Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Tiểu luận về tín dụng bảo đảm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.45 KB, 18 trang )

1
Tín dụng đảm bảo GVHD: ThS: Nguyễn Thị Tuyết Nga
LỜI MỞ ĐẦU
Trong thời gian vừa qua, nền kinh tế Việt Nam chịu khá nhiều biến động. Đặc
biệt, với sự nhạy cảm của mình, khối ngành ngân hàng dường như chịu ảnh hưởng nặng
nề nhất. Trong chính sách thắt chặt cung tiền tệ nhằm kiềm chế lạm phát, các ngân hàng
đã phải bước vào một cuộc chạy đua lãi suất với mức lãi suất cao nhất từ trước tới giờ.
Và trong áp lực của những chính sách vĩ mô từ chính phủ, một số ngân hàng đã gặp phải
những rủi ro lớn về nợ xấu, thậm chí một số ngân hàng đã phải tham gia thị trường liên
ngân hàng mới có đủ lượng dự trữ bắt buộc mà ngân hàng nhà nước đề ra. Chỉ sau đó
một thời gian ngắn, các ngân hàng lại tiếp tục rơi vào tình trạng khốn đốn, đầu năm thu
hút vốn cuối năm thì không tìm được đầu ra cho vốn. Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới
thực sự đã tạo nên một hiệu ứng không tốt cho các ngân hàng. Tại thời điểm này, sau sự
sụp đổ của hàng loạt ngân hàng nổi tiếng và giàu truyền thống tại Mỹ thì các ngân hàng
tại Việt Nam cũng đã đưa ra những biện pháp để hạn chế nợ xấu cũng như những rủi ro
tín dụng thường gặp.
Để hạn chế rủi ro cho chính mình, các ngân hàng đã áp dụng nhiều biện pháp. Và
tín dụng đảm bảo là một biện pháp được các ngân hàng lựa chọn để hạn chế một phần
rủi ro.
Vậy “Tín dụng bảo đảm là gì? Tín dụng bảo đảm có mấy hình thức? Tín dụng bảo
đảm có phải là mục tiêu trong cho vay hay không? Tại sao?”. Để trả lời những câu hỏi
trên, chúng em đã thực hiện đề tài này. Mong rằng qua cuốn tiểu luận này những vấn đề
trên sẽ được sáng tỏ.
Nhóm I ĐHTN2
Page 1
2
Tín dụng đảm bảo GVHD: ThS: Nguyễn Thị Tuyết Nga
Mục lục
Chương I: CƠ SỞ LÝ LUẬN 3
1.1 Khái niệm tín dụng bảo đàm: 3
1.2. Các hình thức tín dụng bảo đảm: 3


1.2.1. Tín dụng bảo đảm bằng tài sản bảo đảm: 3
1.2.2. Tín dụng bảo đảm bằng bảo lãnh: 4
1.2.3. Tín dụng bảo đảm bằng số dư bù: 5
1.2.4. Tín dụng bảo đảm bằng tín chấp: 5
1.2.5. Tín dụng bảo đảm bằng đặt cọc, ký cược, ký quỹ 6
CHƯƠNG II: VAI TRÒ HOẠT ĐỘNG CHO VAY CÓ ĐẢM BẢO TÍN DỤNG
TẠI CÁC NGÂN HÀNG HIỆN NAY 7
2.1 Vai trò của cho vay có đảm bảo tín dụng hiện nay: 7
2.2. Tín dụng đảm bảo không phải là mục tiêu trong cho vay tín dụng 10
CHƯƠNG III: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP 11
3.1 Thực trạng và vướng mắc trong cho vay có đảm bảo tín dụng ở các NHTM hiện
nay 11
3.1.1. Đối với những tài sản hình thành trong tương lai: 11
3.1.2. Định giá TSBĐ: 12
3.1.3. Xử lý TSBĐ để thu hồi nợ 14
3.1.4. Vướng mắc liên quan đến đến nộp thuế chuyển quyền sử dụng đất,
chuyển quyền thuê đất 15
3.1.5. Bất cập trong đăng ký giao dịch bảo đảm3.1.6. Hạn chế khả năng tiếp
cận vốn tín dụng 15
3.2 Giải pháp 16
3.2.1 Chuẩn hoá và đồng bộ về Luật và các thủ tục hành chính 16
3.2.2 Các ngân hàng nên linh hoạt trong hoạt động tín dụng này 16
Nhóm I ĐHTN2
Page 2
3
Tín dụng đảm bảo GVHD: ThS: Nguyễn Thị Tuyết Nga
Chương I: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1 Khái niệm tín dụng bảo đàm:
Tín dụng bảo đảm là việc bắt buộc bảo đảm cho một thể nhân hay pháp nhân được
quyền sử dụng một khoản tín dụng. Ví dụ: Ngân hàng cho vay có thể nhận của người

vay một tài sản thế chấp hay một chứng thư làm tin hoặc có thể chấp nhận sự bảo đảm
của một người thứ ba. Nếu người vay nợ không thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ đã cam
kết thì ngân hàng có quyền sử dụng các bảo đảm đã nhận được của người mắc nợ hay
của người thứ ba.
1.2. Các hình thức tín dụng bảo đảm :
1.2.1. Tín dụng bảo đảm bằng tài sản bảo đảm:
• Khái niệm:
Tín dụng bảo đảm bằng tài sản bảo đảm là việc bên vay vốn dùng tài sản thuộc
quyền sở hữu của mình để bảo đảm với bên cho vay về khả năng hoàn trả nợ vay của
mình
Tín dụng bảo đảm bằng tài sản bảo đảm được thực hiện theo Nghị định
163/2006/CP ban hành ngày 29/12/2006
• Tác dụng:
Giảm bớt tổn thất cho Ngân hàng khi khách hàng vì một lí do nào đó không thanh
toán được nợ cho Ngân hàng.
Làm động lực thúc đẩy khách hàng trả nợ
Là rào cản đối với những đối tượng đi vay có chủ định lừa đảo
• Tín dụng bảo đảm bằng tài sản bảo đảm có 3 hình thức phổ biến sau:
 Tín dụng bảo đảm bằng tài sản thế chấp :
Thế chấp tài sản là người đi vay đem tài sản thuộc quyền sử hữu hợp pháp của
mình thế chấp cho ngân hàng cho vay để vay một số tiền nhất định và dùng tài sản đó để
bảo đảm cho số nợ vay.Nếu khi đến hạn mà người vay không thực hiện nghĩa vụ trả nợ
Nhóm I ĐHTN2
Page 3
4
Tín dụng đảm bảo GVHD: ThS: Nguyễn Thị Tuyết Nga
hoặc trả không hết nợ cho Ngân hàng cho vay thì Ngân hàng được quyền phát mãi tài
sản thế chấp để thu nợ
 Tín dụng bảo đảm bằng tài sản cầm cố :
Cầm cố tài sản là việc người đi vay chuyển giao tài sản là các động sản thuộc sở

hữu của mình cho bên cho vay để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ.Tài sản cầm cố có
thể là loại không cần đăng kí quyền sở hữu, có loại cần đăng kí quyền sở hữu. Đối với
loại tài sản không đăng kí quyền sở hữu, khi cầm cố, tài sản phải được giao nộp cho bên
cho vay.Đối với tài sản có đăng kí sở hữu, khi cầm cố hai bên có thể thỏa thuận để bên
cầm cố giữ tài sản hoặc giao tài sản cầm cố cho bên thứ ba giữ
 Tín dụng bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay:
Tài sản hình thành từ vốn vay là tài sản của người đi vay mà giá trị tài sản được tạo
ra bởi một phần hoặc toàn bộ khoản cho vay của Ngân hàng.Bảo đảm tiền vay bằng tài
sản hình thành từ vốn vay là việc người đi vay dùng tài sản hình thành từ vốn vay để bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho chính khoản vay đó đối với Ngân hàng.Theo hình
thức này thì toàn bộ tài sản hình thành từ vốn vay sẽ thuộc quyền chi phối,định đoạt của
Ngân hàng nếu bên đi vay chưa trả hết nợ cho Ngân hàng.
• Đối tượng – tài sản thế chấp cầm cố:
 Bất động sản: nhà ở, nhà xưởng, quyền sử dụng đất và công trình xây dựng
trên đất.
 Ðộng sản: máy móc, thiết bị, vật tư, hàng hoá, phương tiện vận tải
 Chứng từ có giá: sổ tiết kiệm, trái phiếu, công trái.
 Tài sản hình thành từ vốn vay trung dài hạn
1.2.2. Tín dụng bảo đảm bằng bảo lãnh:
• Khái niệm:
Bảo lãnh là việc một đơn vị hoặc cá nhân đứng ra bảo lãnh hco người vay vốn để
người này đi vay một số tiền nhất định tại Ngân hàng.Nếu khi đến hạn người đi vay
không trả hoặc không trả hết nợ cho Ngân hàng thì đơn vị hoặc cá nhân bảo lãnh sẽ đứng
ra trả nợ thay
• Phương pháp bảo lãnh:
Nhóm I ĐHTN2
Page 4
5
Tín dụng đảm bảo GVHD: ThS: Nguyễn Thị Tuyết Nga
 Bảo lãnh bằng tài sản:

Theo hình thức này bên bảo lãnh sẽ dùng tài sản của mình để đứng ra bảo lãnh
bằng cách dùng tài sản đó để thế chấp hoặc cầm cố cho ngân hàng.Nếu khi đến hạn mà
người đi vay không trả hoặc trả không hết nợ cho ngân hàng thì người bảo lãnh phải
đứng ra trả nợ thay nếu không thì ngân hàng sẽ phát mãi tài sản thế chấp, tài sản cầm cố
để thu nợ.Tài sản cầm cố được áp dụng với bất kì đơn vị cá nhân nào với điều kiện
người bảo lãnh phải có tài sản để bảo lãnh
 Ký quỹ bảo lãnh:
Người bảo lãnh có thể dùng tiền của mình ký quỹ cho người vay vốn
 Bảo lãnh bằng năng lực chi trả:
Loại hình này chỉ có các tổ chức tín dụng, ngân hàng công ty tài chính, quỹ
đầu tư và các tổ chức tín dụng ngân hàng mới có thể thực hiện
 Bảo lãnh bằng uy tín:
Chỉ thực hiện đối với các tổ chức chính trị xã hội
1.2.3. Tín dụng bảo đảm bằng số dư bù:
Người đi vay phải mở tài khoản tiền gửi tại ngân hàng cho vay và duy trì trên tài
khoản đó một số dư nhất định-lúc đó ngân hàng hco vay mới thực hiện việc giải ngân-số
dư đó gọi là số dư bù.Trong thực tế nhiều ngân hàng sử dụng khá linh hoạt hình thức số
dư bù, bằng cách khi cho một khách hàng vay vốn, ngân hàng sẽ giữ lại một số tiền
(khoảng 10-20%) vốn cho vay và chuyển vào tái khoản tiền gửi của khách hàng vay vốn
1.2.4. Tín dụng bảo đảm bằng tín chấp:
Những doanh nghiệp có uy tín hoạt động sản xuất kinh doanh ổ định, có lãi,
không có nợ nần day dưa khi vay vốn ngân hàng, có thể được ngân hàng cho vay bằng
tín chấp trên cơ sở xem xét kế hoạch hoặc phương án sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp-nghĩa là doanh nghiệp không phải thế chấp cầm cố hay bảo lãnh của bên thứ
ba.Theo quy định hiện hàng, Tổng giám đốc (giám đốc) ngân hàng cho vay có thể lựa
chọn những doanh nghiệp để cho vay tín chấp, nhưng phải chịu trách nhiệm về quyết
định của mình.
1.2.5. Tín dụng bảo đảm bằng đặt cọc, ký cược, ký quỹ
Đặt cọc, ký cược, ký quỹ là những hình thức thức đảm bảo được áp dụng trong
hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại

Nhóm I ĐHTN2
Page 5
6
Tín dụng đảm bảo GVHD: ThS: Nguyễn Thị Tuyết Nga
• Đặt cọc:
Là việc bên có nghĩa vụ giao cho bên có quyền một khoản tiền (tiền đặt cọc) để
cam kết thực hiện hợp đồng.Tiền đặt cọc có thể được trừ vào nghĩa vụ trả tiền hoặc được
hoàn trả khi bên có nghĩa vụ hoàn thành nghĩa vụ trả tiền
Giá trị đặt cọc khoảng từ 10-30% giá trị hợp đồng-tùy theo quan hệ giữa 2 bên
• Ký cược:
Là việc bên thuê giao cho bên cho thuê một khoản tiền (tiền ký cược) để bảo đảm
thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng cho thuê tài chính.Tiền ký cược được dùng để thu nợ
kỳ cuối cùng, hoặc được hoàn trả cho bên thuê khi bên thuê đã hoàn thành nghĩa vụ của
mình.
• Ký quỹ:
Là việc bên có nghĩa vụ gửi một số tiền vào tài khoản phong tỏa tại một
ngân hàng để bảo đảm thực hiện đối với bên có quyền.Nếu đáo hạn mà bên có nghĩa vụ
không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ của mình thì bên có
quyền sẽ yêu cầu ngân hàng nắm giữ tài khoản phong toả, sử dụng tiền ký quỹ để thanh
toán cho mình theo quy định của hợp đồng
Nhóm I ĐHTN2
Page 6
7
Tín dụng đảm bảo GVHD: ThS: Nguyễn Thị Tuyết Nga
CHƯƠNG II: VAI TRÒ HOẠT ĐỘNG CHO VAY CÓ ĐẢM BẢO TÍN DỤNG
TẠI CÁC NGÂN HÀNG HIỆN NAY
2.1 Vai trò của cho vay có đảm bảo tín dụng hiện nay:
Về mặt lý thuyết, quyền lợi của các chủ nợ không bảo đảm được pháp luật bảo vệ,
một khi nợ đến hạn, họ có quyền yêu cầu người mắc nợ trả nợ, nếu người mắc nợ không
trả một cách tự nguyện, thì họ có quyền tiến hành một vụ kiện kết thúc bằng việc kê biên

và bán đấu giá các tài sản thuộc quyền sở hữu của người mắc nợ để thanh toán. Nhưng
trên thực tế, chủ nợ không có bảo đảm luôn đứng trước nguy cơ không thu hồi được nợ
vì hai lý do.
Thứ nhất, giữa thời điểm nợ phát sinh và thời điểm nợ đến hạn khối tài sản của
người mắc nợ có thể thay đổi về nội dung. Có một quy tắc tự nhiên theo đó, chủ nợ chỉ
có quyền đòi nợ khi đã đến hạn đòi và trong trường hợp người mắc nợ không chịu trả,
chủ nợ chỉ có quyền yêu cầu kê biên những tài sản thuộc quyền sở hữu của người mắc
nợ ở thời điểm kê biên. Giả sử người mắc nợ thực hiện các hành vi chuyển nhượng tài
sản sau khi mắc nợ nhưng trước khi nợ được đòi, chủ nợ sẽ không còn quyền hạn gì đối
với các tài sản đó nữa dù có thể chính sự hiện diện của những tài sản này trong khối tài
sản của người mắc nợ là cơ sở của lòng tin mà chủ nợ dành cho người này lúc tiến hành
giao kết nghĩa vụ.
Thứ hai, nếu ở thời điểm nợ được đòi có nhiều chủ nợ không có bảo đảm thì hoặc
là chủ nợ nào đến trước được trả trước hoặc là các chủ nợ được trả nợ theo tỷ lệ và trong
trường hợp giá bán tổng số tài sản bị kê biên nhỏ hơn giá trị tổng số nợ được đòi, thì
không có chủ nợ nào được trả đủ. Thế thì, một khi lòng tin vào chính người có nghĩa vụ
tỏ ra không vững chắc, người có quyền yêu cầu phải tìm cho lòng tin một cơ sở khác,
bằng một sự bảo đảm cho việc thu hồi nợ đối với người vay, các biện pháp bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ ra đời để tạo ra lòng tin đó.
Do đó, Tín dụng có bảo đảm có vai trò tạo ra một hành lang pháp lý an toàn cho
hoạt động tín dụng nói chung và sự phát triển của nền kinh tế nói riêng. Việc xác lập các
Nhóm I ĐHTN2
Page 7
8
Tín dụng đảm bảo GVHD: ThS: Nguyễn Thị Tuyết Nga
giao dịch bảo đảm luôn hướng tới mục tiêu bảo vệ quyền lợi của các bên tham gia giao
dịch dân sự, đặc biệt là quyền lợi của bên có quyền ( chủ nợ- Ngân hàng) trong giao dịch
này. Với ý nghĩa đó, việc xác lập các hình thức bảo đảm tín dụng đã góp phần không nhỏ
vào sự ổn định của các quan hệ dân sự, kinh tế, tránh các tranh chấp phát sinh từ việc
không thực hiện hoặc có thực hiện nhưng không đúng nghĩa vụ dân sự, kinh tế của bên

có nghĩa vụ gây ra. Đồng thời, trong trường hợp nêu trên, các giao dịch bảo đảm còn tạo
điều kiện khắc phục những thiệt hại cho bên có quyền một cách nhanh chóng và hiệu
quả.
Trong lĩnh vực tín dụng, ngân hàng, chúng giữ một vai trò quan trọng đối với việc
mở rộng tín dụng cho nền kinh tế. Vai trò đó được thể hiện thông qua việc mở rộng khả
năng, cơ hội tiếp cận tín dụng nói chung, tín dụng ngân hàng nói riêng của các doanh
nghiệp, tổ chức khác và cá nhân, đồng thời tác động trực tiếp, mạnh mẽ tới quyết định
cấp tín dụng của Ngân hàng và các tổ chức tín dụng.
 Đối với Ngân hàng:
Việc cho vay có bảo đảm bằng tài sản sẽ bảo đảm quyền ưu tiên của Ngân hàng trong
việc thu hồi nợ trong trường hợp doanh nghiệp vay vốn gặp khó khăn trong thanh toán,
đặc biệt trong trường hợp doanh nghiệp bị lâm vào tình trạng phá sản. Hơn nữa, việc cho
vay có bảo đảm bằng tài sản của doanh nghiệp sẽ Gắn trách nhiệm vật chất của người đi
vay trong quy trình sử dụng vốn, bảo đảm cho Ngân hàng quản lý, theo dõi được hoạt
động của doanh nghiệp một cách chặt chẽ hơn, từ đó bảo đảm an toàn cho tổ chức tín
dụng trong việc thu hồi vốn vay
 Đối với doanh nghiệp:
Đặc biệt, đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, giao dịch tín dụng có bảo đảm bổ
sung điều kiện để khách hàng được vay vốn. Đây chính là giải pháp cho việc tiếp cận tín
dụng vì để nâng cao sự an toàn cho việc thu hồi vốn, các tổ chức tín dụng thường yêu
cầu có biện pháp bảo đảm bằng tài sản khi cấp tín dụng cho các doanh nghiệp vừa và
nhỏ. Dưới góc độ này, các giao dịch bảo đảm đã trở thành công cụ hữu hiệu để các
doanh nghiệp vừa và nhỏ tiếp cận tín dụng ngân hàng.
Nhóm I ĐHTN2
Page 8
9
Tín dụng đảm bảo GVHD: ThS: Nguyễn Thị Tuyết Nga
Mặt khác, g iao dịch bảo đảm được thiết lập trên cơ sở hợp đồng, do đó, quyền tự
do cam kết, thỏa thuận của các bên tham gia giao dịch đóng vai trò quyết định. Áp dụng
biện pháp bảo đảm, chủ nợ không chỉ có quyền theo hợp đồng buộc bên vay nợ phải

hoàn trả vốn vay, mà còn có quyền xử lý tài sản mà bên vay dùng để bảo đảm. Điều này
sẽ đặc biệt có ý nghĩa trong trường hợp doanh nghiệp bị lâm vào tình trạng phá sản.
Khi nh ng kho n tín d ng c c p mà không có tài s n m b o, ph n v n c aữ ả ụ đượ ấ ả đả ả ầ ố ủ
bên vay tham gia r t ít ho c không tham gia vào d án u t , thì xu h ng t t y u là bênấ ặ ự đầ ư ướ ấ ế
vay s th c hi n các d án có m c r i ro cao em l i l i nhu n cao vì n u d ánẽ ự ệ ự ứ độ ủ đểđ ạ ợ ậ ế ự
th t b i thì cái mà h m t là không áng k , ng c l i n u d án thành công thì l i íchấ ạ ọ ấ đ ể ượ ạ ế ự ợ
c a h là r t l n. Hành vi c a bên vay s hoàn toàn ng c l i khi h ph i em th ch pủ ọ ấ ớ ủ ẽ ượ ạ ọ ả đ ế ấ
các tài s n hi n có c a mình c c p tín d ng. Khi tài s n c th ch p, c m c t iả ệ ủ đểđượ ấ ụ ả đượ ế ấ ấ ố ạ
các t ch c tín d ng thì ng i vay s b m t nó n u kho n vay c a h c u t khôngổ ứ ụ ườ ẽ ị ấ ế ả ủ ọ đượ đầ ư
c n th n và x y ra r i ro. Chính vì v y mà h ph i th n tr ng h n khi th c hi n quy tẩ ậ ả ủ ậ ọ ả ậ ọ ơ ự ệ ế
nh u t c a mình. i u này c ng x y ra i v i các doanh nghi p có giá tr th c c ađị đầ ư ủ Đ ề ũ ả đố ớ ệ ị ự ủ
v n ch s h u l n, ho t ng trong môi tr ng t ng i t t v i lu t phát s n c th cố ủ ở ữ ớ ạ độ ườ ươ đố ố ớ ậ ả đượ ự
thi hi u qu . Do l i ích t vi c th c hi n các d án u t là r t l n trong khi trách nhi mệ ả ợ ừ ệ ự ệ ự đầ ư ấ ớ ệ
không rõ ràng nên các c p i u hành doanh nghi p ch mu n th c hi n u t mà khôngấ đề ệ ỉ ố ự ệ đầ ư
mu n tr n . i u này ã gây r t nhi u khó kh n cho các t ch c tín d ng trong vi c gi iố ả ợ Đ ề đ ấ ề ă ổ ứ ụ ệ ả
quy t các kho n n x u. Chính i u này ã t các t ch c tín d ng vào l a ch n coi tàiế ả ợ ấ đ ề đ đặ ổ ứ ụ ự ọ
s n m b o là m t trong nh ng tiêu chu n quan tr ng nh t trong quy t nh c p tínả đả ả ộ ữ ẩ ọ ấ ế đị ấ
d ng c a mình. Vì trong i u ki n th tr ng tài chính ch a t c hoàn h o c nụ ủ đ ề ệ ị ườ ư đạ đượ độ ả ầ
thi t, tài s n m b o là c ch t t nh t gi m thi u l a ch n b t l i và tâm lý l i doế ả đả ả ơ ế ố ấ để ả ể ự ọ ấ ợ ỷ ạ
Nhóm I ĐHTN2
Page 9
10
Tín dụng đảm bảo GVHD: ThS: Nguyễn Thị Tuyết Nga
thông tin b t cân x ng gây ra, nh m m b o an toàn trong ho t ng c a các t ch c tínấ ứ ằ đả ả ạ độ ủ ổ ứ
d ng Vi t namụ ệ
2.2. Tín dụng đảm bảo không phải là mục tiêu trong cho vay tín dụng
Trước hết có thể hiểu tín dụng đảm bảo là một hình thức cho vay của Ngân hàng đối
với khách hàng. Hình thức cho vay này căn cứ theo tiêu thức mức độ tín nhiệm của
Ngân hàng đối với khách hàng, khi khách hàng có nhu cầu vay vốn của Ngân hàng theo
hình thức này cần có thế chấp cầm có, bảo lãnh của bên thứ ba.

Mục đích của tín dụng đảm bảo là nhằm đảm bảo an toàn của nguồn vốn cho vay khi
khách hàng không có khả năng trả nợ vốn vay.
Để so sánh cụ thể hơn về hình thức cho vay bảo đảm và hình thức cho vay
Tín dụng bảo đảm Cho vay
- Dùng tài sản thuộc sở hữu của
doanh nghiệp để đảm bảo thực hiện
nghĩa vụ trả nợ đối với người cho
vay.
- Có sự chuyển giao quyền sở hữu.
- Là một yếu tố để xét duyệt cho vay
để xét duyệt cho vay nhưng không
mang tính chất quyết định, chỉ mang
tính bổ sung.
- Khách hàng khi vay cần có tài sản
để thế chấp cầm cố và bên thứ ba
bảo lãnh.
- Chuyển tài sản cho người đi vay để
thực hiện hoạt động sản xuất kinh
doanh.
- Có sự chuyển giao quyền sử dụng.
- Là mục tiêu của ngân hàng nhằm
tạo ra lợi nhuận, củng cố hoạt động
và phát triển.
- Nguồn thu nhập ổn định của khách
hàng mới là điều kiện tiên quyết
trong cho vay.

 Trong việc cho vay của ngân hàng, nguồn thu nợ thứ nhất là doanh thu với vay vốn
lưu động hoặc là khấu hao và lợi nhuận đối với cho vay trung và dài hạn. Trong cho vay
Nhóm I ĐHTN2

Page 10
11
Tín dụng đảm bảo GVHD: ThS: Nguyễn Thị Tuyết Nga
tiêu dùng, nguồn thu nợ thứ nhất của ngân hàng là thu nhập của cá nhân như tiền lương.
Khi đánh giá khách hàng trong trường hợp những món vay lớn thì nguồn thu nợ thứ nhất
chưa có cơ sở chắc chắn và lúc này buộc ngân hàng phải xét đến nguồn thu nợ thứ hai là
tài sản thế chấp, cầm cố hay bảo lãnh của bên thứ ba.
Trong thực tại hiện nay, với nhu cầu vay vốn lớn và xu thế hội nhập thì những hạn
chế của tín dụng đảm bảo khó có thể phát triển. Vì ta thấy nhu cầu vay vốn từ cá nhân
đang dần chiếm tỷ lớn trong hoạt động cho vay do đó tín dụng đảm bảo không thể là
mục tiêu trong tín dụng cho vay mà đảm bảo tín dụng chỉ là một tiêu chuẩn, một yếu tố
để xét duyệt cho vay nhưng không phải là yếu tố mang tính chất quyết định. Đây chỉ là
yếu tố để bổ sung cho ngân hàng trong quá trình xét duyệt cho vay mà thôi.
CHƯƠNG III: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
3.1 Thực trạng và vướng mắc trong cho vay có đảm bảo tín dụng ở các NHTM hiện
nay:
3.1.1. Đối với những tài sản hình thành trong tương lai:
- Vướng mắc trong việc công chứng hợp đồng:
Hợp đồng bảo đảm đối tài sản hình thành trong tương lai là một giao dịch được sử
dụng nhiều trong hoạt động cho vay của các ngân hàng. Hoạt động này rất phù hợp với
các doanh nghiệp nhỏ, vừa, vốn ít hoặc các doanh nghiệp cần vay vốn trên cơ sở những
TSBĐ còn nhiều hạn chế. Tuy nhiên kể từ khi Luật công chứng năm 2006 được Quốc
hội khoá IX thông qua ngày 29/11/2006 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/07/2007 các
ngân hàng gặp khó khăn trong việc công chứng các hợp đồng bảo đảm đối với tài sản
hình thành trong tương lai. Theo quan điểm của công chứng viên thì đối tượng của hợp
đồng, giao dịch phải là “có thật”, nghĩa vụ được bảo đảm là “có thật” và “phải được xác
định cụ thể”, do vậy không thể công chứng các hợp đồng, giao dịch bảo đảm với tài sản
hình thành trong tương lai vì đối tượng của các hợp đồng này có đặc điểm là tài sản hình
Nhóm I ĐHTN2
Page 11

12
Tín dụng đảm bảo GVHD: ThS: Nguyễn Thị Tuyết Nga
thành trong tương lai và không thể xác nhận cho hợp đồng, giao dịch bảo đảm với quy
định sẽ bảo đảm cho tất cả các nghiệp vụ phát sinh từ các hợp đồng tín dụng, giao dịch
tiền vay được hình thành sau thời điểm xác lập giao dịch đó.
Khó khăn trong việc tiếp cận vốn vay: mặc dù qui định của Thống đốc ngân hàng
nhà nước trong trường hợp vay vốn bằng thế chấp tài sản hình thành từ vốn vay thì chủ
đầu tư phải có ít nhất 15% vốn tự có nhưng các ngân hàng không áp dụng tỷ lệ này mà
thông thường áp dụng tỷ lệ 30% và ngay cả Quỹ hỗ trợ phát triển áp dụng tỷ lệ là 50%
- Ngân hàng gặp khó khăn trong việc xử lý TSBĐ để thu hồi nợ: Luật có những
quy định cụ thể về thế chấp tài sản hình thành trong tương lai, nhưng chưa qui định cụ
thể về việc bán, xử lý tài sản hình thành trong tương lai
- Phát sinh nhiều chi phí: theo thủ tục hiện hành việc thế chấp tài sản hình thành
trong tương lai phải thực hiện công chứng và đăng ký giao dịch bảo đảm làm mất nhiều
thời gian, tiền bạc cho nhà nước, doanh nghiệp và khách hàng.
- Nguy cơ rủi ro cao: bên nhận TSBĐ chưa có được sự bảo đảm an toàn về mặt
pháp lý khi nhận tài sản này. Tài sản hình thành trong tương lai cho dù có được xác lập
hợp pháp song luôn có nguy cơ rủi ro cao.
3.1.2. Định giá TSBĐ:
- Đối với tài sản là bất động sản:
Chưa hình thành chuẩn mực định giá giữa các ngân hàng. Việc định giá gặp nhiều
khó khăn bởi các qui định từ Ngân hàng cấp trên chưa thống nhất, chưa cụ thể, còn có
những điểm chồng chéo, khó hiểu làm cho cấp dưới khó thực hiện.
Cụ thể:
+ Quy định về phương pháp xác định giá trị TSBĐ là quyền sử dụng đất ở hiện
nay của Ngân hàng Công thương Việt Nam. Ngân hàng cho các chi nhánh ngân hàng
trong hệ thống của mình được cùng với khách hàng thoả thuận theo giá đất thực tế
chuyển nhượng ở địa phương đó tại thời điểm định giá thế chấp / định giá lại với mức:
Thứ nhất, mức tối đa bằng với mức giá đất thực tế chuyển nhượng trên thị trường
nếu thấp hơn hoặc bằng với giá ghi trong khung giá đất của UBND tỉnh, thành phố nơi

có đất.
Thứ hai, mức tối đa không quá 70% giá thực tế chuyển nhượng trên thị trường
nếu cao hơn giá ghi trong khung giá đất của UBND tỉnh, thành phố nơi có đất.
Nhóm I ĐHTN2
Page 12
13
Tín dụng đảm bảo GVHD: ThS: Nguyễn Thị Tuyết Nga
Tuy nhiên, nếu áp dụng cách thứ nhất thì không thể cho vay được vì giá trị quyền
sử dụng đất mà UBND các địa phương đưa ra chỉ để áp dụng tính thuế chứ không quy
định bán, chuyển nhượng trên thị trường. Còn áp dụng cách thứ hai, mặc dù có thoáng
hơn cách thứ nhất nhưng cũng rất khó thực hiện do một số tỉnh hiện nay chưa ban hành
khung giá đất, các ngân hàng không thể có khung giá thị trường để áp dụng tính đúng
70% theo qui định được. Nhưng nếu thuê cơ quan chuyên môn thì do co những qui định
ràng buộc bởi trách nhiệm về cách đánh giá của họ. Như vậy, khó có cơ quan nào đứng
ra nhận xây dựng khung giá đất cho ngân hàng.
- Đối với tài sản là động sản:
Việc nhận tài sản bảo đảm tiền vay là máy móc, thiết bị và dây chuyền sản xuất
đang gặp không ít khó khăn, vướng mắc về thủ tục và khả năng thẩm định.
Cụ thể:
+ Máy móc thiết bị và dây chuyền sản xuất của bên cầm cố, thế chấp thường là đã
qua sử dụng nên việc đánh giá, định giá những tài sản này khi nhận cầm cố, thế chấp là
khó khăn.
+ Khi bán, phát mãi tài sản cầm cố, thế chấp thủ tục rất phức tạp và số tiền bán
được thường không thu hồi đủ vốn gốc và lãi vay
Nguyên nhân chính là do những máy móc, thiết bị đều mang bí quyết công nghệ
riêng, thường bị lỗi thời, lạc hậu và nhanh chóng mất giá trị bởi sự phát triển của khoa
học kỹ thuật, hơn nữa là do quá trình cạnh tranh nên máy móc thiết bị và dây chuyền sản
xuất phải thường xuyên được nâng cấp, đổi mới liên tục để phù hợp với sự phát triển và
hội nhập quốc tế. Vì thế những tài sản này khi thanh lý rất khó do ít người có nhu cầu
mua lại máy móc thiết bị cũ đã qua sử dụng, thời gian kéo dài càng làm cho tài sản hư

hỏng, xuống cấp và mất giá trị.
3.1.3. Xử lý TSBĐ để thu hồi nợ:
Nhìn chung, việc xử lý TSBĐ là do ngân hàng cùng bên bảo đảm thực hiện, tuy
nhiên trong trường hợp chủ sở hữu bị khởi tố về hành vi phạm tội thì TSBĐ do cơ quan
thi hành án kê biên và xử lý.Tại Điều 48: xử lý tài sản kê biên không bán được: “ Nếu
sau hai lần giảm giá mà tài sản vẫn không bán được thì người được thi hành án có quyền
nhận tài sản theo giá trị đã giảm để thi hành án. Nếu người được thi hành án không nhận
Nhóm I ĐHTN2
Page 13
14
Tín dụng đảm bảo GVHD: ThS: Nguyễn Thị Tuyết Nga
thì chấp hành viên trả lại tài sản đó cho người phải thi hành án và áp dụng biện pháp
cưỡng chế khác”.Tuy nhiên, có trường hợp sau hai lần giảm giá vẫn không bán được, cơ
quan thi hành án giao cho ngân hàng theo giá đã giảm để thi hành. Việc nhận lại tài sản
không đơn giản:
+ Về nguồn thu nợ: những khách hàng đã chuyển sang cơ quan pháp luật xử lý
hầu hết là những khách hàng có khó khăn về tài chính, Ngân hàng chủ yếu trông chờ
nguồn xử lý TSBĐ, do vậy mặc dù trong văn bản có qui định mở là “ áp dụng biện
pháp cưỡng chế khác”, nhưng thực tế Ngân hàng vẫn buộc phải nhận vì nếu không nhận
tài sản này thì khó trông chờ vào nguồn thu hồi khác.
+ Về giá tài sản nhận lại: có trường hợp.
Trường hợp 1: Giá tài sản Ngân hàng nhận lớn hơn phần nợ vay Ngân hàng, vậy
ngay tại thời điểm nhận, Ngân hàng đã phải trích ngay số tiền chênh lệch lớn hơn phần
nợ vay này trả cho cơ quan thi hành án để thi hành án. Tuy nhiên, trong qui định về tài
chính của Ngân hàng thì không có qui định nào để hạch toán chi cho khoản này. Mặt
khác khi tài sản Ngân hàng đem bán trên thị trường giá thực tế thu về thấp hơn giá nhận
thì Ngân hàng lấy khoản nào để bù đắp cho phần đã trả lại chênh lệch cho cơ quan thi
hành án
Trường hợp 2: Nghĩa vụ trả nợ theo Pháp lệnh Thi hành án, giá trị tài sản kê biên
phải lớn hơn nghĩa vụ bảo đảm, như vậy giá đã giảm hai lần của tài sản kê biên mà ngân

hàng nhận lại cũng sẽ lớn hơn nghĩa vụ bảo đảm, do đó tại thời điểm Ngân hàng nhận lại
tài sản khách hàng đã hết nghĩa vụ với ngân hàng. Nhưng thực tế xảy ra trường hợp là tại
thời điểm bán tài sản, giá tài sản lại giảm thấp hơn phần nợ vay, như vậy lúc này khách
hàng có trách nhiệm với phần nợ thiếu không? Nếu khách hàng không có nghĩa vụ gì thì
Ngân hàng lấy nguồn đâu để bù đắp
3.1.4. Vướng mắc liên quan đến đến nộp thuế chuyển quyền sử dụng đất, chuyển
quyền thuê đất
Các tổ chức tín dụng hiện nay đang tích cực xử lý TSBĐ trong đó có quyền sử
dụng đất, quyền thuê đất (gọi chung là quyền sử dụng đất – QSDĐ) chiếm một tỷ trọng
khá lớn trong tổng giá trị tài sản phải xử lý để thu hồi nợ, nhằm tiếp tục lành mạnh hoá
tình hình tài chính, thực hành tốt đề án tái cơ cấu ngân hàng. Nhất là các ngân hàng
Nhóm I ĐHTN2
Page 14
15
Tín dụng đảm bảo GVHD: ThS: Nguyễn Thị Tuyết Nga
thương mại cổ phần hoá thì vấn đề đặt ra càng bức thiết hơn bao giờ hết. Tuy nhiên
vướng mắc lớn nhất là sau khi xử lý phải nộp thuế từ chuyển nhượng QSDĐ.
3.1.5. Bất cập trong đăng ký giao dịch bảo đảm:
Hoạt động đăng ký giao dịch bảo đảm hiện nay tồn tại nhiều bất cập. Trước hết
phải nói đến hành lang pháp lý cho hoạt động này chưa hoàn chỉnh, chưa đồng bộ và
thiếu sự thống nhất giữa các văn bản. Sau là công tác tổ chức triển khai thực hiện chưa
đầy đủ, đồng bộ của các cấp, các ngành. Từ đó dẫn đến việc đăng ký giao dịch bảo đảm
còn mang tính chắp vá, chưa đầy đủ, toàn diện.Một trong những điểm hạn chế lớn làm
cho công tác đăng ký giao dịch bảo đảm chưa phát huy hết vai trò, hiệu quả của nó là do
pháp luật chưa quy định trao đổi thông tin tình trạng pháp lý của tài sản. Hiện nay, việc
đăng ký giao dịch bảo đảm được thực hiện phân tán tại nhiều cơ quan khác nhau đã tạo
kẻ hở trong quản lý.
3.1.6. Hạn chế khả năng tiếp cận vốn tín dụng
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện nay rất khó tiếp cận tín dụng vì họ không đáp
ứng được các yêu cầu về tài sản bảo đảm của các ngân hàng.Các ngân hàng đều muốn

nhận bất động sản làm tài sản thế chấp, song do phần lớn tài sản của doanh nghiệp vừa
và nhỏ tồn tại dưới dạng các động sản như hàng tồn kho và các khoản thu có giá trị lớn
nên việc tiếp cận tín dụng với doanh nghiệp trở nên khó khăn mà các ngân hàng Việt
Nam rất ít khi cho vay mà không có tài sản bảo đảm là bất động sản.Những thủ tục vay
vốn của ngân hàng đặt ra như: tài sản thế chấp, kinh doanh liên tục có lãi, bảng tổng kết
tài sản, báo cáo tài chính phải được kiểm toán hoặc muốn vay phải có dự án, đã trở
thành rào cản trong việc tiếp cận tín dụng của doanh nghiệp.
3.2 Giải pháp
3.2.1 Chuẩn hoá và đồng bộ về Luật và các thủ tục hành chính
Ngay cả Luật công chứng, chỉ là một phần nhỏ trong quá trình tiến hành thẩm định dự
án cũng gây rắc rối cho cả ngân hàng và khách hàng. Bên cạnh đó là vướng mắc về thuế,
cũng như thủ tục đăng ký. Do vậy, cần có một văn bản cụ thể và chi tiết để hướng dẫn các
hoạt động trên.
Nhóm I ĐHTN2
Page 15
16
Tín dụng đảm bảo GVHD: ThS: Nguyễn Thị Tuyết Nga
Thêm vào đó, những quy định rườm ra về thủ tục hành chính nên được dỡ bỏ, tạo điều
kiện thuận lợi cho khách hàng và Ngân hàng
3.2.2 Các ngân hàng nên linh hoạt trong hoạt động tín dụng này.
Khi chưa có những văn bản chính thức, thì “cái gì không bị cấm sẽ được làm”, do vậy
các ngân hàng nên chủ động trong việc thực hiện những hoạt động liên quan tới thủ tục cho
vay có đảm bảo.
Không nên chỉ chấp nhận tài sản thế chấp là bất động sản. Nên mở rộng ra như dự án
đầu tư, hay các hình thức khác.
Ngoài ra, không nên coi đảm bảo tín dụng là mục tiêu của cho vay, để hạn chế rủi ro
thì các ngân hàng có thể áp dụng nhiều hình thức khác, mà cần thiết nhất là nên có một hệ
thống phòng trừ rủi ro và một bộ phận riêng quản trị và lượng hoá rủi ro.
Nhóm I ĐHTN2
Page 16

17
Tín dụng đảm bảo GVHD: ThS: Nguyễn Thị Tuyết Nga
KẾT LUẬN
Trong xu thế cạnh tranh ngày nay, các Ngân hàng đang đi vào những cuộc chạy đua nhằm
chiếm một thị phần khách hàng cao nhất. Các sản phẩm mới được đưa ra rất
nhiều, tuy nhiên, cùng với nó là rủi ro rất cao.
Việc thực hiện một chính sách hợp lý trong hoạt động cho vay là điều kiện tiên quyết
thu hút khách hàng tới ngân hàng. Mà trong đó cho vay có đảm bảo tín dụng đang chiếm
một tỷ lệ cao.
Hy vọng, các ngân hàng vừa thực hiện mục tiêu lợi nhuận của mình, và các doanh
nghiệp thuận lợi trong việc vay vốn đầu tư trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế hiện nay.
Nhóm I ĐHTN2
Page 17
18
Tín dụng đảm bảo GVHD: ThS: Nguyễn Thị Tuyết Nga
DANH SÁCH NHÓM
1. Nguyễn Thị Thương (0615131)
2. Nguyễn Thị Thuỳ Dung
3. Nguyễn Thị Hồng Nhung
4. Ngô Thị Vân Khánh
5. Trần Văn Tuấn
6. Vũ Thị Thanh Nhàn
7. Trần Hồng Ngọc
8. Lê Thị Luyến
9. Vũ Hoảng Long
10.Đặng Thị Hằng
11.Đinh Thị Thu Thuỷ
12.Bùi Nguyễn Giang Thanh
13.Nguyễn Ngọc Trúc
Nhóm I ĐHTN2

Page 18

×