Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

tiểu luận về màng tế bào

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (808.94 KB, 21 trang )

PHẦN 1. MỞ ĐẦU
Cơ thể sống được hình thành đầu tiên cùng với việc tạo ra một “lớp hàng
rào sinh học” bao bọc, tách biệt bản thân nó với môi trường xung quanh. “Lớp
hàng rào sinh học” này được định nghĩa là “màng tế bào” hay màng sinh chất
(plasma membrane) tạo cho tế bào có khả năng tổ chức và điều hòa các hoạt
động sống bên trong của nó. Bản chất cấu trúc của màng sinh chất ít nhất bao
gồm 2 lớp phân tử lipid phân cực kết hợp với các phân tử protein. Nhờ cấu trúc
này, màng sinh chất có rất nhiều đặc điểm kỳ diệu là thực hiện các trình tự phản
ứng biến đổi hóa sinh của tế bào, là trung tâm của các quá trình bảo tồn năng
lượng và thông tin giữa các tế bào trong cơ thể, giữa cơ thể với môi trường. Do
bản chất cấu trúc hóa học của màng sinh chất rất đặc biệt nên đặc tính của màng
là mềm dẻo, linh động, có thể tự khép kín và tự phá vỡ để dung hợp (fusion) giữa
chúng với nhau, dễ dàng thực hiện khả năng xuất bào (exocytosis) và nhập bào
(endocytosis), là cơ chế của quá trình bài tiết các phân tử lớn được tổng hợp
trong tế bào cũng như cơ chế của sự thực bào (phagocytosis) trong đáp ứng miễn
dịch hoặc thực hiện khả năng phân chia của tế bào (mitosis) trong sinh trưởng và
phát triển của cơ thể sống.
Màng sinh chất không phải là một hàng rào thụ động trong trao đổi chất
giữa tế bào với môi trường mà nó có tính chọn lọc. Trong tế bào màng sinh chất
giúp cho việc tổ chức và điều hòa quá trình sinh học ở các xoang riêng biệt như
màng nhân, màng ty thể, màng lạp thể vv… Có thể khẳng định màng tế bào có
cấu trúc rất tinh vi, phù hợp với chức năng của nó. Chính vì vậy việc nghiên cứu
về cấu trúc và chức năng của màng sinh chất ở mức độ hiển vi và phân tử từ lâu
đã được các nhà tế bào học quan tâm.
Mặt khác, chu kỳ tế bào, các hình thức phân chia tế bào nhân thực
(eucaryote), các nhân tố ảnh hưởng tới sự phân bào bình thường và không bình
thường, ý nghĩa sinh học và khả năng ứng dụng sự phân chia tế bào trong công
nghệ sinh học cũng là một vấn đề hết sức quan trọng đang được các nhà khoa
học quan tâm.
Xuất phát từ những lý do trên, em tiến hành nghiên cứu tiểu luận về màng
tế bào, mối tương quan giữa cấu trúc và chức năng của nó trong hoạt động sống


của tế bào, những hiểu biết về chu kỳ tế bào, sự phân bào và những khả năng ứng
dụng của sự phân chia tế bào trong công nghệ sinh học.

PHẦN 2. NỘI DUNG
1


A. MÀNG TẾ BÀO, SỰ PHÂN HOÁ ĐA DẠNG CỦA HỆ THỐNG
MÀNG SINH CHẤT, NHỮNG ĐẶC TÍNH VÀ VAI TRÒ CỦA MÀNG
TRONG ĐỜI SỐNG TẾ BÀO. LIÊN HỆ NHỮNG THÀNH TỰU NGHIÊN
CỨU BỆNH LÝ TẾ BÀO.
1. Màng tế bào (Cell membrane)
Màng tế bào gồm hai thành phần chính là màng bảo vệ (vỏ, thành tế bào) và
màng sinh chất (màng plasma). Ngoài ra còn có khoảng gian bào.
1.1. Màng bảo vệ
1.1.1.
Màng bảo vệ của tế bào động vật
Tế bào động vật có lớp áo (cell coat) liên kết với màng sinh chất, lớp này
được cấu tạo từ proteoglican do tế bào tiết ra, lớp áo có vai trò quan trọng trong
việc liên kết các tế bào cạnh nhau tạo nên mô, trao đổi chất và truyền đạt thông
tin di truyền [2]. Một số đơn bào hoặc tế bào vỏ của tiết túc có một lớp vỏ dày
che phủ phía ngoài màng sinh chất. Lớp vỏ này có nguồn gốc từ các sản phẩm tiết
đặc biệt của tế bào, thường là chất nhầy hoặc các kitin có thấm muối canxi [7].
1.1.2. Màng bảo vệ của tế bào thực vật
Tế bào thực vật có lớp thành vững chắc bao bọc ngoài màng sinh chất. Lớp
thành này có thành phần hoá học chủ yếu là xenluloza, hemixenluloza và pectin.
Ở một số tế bào, thành còn thấm thêm lignin, các chất sáp, các chất khoáng có
gốc canxi hay silic [7].
1.1.3. Màng bảo vệ của tế bào vi sinh vật
Đối với đa số nấm, tế bào có thành bằng chất kitin.

Tế bào vi khuẩn được bao bọc bởi lớp thành với kích thước khác nhau tuỳ
loại. Nhìn chung thành tế bào vi khuẩn Gram dương dày hơn so với của vi
khuẩn Gram âm. Thành phần hoá học cơ bản của thành tế bào vi khuẩn là hai
loại cao phân tử là axit teicoic (không có ở Gram âm) và glucopeptit, ngoài ra
còn có một số amino acid và polysaccarid [1] [2] [7].

2


Màng tế bào của vi khuẩn Gram dương và Gram âm
Ở một số vi khuẩn phía ngoài thành tế bào còn được bao bọc bởi lớp vỏ
nhày dày khoảng 0,2 µm có khi dày tới 10 – 20 µm, một số khác không có lớp
vỏ nhày nhưng lại được bao bọc bởi lớp dịch nhày không có giới hạn và cầu trúc
nhất định. Nước chiếm tới 98% thành phần hoá học của lớp vỏ nhày và lớp dịch
nhày còn lại là các hợp chất hidratcacbon phức tạp gồm các polysaccarit,
homopolysaccarit hoặc heteropolysaccarit [1] [6].
Màng bảo vệ có chức năng quan trọng trong việc giữ hình dạng ổn định của
tế bào, duy trì áp suất thẩm thấu, tham gia vào phân bào, chống chịu các điều
kiện bất lợi, chống lại hiện tượng thực bào… [1] [6]
1.2. Màng sinh chất (plasma membrane)
1.2.1. Thành phần hoá học của màng
Màng sinh chất được cấu tạo từ ba thành phần gồm lipit, protein và
carbohydrat. Do lipit và protein chiếm tỷ lệ lớn trong màng nên người ta còn gọi
màng sinh chất là màng lipoprotein.
Lipit của màng gồm hai loại [4] [7] [9]:
+ Photphotlipit chiếm khoảng 55% thành phần lipit của màng tế bào. Có
nhiều loại photpholipit, bốn loại chiếm tỷ lệ nhiều nhất là: phosphatidylcholin,
sphingomyelin, phosphatidyl ethanolamin, phosphatidylserin.
+ Cholesterol là một loại steroid trung tính, chiếm tỷ lệ 25 – 30% lipit
màng, ở tế bào gan nó chiếm tới 40%.

3


Cả hai loại đều có một đầu ưa nước và một đầu kỵ nước.

Lớp lipit kép của màng tế bào
Protein màng: cho đến nay đã phát hiện khoảng 50 loại protein màng. Các
protein màng cũng được chia thành hai loại:
+ Protein xuyên màng: chiếm tới 70% protein màng. Một số loại protein
xuyên màng quan trọng: Glycophorin, BADN3, các enzyme vận tải…
+ Protein màng ngoại vi: chiếm khoảng 30% protein màng, hoạt tính
enzyme màng phụ thuộc chủ yếu vào loại protein màng [9]. Protein màng ngoại
vi có nhiều loại, tiêu biểu là Fibronectin nằm ở phía ngoài màng và 4 loại
protein là actin, spectrin, ankyrin, bADN4.1 nằm ở phía trong màng [7].
Carbohydrat màng tế bào: carbohydrat xuất hiện ở màng tế bào dưới dạng
các oligosaccarit còn dạng polysaccarit gặp ở tế bào động vật [9].
Ngoài ra màng sinh chất còn chứa các thành phần khác như: các ion liên
kết, các ion tự do và nước ở dang liên kết hoặc tự do [9].
1.2.2. Mô hình phân tử và tính linh động của màng [3] [5] [7] [ 9] [9]
Màng sinh chất là một loại màng mỏng, khoảng 7,5 – 10 nm, bao quanh tế
bào chất, gồm hai lớp xẫm màu song song kẹp giữa một lớp nhạt. Lớp nhạt là
lớp phân tử kép lipit còn hai lớp xẫm là đầu của các phân tử protein lồi ra khỏi
lớp kép lipit tạo thành.

4


Mô hình “khảm động” của một mảnh màng
Sự sắp sếp của các phân tử lipit:
Các phân tử lipit xếp thành hai lớp ép sát nhau nên được gọi là lớp phân tử

kép lipit với đầu kỵ nước quay ra ngoài quay ra phía ngoài hoặc vào trong tế bào
và đầu kỵ nước quay vào giữa, nơi tiếp giáp của hai lớp phân tử lipit. Tính chất
kỵ nước này làm cho các phân tử lipit luôn có xu hướng kết dính lại với nhau để
đầu kỵ nước khỏi tiêp xúc với nước, nhờ có tính chất này mà màng có khả năng
tự động khép kín và tái hợp nhanh.
Các loại photpholipit xếp xen kẽ nhau, từng phân tử có thể tự quay quanh
trục của mình và đổi chỗ cho các phân tử trong cùng lớp, sự đổi chỗ giữa các
phân tử của hai lớp rất hiếm xảy ra.
Sự vận động đổi chỗ thường xuyên của các phân tử photpholipit đã tạo nên
tính lỏng linh động của màng.
Trong khung lipit của màng tế bào Eukaryota còn có các phân tử
cholesterol sắp xếp xen kẽ giữa các phân tử photpholipit tạo thêm tính ổn định
của khung, tỷ lệ photpholipit/cholesterol càng cao thì tính linh động của màng
càng giảm [2] [3] [7].
Sự sắp xếp của các phân tử protein màng:
Lớp kép lipit là phần cơ bản của màng sinh chất, tạo thành giá đỡ cho các
phân tử protein xuyên màng, các phân tử loại này có phần kỵ nước nằm xuyên
suốt màng, dấu trong lớp kép lipit còn hai đầu ưa nước của phân tử thì thò về hai
phía bề mặt của màng, nhiều loại protein có đầu thò vào phía bào tương mang
nhóm cacboxyl (COO-) tích điện âm khiến chúng đẩy nhau nhờ đó mà các
protein xuyên màng phân bố đồng đều trong màng sinh chất. Có loại protein chỉ
5


xuyên qua màng một lần, có loại xuyên qua nhiều lần, có khi tới 6 – 7 lần.
Protein xuyên màng có khả năng chuyển động quay và di động kiểu tịnh tiến
trong khung lipit, do đó nó cũng ghóp phần tạo nên tính linh hoạt của màng.
Các phân tử protein ngoại vi gặp ở mặt ngoài hoặc mặt trong tế bào, chúng
liên kết với các đầu thò ra hai bên màng của protein xuyên màng bằng lực hút
tĩnh điện hoặc bằng các liên kết kỵ nước.

Sự sắp xếp của carbohydrat màng tế bào:
Các oligosaccarit gặp ở mặt ngoài của màng sinh chất, chúng gắn vào đầu
ưa nước của các protein xuyên màng, đầu ưa nước của khoảng 1/10 các phân tử
lipit lớp ngoài cũng liên kết với các oligosaccarit. Sự liên kết với các
oligosaccarit gọi là sự glycosyl hóa, biến protein thành glycoprotein, lipit thành
glycolipit. Glycoprotein và glycolipit tích điện âm làm cho toàn bộ bề mặt tế bào
của đa số động vật tích điện âm.
1.2.3. Một số tính chất khác của màng sinh chất [7]
Ngoài tính linh động, màng sinh chất còn có nhiều đặc tính quan trọng khác
như tính thấm chọn lọc, tính không cân xứng…
Tính thấm chọn lọc của màng sinh chất: đặc tính này thể hiện ở chỗ nó cho một
số chất ra vào dễ dàng trong khi đó lại cản trở sự di chuyển của một số chất khác.
+ Các chất không phân cực, kỵ nước hoà tan trong lipit qua màng dễ dàng
hơn so với các chất phân cực, ưa nước.
+ Các protein xuyên màng cho phép các chất có kích thước khác nhau qua
màng với chiều hướng và tốc độ khác nhau.
Tính không cân xứng của màng sinh chất:
+ Do hai lớp lipit có thành phần photpholipit khác nhau.
+ Do sự không cân xứng của hai đầu các protein xuyên màng.
+ Do sự phân bố không đều của các protein ngoại vi.
+ Do sự phân bố của các oligosaccarit, các phân tử này chỉ gặp ở mặt ngoài
của màng sinh chất.
1.2.4. Vai trò của màng sinh chất [1] [2] [3] [4 ] [7] [8] [9]
Màng sinh chất thực hiện các chức năng cơ bản sau đây:
+ Vận chuyển các chất dựa vào gradien nồng độ, có những hình thức sau:
vận chuyển thụ động, vận chuyển chủ động, thực bào và ẩm bào.
+ Bao bọc tế bào, tạo cho tế bào một ranh giới riêng.

6



+ Trao đổi thông tin qua màng: màng tế bào phát đi và thu nhận thông tin
chuyển vào môi trường nội bào để điều chỉnh các hoạt động sống giữa các tế
bào. Quá trình này liên quan đến các thụ thể (receptor) có trên bề mặt tế bào.
+ Xử lý thông tin: nhận diện tế bào quen, lạ, kẻ thù để có phản ứng đúng;
kích thích hoặc ức chế tiếp xúc giữa các tế bào, giữa tế bào với cơ chất.
+ Làm giá thể cho các enzyme xúc tác các phản ứng sinh hoá trên màng,
tham gia vào sự phân bào của vi khuẩn nhờ cấu trúc mesoxom.
+ Cố định các chất độc, dược liệu, virus, tạo ra sự đề kháng của tế bào bằng
các cấu trúc trên màng.
+ Màng tế bào còn là nơi dính bám của các cấu trúc trong tế bào.
2. Sự phân hoá đa dạng của màng sinh chất
Sự phân hoá đa dạng của màng sinh chất nhằm thích nghi với các chức
năng khác nhau như tăng cường mối liên hệ giữa các tế bào cạnh nhau, tăng
cường hấp thụ, chế tiết, dẫn truyền…
2.1. Tăng cường mối liên kết giữa các tế bào cạnh nhau [2] [3] [4] [5]
Ở cơ thể đa bào, hai tế bào cạnh nhau liên kết với nhau qua khoảng gian
bào nhờ các nối kết gian bào. Ở vùng nối kết gian bào có sự thay đổi về cấu tạo
và hình dạng của màng, có sự tham gia của các protein liên kết và sự tạo thành
phức hệ vi sợi trong tế bào chất.
Có ba loại nối kết gian bào:
a. Các cầu nối gian bào:
Đó là các nối kết giữa hai tế bào cạnh nhau, ở đó hai màng sinh chất tiếp
cận nhau đến nỗi không thể phân biệ được hai màng. Các cầu nối được hình
thành là do sự liên kết của protein – connexin tồn tại trong màng của hai tế bào.
Nhờ các cầu nối gian bào mà hai tế bào cạnh nhau có thể trao đổi chất với
nhau một cách trực tiếp, nhanh chóng.
b. Các nối kết vững chắc hay các thể liên kết (thể nối - thể dây chằng)
Các cấu trúc này được hình thành do sự thay đổi hình dạng của màng sinh
chất, sự tham gia của protein liên kết và các phức hệ vi sợi tế bào chất.

Thể liên kết góp phần tăng cường độ liên kết giữa hai tế bào cạnh nhau về
mặt cơ học. Qua phần nối kết không có sự trao đổi chất giữa hai tế bào như ở
các cầu nối gian bào.
Có những kiểu nối kết kém vững chắc như nối kết vùng (nối kết bao quanh
toàn bộ tế bào) hoặc nối kết điểm (nối kết chỉ định khu ở một phần tế bào ở dạng
vòng hoặc ô van).
7


c. Các cầu nối sinh chất
Loại liên kết này có ở tế bào thực vật. Ở các tế bào này có thành xenlulozơ
bao bọc, do đó để đảm bảo độ liên kết và trao đổi giữa các tế bào cạnh nhau thì
màng sinh chất và thành tế bào có những biến đổi để hình thành các cầu nối sinh
chất. Nhờ các cầu nối này mà các tế bào có thể trao đổi chất trực tiếp với nhau.
Quá trình vận chuyển nước và muối khoáng từ rễ vào thân là nhờ các cầu nối
sinh chất.
2.2. Tăng cường hấp thụ và chế tiết [2] [3] [4] [5]
Trên bề mặt tế bào, có những cấu trúc chuyên biệt của màng để đảm nhiệm
các chức năng khác nhau như: vi mao, mâm khía.
Vi mao: các vi mao gặp ở một số loại tế bào chuyên hoá như tế bào biểu mô
ruột, tế bào ngoại tiết… Ở các loại tế bào này màng sinh chất ở phần đỉnh lồi lên
tạo thành các vi mao giống như các lông nhỏ. Vi mao có đường kính 80 – 100
nm, dài 0,6 – 0,8 µm, số lượng 3000/tế bào. Vi mao được cấu tạo gồm màng
sinh chất, bên trong là khối tế bào chất có chứa bó sợi actin gồm 10 – 50 vi sợi,
có chức năng cố định vi mao. Nhờ các vi mao mà bề mặt ruột non tăng lên 600
lần với diện tích hấp thu rộng tới 500 m2.
Mâm khía: đối với một số loại tế bào thì phần màng đáy lõm sâu vào bên
trong khối tế bào chất tạo thành các ô ngăn cách nhau, trong các ô có chứa nhiều
ty thể. Cấu trúc mâm khía làm tăng diện tích bề mặt của màng, đáp ứng sự vận
chuyển tích cực của các chất. Cấu trúc này gặp ở tế bào biểu mô ống thận, tế bào

tuyến ngoại tiết, tuyến muối…
2.3. Sự phân hoá của màng sinh chất tạo nên các cấu trúc chuyên biệt khác
[1 ] [4] [6]
Màng sinh chất của một số vi khuẩn và nguyên sinh động vật còn phân hoá
để tạo nên các cầu trúc đặc biệt khác như roi, nhung mao, mesosome…
Ở tế bào vi khuẩn, màng sinh chất gấp nếp tạo thành một cấu trúc đặc biệt
là mesosome. Mesosome có đường kính khoảng 2500 Angstron, gồm nhiều lớp
màng bện chặt với nhau, chiều dày của mỗi lớp màng vào khoảng 75 Angstron,
đó là nơi định vị ADN của tế bào nhân sơ, đóng vai trò là điểm khởi đầu của tế
bào của quá trình nhân đôi ADN, khi nhiễm sắc thể tách đôi thì các mesosome
cũng đồng thời tách đôi, chúng xa dần nhau và kéo theo ADN tách xa nhau, hình
thành vách ngăn phân chia hai tế bào.
Roi là cơ quan vận động của tinh trùng và một số vi sinh vật. Đó là những
sợi nguyên sinh chất rất mảnh, xuất phát từ lớp ngoại nguyên sinh chất rồi xuyên
8


qua màng sinh chất và thành tế bào để ra ngoài. Về cấu trúc siêu vi, roi có dạng
hình trụ được bao bọc bởi lớp màng lipoprotein dày khoảng 9 nm, bên trong là
hệ thống vi ống xếp song song gồm một đôi vi ống trung tâm và 9 đôi vi ống
ngoại biên (công thức 9 + 2). Tinh trùng chỉ có một roi bơi, một số vi sinh vật có
thể có tới 30 roi, một roi có chiều dài từ 6 – 30 µm, đường kính từ 10 – 30 nm.
Nhung mao có cấu tạo tương tự roi bơi nhưng ngắn hơn và có số lượng rất
lớn. Có hai loại nhung mao là nhung mao thường (type I) với số lượng khoảng
vài trăm/tế bào và nhung mao giới tính (type II) với số lượng rất ít khoảng từ 1 –
4/tế bào, loại này dài hơn nhung mao thường.
3. Những thành tựu nghiên cứu bệnh lý tế bào [10]
Đa số các bệnh tật của con người là do các tế bào ngưng hoạt động hay
không làm việc theo đúng như chức năng đặc hiệu của nó hoặc bởi các mô của
thân thể bị huỷ hoại. Do sự rối loạn trong quá trình trao đổi vật chất di truyền

hoặc tác động của các tác nhân ngoại cảnh (hoá chất, tia phóng xạ, tia tử
ngoại…) dẫn tới những tổn thương của các phân tử cấu tạo nên tế bào, kết quả là
hoạt động sống và chức năng của tế bào bị ảnh hưởng. Nếu các tổn thương đó
nghiêm trọng có thể gây nên sự chết của tế bào hoặc sự chậm chễ trong phân
bào. Sự tổn thương của nhiều tế bào có thể dẫn đến tổn thương ở mô với nhiều
mức độ khác nhau. Ví dụ, tổn thương ở máu và cơ qua tạo máu có thể gây ung
thư máu, tổn thương ở bào thai có thể gây chết hoặc các dị tật bẩm sinh, tổn
thương ở các mô sinh dục có thể gây vô sinh…
Do các tổn thương có thể chưa biểu hiện ra ngoài mà còn trải qua một thời
kỳ tiềm tàng nên việc chẩn đoán sớm mầm bệnh có ý nghĩa rất lớn, đặc biệt là
các bệnh di truyền chưa có biện pháp chữa trị. Ngày nay nhờ các kỹ thuật nuôi
cấy tế bào, xét nghiệm sinh hoá và đặc biệt là các kỹ thuật sinh học phân tử mà
người ta có thể nhận biết được các tác nhân gây bệnh và các biến đổi trong tế
bào một cách nhanh chóng và chính xác.
Trong các bệnh lý của tế bào thì những bệnh liên quan đến tổn thương vật
chất di truyền thường gây nên những hậu quả rất nghiêm trọng. Để điều trị tận
gốc những loại bệnh này người ta đã sử dụng liệu pháp gene (chữa bệnh từ
gene) tức là thay gene hỏng gây bệnh bằng các gene lành. Liệu pháp gene có thể
thực hiên ở hai mức độ: thực hiện với tế bào soma hoặc tế bào sinh dục. Nhờ
liệu pháp gene mà người ta đã thành công trong việc chữa trị đột biến gene gây
chết tế bào lympho T.
9


Kể từ năm 1998, với những hiểu biết về chức năng của tế bào gốc hiện diện
ở phôi bào, người ta đã nghiên cứu sử dụng chúng trong các phương pháp trị
liệu. Do những ưu thế về hiệu quả trị liệu và độ an toàn vượt trội so với liệu
pháp gene và liệu pháp cấy ghép cơ quan nên có thể nói liệu pháp tế bào là một
bước tiến nhảy vọt trong ngành y - sinh học đầu thế kỷ 21. Liệu pháp tế bào gồm
nhiều khâu với những vi thao tác phức tạp, trước hết tiến hành phân lập tế bào

gốc rồi nuôi dưỡng chúng trong môi trường thích hợp để các tế bào đó gia tăng
sinh sản thêm các tế bào giống như vậy, sau đó dùng các thủ thuật để kích thích
chúng tự phát triển thành mô rồi đem cấy vào cơ thể thay thế các mô bị bệnh. Tế
bào gốc có thể cung cấp cho chúng ta một nguồn nguyên liệu mới phong phú có
thể thay thế các tế bào và mô đã bị hỏng nhằm chữa trị các chứng bệnh nan y mà
y học hiện nay vẫn bó tay. Chẳng hạn như việc chữa trị bệnh tim, ung thư, tiểu
đường, mất trí nhớ… Có thể nói hầu như các bệnh nan y hiện nay đều có nhiều
cơ may điều trị bởi việc sử dụng tế bào gốc.
Ngoài ra, sự chuyển hóa bất thường về lipid qua màng tế bào có thể dẫn đến
các rối loạn và gây ra nhiều bệnh tật như béo phì, gan nhiễm mỡ, đặc biệt là làm
tăng hàm lượng lipoprotein trong máu dẫn đến nguy cơ xơ vữa động mạch, từ đó
dẫn đến các biến chứng nặng về tim mạch như tăng huyết áp, bệnh lý động mạch
vành, nhồi máu cơ tim. Đối với bệnh gan nhiễm mỡ thì tỷ lệ mỡ trong gan trên
13%. Nếu soi lát cắt gan dưới kính hiển vi thường có thể phát hiện các giọt mỡ
bên trong bào tương của tế bào gan, các giọt mỡ này đẩy nhân tế bào gan ra sát
màng tế bào. Gan nhiễm mỡ mãn tính có thể dẫn đến sơ gan do một số tế bào
gan bị chèn ép, hoại tử và bị thay bằng mô sơ. Còn đối với bệnh béo phì, là tình
trạng tích triglycerid quá mức bình thường tại mô mỡ trong cơ thể. Hậu quả làm
tăng nguy cơ mắc một số bệnh như tiểu đường typ 2, bệnh tim mạch, sỏi mật,
khó thở và đau khớp.
B. CHU KỲ TẾ BÀO, CÁC HÌNH THỨC PHÂN CHIA TẾ BÀO NHÂN
THỰC. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI SỰ PHÂN BÀO BÌNH
THƯỜNG VÀ KHÔNG BÌNH THƯỜNG. Ý NGHĨA SINH HỌC VÀ KHẢ
NĂNG ỨNG DỤNG SỰ PHÂN CHIA TẾ BÀO TRONG CÔNG NGHỆ
SINH HỌC
1. Chu kỳ tế bào [4] [9] [12]
Chu kỳ tế bào là khoảng thời gian được tính từ khi tế bào hình thành nhờ sự
phân bào của tế bào mẹ cho tới khi nó kết thúc phân bào để hình thành các tế
bào mới.
10



Chu kỳ tế bào gồm hai thời kỳ chính:
- Gian kỳ: là thời kỳ giữa hai lần phân chia tế bào. Tất cả các hoạt động
sống chủ yếu (trao đổi chất, sinh trưởng) và sao chép bộ máy di truyền được
thực hiện trong giai đoạn này.
- Thời kỳ phân bào: là thời kỳ tế bào phân chia để hình thành các tế bào con.
Như vậy, sự phân chia tế bào chỉ chiếm một phần của chu kỳ tế bào. Tuỳ
từng loại tế bào mà thời gian của các giai đoạn là khác nhau, tuy nhiên sự dài
ngắn của chu kỳ tế bào chủ yếu là do gian kỳ quyết định.

Chu kỳ tế bào
1.1. Gian kỳ
Gian kỳ lại được chia thành các pha: G1, S và G2.
Pha G1 (Gap 1): còn gọi là pha trước tái bản, được tính từ ngay sau khi tế
bào phân chia đến khi nó bắt đầu pha S là pha sao chép vật chất di truyền. Thời
gian của pha G1 có sự dao động rất lớn giữa các loại tế bào, chiếm khoảng 30 40% thời gian chu kỳ. Ở pha này, các nhiễm sắc thể tháo xoắn, tồn tại ở dạng
chất nhiễm sắc chất, trong tế bào diễn ra quá trình phiên mã và dịch mã để tổng
hợp các protein phục vụ cho sinh trưởng tế bào, trong đó đáng chú ý là cuối pha
G1 có sự tổng hợp protein cyclin A cần thiết cho tái bản ADN ở pha S.
Sau khi kết thúc pha G1 tế bào đi vào pha S nhưng ở cuối pha G1 nó phải
vượt qua điểm một thời điểm gọi là điểm hạn định - điểm R (Restriction point).
Pha S (Synthesis): pha này chiếm 30-50% thời gian của chu kỳ, được đặc
trưng bởi quá trình tổng hợp ADN và nhân đôi nhiễm sắc thể. Ở tế bào
Eukaryote, tái bản ADN gồm các giai đoạn cơ bản: hình thành chạc tái bản, tổng
hợp đoạn mồi và tổng hợp ADN mới theo cơ chế bán bảo toàn. Các Histon mới
cũng được tổng hợp để liên kết với các phân tử ADN vừa được nhân đôi. Mỗi
NST sau giai đoạn này đã trở thành NST kép gồm hai nhiễm sắc tử.
11



Pha G2 (Gap 2): kế tiếp với pha S, diễn ra trong thời gian ngắn, chiếm 1020% thời gian của chu kỳ, là giai đoạn nghỉ và sửa chữa các sai sót nếu có trong
lúc tổng hợp ADN và sẵn sàng chuyển qua thời kỳ phân bào. Cuối pha G 2 tổng
hợp một loại protein đặc trưng là cyclin B, protein này cùng với enzyme kinase
xúc tác cho quá trình trùng hợp tạo các thoi phân bào.
1.2. Phân bào
Tiếp theo pha G2 sẽ diễn ra quá trình phân bào để hình thành các tế bào con.
Bước sang thời kỳ phân chia, tế bào có sự biến đổi lớn trong nhân và bào tương
mà có thể quan sát được dưới kính hiển vi quang học. Các biến đổi đó bao gồm
biến đổi của các NST, của nhân, màng nhân, trung thể, thoi vô sắc, bào tương.
Sự phân bào là phương thức sinh sản của tế bào, đồng thời là phương thức
truyền đạt thông tin di truyền cho hai tế bào con. Sự phân bào cùng với sự tổng
hợp các chất nội bào và gian bào là cơ sở cho sự tăng trưởng mô, cơ quan và cơ
thể đa bào.
2. Các hình thức phân chia tế bào nhân thực, ý nghĩa sinh học và các nhân
tố ảnh hưởng tới sự phân bào bình thường và không bình thường của tế bào
Có nhiều hình thức phân chia tế bào nhân thực như: nguyên phân, giảm
phân, trực phân và nội phân.
2.1. Nguyên phân [4] [5] [7] [9] [11]
Nguyên phân chiếm khoảng 5 - 10% thời gian của chu kỳ tế bào, đây là
hình thức phân bào thông thường nhất xảy ra ở các tế bào sinh dưỡng và ở các
giai đoạn đầu của tế bào sinh dục.

Sơ đồ nguyên phân
Phân bào nguyên nhiễm là một quá trình liên tục gồm 4 kỳ, mỗi kỳ đặc
trưng bởi hình dạng, cấu trúc của nhiễm sắc thể và bộ máy phân bào.
12


- Kỳ đầu (prophase): nhiễm sắc thể bắt đầu đóng xoắn, dầy lên, mỗi nhiễm

sắc thể gồm hai nhiễm sắc tử chị em đính với nhau tâm động. Ở đầu tiền kỳ,
nhiễm sắc thể chuyển dần ra phía ngoài màng nhân, màng nhân phân thành các
bóng không bào phân tán trong tế bào chất, nhân con biến mất. Bộ máy phân
bào xuất hiện gồm hai sao và thoi phân bào.
- Kỳ giữa (metaphase): tế bào co ngắn lại, phình to ra; nhiễm sắc thể
(NST) dày lên, co ngắn tối đa, tập trung vào giữa tế bào, các tâm động cùng nằm
trên mặt phẳng xích đạo thành một đám thẳng hoặc thành một vòng tròn khép
kín hoặc không khép kín. Thoi vô sắc được hình thành đầy đủ gồm hai dạng sợi:
một dạng kéo dài qua suốt tế bào, nối hai cực của tế bào, dạng sợi thứ hai đính
một đầu vào tâm động và đầu kia vào cực của tế bào
- Kỳ sau (anaphase): Các tế bào hơi dài ra, các nhiễm sắc tử tách nhau ra ở
tâm động và tiến về hai cực của tế bào, mỗi nhiễm sắc tử trở thành một nhiễm
sắc thể con. Ở thời kỳ này bắt đầu hình thành nhân con, các màng nhân và màng
ngăn cách các tế bào con; các bào quan phân phối đều giữa các tế bào mới.
- Kỳ cuối (telophase): các nhiễm sắc thể đã di chuyển đến hai cực, chúng
dần duỗi xoắn và ẩn vào dịch tế bào. Màng nhân tái tạo hoàn toàn, nhân con
xuất hiện. Đồng thời xảy ra phân chia tế bào chất thành hai phần bằng nhau, quá
trình này diễn ra khác nhau ở động vật và thực vật.
+ Ở động vật: vùng xích đạo hình thành eo thắt ngày càng phát triển và
phân tế bào thành hai.
+ Ở thực vật: vùng xích đạo hình thành một vách ngăn phân tế bào thành
hai. Sự hình thành vách ngăn ở thực vật có thể là do sự di chuyển tích cực của
mạng lưới nội chất, phức hệ golgi và các cấu thành khác của màng về miền xích
đạo của tế bào.
Ý nghĩa sinh học của nguyên phân: sự phân chia nguyên nhiễm của tế bào
làm cho cơ thể lớn lên và thay thế những tế bào già cỗi bằng những tế bào mới,
phục hồi các tổ chức bị thương tổn và có ý nghĩa trong việc truyền đạt thông tin
di truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Các nhân tó ảnh hưởng tới sự phân bào nguyên nhiễm:
+ Chế độ dinh dưỡng tốt có thể thúc đẩy phân bào nguyên nhiễm và ngược lại.

+ Các hormone có thể tăng cường hoặc kìm hãm phân bào. Ví dụ
Oestrogen thúc đẩy phân bào ở tuyến sữa, niêm mạc tử cung trong khi Adrenalin
lại kìm hãm phân bào ở nhiều mô.
13


+ Tác dụng trực tiếp của một số hoá chất: phytohemaglutinin (PHA) kích thích
lymphocytes phân bào; chất hoại tử ở mô nào thì kích thích phân bào tại nơi đó.
+ Khi hệ thần kinh hoạt động quá mức thì phân bào bị ức chế và ngược lại.
+ Tuổi của cá thể cũng ảnh hưởng tới phân bào.
2.2. Giảm phân [4] [5] [7] [9] [11]
Giảm phân hay phân bào giảm nhiễm là kiểu phân chia của các tế bào sinh
dục để hình thành các giao tử.
Phân bào giảm nhiễm là hình thức phân bào mà sau khi phân chia, số lượng
nhiễm sắc thể của các tế bào con giảm đi chỉ bằng một nửa số lượng nhiễm sắc
thể của tế bào mẹ ban đầu.
Trước khi đi vào quá trình phân bào giảm nhiễm, tế bào cũng trải qua gian
kỳ như khi phân bào nguyên nhiễm bình thường. NST và bào tương đều được
nhân đôi, chỉ có G2 là ngắn hơn G2 của phân bào nguyên nhiễm.

Sơ đồ phân bào giảm nhiễm
Quá trình phân bào xảy ra gồm hai lần phân chia liên tiếp. Giữa hai lần
phân chia là thời kỳ xen kẽ thay cho gian kỳ, ở thời kỳ xen kẽ này không có sự
nhân đôi của ADN, và hình ảnh NST vẫn giữ nguyên như kỳ cuối I. Lần phân
chia thứ hai thì cả hai tế bào được hình thành từ lần phân chia thứ nhất cùng tiến
hành phân chia song song với nhau.
* Lần phân chia thứ nhất gồm 4 thời kỳ:
- Kỳ đầu I: Kỳ này gồm có năm giai đoạn nhỏ:
+ Giai đoạn sợi mảnh (Leptonema): dưới kính hiển vi quang học thấy
nhân có hình mạng lưới, NST sợi mảnh dài và rất khó phát hiện. Số lượng NST

là lưỡng bội 2n.
14


+ Giai đoạn tiếp hợp (Zygonema): trong giai đoạn này, từng cặp NST
tương đồng (một NST có nguồn gốc từ bố, một NST có nguồn gốc từ mẹ) bắt
cặp với nhau một cách chính xác theo suốt chiều dài của NST theo hai kiểu:
hoặc phần tâm áp sát trước hoặc hai đầu mút của hai NST áp sát trước rồi lan ra
cho hết suốt chiều dài. Giai đoạn này dài hơn giai đoạn trên.
+ Giai đoạn sợi dày (Pachynema): các NST ghép đôi co ngắn mạnh và
xoắn vặn. Các nhiễm sắc tử tách nhau ra rõ rệt nhưng phần tâm chưa chia và giữ
lại phần tâm cho tới hết lần phân bào I đến kỳ giữa lần phân bào II. Cặp NST
đang ghép đôi có tên là lưỡng trị (bivalent). Giai đoạn này rất dài.
+ Giai đoạn tách đôi (Piplotene): các NST lưỡng trị tách nhau ra từ phần
tâm động, nhưng vẫn dính với nhau ở điểm trao đổi chéo. Dưới ảnh hưởng của
những lực xoắn, hiện tượng trao đổi chéo xảy ra; các nhiễm sắc tử xoắn với
nhau đứt ra từng đoạn tại điểm bắt chéo, phần nhiễm sắc tử có nguồn gốc từ bố
đính với phần nhiễm sắc tử có nguồn gốc từ mẹ (và ngược lại) thực hiện sự trao
đổi các đoạn gen.
+ Giai đoạn Diakinez: các lưỡng trị di chuyển về mặt phẳng xích đạo. Các
đầu mút của lưỡng trị vẫn đính nhau tại các điểm tương đồng tạo nên hình ảnh
các bộ tứ. Bộ tứ này là một lưỡng trị gồm hai NST tương đồng dạng kép, mỗi
NST dạng kép gồm hai nhiễm sắc tử gọi là bộ đôi (dyade).
Hai phần tâm của từng lưỡng trị tiếp tục đẩy nhau để vừa thực hiện việc tách
hai NST, vừa tạo lực việc trao đổi chéo. Kết thúc sự trao đổi chéo, hai phần tâm
của từng lưỡng trị tách nhau ra nhưng hai đầu mút vẫn đính nhau tạo nên hình ảnh
của lưỡng trị có hình quả trám, hình vòng, hình chuỗi hay hình chữ thập.
Màng nhân và hạch nhân lúc này đã biến mất.
- Kỳ giữa I: các bộ tứ tập trung trên mặt phẳng xích đạo, hai tâm động của
mỗi bộ tứ nằm hai bên mặt phẳng xích đạo và cùng bám vào một sợi thoi vô sắc.

Đây là sự khác nhau ở kỳ giữa của phân bào nguyên nhiễm và phân bào giảm
nhiễm (trong kỳ giữa phân bào nguyên nhiễm mỗi tâm động bám vào một sợi
thoi vô sắc và đều nằm đúng trên mặt phẳng xích đạo).
- Kỳ sau I: từng bộ tứ tách làm hai, mỗi NST kép của cùng một bộ tứ tách
nhau ra và đi về mỗi cực của tế bào.
- Kỳ cuối I: các NST kép gồm hai nhiễm sắc tử về đến hai cực của tế bào.
Như vậy tại mỗi cực của tế bào bây giờ có n NST kép. Nhân ở mỗi cực của tế
bào được hình thành và song song với quá trình hình thành nhân ở hai cực tế bào
là sự phân chia bào tương thành hai phần bằng nhau cho ra hai tế bào con.
15


* Lần phân chia thứ hai: hai tế bào con được sinh ra từ lần phân chia thứ nhất
cùng bước vào lần phân chia thứ hai song song với nhau mà không trải qua gian kỳ
(không có sự nhân đôi của ADN). Hình ảnh NST giữ nguyên như kỳ cuối I.
- Kỳ đầu II: rất ngắn, hình ảnh tế bào không khác so với thời kỳ xen kẽ giữa
hai lần phân bào.
- Kỳ giữa II: các NST tập trung ở mặt phẳng xích đạo, các nhiễm sắc tử đã
tách nhau nhưng phần tâm còn đính với nhau. Các tâm động của mỗi NST bám
vào sợi thoi vô sắc, và đến khi các tâm động tách nhau ra thì kết thúc kỳ giữa II.
- Kỳ sau II: các nhiễm sắc tử đã được tách nhau ra và trở thành NST đơn,
mỗi NST đơn đi về một cực đối lập của tế bào.
- Kỳ cuối II: các NST về đến hai cực tế bào, giãn xoắn, nhân mới được hình
thành tại mỗi cực tế bào và song song với quá trình hình thành nhân là quá trình
phân chia bào tương thành hai phần bằng nhau để tạo ra hai tế bào con đó là
những tinh tử hay noãn tử mang n NST.
* Ý nghĩa của giảm phân:
+ Hình thành giao tử đực và cái làm nguyên liệu cho sinh sản hữu tính. Nếu
không có phân bào giảm nhiễm thì sau mỗi lần thụ tinh bộ NST của loài sẽ tăng
lên gấp đôi.

+ Nhờ có trao đổi chéo và sự kết hợp với thụ tinh mà tạo nên tính đa dạng
di truyền, do đó có ý nghĩa rất lớn đối với tiến hoá.
* Các nhân tố ảnh hưởng tới phân bào giảm nhiễm:
Cũng giống như ở nguyên phân, sự phân bào giảm nhiễm chịu sự tác động
của nhiều nhân tố như dinh dưỡng, hormone, hoá chất, hoạt động của hệ thần
kinh, tuổi cá thể… Trong đó các nhân tố có ảnh hưởng quyết định là:
+ Tuổi cá thể: tuổi càng cao thì khả năng thực hiện phân bào giảm nhiễm
càng giảm thậm chí bị ngừng lại.
+ Các hormone, đặc biệt là các gonadotropin (LH, FSH, Prolactin…).
+ Hoạt động của hệ thần kinh trung ương, nhất là đối con người.
2.3. Phân bào vô nhiễm [9]
Phân bào vô nhiễm (còn gọi là trực phân): là hình thức phân bào mà trong
đó nhân bị cắt ngang và không hình thành nhiễm sắc thể có kính thước hiển vi
quang học, và không hình thành thoi vô sắc. Nhiễm sắc thể phân bố không đều
cho các tế bào con, một số NST bị đứt, bào tương cũng phân bố không đều hoặc
không phân chia. Kết quả là nhân của các tế bào con có số lượng và chất lượng
16


NST không như nhau, bào tương có thể không giống nhau nên chúng sẽ có kích
thước, hình dạng vai trò và đặc tính sinh học khác nhau.
Phân bào vô nhiễm có thể gặp ở các mô của cơ thể trưởng thành hoặc phôi.
Tuổi già có thể làm tăng tỉ lệ phân bào vô nhiễm. Các mô phân hoá cao thường
có các tế bào phân bào theo lối vô nhiễm. Trong quá trình phân bào vô nhiễm,
nhân của tế bào không mất chức năng đặc trưng của mình, số lượng ADN tăng
gấp đôi trước khi xảy ra phân bào và sự tổng hợp ADN có thể xảy ra trước và cả
trong khi phân bào và sự tổng hợp này không cân đối (không chỉ tăng gấp đôi
mà có thể nhiều hơn). Quá trình phân bào vô nhiễm không xảy ra biến đổi hoá
học nào rõ rệt của bào tương và của nhân.
3. Khả năng ứng dụng của sự phân chia tế bào trong công nghệ sinh học

Nhờ những hiểu biết về cấu trúc, chức năng, thành phần sinh hoá, di truyền,
chu kỳ của tế bào Prokaryote và Eukaryote, những hiểu biết về mối tương tác
của môi trường đối với sinh trưởng và phát triển của tế bào từ đó đã xây dựng
nên các kỹ thuật nuôi cấy tế bào invitro đối với vi sinh vật (vi khuẩn, xạ khuẩn,
nấm men, nấm mốc, tảo…), tế bào thực vật, động vật và cả tế bào người để phục
vụ cho nghiên cứu và thực tiễn sản xuất.
3.1. Khả năng ứng dụng của nuôi cấy tế bào động vật [10]
Kỹ thuật nuôi cấy tế bào động vật đã tạo điều kiện để nghiên cứu bệnh lý tế
bào chẳng hạn như nghiên cứu các tế bào ung thư, phân loại các khối u ác tính,
mô hình thực nghiệm để khảo sát tác động của hoá chất, xác định sự tương hợp
của mô trong cấy ghép tế bào. Có thể tóm tắt những khả năng ứng dụng của
công nghệ nuôi cấy tế bào động vật:
+ Sản xuất các viral vector dùng trong liệu pháp gene. Các mục đích chính
của liệu pháp này là các bệnh ung thư, hội chứng suy giảm miễn dịch (HIV),
chứng viêm khớp, các bệnh tim mạch và xơ hoá u nang.
+ Sản xuất các tế bào động vật dùng làm cơ chất in vitro trong nghiên cứu
hoá chất (các chất độc, dược phẩm).
+ Phát triển công nghệ sản xuất các mô, cơ quan thay thế, chẳng hạn sản
xuất da nhân tạo để chữa bỏng, mô gan để chữa viêm gan, đảo langerhans để
chữa bệnh tiểu đường…
+ Kỹ thuật nuôi cấy tế bào động vật có thể được ứng dụng để sản xuất các
hợp chất hoá sinh dùng trong chẩn đoán và điều trị như hormone sinh trưởng
người, interferon, hoạt tố plasminogen mô, kháng thể đơn dòng và các loại
17


vaccine. Có sáu nhóm sản phẩm của nuôi cấy tế bào động vật hiện đang được
sản xuất và tiếp tục hoàn thiện:
Nhóm I: sản xuất các enzyme, hormone, các nhân tố sinh trưởng. Ví dụ: sản
xuất urokinase, hormone sinh trưởng, các cytokinie…

Nhóm II: sản xuất các loại vaccine như vaccine dại, quai bị, sởi….
Nhóm III: sản xuất kháng thể đơn dòng.
Nhóm IV: sản xuất virus côn trùng dùng trong nông nghiệp.
Nhóm V: sản xuất các chất điều hoà miễn dịch: interferon và interleukin.
Nhóm VI: các tế bào nguyên vẹn phục vụ cho thử nghiệm hoá chất.
Kỹ thuật nuôi cấy tế bào động vật còn được sử dụng trong công nghệ lai tế bào,
công nghệ nhân bản vô tính động vật, công nghệ tế bào gốc và công nghệ phôi.
3.2. Khả năng ứng dụng của nuôi cấy tế bào thực vật [10]
Phát triển kỹ thuật nuôi cấy tế bào thực vật có thể tạo ra các sản phẩm rất
có giá trị, chẳng hạn các chất dùng làm dược liệu, các chất tạo mùi, các chất
dùng làm gia vị, các sắc tố và các hoá chất dùng trong nông nghiệp.
* Sản xuất các sản phẩm thứ cấp dùng trong thực phẩm:
+ Sản xuất các chất màu: nhờ kỹ thuật nuôi cấy tế bào thực vật mà có thể
sản xuất được các chất màu với số lượng lớn dùng trong công nghiệp thực
phẩm. Chẳng hạn sản xuất anthocyanin, betalaine, crocin và crocetin là các loại
gia vị có giá trị có giá trị về độ an toàn và tạo màu đẹp cho thực phẩm.
+ Sản xuất các chất tạo mùi: bước đầu đã tiến hành sản xuất một số chất tạo
mùi có nguồn gốc tự nhiên bằng nuôi cấy tế bào như sản xuất vanilla (nguyên
liệu tạo mùi được dùng phổ biến nhất hiện nay), garlic (chất tạo mùi tỏi), onion
(tạo mùi hành)…
+ Sản xuất các chất ngọt: sản xuất stevioside là chất tự nhiên, ngọt hơn
sucrose khoảng 300 lần, sản phẩm này an toàn cho người dùng và còn ức chế vi
sinh vật gây bệnh vùng miệng.
* Sản xuất các sản phẩm thứ cấp dùng trong dược phẩm:
+ Sản xuất các alkaloid : ví dụ sản xuất caffeine, berberin, betalain dùng
trong công nghiệp hương liệu và y học; reserpin dùng trong điều trị cao huyết áp
và rối loạn tuần hoàn…
+ Sản xuất các steroid, shikonin, ubiquinone-10, anthraquinon dùng trong
tránh thai, kháng khuẩn, kháng nấm,giảm huyết áp, giảm đau, chống oxy hoá…
* Sản xuất protein tái tổ hợp: nuôi cấy tế bào thực vật đã được sử dụng để

sản xuất các sản phẩm tự nhiên cách đây hơn 20 năm và gần đây chúng được
18


dùng để sản xuất các protein tái tổ hợp. Thực vật chuyển gene hiện nay được
xem là hệ thống rất kinh tế cho việc sản xuất các protein ngoại lai như kháng
thể, enzyme và hormone. Hiện tại việc sản xuất thương mại một số protein của
vi khuẩn và động vật đã được tiến hành trên thực vật và trong tương lai sẽ hứa
hẹn nhiều triển vọng tốt đẹp.
3.3. Khả năng ứng dụng của nuôi cấy tế bào vi sinh vật [10]
Nuôi cấy tế bào vi sinh vật ra đời sớm nhất so với nuôi cấy tế bào động vật
và thực vật, hiện nay nó vẫn có những đóng góp quan trọng bậc nhất cho nghiên
cứu và sản xuất. Có thể tóm tắt khả năng ứng dụng của kỹ thuật nuôi cấy tế bào
vi sinh vật:
* Sản xuất dược phẩm:
+ Sản xuất kháng sinh: penicillin, streptomycin…
+ Sản xuất thuốc bằng công nghệ ADN tái tổ hợp: sản xuất insulin,
interferon, các loại hormone, vaccine, các protein trị liệu…
* Sản xuất enzyme dùng trong công nghiệp thực phẩm và một số dùng
trong chẩn đoán và trị liệu.
* Sản xuất protein đơn bào dùng trong chăn nuôi và sản xuất các sản phẩm
như thịt, trứng nhân tạo…

19


PHẦN 3. KẾT LUẬN
Qua một số vấn đề trình bày ở trên, chúng ta có thể nhận thấy việc nghiên
cứu về tế bào đã mở ra khả năng ứng dụng to lớn vào cuộc sống. Ngày nay,
nhờ sự phát triển của khoa học hiện đại, những hiểu biết của chúng ta về cấu

trúc và chức năng của tế bào - đơn vị cơ sở của sự sống ngày càng được hoàn
thiện. Trên cơ sở những kiến thức về cấu trúc và chức năng của tế bào đã hình
thành nên công nghệ tế bào là một bộ phận quan trọng của công nghệ sinh học.
Cho đến nay nó đã đạt được những bước tiến nhảy vọt, ngày càng có những
đóng góp quan trọng vào đời sống con người. Nhờ công nghệ tế bào mà các loại
dược phẩm đắt tiền như hormone, vaccine, các protein trị liệu… có thể được sản
xuất bằng các tế bào được biến đổi di truyền hoặc các tế bào lai với giá rẻ và số
lượng lớn. Đồng thời sự hoàn thiện của công nghệ nuôi cấy tế bào động vật,
thực vật và vi sinh vật sẽ góp phần sản xuất ra lượng lớn sinh khối và tạo ra các
giống mới có những đặc tính ưu việt nhằm đáp ứng với nhu cầu lương thực ngày
càng cao của dân số thế giới.

20


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Thành Đạt (2005), Cơ sở sinh học vi sinh vật, tập 1, NXB Đại học Sư
phạm, Hà Nội.
2. Nguyễn Như Hiền (2006), Giáo trình sinh học tế bào, NXB Giáo dục, Hà
Nội.
3. Nguyễn Như Hiền (2005), Công nghệ sinh học, tập 1, NXB Giáo dục, Hà
Nội.
4. Nguyễn Như Hiền, Trịnh Xuân Hậu (2004), Tế bào học, NXB Đại học Quốc
gia Hà Nội.
5. Nguyễn Khang Sơn (2005), Mô - phôi học, trường Đại học Y khoa Thái
Nguyên.
6. Nguyễn Xuân Thành (2004), Vi sinh vật học nông nghiệp, NXB Đại học Sư
phạm, Hà Nội.
7. Lương Thị Hồng Vân (2004), Tế bào học, Khoa Khoa học Tự nhiên Đại học
Thái Nguyên

8. W.D. Philips - T.J.Chilton, Sinh học, tập 1, NXB Giáo dục, Hà Nội.
9. Cổng thông tin tư liệu/e-learning/Tế bào học/Các tài nguyên/Tải giáo
trình.htm.
10. Cổng thông tin tư liệu/e-learning/Công nghệ tế bào/Các tài nguyên/Tải
giáo trình.htm.
11. bào phân chia như thế nào?
12. kỳ tế bào.

21



×