hơi xuân
Con chưa biết con cò, con vạc
Con chưa biết cành mềm mẹ hát
Sữa mẹ nhiều, con ngủ chẳng phân vân.
Đúng là đứa trẻ còn quá bé bỏng để hiểu được thế nào là "con cò", "con vạc", thế nhưng
ngay từ giấc ngủ đầu nôi, người mẹ đã nhẹ nhàng đem cánh cò đến với con bằng lời ru
dịu dàng, nồng ấm. Điệp từ "con cò" được nhắc đi, nhắc lại ở câu bốn đến câu tám của
khổ thơ đầu như một điệp khúc ngân nga, nhịp nhàng. Người đọc cảm nhận được trong
thơ có nhạc. Nhạc điệu là lời ru của mẹ đối với con, là lời kể, tả của mẹ về hình ảnh cò
trong dân gian cho con nghe. Hình ảnh "con cò bay la,..... bay lả", từ "cổng phủ" cho đến
"Đồng Đăng" miêu tả hình ảnh cò thung dung bay lượn một cách tự do trên khắp mọi nẻo
quê hương, trở thành biểu tượng gắn bó với làng quê Việt Nam. Hình ảnh cò "xa tổ", cò
"ăn đêm", sợ gặp "cành mềm", sợ bị "xáo măng" gợi hình ảnh cò lẻ loi một mình đi kiếm
mồi trong đêm tăm tối có muôn vàn cạm bẫy đang chực chờ phía trước. Phải chăng, tác
giả muốn nhắc đến thân phận yếu đuối của người phụ nữ và nỗi vất vả gian truân trong

cuộc mưu sinh để nuôi con âm thầm, khi bên ngoài xã hội còn nhiều cạm bẫy đang chực
chờ. Mặc dù người mẹ biết con mình còn quá bé bỏng trước cuộc đời. Nhưng mẹ muốn
hát cho con nghe để con hình thành tình yêu thương đối với những gì thuộc về quê
hương, đất nước, hiểu được tình thương bao la mà mẹ dành cho con. Bên cạnh đó, mẹ
muốn con hãy yên tâm trước cuộc đời, vì đã có mẹ chở che trong câu: "sữa mẹ nhiều, con
ngủ chẳng phân vân". Đọc đến đây, ta cảm động trước tình mẹ bao la, sâu sắc, vỗ về, chở
che ta từ khi còn tấm bé. Để rồi, khi ta từng bước trưởng thành, vẫn có mẹ bên cạnh xẻ
chia:
Ngủ yên! Ngủ yên! Ngủ yên!
Cho cò trắng đến làm quen
Cò đứng ở quanh nôi
Rồi cò vào trong tổ
Con ngủ yên thì cò cũng ngủ
Cánh của cò, hai đứa đắp chung đôi.
Mai khôn lớn con theo cò đi học
Cánh trắng cò bay theo gót đôi chân
Lớn lên! Lớn lên! Lớn lên!
Con làm gì?
Con làm thi sĩ!
Cánh cò trắng lại bay hoài không nghỉ
Trước hiên nhà và trong hơi mát câu văn.
Khổ thơ thứ hai có thể chia làm ba giai đoạn, tựu chung lại vẫn là ý nghĩa của hình ảnh cò
gắn bó mật thiết và trở nên người bạn đồng hành đối với cuộc đời con trẻ từ lúc ấu thơ
cho đến khi trưởng thành.
Đoạn đầu từ:
Ngủ yên! Ngủ yên! Ngủ yên!
Cho cò trắng đến làm quen
Cò đứng ở quanh nôi
Rồi cò vào trong tổ



Con ngủ yên thì cò cũng ngủ
Cánh của cò, hai đứa đắp chung đôi.
Là mối tương quan mật thiết giữa cò với con trẻ trong suốt thời thơ ấu. Cò "đứng ở quanh
nôi", rồi cò "vào trong tổ"; còn có ngủ thì cò mới ngủ. Hình ảnh cò tới đây không còn là
hình ảnh con cò giản dị nữa, mà đã ẩn dụ cho hình tượng người mẹ chăm sóc, vỗ về, ấp
iu cho con từng miếng ăn, giấc ngủ. Khi con lớn hơn một chút thì tình yêu mẹ dành cho
con như thế nào? Đoạn thứ hai:
" Mai khôn lớn con theo cò đi học
Cánh trắng cò bay theo gót đôi chân"
là hình ảnh đồng hành của người mẹ với con mình trong thời niên thiếu. Buổi ban đầu
chập chững bước vào cuộc đời, đứa trẻ cần lắm đôi tay dìu dắt của mẹ. Thế nhưng, người
mẹ sẽ không dìu dắt con mãi mãi, mà theo năm tháng, mẹ tập cho con tự bước đi trên đôi
chân chính mình. Có thể thấy: ban đầu, thì cò dắt con đi học. Nhưng dần dà, cánh trắng
cò chỉ bay theo gót chân con. Khi con đến giai đoạn niên thiếu, tình thương của mẹ dành
cho con đã có cách thể hiện khác. Mẹ không còn nâng niu con nữa, mà chỉ đồng hành bên
con, dõi theo mỗi bước chân con. Mẹ muốn con tự đi trong cuộc đời bằng đôi chân của
chính mình. Vì chỉ có thế, bước chân con mới vững chãi, không sợ bị vấp ngã. Ta cảm
nhận được tình mẹ vừa sâu sắc, lại vừa phong phú, cách thể hiện đa dạng. Một lần nữa, ta
hiểu thêm về mẹ, chợt nhận hối hận ra ta cũng đã có lúc hiểu lầm về mẹ. Đoạn thứ ba nói
lên hình ảnh cò-hình ảnh mẹ đã đi vào tiềm thức, hóa nên tâm hồn phong phú cho con
người khi trưởng thành:
Lớn lên! Lớn lên! Lớn lên!
Con làm gì?
Con làm thi sĩ!
Cánh cò trắng lại bay hoài không nghỉ
Trước hiên nhà và trong hơi mát câu văn.
Cho dù lúc trưởng thành con có làm bất cứ nghề nghiệp gì, thì hình ảnh mẹ luôn là nguồn
cảm xúc dạt dào, là chất xúc tác giúp con thành công hơn trên bước đường công danh sự
nghiệp. Hình ảnh thân thương của mẹ trở nên ý nghĩa lớn lao với cuộc đời mỗi người.

Khổ thơ thứ ba thật giản dị mà lại gây nên xúc động với người đọc bởi lời mẹ chân tình,
tha thiết:
Dù được gần con
Dù ở xa con
Lên rừng, xuống bể
Cò sẽ tìm con
Cò mãi yêu con
Con dù lớn, vẫn là con của mẹ
Đi hết đời, lòng mẹ vẫn yêu con.
Phải chăng đây cũng chính là lời tự sự của tất cả những người mẹ có con cái đã trưởng
thành, có khung trời và lối đi riêng? Cho dù bất cứ nơi đâu, bất cứ hoàn cảnh nào, mẹ vẫn
dang rộng vòng tay yêu thương, vẫn là bến bờ, là điểm tựa cho con bởi:" con dù lớn vẫn
là con của mẹ". Thế nên "đi hết đời, lòng mẹ vẫn theo con". Có biết bao nhiêu thứ tình
cảm trên đời, nhưng có tình nào bao la, sâu sắc và vô tận như tình mẹ dành cho ta.
Bài thơ được mở đầu bằng những câu hát ru và kết lại cũng bằng lời ru à ơi:


À ơi!
Một con cò thôi
Con cò mẹ hát
Cũng là cuộc đời
Vỗ cánh qua nôi
Ngủ đi! Ngủ đi!
Cho cánh cò, cánh vạc
Cho cả sắc trời
Đến hát
Quanh nôi.
Lời ru đến lúc này sao thắm đượm quá đỗi tình mẫu tử thiêng liêng của mẹ.
Lại một lần nữa các cụm từ:"ngủ đi", "cánh cò, cánh vạc", "nôi" được nhắc lại nhằm gợi
về kỉ niệm tuổi thơ, nhắc nhớ về giấc ngủ đầu nôi cũng là dấu ấn thiêng liêng trong tâm

thức của mỗi người.
Chế Lan Viên đã sáng tác bài thơ này với một sự chiêm nghiệm sâu sắc về tình mẹ con.
Ông đã thể hiện niềm yêu kính đối với hình tượng người mẹ bằng giọng thơ nhẹ nhàng,
trau chuốt.
Tình mẹ, chắc có lẽ trong tâm thức mỗi con người đều cảm nhận được. Thế nhưng, với
bài thơ "Con Cò" của Chế Lan Viên, ta như được trãi nghiệm và hiểu thêm một cách sâu
sắc về ý nghĩa của tình mẹ
1.
Bài 5: Phân tích bài thơ "Nói với con" của Y Phương
Sinh ra và lớn lên trên mảnh đất Trùng Khánh - Cao Bằng ,thấm nhuần những tinh hoa, cái đẹp
của dân tộc Tày , Y Phương (1948) là một nhà thơ tiêu biểu cho các dân tộc miền núi ."Thơ Y
Phương như một bức tranh thổ cẩm đan dệt nhiều màu sắc khác nhau ,phong phú và đa dạng
,nhưng trong đó có một màu sắc chủ đạo ,âm điệu chính là bản sắc dân tộc rất đậm nét và độc
đáo .Nét độc đáo đó nằm ở cả nội dung và hình thức .Với Y Phương ,thơ của dân tộc Tày nói
riêng và thơ Việt Nam nói chung có thêm một giọng điệu mới ,một phong cách mới "( Từ điển
tác giả ,tác phẩm văn học Việt Nam ).
Đi từ đề tài quen thuộc :tình cảm cha con ,phụ tử thiêng liêng ,nhưng với Y Phương ,trong làng
thơ Việt Nam đã có thêm một lối đi ,1 giai điệu mới . Khác với "Chiếc lược ngà ",tình cha con
được đặt trong hoàn cảnh éo le của chiến tranh ,tình cha con trong bài thơ được thể hiện qua lời
tâm tình của người cha .Người cha đã bộc lộ lòng yêu thương con qua ước mong con sống xứng
đáng ,phát huy truyền thống của,gia đình , quê hương.
Mượn lời người cha nói với con về tình yêu thương của cha mẹ ,sự đùm bọc của quê hương với
con ,nhà thơ đã gợi về nguồn sinh dưỡng trong mỗi người chúng ta .Mở đầu bài thơ là khung
cảnh gia đình ấm cúng ,đầy ắp tiếng nói cười .Mười một câu thơ như tràn đầy những đầm ấm
,yên vui của tình cảm gia đình ,tình cảm quê hương :
"Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười
Người đồng mình yêu lắm con ơi

Đan lờ caì nan hoa
Vách nhà ken câu hát
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng
Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới


Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời ."
Một mái nhà có mẹ có cha và con hạnh phúc vì được sống hạnh phúc trong tình yêu thương .Cha
mẹ đã dìu dắt ,nâng đỡ con từ những bướcđi đầu tiên ,đã tìm thấy niềm vui từ con .Hơn thế nữa
,con còn được sinh ra ,lớn lên trong tình yêu thương ,vẻ đẹp của "đồng mình ". "Người đồng
mình" yêu lắm con ơi !" Lao động tuy vất vả nhưng cuộc sống của "người đồng mình"tươi vui,
mà rất ngọt ngào . Dáng vẻ tuy thô sơ , công việc tuy nặng nhọc (đan lờ , ken vách ) nhưng tâm
hồn "người đồng mình "lãng mạn biết bao nhiêu :Họ làm một cách nghệ thuật những công việc
của mình (cài nan hoa ,câu hát ) .Con thật hạnh phúc vì con được sống giữa những con người
như vậy -- những con người khéo tay ,yêu thiên nhiên ,yêu lao động, lạc quan và nhân hậu
.Thiên nhiên đồng mình cũng rất đẹp : Rừng núi quê hương thơ mộng đã dành cho con những gì
tinh tuý nhất (hoa ) ,đã nuôi dưỡng con về cả tâm hồn ,lối sống ,"tấm lòng ". Và từng ngày ,con
đã lớn lên …có cha mẹ nâng đón và mong chờ ,có thiên nhiên thơ mộng, có cuộc sống lao động
gắn bó .Con đã trưởng thành trong nghĩa tình của quê hương như vậy đó . Nói với con những
điều đó ,cha mong cho con hiểu những tình cảm cội nguồn đã sinh dưỡng con ,để con yêu cuộc
sống hơn .
Dặn dò con về quê hương ,về "đồng mình ", cha càng muốn con phải khắc cốt ghi xương nơi
mình đã sống ,đã trưởng thành . Cuộc sống của "người đồng mình " vất vả ,gian nan "thương
lắm con ơi ": "Sống trên đá ..đá gập ghềnh / Sống trong thung ..thung nghèo đói ../Lên thác
xuống ghềnh ..cực nhọc .." Nhưng tự hào lắm con ơi ,người đồng mình đã,đang và sẽ luôn sống
đẹp .Họ có sức sống mạnh mẽ :vất vả nhưng khoáng đạt ,gắn bó với quê hương .Họ " ko chê ,ko
lo "gian khổ, mà vẫn sống tràn đầy "như sông như suối " .Họ mộc mạc,chân chất nhưng giàu ý
chí ,niềm tin ,mong xây dựng quê hương tốt đẹp hơn :
"Người đồng mình thô sơ da thịt

Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục ".
Sự đối lập giữa bên ngoài :"thô sơ da thịt" nhưng bên trong ko hề nhỏ bé về tâm hồn ,người
đồng mình có ý chí tự làm chủ cuộc sống của mình. Qua "sự liên tưởng phong phú sáng tạo "tự
đục đá kê cao quê hương ",người đồng mình là những con người lao động cần cù ,có nghị lực
,niềm tin ,mà tầm vóc ,nỗi buồn ,chí hướng của họ là cái cao ,xa chiều kích của trái đất (Cao đo
nỗi buồn /Xa nuôi chí lớn ) .Họ giữ gìn bản sắc dân tộc mà vẫn làm rạng rỡ quê hương như vậy
bởi họ yêu quê hương sâu nặng và luôn lấy quê hương làm chỗ dựa tinh thần .Người cha muốn
con yêu là yêu những điều đó , yêu những đức tính cao đẹp của người đồng mình .
Cả đoạn thơ như âm vang trong những lời tự hào ,sự gắn bó và tình yêu tha thiết của người cha
về quê hương .Nó như trở thành một hành khúc mạnh mẽ ngợi ca quê hương .Và ,lời nhắc nhở
của người cha với con chính là một nốt nhấn kết lại bản hành khúc của quê hương :
"Con ơi tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Ko bao giờ được nhỏ bé
Nghe con ".
Cho con thấy tình yêu thương ,niềm tin tưởng của cha ,người cha mong con biết sống sao cho
tốt ,cho xứng đáng với tình cảm của cha .Cho con hiểu cuộc sống của người đồng mình ,người
cha muốn con cảm thương với những khó khăn ,vất vả để khao khát đi xây dựng quê hương .Ca
ngợi những đức tính cao đẹp của người đồng mình ,cha đã truyền cho con vẻ đẹp sức mạnh của
truyền thống quê hương ,mong con sống có tình nghĩa ,biết chấp nhận gian khó ,vươn lên bằng
ý chí của mình ,vững vàng trên đường đời.
Điều lớn lao nhất mà người cha muốn truyền cho con chính là lòng tự hào với quê hương và


niềm tự tin khi bước vào đời .Nói với con mà chính là cha đã trao tặng cho con .Cha đã vun đắp
cho con những tình cảm tốt đẹp , cho con một hành trang quý và đã sẵn sàng tung cánh cho con
bay đi khắp mọi nơi .
Bài thơ ko dài với 28 câu thơ tự do ,có câu 2 chữ ,có câu 10 chữ ,tất cả bay theo cảm xúc tự

nhiên ,dạt dào của ý thơ .Giọng thơ tha thiết ,trìu mến . Ngọt ngào làm sao từng tiếng nhắc
nhở ,dặn dò " yêu lắm con ơi ", "thương lắm con ơi " ,"Con ơi ..nghe con !" .Đẹp làm sao các
hình ảnh thơ vừa cụ thể, mộc mạc,cô đọng mà vừa phong phú ,sinh động,giàu chất thơ."Rừng
cho hoa / Con đương cho những tấm lòng …".Những đặc sắc về nghệ thuật cộng hưởng hài hoà
với những cung bậc tình cảm khác nhau của cha đã tạo nên dư âm sâu lắng cho bài thơ .Tiếng
thơ trong "Nói với con " là tiếng lòng của Y Phương ,tiếng lòng về tình yêu và niềm tự hào đối với
quê hương ,dân tộc .
Tiếng cha nói với con hay chính là lời trao gửi thế hệ vậy !

2. Phân tích bài thơ " Nói với con" - Y Phương

Xưa nay tình mẫu tử là đề tài phong phú cho thơ ca. Nhưng những bài thơ về tình cha con thì có
lẽ khá ít. Bài thơ "Nói với con" cuả Y Phương là 1 trong những tác phẩm hiếm hoi đó. Bài thơ thể
hiện tình cảm gia đình êm ấm, tình quê hương tha thiết, ngọt ngào và ngợi ca truyền thống
nghĩa tình, sức sống mạnh mẽ của người dân tộc miền núi.
Cảm nhận đầu tiêntrong lời cha nói là hình ảnh con lớn lên trong tình yêu thương của cha
mẹ, sự đùm bọc, che chở của người đồng mình, của quê hương. Bài thơ mở ra với khung cảnh
gia đình ấm cúng, đầy ấp giọng nói tiếng cười:
Chân phải....
....tiếng cười.
Khung cảnh ấy đẹp như 1 bức tranh: hình ảnh em bé ngây thơ lẫm chẫm tập đi, bi bô tập
nói trong vòng tay, trong tình yêu thương, chăm sóc, nâng niu của cha mẹ; hình ảnh cha mẹ
giang rộng vòng tay, chăm chút từng bước đi, từng bước đi, từng nụ cười, tiếng nói của con. Gia
đình chính là cái nôi êm ái, tổ ấm để con sống, lớn khôn và trường thành trong niềm yêu thương
con cái. Đó là không khí thường thấy trong các gia đình hạnh phúc. Nhưng cách diễn đạt ở đay
có nét độc đáo riêng cảu người miền núi: nói bằng hình ảnh cụ thể. Điệp ngữ "bước tới", trong
tình cảm người cha, ko khỏi niềm sung sướng, tự hào.
Không chỉ có gia đình, con còn lớn lên, trưởng thành trong cuộc sống lao động, trong quê
hường sâu nặng nghĩa tình:
Người đồng mình yêu lắm con ơi

...........tấm lòng
Một cách nói rất riêng, rất ngộ : "người đồng mình", là người miền mình, người vùng mình,
là những người cùng sống trên 1 miền đất, cùng quê hương, cùng 1 dân tộc. Đó là cách nói mộc
mạc, mang tính địa phương của dân tộc Tày nhưng giàu sức biểu cảm, Tác giả vận dụng lối diễn
đạt của người dân tộc miền núi để xây dựng hình ảnh thơ. Những suy nghĩ, tình cảm, cảm xúc
đều được diễn tả trực tiếp bằng hình ảnh. Đan lờ để bắt cá, dưói bàn tay của người Tày, những
nan trúc, nan tre đã trở thành "nan hoa". Vách nhà ko chỉ ken bằng gỗ mà còn đc ken bằng "câu
hát". Rừng đâu chỉ cho nhìêu gỗ quý, lâm sản mà còn cho hoa. Ba đông từ "đan", "cài", "ken"
còn thể hiện sự đoàn kết, gắn bó cuả quê hương. Lao động đã đem đến cho con bao điều tốt


đẹp, "người đồng mình" và quê hương ấp ủ, nuôi sống con trong tình thương yeu, trong tình
đoàn kết buôn làng. Và con đường đâu chỉ để đi mà nó còn cho "những tấm lòng" nhân hậu, bao
dung, nghĩa tình. Con đường đó là hình bóng thân thuôc của quê hương, còn in dấu những bước
chân đi xuôi ngược, làm ăn sinh sống của buôn làng, nên nó mang 1 ý nghĩa thật to lớn trong
quá trình khôn lớn của con. Sung sứong nhìn con khôn lớn, nha thơ suy ngẫm về tình làng bản
quê nhà, về cội nguồn hạnh phúc:
Cha mẹ ...
....trên đời
Không chỉ gọi cho con về nguồn sinh dưỡng, cha còn nói với con về những đức tính cao đẹp
của "người đồng mình" và ước mơ của cha về con. Đó là lòng yêu lao động, hăng say lao động
với cả tấm lòng. Đó là sức sống bền bỉ mạnh mẽ vượt qua mọi khó khăn, gian khổ.
Người đồng mình thương lắm con ơi
...........Không lo cực nhọc
Trước hết đó là tình thương yêu, đùm bọc nhau. Cách nói mộc mạc mà chứa đựng bao ân
tình rất cảm động đó được lặp đi lặp lai như một điệp khúc trong bài ca. Chính tình thưong đó là
sức mạnh để "người đồng mình" vượt qua bao gian khổ cuộc đời. Những câu thơ ngắn, đối xứng
nhau "cao đo nỗi buồn xa nuôi chí lớn" diễn tả thật mạnh mẽ chí khí của "người đồng mình":
sống vất vả, nghèo đói, cực nhọc, lam lũ nhưng có chí lớn, luôn yêu quý tự hào, gắn bó với quê
hương. Đó là phẩm chất thứ hai. Thứ ba, về cách sống, người cha muốn giáo dục con sống phải

có nghĩa tình, chung thủy với quê hương, biết chấp nhận vượt qua gian nan, thử thách bằng ý
chí và niềm tin của mình. Không chê bai, phản bội quê hưong : "không chê...không chê....không
lo" dù quê hương còn nghèo, còn vất vả. "Người đòng mình sống khoáng đạt, hồn nhiên, mạnh
mẽ "như sông như suối-lên thác xuống ghềnh-ko lo cực nhọc". Lời cha nói với con mà cũng là lời
dạy con về bài học đạo lý làm người. Đoạn thơ rất dồi dào nhạc điệu, tạo nên bởi điệp từ, điệp
ngữ, điệp cấu trúc câu và nhịp thơ rất linh họat , lúc vươn dài, khi rút ngắn, lời thơ giản dị, chắc
nịch mà lay động, thấm thía, có tác dụng truyền cảm manh mẽ.
Để nhắc nhở giáo dục con, người cha nhấn mạnh truyền thống của người đồng mình:
Người đồng mình thô sơ da thịt
.......Nghe con
Truyền thống ấy thật đáng tự hào, tuy "thô sơ da thịt", ăn mặc giản dị, áo chàm, khăn piêu,
cuộc sống mộc mạc thiếu thốn... nhưng ko hề nhỏ bé về tâm hồn, ý chí nghị lực và đặc biệt là
khát vọng xây dựng quê hương. Họ xây dựng quê hương bằng chính sức lực và sự bền bỉ của
mình: "tự đục đá kê cao quê hương". Họ sáng tạo, lưu truyền và bảo vệ phong tục tốt đẹp của
mình biết tự hào với truyền thống quê hương, dặn dò con cần tự tin, vững bước trên đường đời,
ko bao giờ được sống tầm thường, nhỏ bé, ích kỷ. Hai tiếng "nghe con" kết thúc bài thơ với tấm
lòng thương yêu, kỳ vọng, vừa là lời dặn dò nhắc nhở chí tình của người cha đối với đứa con
thân yêu. Hai tiếng ấy nghe sao mà thân thương trìu mến quá.
Bài thơ có giọng điệu nhò nhẹ, chân tình và rất mới lạ trong phong cách, một phong cách
miền núi với ngôn ngữ "thổ cẩm" rất độc đáo, với cảm xúc, tư duy rất riêng. Qua đó, Y Phương
đã thể hiện tình cảm gia đình ấm cúng, ca ngợi truyền thống cần cù, sức sống mạnh mẽ của quê
hưong và dân tộc mình. Bài thơ giúp ta hiểu thêm sức sống và vẻ đẹp tâm hồn của 1 dân tộc
miền núi, gợi nhắc tình cảm gắn bó với truyền thống, với quê hương và ý chí vươn lên trong cuộc
sống.




×