Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

chính sách vĩ mô nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (326.03 KB, 19 trang )

I.

Những vấn đề cần chú ý trong việc xử lý nợ xấu
tại Việt Nam
Đào Thị Hồ Hương 1

Xử lý nợ xấu là một bước đi quan trọng hàng đầu trong quá trình tái cấu
trúc hoạt động ngân hàng. Tổng kết kinh nghiệm xử lý nợ xấu trong tiến trình
tái cấu trúc hệ thống ngân hàng của các nước trên thế giới cho thấy các nước
thường triển khai theo những hướng cơ bản như sau:
(i) Hỗ trợ trực tiếp từ Chính phủ thông qua việc bơm vốn;
(ii) Thành lập công ty quản lý tài sản (Asset Management Company AMC) để thu mua nợ xấu;
(iii) Tạo cơ chế thỏa thuận xử lý nợ xấu giữa các tổ chức tín dụng
(TCTD) và bên đi vay.
Chính sách xử lý nợ qua bơm vốn là phương pháp hỗ trợ trực tiếp từ Chính
phủ cho các ngân hàng và định chế tài chính khác nhằm đối phó với khủng hoảng.
Việc tạo ra một cơ chế thỏa thuận xử lý nợ xấu giữa các TCTD và bên đi vay
nhằm làm trung gian cho các chủ nợ (ở đây là các TCTD) và các doanh nghiệp đi
vay thương lượng phương án xử lý nợ dưới nhiều hình thức như thanh lý tài sản,
gia hạn hợp đồng, điều chỉnh một số điều khoản của hợp đồng. Tuy nhiên, trong
phạm vi nghiên cứu, tác giả tập trung đề cập đến những vấn đề cần lưu ý rút ra cho
Việt Nam trong quá trình xử lý nợ xấu qua các công ty quản lý tài sản - là cách
thức được áp dụng phổ biến tại các quốc gia trong quá trình tái cơ cấu khu vực
ngân hàng. Nhìn chung, việc thành lập các công ty quản lý tài sản trên thế giới
được tổ chức theo 2 hình thức: tập trung hoặc phân tán.
- Hình thức tập trung: Các khoản nợ xấu sẽ được tách khỏi bảng cân đối
của ngân hàng. Các khoản nợ xấu của ngân hàng sẽ được chuyển sang một công ty
1

Khoa Tài chính – Học viện Ngân hàng



quản lý tài sản hoặc một cơ quan quản lý về thanh khoản ngân hàng để các đơn vị
này phụ trách việc thu hồi các khoản nợ xấu. Công ty quản lý tài sản được thành
lập dưới hình thức này trong giai đoạn đầu hoạt động chủ yếu là các doanh nghiệp
thuộc sở hữu nhà nước.
- Hình thức phân tán: Các khoản nợ xấu vẫn được giữ trên bảng cân đối của
ngân hàng. Các khoản nợ xấu của ngân hàng sẽ được xử lý bởi những đơn vị được
thành lập trong chính ngân hàng. Phương pháp này dựa trên quan điểm cho rằng
các ngân hàng có đủ thông tin về các doanh nghiệp hoạt động yếu kém để có thể
thúc đẩy quá trình tái cơ cấu các doanh nghiệp đó; đồng thời, các ngân hàng cũng
chính là chủ thể có nhiều động lực nhất để cố gắng thu hồi đến mức tối đa các
khoản nợ xấu.
Các nước thành lập AMC theo hình thức tập trung gồm có: Hàn Quốc, Séc,
Mỹ…. Ðại diện các quốc gia áp dụng hình thức phân tán là Trung Quốc và Ba
Lan. Hungary và Thái Lan là 2 nước sử dụng kết hợp cả 2 hình thức. Công tác
xử lý nợ xấu tại Hungary đã áp dụng song song cả 2 loại hình AMC trên (một
cơ quan thu hồi nợ xấu tập trung xử lý các khoản nợ lớn và phức tạp; phần còn
lại do các ngân hàng tự giải quyết theo thỏa thuận của ngân hàng với Bộ Tài
chính) trong khi Thái Lan sau khi thất bại với phương pháp phân tán đã thực
hiện phương pháp tập trung.

Những vấn đề cần lưu ý trong quá trình xử lý nợ xấu tại Việt Nam
Trong giai đoạn tái cơ cấu khu vực ngân hàng bắt đầu vào những năm
2000, do hậu quả nặng nề của nền kinh tế tập trung, bao cấp và tác động không
thuận lợi của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực và thế giới, hoạt động
của hệ thống các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam đã gặp rất nhiều khó
khó khăn và bộc lộ nhiều yếu kém. Trong đó nổi bật là tình hình tài chính không
lành mạnh, tỷ lệ nợ xấu cao và tập trung tại các NHTM NN. Ðể khắc phục vấn đề
này, về cơ bản Việt Nam cũng đã áp dụng các giải pháp truyền thống trong tiến



trình xử lý nợ xấu như phần lớn các nước. Mô hình AMC sử dụng trong quá trình
xử lý NPL là mô hình phân tán.
Theo báo cáo tổng kết thực hiện đề án xử lý nợ tồn đọng, nhìn chung đến
hết năm 2005, các NHTM đã xử lý được gần hết các khoản nợ xấu (95%), tuy
nhiên đóng góp của các AMC trong quá trình tận thu hồi nợ thông qua việc bán,
khai thác tài sản bảo đảm còn thấp (gần 20%), nợ xấu trong giai đoạn này chủ yếu
được xử lý bằng nguồn vốn của Chính phủ và dự phòng rủi ro của các ngân hàng.
Cho đến nay, các AMC vẫn tiếp tục được duy trì nhưng hoạt động cũng như cơ
chế hoạt động của các đơn vị này chưa được phát huy triệt để. Ðây là điều cần
phải được khắc phục để nâng cao tính hiệu quả và hợp lý trong sự tồn tại và hoạt
động của các AMC.
Khác với xuất phát điểm của chương trình tái cơ cấu khu vực ngân hàng của
những năm 2000, chương trình cải cách giai đoạn 2011 - 2015 được tiến hành
đồng thời với chương trình tái cơ cấu nền kinh tế nhằm cơ cấu lại căn bản, triệt để
và toàn diện hệ thống các TCTD để đến năm 2020 phát triển được hệ thống các
TCTD đa năng theo hướng hiện đại, hoạt động an toàn, hiệu quả vững chắc với
cấu trúc đa dạng về sở hữu, quy mô, loại hình có khả năng cạnh tranh lớn hơn và
dựa trên nền tảng công nghệ, quản trị ngân hàng tiên tiến phù hợp với thông lệ,
chuẩn mực quốc tế về hoạt động ngân hàng nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu về dịch
vụ tài chính, ngân hàng của nền kinh tế.
Trong chương trình tái cơ cấu giai đoạn 2011 - 2015, mặc dù nợ xấu của hệ
thống các NHTM theo chuẩn kế toán Việt Nam vẫn nằm trong ngưỡng an toàn
(3,14%) song vẫn cần thiết phải tập trung xử lý. Vì vậy, trên cơ sở tham khảo kinh
nghiệm của các nước trong vấn đề xử lý nợ xấu cho thấy, để có thể thành công
trong công tác xử lý nợ xấu trong quá trình tái cơ cấu khu vực ngân hàng cần thiết
phải chú trọng không chỉ vào các giải pháp vĩ mô (xác định cơ chế xử lý nợ trực
tiếp, thông qua trung gian,…) mà còn tập trung vào các phương pháp xử lý vi mô
(xử lý các khoản nợ xấu đã thu mua) với các vấn đề cần lưu ý như sau:



1. Xây dựng một khuôn khổ pháp lý đủ mạnh để có thể điều tiết toàn bộ các
hoạt động liên quan đến việc xử lý nợ xấu, tạo lập một môi trường hoạt động
minh bạch, bình đẳng, thông suốt
Kinh nghiệm xử lý nợ xấu trên thế giới đã cho thấy, để các AMC dễ dàng thu hồi
các khoản nợ đã mua, các quốc gia nên xây dựng và phát triển khung pháp lý sẵn
sàng cho một thị trường mua bán và xử lý các tài sản xấu, tránh trường hợp khi
muốn áp dụng một chính sách xử lý nợ lại gặp phải những cản trở về mặt pháp lý
trong việc thực thi cũng như thu hút các nhà đầu tư như trường hợp của Trung
Quốc. Tại thời điểm thực hiện chứng khoán hóa, do Trung Quốc thiếu một khuôn
khổ pháp lý hoàn thiện nên các dự án chứng khoán hóa phải được thực hiện trong
khuôn khổ của Luật Ủy thác (Trust Law) được ban hành năm 2001 cho nên giải
pháp này được xem là không mấy thành công.
2. Các AMC phải được hình thành có định hướng và quyền lực rõ ràng
- Nhiệm vụ, sứ mệnh của AMCs cần được nêu rõ ràng. Quyền lực của AMCs
cần được giao cụ thể với nguồn ngân sách nhất định.
- Cần xác định rõ thời gian hoạt động của AMC khi AMC được thành lập vì rõ
ràng nếu không có 1 khoảng thời gian định trước, AMC có thể sẽ không có động
cơ hoạt động hiệu quả (thu hồi nợ xấu càng nhanh thì cơ quan này càng nhanh
chóng ngừng hoạt động).
Nếu như không có định hướng hoạt động rõ ràng, hiệu quả của các AMC sẽ rất
thấp, thậm chí còn thâm dụng vốn của Nhà nước. Trường hợp của Thái Lan là một
bài học đáng lưu ý. Do việc xác định các mục tiêu hoạt động ban đầu của các
AMC là không rõ ràng, không xác định rõ trách nhiệm ràng buộc nên mô hình các
AMC phân tán mà Thái Lan áp dụng xử lý nợ xấu trong giai đoạn đầu tiên đã thất
bại. Nợ xấu ở các AMC của ngân hàng tư nhân gần như không xử lý được, thậm
chí mức an toàn vốn mà các ngân hàng phải duy trì đã tăng lên gấp đôi. Còn ở các
ngân hàng nhà nước, mục tiêu chủ yếu của chuyển hóa tài sản là cơ cấu lại nguồn
vốn ngân hàng chứ không trọng tâm vào tối đa hóa giá trị hoàn lại của các khoản



nợ xấu. Chính vì vậy mà đến năm 2001, Thái Lan đã phải thành lập một công ty
quản lý tài sản tập trung có tên Thai Asset Management Corporation (TAMC).
3.

Xác

định



các

nguyên

tắc - là chìa khóa thành công trong quá trình xử lý nợ xấu
- Tách bạch các khách hàng có nợ xấu ra khỏi ngân hàng. Bởi vì hoạt động ngân
hàng là hoạt động có quan hệ nên cần thiết phải thực hiện nguyên tắc này để ngăn
chặn nợ xấu phát sinh.
- Các ngân hàng có nợ xấu cần xử lý phải có các cam kết chặt chẽ trong việc
tuân thủ các quy định tín dụng thận trọng sau khi được tái cấp vốn từ Chính phủ
hoặc AMC.
- Việc thành lập các AMCs cần phải được định hình rõ ràng là các công ty quản
lý tài sản chứ không phải là kho lưu giữ nợ xấu của hệ thống tài chính. Vì thế, cần
phải có định hướng hoạt động cho các AMC trong tương lai theo hướng sẽ phát
triển thành một ngân hàng đầu tư, một định chế tài chính như trường hợp của Mỹ
và Hàn Quốc,… thay vì kết thúc hoạt động sau khi đã giải quyết ổn thỏa nợ xấu.
Hơn nữa, cũng phải trao thêm quyền để thúc đẩy tính độc lập và chủ động của các
AMC, đặc biệt là các AMC thuộc sở hữu nhà nước trong quá trình hoạt động.
4. Các giải pháp thực hiện giải quyết nợ xấu cần được lựa chọn phù hợp với

trình độ phát triển của thị trường tài chính
Trong cuộc khủng hoảng tiết kiệm và cho vay tại Mỹ hồi cuối những năm 1980,
phương tiện chứng khoán hóa dường như là một cứu cánh tạo nên thành công của
RTC nhưng biện pháp này không hẳn thành công ở tất cả các quốc gia Ðông Á và
Ðông Âu do thị trường tài chính giữa Hoa Kỳ và các quốc gia này có sự chênh
lệch về mức độ phát triển. Riêng Hàn Quốc, mặc dù quốc gia này chưa hình thành
cho mình một thị trường mua bán tài sản rủi ro nhưng KAMCO sau đó đã xây
dựng được một thị trường cho các khoản nợ xấu, thu hút được các nhà đầu tư nước
ngoài tham gia mua bán và theo đó, thu hút được các nhà đầu tư trong nước. Nhờ
đó, KAMCO đã thu hồi lại nhanh chóng một phần tiền Chính phủ đã bỏ ra cho


hoạt động tái cơ cấu, đồng thời cũng góp phần làm tăng chiều sâu của thị trường
tài chính của quốc gia này. Thêm vào đó, mặc dù muộn, nhưng Hàn Quốc cũng đã
kịp thời ban hành các đạo luật chuẩn bị cho việc xử lý hiệu quả NPLs như Luật
ABS, Luật Phá sản hợp nhất, và nhiều đạo luật bổ sung khác.
5. Xây dựng một hệ thống thông tin minh bạch về các định chế tài chính
trong nước cũng như tiêu chuẩn hóa hệ thống thông tin về các khoản nợ xấu
sẽ giúp nâng cao hiệu quả xử lý nợ xấu
Hàn Quốc đã thành công trong việc xây dựng nên một thị trường cho việc mua đi
bán lại các khoản nợ xấu là nhờ sự hoạt động tích cực của KAMCO với vai trò là
người điều tiết và luân chuyển thông tin trên thị trường. Trước đó, sự tham gia của
các nhà đầu tư trong nước là rất thấp do các nhà đầu tư trong nước thiếu các thông
tin về lịch sử hoạt động (Track record) cũng như các thông tin về tình hình tài
chính của các tổ chức tài chính trong nước nhưng sau một thời gian, KAMCO đã
lôi kéo được các nhà đầu tư nước ngoài và từ đó thu hút được các nhà đầu tư trong
nước.
Việc tiêu chuẩn hóa hệ thống công nghệ thông tin về các khoản nợ xấu từ trước
sẽ giúp cho quá trình tập hợp đánh giá và quyết định mua cũng như lựa chọn các
biện pháp xử lý nợ xấu của các AMC được diễn ra nhanh chóng và thuận lợi hơn.

Trước khi khủng hoảng tài chính 1997 diễn ra, việc Hàn Quốc chưa xây dựng
được hệ thống này cũng được đánh giá là một trở ngại cho việc tăng tốc độ xử lý
nợ xấu của KAMCO.
6. Tạo điều kiện cho thị trường tài chính phát triển đúng mức, kịp thời; xây
dựng môi trường kinh tế, chính trị ổn định với những cơ hội đầu tư hấp dẫn
Ðối với trường hợp của Hàn Quốc, thành công của KAMCO so với các AMC
tương tự được thành lập ở các nước khác là KAMCO được đánh giá là đã xây
dựng thành công một thị trường cho các khoản nợ xấu, thu hút được các nhà đầu
tư nước ngoài tham gia mua bán và theo đó, thu hút được các nhà đầu tư trong
nước.


Tuy nhiên, thành công này có được phải kể đến yếu tố môi trường chính trị xã
hội mà KAMCO hoạt động. Là một đơn vị công độc quyền mua các tài sản nợ
xấu, ít nhất trong hai năm đầu hoạt động, KAMCO lẽ ra đã có thể trở thành một
nơi chuyên chứa các khoản nợ xấu và là công cụ chính trị để hỗ trợ cho các nhóm
lợi ích được lựa chọn. Tuy nhiên, hiệu quả hoạt động của KAMCO phần lớn là
nhờ môi trường kinh tế chính trị đặc biệt tại Hàn Quốc - đó là môi trường mà lợi
ích công được đặt lên hàng đầu, việc sử dụng công quỹ một cách có hiệu quả đã
thấm nhuần trong ý thức và hành vi của từng người dân Hàn Quốc. Thêm vào đó,
Hàn Quốc còn chịu sự giám sát chặt chẽ của các nhà đầu tư nước ngoài trong đó
có IMF và WB.
Ðối với trường hợp của Trung Quốc: Ðây là một trường hợp vẫn còn gây nhiều
tranh cãi về mức độ thành công. Ðến năm 2004, các AMCs tại Trung Quốc mới
chỉ xử lý được 675 tỷ NDT nợ xấu (tương đương 39% các khoản nợ xấu mà họ đã
mua lại), tỷ lệ thu hồi tiền mặt (cash recovery rate) của các AMCs chỉ khoảng
20,3%. Thực trạng này do nhiều nguyên nhân (chất lượng tài sản thấp, khuôn khổ
pháp lý chưa hoàn thiện, rủi ro đạo đức giữa các SOEs và AMCs). Nhưng vị thế
ngày càng cao của các ngân hàng Trung Quốc sau khi được xử lý nợ xấu (dù các
khoản nợ này vẫn còn nằm đâu đó trong nền kinh tế Trung Quốc) trên các bảng

xếp hạng quốc tế là một thành công đáng kinh ngạc. Có ý kiến cho rằng sự thịnh
vượng của nền kinh tế nước này dường như đã che khuất những kết quả thực sự
của quá trình xử lý nợ xấu diễn ra trước đó

Tài liệu tham khảo
1/ PGS.,TS. Nguyễn Hồng Sơn, Tái cấu trúc hệ thống ngân hàng: Kinh nghiệm
quốc tế và hàm ý về tư duy cho Việt Nam, Hội thảo quốc tế “ Tái cấu trúc hệ
thống ngân hàng: Kinh nghiệm quốc tế và hàm ý cho Việt Nam”, tháng 12 năm
2011.


2/ TS. Nguyễn Phi Lân, Kinh nghiệm các nước trong khu vực và Ðông Âu về tái
cấu trúc hệ thống ngân hàng, Hội thảo quốc tế “ Tái cấu trúc hệ thống ngân
hàng: Kinh nghiệm quốc tế và hàm ý cho Việt Nam”, tháng 12 năm 2011.
3/ Banking reform in China - John P. Bonin.
4/ Szapary, Gyorgy, (2001) “Banking sector reform in Hungary: lessons
learned, current trends and prospects”, Croatian National Bank.
5/ Dealing with the bad Loans of the Chinese Banks (2001).
6/ Resolution of Non - performing Loans in China (2005).

II.

NỢ XẤU QUA CÁC CON SỐ

Nợ xấu 8,6%, trong đó, có tài sản đảm bảo lên tới 86%, dư nợ bất động sản
và chứng khoán thấp là những con số "đẹp"...
Cuối năm 2011, theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước, nợ xấu toàn hệ thống
ngân hàng là 3,39%. Báo cáo gần đây của các tổ chức tín dụng cho biết, đến ngày
31/5, nợ xấu là 4,47%. Tổ chức quốc tế - Fitch Rating cho rằng, con số nợ hiện là
13%.

Ngày 7/6, tại diễn đàn Quốc hội, Thống đốc Nguyễn Văn Bình đưa ra con số nợ
xấu 10%. Trong cuộc họp sơ kết 6 tháng đầu năm 2012, ông Nguyễn Hữu Nghĩa quyền Chánh thanh tra Ngân hàng Nhà nước cho biết, tỷ lệ nợ xấu tính đến ngày
31/3 là 8,6% tương đương 202.000 tỷ đồng.


Theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước, tổng dư nợ cho vay nền kinh tế hiện là 2,6
triệu tỷ đồng. Trong đó, dư nợ cho vay bất động sản là 197.000 tỷ (7,58%) . Dư nợ
cho vay chứng khoán là 12.000 tỷ (0,46%).

Nợ xấu bất động sản là 12.000 tỷ đồng. Còn nợ xấu chứng khoán là 485 tỷ đồng.


Nợ xấu có tài sản đảm bảo là 84%, không có tài sản đảm bảo là 16%. Theo quyền
Chánh thanh tra Ngân hàng Nhà nước, giá trị tài sản bảo đảm trên giá trị nợ xấu
khoảng 135%. Các khoản nợ xấu có bảo đảm bằng bất động sản đạt tỷ lệ 180%.

Đến cuối tháng 5/2012, số tiền các tổ chức tín dụng trích lập dự phòng rủi ro là
khoảng 67.300 tỷ đồng, tương đương với khoảng 57,2% nợ xấu.


Lãi suất huy động đã giảm 4 lần từ đầu năm. Hiện, lãi huy động ở mức 9% một
năm. Theo Ngân hàng Nhà nước, lãi suất cho vay phổ biến đối với lĩnh vực nông
nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, doanh nghiệp nhỏ và vừa, công nghiệp hỗ trợ ở mức
11-13% một năm.

Tính đến ngày 30/6, tín dụng tăng 0,76% so với cuối năm 2011 (nếu tính cả số dư
đầu tư vào trái phiếu doanh nghiệp và ủy thác thì tăng khoảng 1,4%).
Đến 31/5, tín dụng xuất khẩu tăng 12,63%, nông nghiệp nông thôn tăng 3%, công



nghiệp hỗ trợ ước tăng 7,13%; riêng tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa
giảm 13,69%. Dư nợ đối với lĩnh vực không khuyến khích chiếm 5,25% so với
tổng dư nợ cho vay, giảm -5,91% so với tỷ trọng cuối năm 2011 (11,16%).

Theo Ngân hàng Nhà nước, lãi suất cho vay giảm khoảng 3-6% một năm so với
cuối năm 2011; trong đó tập trung chủ yếu đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông
thôn, xuất khẩu, sản xuất - kinh doanh. Hiện, lãi cho vay phổ biến đối với lĩnh vực
nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, doanh nghiệp nhỏ và vừa, công nghiệp hỗ trợ
ở mức 11-13% một năm; cho vay lĩnh vực sản xuất kinh doanh khác ở mức 1417% một năm.
0

III. Xử lý nợ xấu: Không AMC thì sao?
Thành lập AMC có thể khiến các ngân hàng "lựa chọn ngược", thay vì kiểm soát
cho vay các ngân hàng sẵn sàng cho vay dễ dàng để có lợi nhuận, còn nếu bị nợ
xấu thì sẽ bán lại cho AMC của Nhà nước.
Nhanh chóng xử lý nợ xấu là mục tiêu quan trọng của hệ thống ngân hàng hiện
nay, nhưng lựa chọn phương thức thích hợp đang là câu hỏi khó. Thành lập công
ty mua bán nợ Quốc gia – AMC như nhiều nước đã làm? Hay để các NHTM đã xử


lý bằng nguồn dự phòng rủi ro và Nhà nước sẽ mua phần còn lại bằng chương
trình có giới hạn?
Nợ xấu mua thế nào đây?
Một mô hình được nhiều người ủng hộ là nhanh chóng thành lập công ty mua bán
nợ Quốc gia (gọi tắt là AMC). Số vốn dự kiến cần là 100 ngàn tỷ, nhưng có thể
ban đầu chỉ cần 20 ngàn tỷ và huy động thêm vốn thông qua phát hành trái phiếu,
tín phiếu.
Cơ chế xử lý nợ xấu được một số chuyên gia đề nghị là AMC thành cổ đông
doanh nghiệp theo phần nợ mua, bán nợ cho nhà đầu tư khác, chứng khoán hóa
khoản nợ và cuối cùng là xóa nợ.

Dù công ty mua bán nợ Quốc gia được thành lập như thế nào, cơ chế ra sao thì
cũng phải phù hợp với điều kiện Việt Nam.
Nếu AMC mua nợ xấu rồi trở thành cổ đông của doanh nghiệp, trước hết gặp khó
khăn bởi số lượng doanh nghiệp có nợ xấu là rất nhiều, và 1 AMC của Nhà nước
khó có thể trở thành cổ đông tại hàng ngàn doanh nghiệp bởi 1 quyết định mua lại
nợ xấu. Hơn nữa nhiều khoản nợ xấu đến từ DNNN, như thế AMC cũng trở thành
cổ đông sở hữu cổ phần của DNNN. Điều này chắc chắn sẽ gặp nhiều vướng mắc
từ chính cơ chế hiện hành, ví dụ như xung đột với nhiệm vụ của SCIC .
Có thể AMC sẽ bán lại nợ cho nhà đầu tư mới đến. Đây là ý tưởng hay nhưng tính
khả thi còn phải xem xét một cách đầy đủ hơn. Nếu bán cho các nhà đầu tư trong
nước thì tình hình hiện tại khó tìm được nhà đầu tư phù hợp bởi những “người có
tiền” là ngân hàng còn phải bán tài sản độc hại để thu tiền về. Với nhà đầu tư nước
ngoài thì vấn đề quyền sở hữu rất rắc rối. Ngay với ngân hàng khi muốn xử lý tài
sản đảm bảo còn mất vài năm sau nhiều phiên tòa phân xử thì khó thuyết phục nhà
đầu tư nước ngoài mua khoản nợ xấu đó của ngân hàng.
“Hãy chứng khoán hóa nợ xấu rồi bán ra thị trường”- ý kiến của một chuyên gia.
Đây là phương thức được một số quốc gia sử dụng nhưng ở đó thị trường chứng
khoán rất phát triển. Các khoản nợ được phân loại, chứng khoán hóa và bán ra thị
trường. Thậm chí các gói chứng khoán nợ còn được phái sinh nhiều lần để mua đi
bán lại. Nhưng đó là thị trường chứng khoán phát triển còn với hiện trạng của
TTCK Việt Nam, đây dường như là kế hoạch xa vời. Chưa kể đến “tác dụng phụ”
của chứng khoán hóa nợ tại nhiều nước phát triển, như Mỹ, được coi là nguyên
nhân cho khủng hoảng tài chính toàn cầu.
Vậy thì xóa nợ ! Nếu nợ xấu được mua về và xóa đi thì tại sao phải thành lập công
ty mua nợ xấu. Các khoản nợ xấu dù nằm tại ngân hàng hay tại AMC mà không
thể thu hồi được vốn thì đó mãi là nợ xấu. Nó sẽ không xuất hiện trên báo cáo tài


chính, bảng cân đối tài sản của ngân hàng nhưng vẫn tồn tại trong nền kinh tế. Chỉ
khi nào các khoản nợ đó được bù đắp đủ tài chính thì mới thực sự xử lý hết nợ

xấu.
Chưa kể xảy ra tình trạng “lựa chọn ngược” của các ngân hàng khi mà họ sẵn sàng
cho khách hàng vay với điều kiện dễ dàng hơn bởi nếu bị nợ xấu họ có thể bán cho
công ty AMC của Nhà nước. Mặc dù thành lập AMC được kỳ vọng sẽ nhanh
chóng xử lý nợ xấu nhưng ngay tại quốc gia có nền tài chính phát triển hơn Việt
Nam là Ireland thì dự kiến mất 10 năm (2009 - 2019) công ty mua bán nợ quốc gia
Ireland - NAMA mới xử lý xong 100% nợ xấu của hệ thống ngân hàng nước này.
“Ai làm người đó chịu”
Để có lợi nhuận hàng ngàn tỷ đồng của những năm gần đây, các ngân hàng đã có
thời kỳ bùng nổ cho vay với điều kiện vay dễ dàng. Thậm chí để giúp khách hàng
vay được nhiều hơn, nhiều nhân viên tín dụng sẵn sàng “hỗ trợ” nâng giá trị tài
sản đảm bảo. Những khoản vay đó nay được xếp vào nợ xấu cùng với đó yêu cầu
trích lập DPRR kéo tụt lợi nhuận của các ngân hàng.
Theo ông Nguyễn Đức Kiên, Phó chủ nhiệm UBKTQH, chúng ta đang định
hướng theo kinh tế thị trường, vậy ai gây ra nợ xấu thì người đó phải chịu trách
nhiệm. Do đó, trước hết, phải lấy tài sản của ngân hàng ra để xử lý nợ xấu. Đây là
điều khó khăn nhất với các ông chủ ngân hàng khi phải tự xử lý nợ xấu.
Lãnh đạo các ngân hàng chịu sức ép lớn từ các cổ đông trong việc đảm bảo hiệu
quả kinh doanh nên không có động lực xử lý nợ xấu. Nếu các ngân hàng phân loại,
trích lập đầy đủ với nợ xấu, chấp nhận mục tiêu lợi nhuân ngắn hạn bị ảnh hưởng
thì dù tỷ lệ nợ xấu 8,6% tổng dư nợ thì hoạt động tín dụng của ngân hàng cũng sẽ
không ảnh hưởng nhiều.
Bởi lẽ với các doanh nghiệp đã có nợ xấu thì cho dù có chuyển nợ xấu đi, theo
nguyên tắc các ngân hàng cũng sẽ không cho vay tiếp bởi lịch sử tín dụng đã bị nợ
xấu. Phải sau khoảng thời gian đủ lâu việc xét duyệt tín dụng mới được mở lại với
các doanh nghiệp này. Còn với các doanh nghiệp tốt, dự án khả thi thì thời điểm
hiện tại chắc chắn sẽ được các ngân hàng rào đón trước sau với lãi suất ngắn hạn
hợp lý.
Với tổng vốn tự có của NHTM Nhà nước và NHTMCP theo báo cáo của NHNN
đến 30/04/2012 khoảng 311 ngàn tỷ và hơn 67 ngàn tỷ đồng trích dự phòng rủi ro

thì bản thân các NHTM đủ sức bù đắp hết 202 ngàn ty khoản nợ xấu do chính họ
gây ra. Thật không hợp lý nếu như tiền thuế của người dân lại được dùng để xử lý
nợ xấu tại các NHTMCP trước cả ông chủ ngân hàng.
Vấn đề NHNN cần có chế tài phạt mạnh mẽ hơn, không chỉ với ngân hàng mà với


cả các cá nhân lãnh đạo, buộc các NHTM phải tự xử lý nợ xấu của mình trước.
Ngân hàng nào sau khi sử dụng hết nguồn vốn nhưng vẫn không bù đắp được, ví
dụ như HBB, thì phải chấp nhận bị kiểm soát đặc biệt, sáp nhập. Một chương trình
mua nợ xấu sẽ phù hợp với những ngân hàng này hơn là 1 công ty mua bán nợ.
Với cơ chế xử lý trên nguyên tắc thị trường, quy định kiểm soát nợ xấu chặt chẽ
hơn, NHNN mới có thể hy vọng tạo ra nền tảng để xây dựng hệ thống các NHTM
an toàn, hiệu quả. Nếu không, nợ xấu sẽ sớm trở lại với các ngân hàng cho dù toàn
bộ khoản nợ xấu đã được chuyển sang AMC.

IV. Số nhân tiền tệ
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Số nhân tiền tệ, còn gọi là số nhân tín dụng, đo lường mức độ mà ngân hàng
thương mại làm tăng cung tiền. Số nhân này bằng tỷ số giữa tổng lượng cung
tiền và lượng cung tiền có mãnh lực.
Ký hiệu:



m là số nhân tiền tệ
M là tổng lượng cung tiền



H là lượng cung tiền có mãnh lực




C là lượng tiền mặt



D là lượng tiền gửi





R là lượng tiền mà các ngân hàng thương mại phải dự trữ và để trong tài
khoản của họ tại ngân hàng trung ương

Công thức tính lượng cung tiền:


m = M / H = (C+D) / (C+R)

Vì ngân hàng thương mại chỉ phải dự trữ tại tài khoản của họ ở ngân hàng trung
ương một phần số tiền gửi vào ngân hàng của họ, nên R nhỏ hơn D. Do đó, m lớn
hơn 1. H tăng bao nhiêu sẽ làm cho tổng lượng cung tiền tăng nhiều hơn thế.


Quan hệ giữa cung tiền và lạm phát
Thu nhập quốc dân danh nghĩa bằng thu nhập quốc dân thực tế nhân với chỉ số
giảm phát GDP (tỷ lệ lạm phát).
Thu nhập quốc dân danh nghĩa cũng bằng tốc độ lưu thông tiền tệ nhân với cung

tiền.
Do đó, tỷ lệ lạm phát bằng tốc độ lưu thông tiền tệ nhân với cung tiền rồi chia cho
thu nhập quốc dân thực tế. Nếu hai yếu tố còn lại không đổi, tốc độ thay đổi của tỷ
lệ lạm phát bằng đúng tốc độ thay đổi của cung tiền.
Các quy mô cung tiền









M0: tổng lượng tiền mặt. M0 còn được gọi là tiền cơ sở hoặc tiền
hẹp (ở Anh).
M1: bằng tổng lượng tiền mặt (M0) và tiền mà các ngân hàng thương mại
gửi tại ngân hàng trung ương. M1 còn được gọi là đồng tiền mạnh.
M2: bằng M1 cộng với chuẩn tệ (tiết gửi tiết kiệm có kỳ hạn).
M3: bằng M2 cộng với tất cả các khoản tiết kiệm khác gửi tại các tổ chức
tín dụng.
M4 (ở Anh): bằng M0 cộng với tiền trong tài khoản các loại.
Tính thanh khoản theo nghĩa rộng: bằng M3 cộng với các trái phiếu và
các khoản đầu tư tín thác.

Điều tiết lượng cung tiền của ngân hàng trung ương
Ngân hàng trung ương có thể thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc của các ngân hàng
thương mại, qua đó thay đổi lượng tiền dự trữ R, và tổng lượng cung tiền M. (Xem
thêm Số nhân tiền tệ và Tỷ lệ dự trữ bắt buộc)
Ngân hàng trung ương còn có thể điều chỉnh, bán các giấy tờ có giá của mình đối

với các tổ chức tín dụng, từ đó tác động tới lượng vốn khả dụng của các tổ chức
này. Khi đó lượng cung tiền cũng sẽ được điều tiết. (Xem thêm Nghiệp vụ thị
trường mở)
Nghiệp vụ thị trường mở
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nghiệp vụ thị trường mở là hoạt động ngân hàng trung ương mua vào hoặc bán
ra những giấy tờ có giá của chính phủ trên thị trường. Thông qua hoạt động mua


bán giấy tờ có giá, ngân hàng trung ương tác động trực tiếp đến nguồn vốn khả
dụng của các tổ chức tín dụng, từ đó điều tiết lượng cung ứng tiền tệ và tác động
gián tiếp đến lãi suất thị trường.
[sửa]Tác động của nghiệp vụ thị trường mở
Trong bảng tổng kết tài sản của ngân hàng trung ương, tài sản có chủ yếu là giấy
tờ có giá của chính phủ (đây là tài sản vốn của ngân hàng trung ương), tài sản nợ
chủ yếu là tiền giấy và tiền gửi dự trữ của các ngân hàng thương mại (đây là tài
sản nợ, là tài sản các tổ chức khác để tại ngân hàng trung ương). Khi ngân hàng
trung ương bán ra những giấy tờ có giá của chính phủ trên thị trường như trái
phiếu chính phủ, những nơi khác mua, khi đó ngân hàng trung ương sẽ "thu tiền"
về theo cơ chế sau: tài khoản vãng lai của người mua trái phiếu chính phủ bị ngân
hàng thương mại ghi nợ và ngân hàng trung ương sẽ ghi giảm tài khoản tiền gửi
dự trữ của các ngân hàng thương mại tại ngân hàng mình. Vì tỷ lệ tiền mặt dự trữ
của ngân hàng thương mại bằng tiền gửi dự trữ tại ngân hàng trung ương cộng với
tiền mặt dự trữ tại két của họ nên khi tài khoản tiền gửi dự trữ của các ngân hàng
thương mại tại ngân hàng trung ương giảm xuống, cơ sở tiền tệ đã giảm đi làm
giảm cung tiền một lượng bằng giá trị của trái phiếu chính phủ bán ra nhân với số
nhân tiền tệ. ngân hàng trung ương sử dụng biên pháp này khi muốn thắt chặt tiền
tệ. Ngược lại, khi ngân hàng trung ương mua vào giấy tờ có giá của chính phủ do
ngân hàng thương mại bán lại,ngân hàng trung ương sẽ ghi tăng tài khoản tiền dự
trữ của các ngân hàng thương mại tại ngân hàng mình. Khi ngân hàng thương mại

bán lại giấy tờ có giá của chính phủ cho ngân hàng trung ương thì ngân hàng trung
ương trả tiền cho ngân hàng thương mại bằng cách ghi tăng khoản tiền dự trữ của
ngân hàng thương mại tại ngân hàng mình. Tiền của ngân hàng thương mại tăng
làm cơ sở dẫn đến cung tiền tăng (cung tiền = [tiền mặt + tiền dự trữ (tăng)] x số
nhân tiền tệ . Việc ghi tăng tài khoản dự trữ của các ngân hàng thương mại có thể
dẫn đến ngân hàng trung ương phải in thêm tiền giấy nếu các ngân hàng thương
mại có nhu cầu lớn về tiền giấy và đến ngân hàng trung ương xin rút tiền giấy
trong khi tiền giấy của ngân hàng trung ương không đủ đáp ứng. Đây là hoạt động
mở rộng tiền tệ của ngân hàng trung ương.
[sửa]Các loại nghiệp vụ thị trường mở
Nghiệp vụ thị trường mở của các ngân hàng trung ương chủ yếu có hai loại: mua
bán giấy tờ có giá dài hạn và mua bán giấy tờ có giá ngắn hạn. Ở Mỹ, nghiệp vụ
thị trường mở chủ yếu được thực hiện đối với trái phiếu chính phủ dài hạn. Ở Việt


nam, theo Luật Ngân hàng Nhà nước Việt nam, nghiệp vụ thị trường mở chỉ là
việc mua bán giấy tờ có giá ngắn hạn như tín phiếu kho bạc, chứng chỉ tiền gửi, tín
phiếu Ngân hàng Nhà nước và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác.
Tiền cơ sở
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
(đổi hướng từ Tiền có mãnh lực)
Tiền cơ sở là thuật ngữ kinh tế chỉ loại tiền có mức độ thanh khoản cao nhất trong
các thành phần của cung tiền. Tiền cơ sở bao gồm tiền mặt trong lưu thông do các
cá nhân (hộ gia đình và doanh nghiệp không phải ngân hàng nắm giữ) và dự trữ
bắt buộc của ngân hàng thương mại tại ngân hàng trung ương. Mọi sự thay đổi của
lượng tiền cơ sở đều là tác nhân quan trọng gây ra thay đổi trong tổng lượng cung
tiền. Chính vì vậy, tiền cơ sở còn được gọi là tiền có mãnh lực.
[sửa]Tiền cơ sở và cung tiền
Lượng cung tiền (M) bằng lượng tiền cơ sở (MB) nhân với số nhân tiền tệ (m).
M = m × MB

Trong trường hợp số nhân tiền tệ không đổi, thay đổi của tổng lượng cung tiền phụ
thuộc vào thay đổi trong lượng tiện cơ sở. Khi số nhân tiền tệ bằng 1, mức thay
đổi lượng cung tiền đúng bằng mức thay đổi lượng tiền cơ sở.
[sửa]Những nhân tố tác động tới lượng tiền cơ sở
Mô hình đơn giản để mô tả sự thay đổi của tiền cơ sở xuất phát từ khái niệm về
tiền cơ sở với đẳng thức:
MB = C + R
trong đó C là lượng tiền mặt trong lưu thông và R là dự trữ bắt buộc. Những nhân
tố làm thay đổi lượng tiền mặt trong lưu thông hoặc/và thay đổi dự trữ bắt buộc
của ngân hàng thương mại tại ngân hàng trung ương đều có thể làm thay đổi lượng
tiền cơ sở. Vì mức dự trữ bắt buộc bằng lượng tiền gửi trong các ngân hàng
thương mại nhân với tỷ lệ dự trữ bắt buộc, nên ta có tiếp đẳng thức:
MB = C + D×r
trong đó D là lượng tiền gửi trong hệ thống ngân hàng thương mại, còn r là tỷ lệ
dự trữ bắt buộc do ngân hàng trung ương kiểm soát.
Giả dụ các nhân tố còn lại không đổi, mỗi thay đổi của một trong ba nhân tố trên
đều làm lượng tiền cơ sở thay đổi cùng chiều. Vì vậy, để tăng lượng tiền cơ sở,
ngân hàng trung ương có thể:







Tăng lượng tiền mặt trong lưu thông, chẳng hạn bằng nghiệp vụ thị trường
mở mua vào (ngân hàng trung ương mua công trái vào để bơm tiền mặt ra lưu
thông), hay đơn giản là in thêm tiền giấy, đúc thêm tiền kim loại và đưa vào
lưu thông.aa
Nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc.

Can thiệp để điều chỉnh lãi suất huy động tiền gửi của các ngân hàng
thương mại bằng cách như điều chỉnh lãi suất chiết khấu.

Lưu ý là hai biện pháp sau không chỉ làm thay đổi lượng tiền cơ sở mà còn đều
làm thay đổi số nhân tiền tệ, vì vậy chúng là những biện pháp mạnh trong chính
sách tiền tệ và hiện nay ít còn được sử dụng. Đối với biện pháp thứ nhất, việc in và
đúc tiền cũng có thể gặp hạn chế bởi quy định của pháp luật ở một số quốc gia.



×