Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Epoetin alfa và chứng bất sản hồng cầu đơn thuần (PRCA) khi sử dụng đường tiêm dưới da cho bệnh nhân mắc bệnh thận mạn tính (bài tổng hợp)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (16.5 MB, 5 trang )

t h ô n g t in t h u ố c - c ả n h g i A c d ư ợ c

Epoetin alfa và chứng bất sản hồng cẩu
đơn thuần (PRCA) khi sử dụng đường
tiêm dưởi da cho bệnh nhân mắc bệnh
thân mạn tính
Trần Thúy Ngắn, Nguyễn Hoàng Anh (tổng hợp)
Vài nét về epoetin alfa và chứng bất sản hồng
cầuđamthuan(PRCA)
Epoetin alfa là thuốc có nguổn gốc sinh học được
sử dụng tại nhiều nước để điểu trị thiếu máu nặng
trên bệnh nhân suy thận mạn, hóa trị liệu ung thư,
bệnh nhân nhiễm HIVđiểu trị bằng zidovudin và giúp
bệnh nhân truyền máu tự thân giảm tiếp xúc với máu
ngoại vi trong phẫu thuật theo chương trình [1-4],
Chứng bất sản hổng cầu đơn thuần là bệnh rối
loạn sản sinh hổng cẩu nghiêm trọng hiếm gặp với
thời gian tiểm tàng kéo dài khoảng từ 2 - 90 tháng
sau khi sử dụng các thuốc kích thích tạo hổng cẩu
(ESA). Hội chứng này được mô tả bởi tình trạng thiếu
máu nghiêm trọng, số lượng hổng cẩu lưới thấp (<
10.000 tế bào/ml), hẩu như không tìm thấy nguyên
hồng cẩu (<5%), số lượng bạch cẩu và tiểu cẩu
thường ít thay đổi và đặc biệt có sự có mặt kháng
thể trung hòa kháng erythropoietin. Các kháng thể
này có khả năng phản ứng chéo với các erythropoi­
etin khác nhau. Bệnh nhân thường đáp ứng với các
thuốc kích thích tạo hổng cầu trong vòng khoảng
6 tháng với nồng độ hemoglobin ổn định, sau đó
nồng độ hemoglobin giảm nhanh và đột ngột với


tốc độ khoảng 1g/dưtuẩn. Tinh trạng thiếu máu của
bệnh nhân ngày càng nghiêm trọng và không đáp
ứng với liểu cao hơn các thuốc kích thích tạo hồng

cẩu dẫn đến phụ thuộc truyển máu (khoảng 4 đơn vị
khối hồng cẩu/tháng). Một số nguyên nhân khác có
thể gây PRCA bao gổm PRCA mắc phải liên quan tới
các khối u, bệnh lý tự miễn, bệnh tế bào lympho T và
nhiễm virus [3-6],

234 ;Nghiên cúuduọclhổng tin thuõc Sỗ6/2013

Số liệu vê' báo cáo PRCA ghi nhận trên toàn thếgiới
Tính đến ngày 15/09/2001,40 trường hợp PRCA
xảy ra trên bệnh nhân mắc bệnh thận mạn tính điểu
trị bằng Eprex (epoetin alfa) xác định hoặc nghi ngờ
đã được ghi nhận, hẩu hết các trường hợp xảy ra sau
năm 1998 [1].Tỷ lệ PRCA trên bệnh nhân mắc bệnh
thận mạn tính điểu trị bằng Eprex ước tính khoảng
dưới 1/10000 [1,3,4],
Tính đến ngày 25/06/2002, số trường hợp PRCA
ở bệnh nhân suy thận mạn điểu trị bằng Eprex ghi
nhận trên toàn thế giới là 124 trường hợp, trong
đó có 104 trường hợp đã được xác nhận bằng
kết quả tủy xương đổ. Trong số 79 trường hợp
có thông tin vể kháng thể kháng erythropoietin,
kết quả dương tính ghi nhận trên 63 trường hợp.
Trung vị khoảng thời gian kể từ khi sử dụng Eprex
đến khi phát hiện PRCA là 11 tháng, dao động từ
1 đến 92 tháng. Tại thời điểm đó, tỷ lệ dùng Eprex

trên toàn thế giới là 16,62 X 105 bệnh nhân - năm
với tỷ lệ PRCA ước tính là 7,5/100.000 bệnh nhân
- năm [7,8].
Đa số các báo cáo PRCA ghi nhận trên thế giới
đểu liên quan đến việc dùng Eprex đường tiêm dưới
da.Từgiữa những năm 1990, việc sửdụng Eprextrên
bệnh nhân suy thận mạn trong đa số các trường hợp
được chuyển từ đường tiêm tĩnh mạch sang đường
tiêm dưới da ở hắu hết các nước. Dựa trên dữ liệu
trong 5 năm 1998 - 2002, tỷ lệ báo cáo PRCA ước
tính khoảng 0,66/ 100.000 bệnh nhân - năm đối với
đường tiêm tĩnh mạch so với 19,52/100.000 bệnh
nhân - năm đối với đường tiêm dưới da [8].


PRCA liên quan đến epoetin alfa và quyết đình của
ctf quan quản lý Dược phẩm của một số quốc gia
Canada
Ngày 26/11/2001, theo yêu cầu của Cơ quan
Quản lý Dược phẩm Canada, công ty Janssen đã có
thư gửi cán bộ y tế cập nhật các thông tin mới vể độ
an toàn của Eprex do một số báo cáo vể PRCA xảy
ra trên bệnh nhân suy thận mạn đã được ghi nhận
trong quá trình thuốc lưu hành trên thị trường. Tại
Canada, tính đến thời điểm đó đã ghi nhận 7 báo cáo
PRCA nghi ngờ hoặc xác định trên bệnh nhân điều trị
bằng Eprex.
Công ty Janssen khuyến cáo cán bộ y tê' cẩn theo
dõi các đáp ứng trên lâm sàng của bệnh nhân khi sử
dụng Eprex.Trong trường hợp hiệu quả của thuốc bị

giảm hoặc mất đột ngột, tình trạng thiếu máu trắm
trọng thêm; cẩn đánh giá những nguyên nhân khác
có thể gây hiện tượng này như thiếu hụt sắt, folat,
vitmin BI 2; nhiễm độc nhôm, nhiễm khuẩn hoặc
viêm, mất máu và thẩm tách máu.Nếu nghi ngờ
PRCA và không phát hiện ra các nguyên nhân khác,
cẩn ngừng Eprex, làm xét nghiệm kháng thể kháng
erythropoietin và tủy xương đồ. Bệnh nhân không
nên chuyển sang các erythropoietin khác do kháng
thể có khả năng phản ứng chéo giữa các erythropoi­
etin. Cắn loại trừ các nguyên nhân khác có thể gây
PRCA và áp dụng các biện pháp xử trí phù hợp.
Công ty Janssen cũng đề xuất cập nhật các thông
tin trên vào mục Tác dụng không mong muốn và
Cảnh báo thận trọng trong tờ hướng dẫn sử dụng
của thuốc. Công ty nhấn mạnh công tác bảo quản
thuốc theo đúng hướng dẫn trong tờ hướng dẫn sử
dụng và trên jao bì sản phẩm: bảo quản chế phẩm
ở nhiệt độ 2 - 8°c trong bao gói ban đẩu và không
để đông đá. Cán bộ y tế cũng cẩn trao đổi với bệnh
nhân để đảm bảo việc tuân thủ các thông tin bảo
quản chê' phẩm một cách chặt chẽ trong trường hợp
bệnh nhân tự sử dụng thuốc tại nhà [1].
Ngày 25/06/2002, Janssen tiếp tục gửi thư tới cán
bộ y tế cập nhật những thông tin mới nhất vể độ an
toàn của epoetin. Tính đến 30/04/2002, đả ghi nhận
được 27 báo cáo nghi ngờ PRCA. Tỷ lệ sử dụng Eprex
trên bệnh nhân suy thận mạn tại Canada khoảng
1,02 X 105 bệnh nhân - năm và tỷ lệ mắc PRCA tại


Canada là 19,6/100.000 bệnh nhân - năm. Công ty
thông báo đang tiến hành nghiên cứu sâu hơn để
đánh giá các yếu tố có thể là nguyên nhân gây PRCA.
Trong thời gian chờ kết quả, Janssen tiếp tục nhấn
mạnh những khuyến cáo trước đây và đưa thêm
khuyến cáo mới về việc sử dụng EprexTheo đó,
ưu tiên sử dụng Eprex đường tiêm tĩnh mạch trên
bệnh nhân suy thận mạn (trước thẩm tách, thẩm
tách máu hoặc thẩm phân phúc mạc). Trong trường
hợp không thể dùng đường tĩnh mạch, có thể dùng
đường tiêm dưới da nhưng cẩn đặc biệt thận trọng
cân nhắc lợi ích/nguy cơ [8].
Ngày 15/01/2004, trong thư của Janssen gửi cán
bộ y tế, số lượng báo cáo PRCA trên bệnh nhân suy
thận mạn sử dụng Eprex được cập nhật đến ngày
31/08/2003 là 42 báocáo.Tại Canada, Eprex lưu hành
dưới 2 dạng; dạng ống chứa chất bảo quản là albu­
min huyết thanh người (HSA) và dạng xi lanh đóng
sẵn thuốc có chứa chất bảo quản là polysorbat 80
(HSA-free). Hẩu hết các ca PRCA được báo cáo trên
bệnh nhân suy thận mạn điểu trị bằng Eprex dạng
xi lanh đóng sẵn thuốc chứa chất bảo quản polỵsorbat 80 đường tiêm dưới da. Do đó, trước khi tìm
ra nguyên nhân gây PRCA, để giảm thiểu nguy cơ,
Janssen đưa ra khuyến cáo mới đối với việc sử dụng
Eprextại Canada như sau:
Cẩn lưu ý việc sử dụng protein người tái tổ
hợp đường tiêm dưới da có thể gây các phản ứng
miễn dịch.
Đối với chế phẩm Eprex dạng ống có chứa
HSA làm chất bảo quản: Khi sử dụng trên bệnh nhân

suy thận mạn, ưu tiên dùng đường tĩnh mạch cho
bệnh nhân thẩm tách máu và thẩm phân phúc mạc.
Trong trường hợp không thể dùng đường tiêm tĩnh
mạch, có thể dùng đường tiêm dưới da sau khi đã
cân nhắc kỹ lợi ích/nguy cơ.
Đối với chế phẩm Eprex dạng xilanh đóng
sẵn chứa polysorbat 80 làm chất bảo quản (HSAfree): Chỉ nên sử dụng đường tiêm tĩnh mạch cho
bệnh nhân suy thận mạn [9].
Anh
Ngày 19/11/2001, Cơ quan Quản lý Dược phẩm
và Sản phẩm ỵ tế Anh (MHRA) có cảnh báo về các
trường hợp PRCA liên quan đến Eprex đã ghi nhận
trên toàn thế giới. Đồng thời, MHRA khuyến cáo


cán bộ y tế cẩn theo dõi chặt chẽ tình trạng đáp
ứng thuốc của bệnh nhân. Trong trường hợp hiệu
quả của thuốc giảm đột ngột, cẩn đánh giá các
nguyên nhân khác có thể gây tình trạng không đáp
ứng (thiếu hụt sắt, folat, vitamin BI 2; nhiễm độc
nhôm; nhiễm khuẩn hoặc viêm; mất máu và thẩm
tách máu). Nếu không phát hiện nguyên nhân khác
và nghi ngờ PRCA, cẩn tiến hành xét nghiệm tủy
xương đổ, xét nghiệm kháng thể kháng erythropoietin.Trong trường hợp xác định chắc chắn PRCA và
đâ loại trừ các nguyên nhân khác gây PRCA, ngừng
Eprex và có biện pháp xử trí thích hợp. Bệnh nhân
không nên chuyển sang erythropoietin khác do
kháng thể có khả năng phản ứng chéo giữa các
erỵthropoietin [3].
Ngày 27/09/2005, MHRA thông báo chống chỉ

định đường tiêm dưới da cho bệnh nhân mắc bệnh
thận mạn tính do có mối liên quan chặt chẽ giữa việc
sử dụng Eprex đường tiêm dưới da trên bệnh nhân
mắc bệnh thận mạn tính và sự gia tăng các ca PRCA.
MHRA cũng cập nhật những thay đổi quan trọng
trong tờ hướng dẫn sử dụng của Eprex bao gổm:
- Chống chỉ định Eprex đường tiêm dưới da cho
bệnh nhân suy thận mạn.
- Định kỳ theo dõi số lượng hồng cầu lưới để phát
hiện kịp thời các trường hợp đột ngột giảm hoặc mất
hiệu quả điểu trị.
-Tuân thủ chặt chẽ hướng dẫn bảo quản Eprex
(2 - 8°C) trên bao bì sản phẩm và trong tờ hướng dẫn
sử dụng [ 10].
Úc
Bản tin Cảnh giác Dược của úc tháng 8/2002 đã
cập nhật tình hình PRCA liên quan đến việc sử dụng
Eprex và những cảnh báo mới nhất từ công ty gửi tới
cán bộ y tế. Theo đó, Eprex nên được dùng đường
tĩnh mạch để giảm nguy cơ xảy ra các phản ứng
miễn dịch. Trong trường hợp tình trạng thiếu máu
của bệnh nhân tiến triển trẩm trọng và không đáp
ứng với thuốc, cẩn loại trừ các nguyên nhân khác có
thể gây kém đáp ứng. Nếu nghi ngờ PRCA, cẩn xác
định bằng tủy xương đồ và xét nghiệm kháng thể.
Trường hợp xác định chắc chán PRCA, cẩn ngừng
dùng Eprex và bệnh nhân không nên chuyển sang
các thuốc khác cùng nhóm do kháng thể có khả
năng phản ứng chéo [6].


Pháp
Ngày 20/11/2001, Cơ quản Quản lý Dược phẩm
và Sinh phẩm y tế Pháp (ANSM) có cập nhật về tình
hình PRCA liên quan đến việc sử dụng Eprex. Tuy xác
định tỷ lệ PRCA ghi nhận trên trên bệnh nhân suy
thận mạn điều trị bằng Eprex vẫn ở mức độ rất hiếm
gặp (<1/ 10.000), để đảm bảo an toàn trong việc sử
dụng thuốc, ANSM đã đưa ra những khuyến cáo vể
việc sử dụng Eprex.Theođó, các cán bộ y tế cẩn theo
dõi đáp ứng của bệnh nhân khi điểu trị bằng Eprex.
Trong trường hợp hiệu quả của thuốc giảm đột
ngột, cẩn tìm và loại bỏ những nguyên nhân thường
gặp khác gây ra tình trạng không đáp ứng này, dừng
Eprex và không sử dụng các erythropoietin khác [4].
Ngày 04/07/2002, ANSM thông báo đang tiến
hành đánh giá các yếu tố nghi ngờ là nguyên nhân
gây PRCA trên bệnh nhân suy thận mạn sử dụng
Eprex đường tiêm dưới da. Trong khi chờ kết quả,
ANSM khuyến cáo cán bộ y tế ưu tiên sử dụng Eprex
đường tiêm tĩnh mạch trên bệnh nhân mắc bệnh
thận mạn tính. Trong trường hợp không thể dùng
đường tiêm tĩnh mạch, cắn thận trọng cân nhắc lợi
ích/nguy cơ của thuốc khi sử dụng đường tiêm dưới
da cho bệnh nhân [7].
Hàng loạt các trường hợp PRCA xảy ra đã dẫn
đến việc tái đánh giá một cách toàn diện lợi ích/nguy
cơ của Eprex dùng đường tiêm dưới da trên bệnh
nhân suy thận mạn. Sau khi trao đổi với Cơ quan phê
duyệt đăng ký thuốc và tham khảo quyết định từ cơ
quan quản lý các nước Châu Âu, ngày 17/12/2002,

Cơ quan Quản lý Dược phẩm Pháp (AFSSAPS) thông
báo chống chỉ định Eprex đường tiêm dưới da trên
bệnh nhân suy thận mạn [ 11].
Châu Âu
Trước sự gia tăng các báo cáo PRCA liên quan đến
việc sử dụng Eprex đường tiêm dưới da trên bệnh
nhân suy thận mạn với số lượng đạt đỉnh trong 2 năm
2001 - 2002, tháng 12/ 2002, Cơ quan Quản lý Dược
phẩm của các nước thành viên trong liên minh Châu
Âu quyết định chống chỉ định Eprex tiêm dưới da cho
bệnh nhân suy thận mạn. Nguyên nhân dẫn đến sựgia
tăng các trường hợp PRCA (tuy chưa được giải thích rõ
ràng) là do chất giải phóng từ nút cao su không phủ
ở đẩu pít tông của chế phẩm Eprex dạng xi lanh đóng
sẵn thuốc làm tăng khả năng xảy ra các phản ứng


miễn dịch. Sau khi áp dụng các biện pháp tăng cường
an toàn trong việc sử dụng Eprex và các thuốc kích
thích tạo hổng cẩu cùng với việc thay thế nút cao su
không phủ đắu pit tông bằng nút cao su phủ Teflon,
số ca PRCA giảm xuống. Tại hẩu hết các nước, Eprex
đường tiêm dưới da được sử dụng lại cho bệnh nhân
thiếu máu do bệnh thận từ ngày 24/05/2006 [12].
Singapore
Tính đến hết tháng 12/2002, tại Singapore đả ghi
nhận 10 báo cáo PRCA, trong đó 7 báo cáo liên quan
đến việc sử dụng Eprex và 3 báo cáo liên quan đến
việc sử dụng phối hợp Eprex và Recomon (epoetin
beta). Ngày 30/12/2002, Cơ quan Quản lý Y tế Singa­

pore (HSA) cập nhật số liệu mới nhất vể hội chứng
PRCA liên quan đến việc sử dụng Eprex trên thế giới
tính đến thời điểm này, đồng thời thông báo tới cán
bộ y tế việc công ty đã cập nhật những thông tin về
độ an toàn vào tờ hướng dẫn sử dụng của thuốc.
HSA khuyến cáo chỉ nên sử dụng Eprex đường tiêm
tĩnh mạch trên bệnh nhân suy thận mạn thẩm tách
máu và thẩm phân phúc mạc. Eprex đường tiêm
dưới da vẫn có thể sử dụng với những chỉ định đã
được phê duyệt khác. Cán bộ y tế phụ trách quản
lý, sử dụng chế phẩm Eprex cẩn lưu ý quy trình bảo
quản lạnh theo khuyến cáo trong tờ hướng dẫn sử
dụng để đảm bảo tính bển vững của thuốc. Không
nên giữ Eprex ngoài khoảng nhiệt độ 2 - 8°c trong
thời gian dài hơn 1 giờ [2].
Ngày 29/08/2013, HSA có cảnh báo về sự gia
tăng các trường hợp PRCA liên quan đến việc sử
dụng Eprex đường tiêm dưới da tại Singapore. HSA
cho biết số trường hợp PRCA có liên quan đến Eprex
xảy ra trong năm 2012 và 6 tháng đẩu năm 2013
chiếm tới 90% tổng số trường hợp PRCA trong cơ sở
dữ liệu cảnh giác dược từ khi sử dụng trở lại đường
tiêm dưới da chế phẩm Eprex. Tuy không thể sử
dụng số lượng báo cáo để tính toán tỷ lệ xảy ra biến
cố nhưng HSA nhận thấy có một sự gia tăng đột biến
các ca PRCA so với xu hướng đã ghi nhận trước đó.
Với 9 báo cáo PRCA nhận được trong thời gian này, 8
trường hợp đã được xác định với kết quả tủy xương
đồ và xét nghiệm kháng thể dương tính và 1 trường
hợp nghi ngờ do không có thông tin về xét nghiệm.

Tất cả các trường hợp này đểu liên quan đến việc sử
dụng đường tiêm dưới da Eprex.

Các nguyên nhân đã được đưa ra để lý giải hiện
tượng các ca Eprex ghi nhận trên toàn thế giới tăng
đột biến trong giai đoạn 1998 - 2004 bao gồm: việc
thay thế chất bảo quản từ albumin huyết thanh
người sang polysorbat 80, chất tạp từ nút cao su
không phủ của đầu pít tông trong chế phẩm Eprex
dạng xi lanh đóng sẵn thuốc, sự gián đoạn trong quy
trình bảo quản lạnh và việc dùng thuốc đường tiêm
dưới da. Dữ liệu thu thập được từ dự án nghiên cứu
các báo cáo và các biến cố bất lợi khi dùng thuốc
(Research on Adverse Drug Events and Reports RADRA) cho thấy 95% số báo cáo PRCA qua trung
gian kháng thể được báo cáo với Eprex dùng đường
tiêm dưới da. Tại thời điểm này, HSA vẫn tiếp tục tìm
hiểu vể các nguyên nhân gây ra sự gia tăng đột biến
các trường hợp PRCA sử dụng đường tiêm dưới da
trên bệnh nhân mắc bệnh thận mạn tại Singapore.
Cơ quan này khuyến cáo cán bộ y tế cẩn nâng cao
cảnh giác và báo cáo ngay khi phát hiện biến cố [5].
Ngày 02/10/2013, sau khi tham khảo ý kiến từ
ban chuyên gia bao gồm các bác sỹ chuyên khoa
thận, huyết học và hoàn thiện đánh giá lợi ích/nguy
cơ của việc sử dụng đường tiêm dưới da chế phẩm
Eprex trên bệnh nhân mắc bệnh thận mạn tính, HSA
đưa ra kết luận lợi ích của thuốc không còn vượt trội
nguy cơ khi sử dụng đường tiêm dưới da chế phẩm
Eprex trên bệnh nhân mắc bệnh thận mạn tính. Do
đó, HSAđã gửi thư đến cán bộ y tế thông báo chống

chỉ định tại Singapore Eprex đường tiêm dưới da
trên bệnh nhân mắc bệnh thận mạn tính.
HSA cho rằng tốc độ gia tăng các trường hợp
PRCA qua trung gian kháng thể tại Singapore trong
thời gian vừa qua phản ánh tính chất nghiêm trọng
của vấn để. Quyết định chống chỉ định trên được
đưa ra nhằm giảm thiểu nguy cơ PRCA qua trung
gian kháng thể trên bệnh nhân mác bệnh thận mạn
tính và để đảm bảo an toàn cho cộng đồng cho đến
khi tìm ra được nguyên nhân. HSA khuyến cáo tới
cán bộ y tế:
Chống chỉ định Eprex đường tiêm dưới da trên
bệnh nhân mắc bệnh thận mạn tính tính bao gồm
cả những bệnh nhân bệnh thận giai đoạn cuối. Bệnh
nhân mắc bệnh thận mạn tính đang được điều trị
bằng Eprex đường tiêm dưới da cẩn được cân nhắc
trong thời gian sớm nhất có thể để chuyển sang


dùng Eprex đường tĩnh mạch hoặc cân nhắc các liêu
pháp thay thế.
- PRCA qua trung gian kháng thể cũng đã được
báo cáo với các thuốc kích thích tạo hổng cẩu khác.
Do vậy, cán bộ y tế cẩn tiếp tục theo dõi PRCA khi
điều trị cho bệnh nhân bằng tất cả các thuốc kích
thích tạo hổng cẩu. cẩn dừng ngay các thuốc này

nếu nghi ngờ xảy ra PRCA.
- Đặc biệt lưu ý bảo quản các thuốc kích thích tạo
hồng cầu ở nhiệt độ 2 - 8°c như đã được hướng dẫn

trên bao bì sản phẩm. Các cán bộ cần hướng dẫn chi
tiết cho bệnh nhân cách bảo quản và sự quan trọng
của việc bảo quản đúng cách trong quá trình vận
chuyển và sử dụng các thuốc này [13],
Ngày 03/10/2013, Janssen có thông báo cập
nhật các ca PRCA mới được ghi nhận tại Singapore
và quyết định của HSA chống chỉ định Eprex đường
tiêm dưới da trên bệnh nhân mắc bệnh thận mạn
tính tại Singapore. Tuy nhiên, công ty nhấn mạnh
trong hoàn cảnh hiện nay khi nguyên nhân gây gia

tăng các ca PRCA chưa được xác định, lợi ích/nguy
cơ của Eprex tại các nước khác ngoài Singapore vẫn

không thay đổi do các lô thuốc sử dụng trên các
bệnh nhân được báo cáo tại Singapore cũng được
phân phối trên toàn thế giới mà không ghi nhận
hiện tiíợng tương tự tại bất kỳ quốc gia nào. Công
ty vẫn đang tiếp tục phối hợp cùng HSA tiến hành
thêm những nahiên cứu sâu hctn để tìm ra nguyên
nhân [14],
Việt Nam
Tại Việt Nam, epoetin alfa hiện đang được lưu
hành dưới nhiều tên biệt dược khác nhau. Trong cơ
sở dữ liệu Quốc gia vể phản ứng có hại của thuốc từ
năm 2010 đến hết tháng 8/2013, có 8 báo cáo PRCA
liên quan đến việc sử dụng epoetin alfa đường tiêm
dưới da trên bệnh nhân mắc bệnh thận mạn tính.
ADR được mô tả trên bệnh nhân bao gồm tình trạng
thiếu máu tiến triển nặng, hiệu quả điểu trị giảm

đột ngột, bệnh nhân phụ thuộc truyền máu. Trong
số 8 báo cáo ghi nhận này, 4 báo cáo có kết quả xét
nghiệm kháng thể kháng erythropoietin dương tính,
1 báo cáo kết quả âm tính và 3 báo cáo không có
thông tin về xét nghiệm này,
(Còn tiếp)

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Healthy Canadians (2001 ). Archived " Important safety information " Eprex (epoetin alfa) - Janssen- Ortho Inc., Retrieved 11 November

2013 from />2. Health Sciences Authority (MSA) (2002). Update on Eprex® and pure red cell aplasia, Retrieved 11 November 2013 from http://www.
hsa.gov.sg/.
3. Medicines and healthcare products regulatory agency (MHRA) (2001). Important safety information - Eprex® (epoetin alfa): reports of

pure red cell aplasia, Retrieved 11 November 2013 from />4. Agence nationale de sécurité du médicament et des produits de santé (ANSM) (2001),EPREX®(époétinealpha):casd'érythroblastopénie

avec anticorps anti-érythropoiétine, Retrieved 11 November 2013 from />5. Health Sciences Authority (HSA) (2013), increase in antibody-mediated Pure Red Cell Aplasia (PRCA) cases with subcutaneous admh

nistration of Eprex® (epoetin alfa) In Singapore, Retrieved 11 November 2013 from />6. Therapeutic Goods Administration (TGA) (2002). Australian adverse drug reaction bulletin, Epoetin alfa and pure red cell aplasia, Re­
trieved 11 November 2013 from />7. Agence nationale de sécurité du médicament et des produits de santé (ANSM) (2002). EPREX® : Cas d'érythroblastopénie avec anti­
corps anti -érythropoiétine, Retrieved 11 November 2013 from />8. Healthy Canadians (2002). Archived - EPREX (Epoetin Alfa) - Pure Red Cell Aplasia (PRCA, Erythroblastopenia, Retrieved 11 November

2013 from />9. Healthy Canadians (2004). Archived - Updated Safety Information about EPREX (Epoetin Alfa) Provided to Canadian Healthcare Pro­
fessionals - For The Public, Retrieved 11 November 2013 from />10. Medicines and healthcare products regulatory agency (MHRA) (2005). Eprex® (Epoetin Alfa) and pure red cell aplasia - contraindica­
tion of subcutaneous administration to patients with chronic renal disease, Retrieved 11 Noverriber 2013 from ,

uk/.
11. Agence nationale de sécurité du médicament et des produits de santé {ANSM) (2002). EPREX® : contre-indication de la voie sous-

cutanée chez les insuffisants rénaux chroniques, Retrieved 11 November 2013 from />European Medicines Agency (EMA) (2013). Scientific discussion, Retrieved 11 November 2013 from />12. Health Sciences Authority (HSA) (2013). Drug Safety Information No.50. Dear healthcare professional. Contraindication of the subcu­

taneous administration of Eprex® in chronic kidney disease patients, 02 October 2013.
13. Janssen " Cilag Ltd. Update to the Eprex* Singapore prescribing information to restrict use in chronic kidney disease to the intrave­
nous route of administration only, 03 October 2013.



×