Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Điều trị mụn trứng cá (bài dịch)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (8 MB, 7 trang )

Điều trị mụn trứng cá
Người dịch : Cao Thị Thu Huyền, Nguyễn Mai Hoa

Nguồn: CMAJ 2011; 183(7): 430-435

Nội dung chính;
- Những phương pháp điéu trị hiệu q uả hướng tòi
m ột hay n hiều cơ ch ế sinh bệnh học của m ụn trứng cá
và các liệu pháp phối hợp th u ố c cho hiệu quả cao hơn
đơn trị liệu.
- Dùng th u ố c bôi ngoài da là phưdng pháp điều trị
chuẩn m ụn trứng cá từ th ể nhẹ đến vừa.
- Các th u ố c đường toàn th ân th ườ ng được sử dụng
cho m ụn trứng cá th ể vừ a đến nặng , đem lại hiệu quả
khi dùng kháng sinh đường uống trong vòng 6 tu án.

- Liệu pháp hormon là lựa chọn điéu trị hàng thứ hai

ởphụ

n ữ b ị m ụ n t r ứ n g c á c ó h a y k h ô n g c ó b iể u h iệ n

tảng tiế ta n d ro g e n .

Ảnh : TL

Bệnh mụn trứng cá có tác động đáng kể đến
chất lượng cuộc sổng của bệnh nhân, ảnh hưởng
tới sự tự tin và sự phát triển về tâm lý xâ hội. Nhiều
loại thuóc kê đơn hay không cần kê đơn hiện gây
khó khăn cho bác sĩ và bệnh nhân trong việc chọn


lựa các thuốc này.
Bài viết đề cập vể cách tiếp cận thực hành
trong điều trị mụn trứng cá, tập trung vào việc
đánh giá mức độ nặng, phương pháp bôi ngoài da
và vai trò của liệu pháp điều trị toàn thân trong
bệnh mụn trứng cá.
Mụn trứng cá là một rối loạn viêm tuyến bã và
phổ biến ở lứa tuổi vị thành niên. Các tổn thương
đặc trưng là mụn trứng cá có nhân mở (đẩu đen)
và nhân đóng (đẩu trắng), viêm sẩn, mụn mủ, sẩn

66 'NghiênCứuduộc Thôngtlnthuõc i Số2/2012

và mụn bọc, có thể dẫn đến sẹo hoặc thay đổi sắc
tố (hình 1 đến 4). Có nhiều yếu tố gây nên mụn
trứng cá, bao gồm sự sừng hóa bất thường của
tuyến nang, tăng tiết bâ nhờn thứ phát do tăng
sinh nội tiết tó androgen, sự phát triển của vi
khuẩn Propionibacterium acnes và quá trình viêm.
Tổn thương xảy ra trước hết ở vùng mặt, cổ,
phía trên lưng và ngực. Khi đánh giá độ nặng của
mụn trứng cá, cẩn xem xét sự phân bố mụn (lưng,
ngực, cánh tay), loại và số lượng mụn (mụn nhân,
mụn sẩn, mụn mủ, mụn bọc) và sự xuất hiện hay
biến mất của sẹo mụn (bảng 1).


Loại

IV


Đ ộ nặng

Mô tả lám sàng

NhF

Mụn trứng cá có nhân m ở và đóng với vài nốt sân và m ụn mù

Trung bình

Nốt sẩn và m ụn m ủ, chủ yếu trên m ặt

Nặng vừa

Nhiều nốt sần và m ụn m ủ, đôi chổ có nốt viêm , cả ở trên ngực và lưng

Nặng

Nhiễu nốt viêm lớn, gây đau và m ụn mù

CÓ rất nhiều loại dạng của mụn, như: mụn
trứng cá cụm (acne conglobata); mụn trứng cá ác
tính, dạng bọc to, sưng, gây sốt (acne fulminans);
mụn trứng cá viêm tấy do nặn (excoriated acne);
mụn trứng cá do nguyên nhân cơ học (acne
mechnica); mụn trứng cá do tiếp xúc với hóa
chất có chứa do (chloracne); mụn trứng cá do
thuốc (như steroid, corticosteroid, isoniazid, lithi,
phenytoin); mụn trứng cá ở trẻ nhỏ và mụn trứng

cá do nghề nghiệp. Những dạng mụn trên có biểu
hiện lâm sàng và bệnh cảnh tương tự như mụn
thông thường, nhưng có thể được phân biệt bởi
tình trạng lâm sàng, mức độ nặng và các triệu
chứng liên quan. Các chẩn đoán phân biệt thường
gặp về mụn trứng cá bao góm viêm nang lông,
dày sừng nang lông, viêm da quanh miệng, viêm
da tiết bâ và chứng đỏ mặt do mụn.

Những nguyên nhân chính
Việc chẩn đoán mụn trứng cá chủ yếu dựa trên
lâm sàng.Thăm khám và kiểm tra thể trạng có thể
giúp xác định được nguyên nhân cơ bản gây ra
mụn, chẳng hạn như mụn do một loại thuốc nào
đó hay do nội tiết tố gây tăng tiết androgen (như
hội chứng buồng trứng đa nang). Những biểu
hiện khác trên da do quá nhiều androgen là tăng
tiết bâ nhờn, rậm lông và rụng tóc. ở những phụ
nữ có chu kì kinh nguyệt bình thường, không cán
kiểm tra chức năng hệ nội tiết đểu đặn. Nên xét
nghiệm nóng độ androgen toàn phần và nóng độ
testoteron, dihydroepiandrosteron tự do, nồng
độ hormon kích thích thể vàng (LH) và kích thích
nang trứng (FSH) trong máu ở những phụ nữ lớn
tuổi hơn, đặc biệt là người mới bị mụn trứng cá và
các dấu hiệu do dư thừa androgen (như rậm lông,
rụng tóc, kinh nguyệt không đểu, vô sinh). Siêu
âm vùng chậu có thể giúp chẩn đoán buổng trứng
đa nang. Với trẻ trước tuổi dậy thì bị mụn trứng
cá, dẫu hiệu của tăng tiết androgen bao gồm lớn


Hlnh ỉ Độ III (nậng vừa) mụn trứng cá có nhiéu nốt lớn
đau và mụn mủ cũng như một vàinổt viẻm

Hình 4. Độ IV (nặng) mụn trứng cá với nhiéu nót viêm
tớn và mụn mù cũng như sẹo mụn

nhanh, mọc lông mu hoặc nách, cơ thể có mùi, bộ
phận sinh dục và xương phát triển.
Điếu trị mụn trứng cá nên nhằm vào việc giảm
mức độ nặng và sự tái phát của các tổn thương da
củng như cải thiện thẩm mĩ. Điều này phụ thuộc
vào độ nặng, lứa tuổi và lựa chọn của bệnh nhân
cũng như sự tuân thủ và đáp ứng điều trị trước
đó (bảng 2). Các phương pháp điều trị khác nhau
hướng đến những giai đoạn khác nhau trong sinh
bệnh học của mụn trứng cá, từ việc làm giảm nội
tiết tổ androgen và giảm sản xuất bâ nhờn tới
ngăn ngừa tắc tuyến bã, giảm vi khuẩn gây mụn
và giảm viêm.
Nhiều nghiên cứu về phương pháp điều trị
mụn trứng cá là những thử nghiệm nhỏ so sánh
các thuốc với placebo hoặc các nghiên cứu lớn
hơn so sánh những công thức khác nhau của cùng
một loại thuốc.

SỐ 2/20 12

Nghiên cứu duộc Thòng tln thuõc 67



sảng 2. Thuóc điễu trị mụn

Đ ộ nặng, m ô tà lâm
sàng

NHỊ
Mụn cám
Nốt sần/m ụn mủ

Các lựa chọn điểu trị
Lựa chọn đáu tiên

Lựa chọn th ay thê

Retinoid bôi ngoài

Retinoid bôi ngoài khác
Acid salicylic dạng th uốc rửa

Retinoid bôi ngoài
Th uốc kháng khuẩn bôi ngoài

Retinoid bôi ngoài khác, kèm thêm
th u õ c kháng khuẩn bôi ngoài khác
Acid salicylic dạng th u ố c rửa

Benzoyl peroxid
Clind am ycin
Erythrom ycin

Các ch ế phẩm phối hợp
Trung bình
Nốt sẩn/m ụn tnù

Kháng sinh đường uống
Tetracyclin
Erythrom ycin
Trim etho prim - Sulfamethoxazol
Retinoid bôi n g o à i: benzoyl peroxid

Kháng sinh đường uống khác
Retinoid bôi ngoài khác
Benzoyl peroxid

Nốt viêm

Kháng sinh đường uống
Retinoid bôi n g o à i: benzoyl peroxid

Isotretinoin đường uống
Kháng sinh đường uống khác
Retinoid bôi ngoài khác
Benzoyl peroxid

Nặng

Isotretinoin đường uống

Kháng sinh đường uống liéu cao
Isotretinoin bôi ngoài

Benzoyl peroxid

Chú ỷ : Đỗi với mụn ưửng cá ànữgiởi, các thuỡc tránh thai đườỉìg uốnghoặcthuốckhàng ũììdrogen
nhưípironoloaon có thê’ lư ợ c đùng thay cho các cách ĩié u trị trén.

Hiệu quả của thuốc bôi ngoài da
Thuốc bôi da là phương pháp cơ bản để chăm
sóc mụn từ thể nhẹ tới trung bình. Retinoid và các
chất kháng khuẩn như benzoyl peroxid và kháng
sinh là những thuốc chù yếu được dùng trong điểu
trị mụn trứng cá. Những phương pháp điều trị này
có hiệu quả tại chỗ và có thể giúp ngăn ngừa tổn
thương mới. Tác dụng phụ thường gặp nhất là
kích ứng da. Gel, miếng đắp, các dung dịch rửa có
xu hướng giúp làm khô và cải thiện tình trạng da
nhờn.Thuốc nước, kem bôi và thuốc mỡ có lợi cho
da khô và nhạy cảm. Hấu hết quá trình dùng thuốc
kéo dài ít nhất 6 đến 8 tuần trước khi thấy rỏ được
hiệu quả và có thể tới vài năm nếu cắn thiết.
Retinoid
Mục tiêu chính của việc điều trị trứng cá là
nhân mụn nhỏ. Liệu pháp bôi ngoài da bằng
retinoid tác động vào các tê' bào sừng để ngăn
chặn sự sừng hóa quá mức và tác nghẽn nang.
Điểu này cũng giúp giảm giải phóng cytokin gây
viêm. Phương pháp điều trị này làm giảm số lượng
mụn và tổn thương viêm từ 40% đến 70%. Tác
dụng phụ thường gặp nhất là kích ứng, như ban
đỏ và tróc da. Bệnh nhân cẩn được hướng dẫn để


ban đầu dùng một lượng thật nhỏ. Đáp ứng tối ưu
thể hiện sau 12 tuần. Điều trị duy trì liên tục có thể
ngăn ngừa mụn lan rộng.
Thuốc bòi da phổ biến nhất thuộc nhóm
retinoid là tretinoin, adapalen và tazaroten. Một
phân tích gộp của 5 thử nghiệm mù ngẫu nhiên
đa trung tâm trên 900 bệnh nhân cho thấy thuóc
gel adapalen 0,1% có hiệu quả ngang bằng, nhưng
lại ít gây kích ứng hơn thuốc gel tretinoin 0,025%.
Nồng độ retinoid khác nhau ảnh hưởng đến khả
năng dung nạp. Một phương pháp thường dùng
là bát đáu ở nổng độ thấp nhất và tăng lên đến
nóng độ cho hiệu quả điều trị.
Thuốc kháng khuẩn
Các thuốc kháng khuẩn bôi ngoài, bao gồm
benzoyl peroxid và kháng sinh có hiệu quả trên
những dạng viêm. Benzoyl peroxid là một thuốc
kháng khuẩn giúp ngăn ngừa sự kháng thuốc
kháng sinh của p. acnes, có đặc tính kháng viêm và
trị mụn mức độ vừa. Thuốc này thích hợp dùng ở
nhiều dạng bào chế, từ nồng độ 2,5% đến 10,0%.
Có thể bắt đẩu dùng ở bất cứ nóng độ nào, mặc dù
để thận trọng hơn có thể bắt đầu từ nổng độ thấp;
các chế phẩm có nồng độ cao hơn dễ gây kích ứng
hơn và chưa chắc đã hiệu quả hơn. Benzoyl peroxid


l í
diệt p. acnes bằng cách giải phóng oxy vào bên
trong các nang. Thuốc có thể có tác dụng nhanh,

có hiệu quả trong vòng 5 ngày. Nhược điểm chính
: thuốc là một chất tẩy trắng. Bệnh nhân cần được
cảnh báo không để benzoyl peroxid bám vào các
loại vải, như khăn tắm, khăn trải giường và quần
áo vì có thể bị tẩy trắng.
Thuốc bôi erythromycin và clindamycin nhìn
chung dung nạp tót và một sổ thử nghiệm ngẫu
nhiên có đối chứng cho thấy những thuốc này giúp
giảm tổn thương viêm từ 46% tới 70%. Không nên
chl thường xuyên sử dụng một kháng sinh tại chỗ
vì p. a cnes có thể kháng thuốc trong vòng 1 tháng
sau khi điểu trị hàng ngày, vẫn có một số tranh
luận cho rằng việc kháng thuốc có thể không
đáng kể với các kháng sinh như clindamycin,
tetracyclin, erythromycin có tác dụng chống viêm
nội tại và kháng khuẩn. Các chủng Sta p hyloco ccu s
epidermidls và Sta p hyloco ccu s aureus kháng kháng
sinh cùng có thể phát triển nếu chỉ dùng một loại
kháng sinh, tuy nhiên có thê’ tránh kháng thuốc
bằng cách dùng kết hợp kháng sinh bôi ngoài da

với benzoyl peroxid.
Phác đồ điều trị phối hợp
Phác đổ điểu trị phối hợp như retinoid và
kháng sinh có hiệu quả hơn là chỉ dùng một loại
thuốc. Tuy nhiên, không nên bôi thuốc cùng lúc
trừ khi chắc chắn các thuốc tương hợp với nhau.
Benzoyl peroxid có thể oxy hóa retinoid (ví dụ
treinoin) nêu như dùng thuốc đỏng thời. Một
thử nghiệm ngẫu nhiên có đổi chứng trong 12

tuần trên 249 bệnh nhân bị mụn từ thể nhẹ đến
vừa cho thấy điểu trị bằng gel adapalen 0,1% và
clindamycin 1,0% có hiệu quả hơn chỉ dùng riêng
clindamycin 1,0%. Nếu có tổn thương viêm, kháng
sinh dùng ngoài da có chứa benzoyl peroxid nên
sử dụng kết hợp với một thuốc retinoid bôi ngoài
(như kháng sinh bôi dùng với benzoyl peroxid vào
buổi sáng và retinoid vào buổi tối). Một tổng quan
vể 3 nghiên cứu lâm sàng trên 1259 bệnh nhân
cho thấy việc dùng kết hợp clindamycin 1% với
benzoyl peroxid 5% có hiệu quả trong việc giảm
tổn thương và ngăn ngừa p. acnes hơn chl dùng
riêng từng thuốc.
Điểu trị bằng thuốc không cần kê đơn
Trước khi đi khám, bệnh nhân thường đâ điều
trị bằng các thuốc không cẩn kê đơn. Các thuốc

này rất đa dạng, thuận tiện, ít tốn kém và ít bị kích
ứng so với khi dùng các thuốc kê đơn. Tuy nhiên,
không có đủ bằng chứng để đánh giá và so sánh
hiệu quả của các thuốc không cẩn kê đơn.
Các thuốc không kê đơn phổ biến nhất như
Proactiv có chứa benzoyl peroxid nhưng ở nồng
độ thấp hơn so với các thuốc kê đơn. Proactiv, một
bộ các sản phẩm làm sạch da chứa hoạt chất là
benzoyl peroxid 2,5%, được cho là một dòng mỹ
phẩm trị mụn nhẹ nhàng giúp giảm thiểu kích
ứng. Các nhà sáng ché ra Proactiv cũng đưa ra thị
trường Chế phẩm dịu nhẹ (Gentle Formula) khi
thay thế benzoyl peroxid bằng acid salicylic cho

người bị dị ứng hay không dung nạp thuốc. Đâ có
một số nghiên cứu đánh giá hiệu lực của Proactiv.
Một nghiên cứu nhãn mở trên 23 bệnh nhân bị
mụn từ nhẹ đến vừa, tổn thương viêm giảm ở 39%
bệnh nhân dùng kết hợp butenifin (một allylamin)
và benzoyl peroxid so với 34% khi dùng Proactiv.
Nước rửa có chứa acid salicylic 2% khá hiệu
quả nhưng chưa có tác dụng tốt bằng bôi retinoid
để trị mụn. Mặc dù thuốc này được dùng từ nhiều
năm nay, vẫn còn thiếu những thử nghiệm lâm
sàng được thiết kê' tốt để đánh giá hiệu quả và
độ an toàn của thuốc. Bằng chứng của việc dùng
kẽm, resorcinol, lưu huỳnh và nhôm clorid còn hạn
chế hoặc không khả quan.
Không có bằng chứng rõ ràng cho việc vệ sinh
kém gây ra mụn hay rửa mặt thường xuyên giúp
làm giảm mụn. Bệnh nhân cẩn được hướng dẫn
rửa mặt nhẹ nhàng bằng nước ấm và xà bông hai
lần/ngày, việc chà xát có thể gây tổn thương cho
mụn. Những loại xà bông có hiệu quả cẩn phải có
chứa benzoyl peroxid.
Bệnh nhân cắn đảm bảo rằng tất cả nhửng sản
phẩm chăm sóc da mặt của mình bao gổm cả kem
chống nắng đểu không gây ra mụn. Người bệnh
cũng nên tránh sử dụng những loại mĩ phẩm có
chứa dầu. Một số sản phẩm ngừa mụn có chứa
chất chống nắng.
Điều trị bằng thuốc theo đường toàn thân
Bệnh nhân bị mụn nhẹ có thể điéu trị bằng
thuốc bôi ngoài.Tuy nhiên, những người bị mụn

vừa đến nặng cần phải điều trị bằng thuốc theo
đường toàn thân. Kháng sinh, thuốc có bản chất
hormon và isotretinoin là các thuốc chủ yếu
điểu trị mụn trứng cá được sử dụng theo đường
toàn thân.

SỐ 2/20 12

Nghiên cứu dược Thõng tỉn thuòc 69


Kháng sinh
Khi các thuốc bôi ngoài khòng có hiệu quả hay
khòng dung nạp hay trong trường hợp bị mụn vừa
đến nặng, đặc biệt khi bị mụn ở ngực, lưng và cổ,
cẩn cân nhắc điéu trị bằng kháng sinh đường toàn
thân trong đợt điều trị kế tiếp (bảng 3). Tuy nhiên,
một thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng về 5 liệu
pháp kháng khuẩn cho thấy việc bôi đéu đặn các
thuốc kháng sinh kết hợp với benzoyl peroxid có
thể có hiệu quả tương tự.
Có thể quan sát được hiệu quả của thuốc
kháng sinh đường uống sau ít nhất 6 tuần điều
trị. Nếu duy trì kiểm soát trong vòng vài tuần, có
thể ngừng sử dụng kháng sinh từ từ và chỉ tiếp tục
sử dụng thuốc bôi ngoài. Không nên điều trị mụn
thể nhẹ bằng kháng sinh sử dụng theo đường
toàn thân bởi có nguy cơ gây kháng thuốc. Có thể
cân nhắc việc sử dụng thêm các thuốc bòi ngoài
không phải kháng sinh kết hợp với kháng sinh

đường uổng. Retinoid bói ngoài với kháng sinh
uống có thể có đáp ứng nhanh hơn và có hiệu quả
hơn chỉ dùng riêng từng thuốc.
Điểu trị bằng tetracyclin và erythromycin giúp
giảm p. ơcnes trong các nang mụn, do đó ức chế sự
sản xuất cytokin gây viêm do vi khuẩn. Các thuốc
này cũng có đặc tính chóng viêm, như ức chê bạch
cầu và hoạt tính lipase của vl khuẩn.
Minocyclin và doxycyclin cũng ức chế các
cytokin và metalloproteinase được cho là có thể
thúc đẩy phản ứng viêm và tổn thương mô. Dù p.
acnes có tỷ lệ kháng tetracỵclin từ 20% đến 60%
thì cũng không chắc điểu này thực sự quan trọng
trong việc điều trị mụn.
Kháng sinh đường uống cho thây hiệu quả
trong việc làm giảm tổn thương viêm (từ 52%
đến 67%) nhưng những bằng chứng về điều này
còn hạn chế. Có thể thử dùng liều cao hơn nếu
việc điểu trị không có hiệu quả. Doxycyclin và
minocyclin được coi là có hiệu quả hơn tetracyclin.
Erythromycin được sử dụng khi bệnh nhân bị
chống chỉ định với tetracyclin (như phụ nử có thai
và trẻ em dưới 9 tuổi), dù đề kháng erythromycin
xảy ra phổ biến hơn những kháng sinh khác.
Liệu pháp hormon
Các thuốc có bản chất hormon là liệu pháp
hàng thứ hai để điểu trị mụn trứng cá ở nữ giới bị
bất kỳ rối loạn nội tiết nào. Không cẩn thiết phải có
các biểu hiện tăng tiết androgen quá mức mới đạt


được hiệu quả từ liệu pháp kháng androgen. Quan
sát lâm sàng cho thấy các nốt mụn nằm sâu phía
dưới vùng mật và cổ có đáp ứng đặc biệt với liệu

pháp điểu trị bằng nội tiết tố.
Các thử nghiêm lâm sàng cho thấy thuốc tránh
thai đường uống chứa estrogen có thể hữu ích,
các công thức bào chế khác nhau được cho là làm
giảm nóng độ testosteron tự do bằng cách tăng
globulin liên kết với hormon giới tính và được coi
là có hiệu quả tương tự. Việc lựa chọn thuốc uõng
tránh thai kết hợp cần được dựa trên đáp ứng bệnh
nhân và tác dụng bất lợi tiểm tàng. Chưa rõ liệu
các biện pháp tránh thai có estrogen khác (như
đặt vòng, miếng dán tránh thai) có hiệu quả hay
không. Các thuốc tránh thai chỉ chứa progesteron
có thể làm tình trạng mụn nặng hơn.
Một thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng
trên 128 bệnh nhân nữ cho thấy tổn thương do
mụn giảm 63% khi dùng 35 |jg ethinylestradiol
và 3 mg drospirenon, giảm 59% khi dùng 35 ng
ethinylestradiol và 2 mg cyproteron acetat. cẩn

điều trị bằng liệu pháp kháng androgen thường
xuyên trong ít nhất 3 đến 6 tháng để thấy được
tiến triển rõ rệt.
Có thể dùng thêm thuốc kháng androgen
đường uống spironolacton nếu các thuốc
tránh thai đường uống không có hiệu quả.
Spironolacton là một chất ức chế 5a-reductase khi

dùng ở liều cao. Spironolacton thường được dùng
đơn độc hay như một thuốc hỗ trợ ở liều 50 - 200
mg/ngày cho thấy hiệu quả trong điều trị mụn
mặc dù tài liệu dẫn chứng còn hạn chế. Tuy vậy,
bệnh nhân nên được cảnh báo vẽ những tác dụng
bất lợi có thể xảy ra, bao gồm tăng kali máu, kinh
nguyệt không đều và gây nữ hóa ở thai nhi nam.
Chỉ dùng liệu pháp kháng androgen có thể thành
công, nhưng mụn có thể tái xuất hiện khi ngừng
dùng thuốc trên gán một nửa số phụ nữ. Điều trị
kết hợp với thuốc bôi ngoài da hay thuốc kháng
sinh đường uống đạt được hiệu quả rõ rệt hơn.
Isotretinoin
Isotretinoin tác động lên mọi cơ chế của mụn
- thay đổi tình trạng sừng hóa bất thường, giảm
tiết bả nhờn tới 70%, giảm sự cư trú của p. acnes
và chống viêm. Chỉ định của isotrenitoin bao gồm
sẹo mụn, mụn trứng cá thể nặng và khả năng cải
thiện bệnh ít hơn 50% khi dùng kháng sinh đường
uống hoặc liệu pháp hormon sau 4 tháng. Điều trị
bằng isotretinoin cẩn phải được giám sát chặt chê
bởi các phản ứng có hại có thể xảy ra bao gổm khả


Ip

năng gây quái thai, tăng triglycerid máu và viêm
tụy, độc cho gan, rối loạn máu, tăng sinh xương,
cốt hóa sớm các đấu xương và quáng gà. Thêm
vào đó các phản ứng nặng trên da đâ được báo

cáo, như hổng ban đa dạng, hội chứng Stevens
Johnson và hoại tử thượng bì nhiễm độc. Dù quan
hệ nhân quả chưa được xác lập nhưng bệnh nhân
cũng cần được cảnh báo về nguy cơ trầm cảm, ý
nghĩ tự tử và rối loạn tâm thẩn và cẩn được theo
dõi chặt chẽ.
Trước khi bệnh nhân dùng isotretinoin đường
uống, cần làm xét nghiệm máu ban đẩu, bao gổm
đo nồng độ lipid trong huyết tương, đếm số lượng
tê bào máu toàn phẩn và từng thành phần, xét
nghiệm men gan và nồng độ đường huyết (và xét
nghiệm chẩn đoán có thai cho phụ nữ ở độ tuổi
sinh sản). Những xét nghiệm này cấn được tiến
hành hàng tháng trong quá trình điều trị. ở phụ
nữ độ tuổi sinh sản, hai phương pháp tránh thai
nên sử dụng trong khi điều trị và duy trì 1 tháng
sau khi điều trị, nếu như bệnh nhân chưa cắt bỏ tử
cung hoặc có hoạt động tình dục.
Các tác dụng phụ trên da của isotretinoin gổm
khô mát, mũi, môi và viêm da. Bệnh nhân nên sử
dụng nước mắt nhân tạo, dùng nhiều chất dưỡng

ẩm cho mũi, môi và da.
Theo một nghiên cứu quan sát trong vòng 10
năm trên 88 bệnh nhân, những người đã dùng
liều tích lũy isotretinoin 120-150 mg/kg có tỷ lệ tái
phát thấp hơn đáng kể (30%) so với những người
dùng ít hơn 120 mg/kg (82%). Một đợt điều trị bổ
sung có thể được ké cho bệnh nhân có xuất hiện
mụn trở lại sau khi ngừng sử dụng isotretinoin.

Các biện pháp điều trị thay thê' khác
Các liệu pháp điều trị từ dược liệu như sử dụng
tinh dầu tràm dường như được dung nạp tót. Tuy
nhiên, có rất ít dử liệu vé hiệu quả và độ an toàn
trong điều trị mụn. Một thử nghiêm lâm sàng
cho thấy bôi tinh dầu tràm có hiệu quả nhưng
tác dụng chậm hơn các thuốc bôi thông thường
khác.Thư viện Cochrane cũng đang tiến hành một
tổng quan hệ thống vế tác dụng của các liệu pháp
trong điểu trị mụn trứng cá bổ sung hoặc thay thế.
Các phương pháp vật lý trị liệu
Các phương pháp vật lý để điều trị mụn bao
gồm nặn hút mụn cám, lột da bằng hóa chất và
mài da vi mô, tiêm corticosteroid, quang trị liệu
với dải sáng hẹp và cường độ cao, cùng như tiêm
chất độn và xóa sẹo mụn bằng tia Laser.Tuy nhiên,
bằng chứng về hiệu quả của các phương pháp này

Bảng3. Điẽutrị mụn bângkhángsinh đườnguóng
Kháng sinh, liéu lượng

Chú ý

Tetracyclin, 250 - 500 mg, 2 lán/ngày

C hi phí thấp
Chóng chỉ định với phụ n ữ có th ai và trẻ em dưới 9 tuổi
BỊ tạo phức ch elat khi dùng cùng antacid hoặc sữa, nên uống khi đói

M inocyclin, 50 - 200 m g/ngày


D oxycyclin, 100 - 200 m g/ngày

Có thể dùng trong bữa ăn
Chống chi định với phụ n ữ cỏ thai và trẻ em dưới 9 tuổi
Phản ứng bát lợi: chóng m ặt, thay đổi sắc tố, viêm gan, triệu chứng
giống với bệnh lupus
Có th ể dùng trong bữa ăn
Có thể dùng cho bệnh nhân suy thận
Chống chi định cho phụ n ữ có th ai và trẻ em dưới 9 tuổi
Phản ứng bất lợi: rối loạn tiêu hóa, quang độc t ín h ... (nặng nhất
trong só các th uốc nhóm tetracylin )

Eryth ro m ycin , 500 mg, 2 lãn/ngày

An toàn với phụ n ữ có thai và trẻ em
Phản ứng bất lợi: có thể gây rối loạn tiêu hóa
42% bênh nhân có th ể đâ có đé kháng cùa p.acnes

Trim etho prim /sulfam etho xazol, 80/400 mg
ho ặc 160/800 mg, 4 lẩn/ngày

Hiệu q uả trên bệnh nhân bị kháng các loại kháng sinh khác
Phản ứng bất lợi: 3% - 4% bệnh nhân bị ngứa, nguy cơ phản ứng da
n ghiêm trọng n h ư hội chứng Stevens Johnson

Sô 2/2012

Nghiên Cứu dược Thõng tin thuốc 71



trong y văn v ln còn hạn chế. Kết quả của những
nghiên cứu thí điểm với quy mô nhỏ chứng minh
cho phương pháp lột da bằng hóa chất và một số
bằng chứng cho thấy tác dụng của phương pháp
tiêm corticosteroid đối với việc điều trị các tổn
thương viêm.
Điều trị cho trẻ em và phụ nữ có thai
Điéu trị mụn ở trẻ em tương tự như ở người
lớn. Do trẻ dễ bị kích ứng với các thuốc bôi ngoài
da hơn, nên bắt đẩu sử dụng từ nồng độ thấp.
Thuốc sử dụng theo đường toàn thân dùng cho
các trường hợp nặng hơn. Với trẻ dưới 9 tuổi,
nên dùng erythromycin thay vì tetracyclin bởi
tetracyclin có thể ảnh hưởng đến sự phát triển của
sụn và răng.
Mặc dù việc điểu trị mụn bằng isotretinoin ẩn
chứa nguy cơ tiềm ẩn của nhiểu tác dụng phụ mức
độ nhẹ đối với bệnh nhân ở mọi lứa tuổi, một biến
chứng hiếm gặp ở bệnh nhân trẻ tuổi là cốt hóa
sớm các đẩu xương. Nhìn chung biến chứng này
xảy ra khi dùng isotretinoin với liều cao với mục
đích rút ngắn thời gian điểu trị.
Lựa chọn phương pháp điều trị thích hợp cho
phụ nữ có thai có thể khá khó khăn bởi nhiều
thuốc trị mụn có thể gây quái thai, cẩn phải tránh
dùng tất cả các thuốc retinoid dạng bôi ngoài và
đặc biệt là dạng uống. Các thuốc uống khác như
tetracyclin và kháng androgen cũng bị chóng chỉ


V

định đối với phụ nữ có thai. Nên cân nhắc sử dụng
erythromycin để bôi và uống.
Điều mới trong điều trị mụn
Các thử nghiệm đang được tiến hành với các
phương pháp hiện có ở các nổng độ và cách kết
hợp khác nhau. Việc kết hợp một thuốc kháng
nấm allylamin với benzoyl peroxid có thể làm tăng
hiệu quả của benzoyl peroxid trong điéu trị mụn
cũng như ngăn chặn kháng kháng sinh. Thuốc bôi
dapson 5% dạng gel là một lựa chọn mới để điểu
trị mụn. Một thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng
quy mô lớn đa trung tâm tiến hành trên những
thanh niên bị mụn cho thấy rằng khi bôi gel 2 lần/
ngày tại chỗ mụn, 40% ở nhóm điểu trị và 28% ở
nhóm dùng placebo (p<0,001) đạt được hiệu quả
mong muốn sau 12 tuán. Một thử nghiệm tương
tự và một nghiên cứu bổ sung đã chỉ ra rằng
thuốc gel dapson 5% bôi ngoài khá an toàn cho
những bệnh nhân thiếu hụt glucose-6-phosphat
dehydrogenase (G6PD) do di truyền.
Cẩn có thêm nghiên cứu để giải quyết những
tranh luận kéo dài về vai trò của chế độ ăn uống
đối với mụn. Củng cẩn có so sánh trực tiếp các
phương pháp điểu trị sâu hơn với các thử nghiệm
dài hạn để quyết định phương pháp điều trị tối
ưu cũng như chứng minh tác dụng lên chất lượng
sống và hiệu quả lâu dài của thuốc.




×