Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Phát triển kinh tế tư bản nhà nước ở thái nguyên pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (964.47 KB, 99 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬ N CHÍNH TRỊ


HỨA THANH BÌNH

PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ BẢN NHÀ NƯỚC Ở THÁI NGUYÊN

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ

Chuyên ngành: Kinh tế chính tri
Mã số
: 60.31.01

Hướng dẫn khoa học : PGS-TS Vũ Văn Hiền

Hà Nội - 2004

1


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Đảng và Nhà nước ta thực hiện nhất quán chính sách phát triển kinh tế
nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, và một trong những bộ
phận cấu thành nền kinh tế đó là kinh tế tư bản nhà nước. Kinh tế tư bản nhà
nước đã được Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đặt ra như là
một trong các hình thức kinh tế trong thời kỳ quá độ và ngày càng được đề
cập sâu hơn, hoàn thiện hơn ở các chính sách và Nghị quyết khác, như Nghị
quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, VIII và đặc biệt là Nghị quyết
Đại hội lần thứ IX của Đảng.


Thực tiễn phát triển thành phần kinh tế này ở Việt Nam từ khi đổi mới
đến nay và xu hướng phát triển của nó trong giai đoạn quá độ đi lên chủ
nghĩa xã hội là một vấn đề đang đòi hỏi được lý giải thêm cả về lý luận và
thực tiễn. Có không ít cuốn sách, công trình khoa học, hội thảo của các nhà
nghiên cứu và chỉ đạo thực tiễn ở nước ta đề cập đến vấn đề này. Tuy nhiên
đó là các công trình nghiên cứu trên phạm vi cả nước hay chỉ ở các thành
phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh. Bởi vậy việc tiếp tục nghiên
cứu, khẳng định sự đúng đắn việc phát triển thành phần kinh tế tư bản nhà
nước ở một tỉnh “thường thường bậc chung’’ như tỉnh Thái Nguyên là một
vấn đề còn mới mẻ, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn. Chính vì vậy tác giả
chọn đề tài: “Phát triển kinh tế tư bản nhà nước ở Thái Nguyên’’ làm luận
văn thạc sỹ khoa học.
2.Tình hình nghiên cứu đề tài:
Từ khi đổi mới nền kinh tế (1986) đến nay, việc nghiên cứu, phát triển
nền kinh tế nhiều thành phần cùng với chính sách đẩy mạnh thu hút vốn đầu
tư trong và ngoài nước thì thành phần kinh tế tư bản nhà nước thực sự được
hình thành và có xu hướng phát triển. Nhưng việc vận dụng vào một nước
2


tiểu nông như Việt Nam là một vấn đề hết sức mới mẻ và phức tạp, chính vì
lẽ đó nên giới nghiên cứu lý luận và hoạt động thực tiễn ở nước ta quan tâm
ngày càng nhiều. Trong thời gian gần đây đã có các công trình nghiên cứu
khá công phu như cuốn “ Mấy vấn đề về chủ nghĩa tư bản nhà nước” của tác
giả Vũ Hữu Ngoạn – Khổng Doãn Lợi do nhà xuất bản Chính trị Quốc gia
phát hành năm 1993. Các luận án tiến sỹ như “ Học thuyết của Lênin về chủ
nghĩa tư bản nhà nước và sự vận dụng ở thành phố Hồ Chí Minh” của tác giả
Nguyễn Chơn Trung, luận án “ Chủ nghĩa tư bản nhà nước ở nước ta hiện
nay và xu hướng phát triển’’ của tác giả Trần Đăng Thịnh, và gần đây nhất
là cuốn sách “Về thành phần kinh tế tư bản nhà nước’’ của GS.TS Trần

Ngọc Hiên…Ngoài ra còn nhiều cuộc hội thảo, các đề tài nghiên cứu khoa
học được tổ chức ở thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội và nhiều bài báo,
chuyên đề của các giáo sư, nhà giáo, nhà nghiên cứu đầu ngành được công
bố ở các báo và tạp chí như của tác giả Đỗ Hoài Nam, Phan Thanh Phố, Vũ
Văn Hiền, Đỗ Thế Tùng, Phan Huy Đường…
Các cuốn sách, báo, luận án, các đề tài khoa học đã đề cập đến các khía
cạnh về kinh tế tư bản nhà nước, đó là những vấn đề lý luận và thực tiễn rất
quan trọng. Song các công trình khoa học đó chỉ nghiên cứu ở mức độ khái
quát chung trên phạm vi cả nước hay ở các thành phố lớn, nơi nền kinh tế đã
tương đối phát triển. Chưa có công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ có
hệ thống ở Thái Nguyên, trong khi Thái Nguyên là thủ phủ của vùng trung
du, miền núi phía bắc, một trong những cái nôi của ngành công nghiệp nước
ta, nơi đây có nhiều tiềm năng và điều kiện để phát triển mạnh thành phần
kinh tế này. Do vậy đề tài chọn tỉnh Thái Nguyên làm địa bàn nghiên cứu,
nhằm góp phần nhỏ vào việc chứng minh tính đúng đắn và sáng tạo của
Đảng và Nhà nước về chính sách phát triển thành phần kinh tế này ở Thái
Nguyên hiện nay và trong tương lai.

3


3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài:
3.1.Mục đích:
Trên cơ sở hệ thống hoá các quan điểm của chủ nghĩa Mác–Lênin, các
chủ trương, chính sách của Đảng, nhà nước ta và thực tiễn phát triển thành
phần kinh tế tư bản nhà nước trong thời gian vừa qua, để soi sáng vào thực
trạng phát triển kinh tế tư bản nhà nước ở Thái Nguyên, từ đó đưa ra những
vấn đề cần giải quyết cũng như đề xuất phương hướng, giải pháp phát triển
thành phần kinh tế này ở Thái Nguyên trong tương lai.
3.2. Nhiệm vụ:

- Nghiên cứu các quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước, quá trình vận dụng và phát triển kinh tế tư bản nhà nước trong thời
gian qua để làm rõ sự cần thiết và vai trò của kinh tế tư bản nhà nước trong
nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở Việt Nam.
- Khảo sát thực tiễn để phân tích thực trạng, đánh giá xu hướng phát
triển và những vấn đề đặt ra đối với thành phần kinh tế này ở Thái Nguyên.
Kiến nghị những giải pháp phát triển kinh tế tư bản nhà nước ở Thái Nguyên
trong thời gian tới.
4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
- Luận văn chủ yếu nghiên cứu những đặc điểm chung nhất của chủ
nghĩa tư bản nhà nước dưới góc độ là một thành phần kinh tế, với những
hình thức khác nhau.
- Thời gian nghiên cứu từ thời kỳ đổi mới (1986) đến nay. Phạm vi
nghiên cứu ở tỉnh Thái Nguyên nhưng có liên hệ với cả nước.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn:
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy và
nghiên cứu kinh tế chính trị Mác – Lênin.

4


- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan nghiên
cứu và vận dụng, phát triển thành phần kinh tế tư bản nhà nước ở Thái
Nguyên.
6. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu:
6.1. Cơ sở lý luận:
Luận văn dựa trên cơ sở các quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin,
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về thành phần kinh
tế tư bản nhà nước. Các tác phẩm, các công trình nghiên cứu của các nhà
khoa học liên quan tới đề tài để nghiên cứu.

6.2. Phương pháp nghiên cứu:
- Lấy chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử và những quan
điểm của Đảng, Nhà nước về xây dựng phát triển kinh tế làm cơ sở phương
pháp luận tiếp cận.
- Ngoài những phương pháp truyền thống của khoa học kinh tế, luận
văn còn sử dụng phương pháp Lịch sử và Lôgíc, phương pháp phân tích điều
tra khảo sát thực tế.
7. Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo luận văn
gồm 3 chương 7 tiết.
Chương 1: Kinh tế tư bản nhà nước trong nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần ở Việt Nam
Chương 2: Thực trạng phát triển kinh tế tư bản nhà nước ở Thái
Nguyên
Chương 3: Xu hướng và giải pháp chủ yếu để tiếp tục phát triển thành
phần kinh tế tư bản nhà nước ở Thái Nguyên

5


Chƣơng 1
KINH TẾ TƢ BẢN NHÀ NƢỚC TRONG NỀN KINH TẾ HÀNG
HOÁ NHIỀU THÀNH PHẦN Ở VIỆT NAM
1.1. Sự cần thiết và vai trò của kinh tế tƣ bản nhà nƣớc trong nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần.
1.1.1 Khái niệm chung về kinh tế tư bản nhà nước:
Hình thức kinh tế tư bản nhà nước tồn tại trong nhiều chế độ kinh tế với
quy mô và mức độ khác nhau, nhưng dù tồn tại ở đâu, trong các nước phát
triển, đang phát triển hay những nước đang thực hiện bước quá độ lên chủ
nghĩa xã hội thì kinh tế tư bản nhà nước cũng hoạt động theo nguyên tắc

kinh doanh tư bản chủ nghĩa. Nghĩa là, với tiềm năng giới hạn, kinh tế tư
bản nhà nước luôn dựa vào thị trường để quyết định sản xuất cái gì, sản xuất
như thế nào, sản xuất cho ai, sản xuất ở đâu và sản xuất khi nào thì đạt hiệu
quả cao nhất, khi nào mang lại lợi nhuận tối đa. Chính vì dựa trên nguyên
tắc đó nên kinh tế tư bản nhà nước một mặt đã vô tình thoả mãn có hiệu quả
nhu cầu của xã hội, mặt khác kích thích, thúc đẩy quá trình tăng trưởng kinh
tế ở những quốc gia mà nó tồn tại.
Cách đây hơn tám mươi năm, sau khi thử nghiệm xây dựng chủ nghĩa
xã hội bằng con đường trực tiếp (chính sách cộng sản thời chiến) không đem
lại kết quả, Lênin đã chủ trương chuyển sang phát triển chính sách Kinh tế
mới (NEP). Trong chính sách này Lênin đã dùng phạm trù “ Chủ nghĩa tư
bản nhà nước’’ để chỉ một khái niệm mới về “Chủ nghĩa tư bản dưới chính
quyền Xô Viết’’ tức chủ nghĩa tư bản nhà nước dưới chế độ cộng sản. Lênin
khẳng định về chủ nghĩa tư bản nhà nước như sau: “Chủ nghĩa tư bản nhà
6


nước là chủ nghĩa tư bản dưới chế độ tư bản khi chính quyền nhà nước trực
tiết khống chế những xí nghiệp tư bản chủ nghĩa này hay xí nghiệp tư bản
chủ nghĩa khác”[23,tr.101]
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, khái niệm chủ nghĩa tư bản
nhà nước đã mang một nội dung mới và một vai trò mới, Lênin đã phân biệt
rõ chủ nghĩa tư bản nhà nước ở trong một nhà nước mà chính quyền thuộc
về giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản nhà nước ở trong một nhà nước vô sản
là hai khái niệm khác nhau. Sự khác biệt của tư bản nhà nước dưới chính
quyền Xô Viết trước hết là ở tính giai cấp của Nhà nước – Nhà nước của giai
cấp vô sản, thứ hai là ở tính chất xã hội của chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất
– chế độ công hữu về đất đai và những cơ sở công nghiệp lớn và quan trọng
nhất. Từ đó chúng ta có thể rút ra ba thuộc tính bản chất của chủ nghĩa tư
bản nhà nước của Lênin:

Một là, chủ nghĩa tư bản nhà nước là sự kiểm kê, kiểm soát của nhà
nước đối với các quan hệ tư bản chủ nghĩa hay là thứ chủ nghĩa tư bản chịu
sự kiểm kê, kiểm soát của nhà nước.
Hai là, chủ nghĩa tư bản nhà nước là hệ thống các quan hệ kinh tế
khách quan giữa nhà nước với nhà tư bản (quan hệ sở hữu, quan hệ trao đổi)
Ba là, chủ nghĩa tư bản nhà nước là chủ nghĩa tư bản được phát triển,
được dung nạp trong một giới hạn nhất định mà giới hạn đó do Nhà nước ấn
định .
Có thể hiểu một cách vắn tắt: Chủ nghĩa tư bản nhà nước là sự kết hợp
giữa nhà nước với các nhà tư bản (trong và ngoài nước) nhằm mục đích sử
dụng đầy đủ, hợp lý và có hiệu quả vốn, kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý để
phát triển sản xuất. Đây là hình thức kinh tế do nhà nước kiểm soát và điều
tiết sự phát triển.
Những tư tưởng cách mạng vĩ đại của Lênin đã soi rọi thực tiễn của
công cuộc đổi mới do Đảng Cộng Sản Việt Nam khởi xướng, đó là phát triển
7


nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Từ thực tiễn áp dụng ở Việt Nam đang chứng tỏ
phạm trù chủ nghĩa tư bản nhà nước có thể được hiểu trên hai phương diện
rộng và hẹp. Nghĩa rộng, phạm trù chủ nghĩa tư bản nhà nước là một hệ
thống các quan hệ kinh tế trong đó có sự đan xen giữa một bên chủ thể là
Nhà nước cách mạng và bên kia là các quan hệ kinh tế có tính chất tư bản
chủ nghĩa. Theo nghĩa hẹp, đề cập đến những hình thức kinh tế hay thành
phần kinh tế cụ thể, đó là đầu tư trực tiếp nước ngoài và sự kiểm soát của
nhà nước đối với sản xuất tư nhân, là hợp đồng tô nhượng hay cho thuê các
xí nghiệp nhà nước, là hợp tác xã của các tư bản tư nhân, tiểu chủ hay tiểu
nông, là đại lý thương nghiệp các hình thức cho tư nhân thuê khác và đấu
thầu các cơ sở sản xuất kinh doanh hay vùng mỏ…

Đại hội VI của đảng đã đưa ra quan điểm về kinh tế tư bản nhà nước:”
kinh tế tư bản nhà nước là hình thức kinh tế quá độ có thể được tổ chức từ
thấp đến cao, từ đại lý cung ứng và tiêu thụ hàng hoá, làm gia công cho đến
hợp doanh với nhà nước’’[6,tr. 60].
Hình thức kinh tế này trải qua hơn 15 năm vận dụng vào điều kiện Việt
Nam, đúc kết từ thực tiễn Đại hội IX khẳng định: “ Phát triển đa dạng kinh
tế tư bản nhà nước dưới các hình thức liên doanh liên kết giữa kinh tế nhà
nước với kinh tế tư bản tư nhân trong nước và ngoài nước mang lại lợi ích
thiết thực cho các bên đầu tư kinh doanh”[11,tr.90]
Trên quan điểm của Lênin về chủ nghĩa tư bản nhà nước, qua các chủ
trương chính sách của Đảng và Nhà nước ta về thành phần kinh tế này đồng
thời liên hệ với thực tiễn hiện nay, có thể tóm tắt khái niệm kinh tế tư bản
nhà nước mà nước ta đang vận dụng như sau :
Kinh tế tư bản nhà nước là thành phần kinh tế bao gồm các hình thức
hợp tác liên doanh giữa kinh tế nhà nước với tư bản tư nhân trong nước và
hợp tác liên doanh giữa kinh tế nhà nước với tư bản nước ngoài; là thành
8


phần kinh tế hiện đại để phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần
theo định hướng xã hội chủ nghĩa; là hình thức kinh tế kết hợp nội lực với
ngoại lực trong thực hiện chính sách mở cửa và hội nhập.
1.1.2: Sự cần thiết và vai trò của kinh tế tư bản nhà nước trong nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần.
Thành tựu ổn định và tăng trưởng kinh tế của nước ta những năm qua
đã khẳng định tính đúng đắn của các quan điểm kinh tế chủ đạo trong công
cuộc cải cách, đó là:
- Đoạn tuyệt với mô hình phát triển theo cơ chế cũ ( Kinh tế chỉ huy, kế
hoạch hoá tập trung – bao cấp)
- Chuyển sang phát triển kinh tế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của

nhà nước.
- Thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần, cải cách khu vực kinh tế nhà nước và khuyến khích sự phát triển
của các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh.
- Thực hiện đường lối mở cửa nền kinh tế, lấy tăng trưởng xuất khẩu
làm một động lực cho toàn bộ công cuộc tăng trưởng. Tạo điều kiện tối đa
để thu hút các dòng vốn đầu tư nước ngoài.
Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng đổi mới của Đảng ta
hiện nay rất phù hợp với quan điểm của Lênin trong chính sách Kinh tế mới.
Tuy nhiên theo nguyên lý của Chủ nghĩa Mác – Lênin, một nước đi lên chủ
nghĩa xã hội từ một nền kinh tế tư bản chủ nghĩa đã phát triển cao sẽ không
cần đến một giai đoạn phát triển trung gian nào khác. Những điều kiện về
vật chất, khoa học kỹ thuật, tổ chức và văn hoá- xã hội cho bước chuyển đó
đã hình thành và chín muồi trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa đã phát triển
cao.
Nói đến điều kiện vật chất cho sự hình thành chủ nghĩa xã hội chúng ta
thường cho rằng đó là nền đại công nghiệp, cách nói đó không sai nhưng
9


không đầy đủ và có phần giản đơn, phiến diện. Vấn đề không chỉ ở nền đại
công nghiệp cơ khí mà còn là toàn bộ những mối liên hệ kinh tế, quan hệ tổ
chức sản xuất - đó là nền sản xuất công nghiệp có tổ chức, có định hướng
chiến lược và kế hoạch tổng thể gắn liền với sự điều tiết của Nhà nước, phục
tùng Nhà nước; đó là toàn bộ hệ thống kinh tế quy mô lớn, hệ thống các cơ
chế, công cụ điều tiết, các thành phần, tổ chức kinh tế…nghĩa là toàn bộ
những thể chế vật chất và tổ chức của một nền kinh tế hiện đại. Tất cả những
vấn đề đó hợp thành những điều kiện vật chất cho chủ nghĩa xã hội.
Tựu trung lại, muốn có chủ nghĩa xã hội cần phải có những điều kiện
căn bản là:

1/ Phải có một cơ sở vật chất – kỹ thuật hiện đại xây dựng trên cơ sở
những thành tựu của khoa học kỹ thuật hiện đại .
2/ Phải có tổ chức Nhà nước hoạt động quản lý điều tiết có kế hoạch
mang tính định hướng chiến lược.
3/ Giai cấp công nhân cùng với tầng lớp trí thức của mình, là giai cấp
đại biểu cho lực lượng sản xuất tiến bộ, tiêu biểu cho xu thế phát triển của
thời đại – phải là giai cấp lãnh đạo.
Việt Nam đang trong giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội với quan
điểm chủ đạo là xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Việc trở lại vấn đề chủ nghĩa tư bản nhà nước ở Việt Nam đã trở nên
hết sức cần thiết, xét từ bất cứ góc độ nào: định hướng phát triển (Chủ nghĩa
xã hội - xã hội công bằng, dân chủ, văn minh) và mục tiêu tăng trưởng đầy
quyết tâm (tốc độ cao và lâu bền). Do thách thức phát triển của thời đại và
của chính nước ta đang đặt ra.
Một là, vấn đề phát triển nhanh và bền vững: đối với nước nghèo như
Việt Nam vẫn là đòi hỏi tất yếu, sống còn. Lôgíc vấn đề dẫn tới chỗ làm sao
để huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực cả trong và ngoài nước.

10


Hai là, lựa chọn các hình thức kinh tế quá độ thích hợp, mục tiêu của
sự lựa chọn là nâng cao trình độ xã hội hoá của các quan hệ kinh tế, đồng
thời thoả mãn yêu cầu về mặt định hướng phát triển cụ thể của quá trình xã
hội hoá đó - định hướng xã hội chủ nghĩa.
Chúng ta nghiên cứu di sản của Lênin về chủ nghĩa tư bản nhà nước và
coi đó là điểm xuất phát để nghiên cứu kinh tế tư bản nhà nước, thấy được “
luận điểm quan trọng làm cơ sở xuất phát để nghiên cứu đó là việc chuyển
sang chủ nghĩa xã hội… cần thiết phải có một loạt những bước quá độ như
chủ nghĩa tư bản nhà nước”[29,tr.74]. Kết luận cần thiết này được rút ra từ

nước Nga lạc hậu mà Lênin xếp vào loại nước tiểu nông hồi đó. Nước Nga
với một nền kinh tế tương đối phát triển nhưng Lênin vẫn coi là một nước
tiểu nông, vẫn phải đi con đường vòng xuyên qua chủ nghĩa tư bản nhà nước
để đi lên chủ nghĩa xã hội, coi đó là một tất yếu khách quan thì đối với Việt
Nam một nước còn tiểu nông hơn nước Nga, việc phải đi qua chủ nghĩa tư
bản nhà nước để đến với chủ nghĩa xã hội là cái cần thiết và còn tất yếu hơn
nước Nga thời đó.
Đối với Việt Nam, do xuất phát điểm từ một nước nông nghiệp lạc hậu,
nông dân chiếm đại đa số, nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ, máy móc
thiết bị lỗi thời, các quan hệ tiền tư bản còn đang ngự trị, chúng ta chưa kinh
qua phát triển chủ nghĩa tư bản. Đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư
bản càng có nghĩa là nước ta rất cần đến những tiền đề vật chất, kỹ thuật mà
chủ nghĩa tư bản thế giới đã tạo ra. Để có được những tiền đề ấy, trên con
đường phát triển lên chủ nghĩa xã hội, tuy bỏ qua giai đoạn phát triển chủ
nghĩa tư bản nhưng không thể bỏ qua “phòng chờ” của chủ nghĩa xã hội.
Nghĩa là chúng ta phải trải qua thời kỳ quá độ đặc biệt, nhất định chúng ta sẽ
“gặp” phải chủ nghĩa tư bản, phải qua cái “trạm”, phải trải qua một thời kỳ
trong đó nhà nước vô sản khuyến khích phát triển tư bản chủ nghĩa kiểu sản
xuất hàng hoá lớn để phát triển lực lượng sản xuất, để hướng dẫn và chiến
11


thắng tính tự phát của sản xuất hàng hóa nhỏ và hướng sự phát triển của kinh
tế tư bản tư nhân vào con đường kinh tế tư bản nhà nước, đồng thời sử dụng
nhà nước cùng với thực lực kinh tế của mình để kiểm kê, kiểm soát và điều
tiết toàn bộ nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Do vậy việc sử
dụng kinh tế tư bản nhà nước ở nước ta là rất cần thiết và mang tính tất yếu
khách quan, phù hợp với quy luật lịch sử. Việc vận dụng các hình thức khác
nhau của kinh tế tư bản nhà nước là một bước “lùi” hợp lý, một cách thích
nghi của các quan hệ sản xuất mới với trình độ phát triển lực lượng sản xuất

và năng lực sản xuất hiện có.
Sự cần thiết phát triển kinh tế tư bản nhà nước được coi là một nhu cầu
nội tại của tiến trình đổi mới nền kinh tế nước ta nhằm đảm bảo cho tiến
trình đổi mới đi đến thành công. Sự cần thiết đó là:
Thứ nhất, do sự cần thiết phải nhanh chóng hiện đại hoá lực lượng sản
xuất.
Để thực hiện những cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia,
Mác và Ăngghen đã dự báo các quá trình của thời kỳ quá độ như cải biến
cách mạng trong quan hệ sản xuất, trong lực lượng sản xuất, trong cơ sở hạ
tầng…tất cả đều nhằm phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất làm điều kiện
thoả mãn nhu cầu vật chất và văn hoá của mọi thành viên trong xã hội, tạo ra
những tiền đề cần thiết để giải phóng con người.
Thời kỳ quá độ đòi hỏi “Tăng thật nhanh số lượng những lực lượng
sản xuất’’[11,tr. 413]. Quá độ lên chủ nghĩa xã hội diễn ra trong bối cảnh
một nền kinh tế kém phát triển, lực lượng sản xuất lạc hậu, nên cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Đảng đã
chỉ rõ: “ Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản từ một
xã hội vốn là thuộc địa nửa phong kiến, lực lượng sản xuất rất thấp. Đất
nước ta trải qua hàng chục năm chiến tranh hậu quả để lại còn nặng

12


nề”[7,tr. 8]. Đặc điểm đó đòi hỏi phải nhanh chóng tạo lập một nền công
nghiệp hiện đại – cơ sở vật chất kỹ thuật để đảm bảo cho sự quá độ đó.
Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
được coi là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ nhằm xây dựng cơ sở vật
chất cho chủ nghĩa xã hội. Nước ta xuất phát từ một nước tiểu nông, con
đường phát triển tuần tự sẽ là trải qua chủ nghĩa tư bản, nhưng con đường
mà Đảng và Bác Hồ đã chọn là bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa nhằm tránh

cho nhân dân những đau khổ mà chế độ tư bản gây ra. Nhưng để đảm bảo
quá trình rút ngắn chúng ta buộc phải sử dụng các quan hệ tư bản chủ nghĩa
đặt dưới sự kiểm kê, kiểm soát của Nhà nước để xây dựng nền công nghiệp
lớn – tiền đề vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội.
Đối với nước ta, ngoài các thành phần kinh tế mang tính chủ đạo của
nền kinh tế quốc dân là kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể, thì thành phần
kinh tế tư nhân trong nước đã căn bản bị xoá bỏ trong cải tạo xã hội chủ
nghĩa, nay mới được phục hồi và phát triển mạnh mẽ trong thời gian gần đây
nhưng dù sao cũng vẫn còn non yếu, thành phần này phải trải qua một quá
trình tích tụ và tập trung lâu dài mới đủ mạnh để hiện đại hoá lực lượng sản
xuất. Chúng ta phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Kinh tế thị trường là môi trường phát triển thuận lợi của kinh tế tư bản tư
nhân, chấp nhận sự phát triển lâu dài của kinh tế tư bản tư nhân, nhưng nếu
không kiểm soát được sự phát triển này thì nền kinh tế sẽ rơi vào quỹ đạo tư
bản chủ nghĩa. Vì những lẽ đó, ngoài việc đẩy mạnh phát triển kinh tế tư
nhân chúng ta phải mở rộng cửa để “du nhập’’ các yếu tố tư bản chủ nghĩa
từ bên ngoài vào nhằm đón nhận lực lương sản xuất hiện đại của thế giới. Để
đạt được điều đó cần thiết phải phát triển kinh tế tư bản nhà nước nhưng đó
không phải là thứ kinh tế tư bản được tự do phát triển mà thành phần này chỉ
được phép phát triển đặt dưới sự kiểm kê, kiểm soát của Nhà nước. Hơn nữa
chúng ta cần định hướng thành phần kinh tế tư bản tư nhân vào thành phần
13


kinh tế tư bản nhà nước, vì thành phần kinh tế tư bản tư nhân nếu phát triển
mạnh sẽ đẩy mạnh lực lượng sản xuất phát triển nhưng đồng thời sự phát
triển như vậy chứa trong nó nguy cơ làm cho nền kinh tế rơi vào quỹ đạo tư
bản chủ nghĩa.
Mặt khác, tiến trình đổi mới ở Việt Nam ngày càng phát triển mạnh mẽ
về chiều sâu, chúng ta đang trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện

đại hoá vì quá trình đó giữ vai trò quan trọng trong sự phát triển lực lượng
sản xuất nhằm khắc phục nguy cơ tụt hậu, ổn định chính trị xã hội, bảo vệ
độc lập chủ quyền. Để đạt được mục tiêu đó phải huy động mọi thành phần
kinh tế tham gia, mọi nguồn lực trong và ngoài nước. Chúng ta phải tìm mọi
cách để huy động sức mạnh tổng hợp của thành phần kinh tế tư bản tư nhân,
tư bản nước ngoài hướng nó vào con đường liên doanh, liên kết với kinh tế
nhà nước để phát huy tiềm năng thế mạnh của nó, đồng thời qua đó để tranh
thủ được nguồn vốn, công nghệ kỹ thuật, kinh nghiệm quả lý tiên tiến. Vì
vậy chúng ta sử dụng kinh tế tư bản nhà nước chính là để rút ngắn đáng kể
thời gian thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá và xây dựng nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý
của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, sự cần thiết phát triển thành phần kinh tế tư bản nhà nước
nhằm đáp ứng yêu cầu phải định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế
quốc dân.
Trong cương lĩnh của mình, Đảng ta đã nêu định hướng xã hội chủ
nghĩa cho sự phát triển lâu dài của đất nước về mặt kinh tế trong đó vấn đề
có tính nguyên tắc là: trong điều kiện hiện nay ở nước ta, khi lựa chọn cơ
chế thị trường như là cơ chế bảo đảm sự vận hành và tăng trưởng kinh tế thì
định hướng của sự phát triển bao hàm trong nó một số khía cạnh sau :

14


- Bảo đảm tăng trưởng nhanh lâu bền, đồng thời tạo ra bước chuyển
mạnh mẽ về cơ cấu kinh tế và trình độ các quan hệ kinh tế (mà cốt lõi là
chuyển nhanh các quan hệ tiền tư bản sang các quan hệ xã hội hoá cao)
- Sự phát triển đó phải hướng tới việc tạo ra các giá trị xã hội cao (công
bằng, dân chủ, văn minh đời sống nhân dân lao động ngày càng được cải
thiện)

- Hạn chế các xu hướng tự phát phát triển tư bản chủ nghĩa trong các
thành phần, lực lượng kinh tế [28]. Ba khía cạnh đó bao hàm định hướng
chính trị, mục tiêu và xu hướng phát triển kinh tế – xã hội.
Phát triển kinh tế – xã hội ở nước ta xuất phát từ một xã hội tiền tư bản,
khi chuyển sang cơ chế thị trường tính chất tự phát tư bản chủ nghĩa càng
được gia tăng và điều đó hoàn toàn đối lập với tính tổ chức, có kế hoạch của
nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Bởi vậy, để đảm bảo định
hướng xã hội chủ nghĩa nhất thiết phải hướng các quan hệ tư bản chủ nghĩa
vào con đường kinh tế tư bản nhà nước, làm mắt xích trung gian nối liền
giữa sản xuất nhỏ với sản xuất lớn, cần “du nhập’’ và “dung nạp’’ chủ
nghĩa tư bản trong và ngoài nước hoạt động dưới sự kiểm soát và hướng dẫn
của nhà nước. Làm như vậy, một mặt sẽ tăng cường được nhân tố định
hướng của nền kinh tế và mặt khác lại sử dụng tốt nhất những rhành quả
phát triển của loài người nhằm lôi cuốn và tạo điều kiện để chủ nghĩa tư bản
tham gia vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Thứ ba, sự cần thiết phát triển kinh tế tư bản nhà nước nhằm đáp ứng
nhu cần mở cửa và hội nhập nền kinh tế quốc tế.
Thế giới đã bước vào một thời kỳ mới khi cuộc cách mạng khoa học –
công nghệ đã tạo ra một lực lượng sản xuất mới có tính chất và trình độ cao
hơn lực lượng sản xuất cũ, đồng thời lực lượng sản xuất thế giớ i đang được
xã hội hoá và quốc tế hoá rất cao, nó đưa tới một cuộc đại ganh đua kinh tế
quyết liệt vì sự sống còn của mỗi dân tộc.
15


Nước ta nằm ngay giữa khu vực phát triển năng động nhất của thế giới
là vùng châu Á Thái Bình Dương. Khu vực này đang diễn ra xu thế tự do
hoá thương mại và quá trình liên kết hợp tác kinh tế với các mức độ khác
nhau. Trong bối cảnh đó không chỉ đối với Việt Nam mà đối với bất cứ quốc
gia nào hội nhập kinh tế là lẽ đương nhiên, là nhu cầu mang tính tất yếu và

cần thiết.
Công cuộc đổi mới của đất nước ta đã thu được những thành tựu bước
đầu rất quan trọng, Nhà nước ta đã thiết lập được những mối quan hệ kinh tế
với bên ngoài và đã có những chính sách kinh tế đối ngoại được nước ngoài
đánh giá là “rộng mở” và thức thời. Nước ta cũng có một số tài nguyên quý
giá, và là một thị trường không nhỏ, đặc biệt sự ổn định chính trị là một ưu
thế trong việc đầu tư nước ngoài. Chính vì vậy Đảng ta khẳng định mở cửa
là chính sách sống còn của Quốc gia nhằm tiếp cận và khai thác các giá trị
của nền văn minh nhân loại. Do đó, việc mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế
trong đó có sự dung nạp chủ nghĩa tư bản từ bên ngoài, từ các nước phát
triển dưới nhiều hình thức đa dạng của chủ nghĩa tư bản nhà nước chính là
quá trình chúng ta bắc những chiếc cầu nhỏ vững chắc từ nền kinh tế kém
phát triển nối liền với nền sản xuất lớn tiên tiến của thế giới để đi lên chủ
nghĩa xã hội. Thực tế đã chứng minh chỉ cần có một chính sách hợp tác khu
vực đúng đắn cùng với chính sách quốc tế mềm rẻo, chúng ta có thể thu hút
được vốn đằu tư của nước ngoài dưới những hình thức khác nhau của kinh tế
tư bản nhà nước.
Kinh tế tư bản nhà nước với tính cách là một kiểu quan hệ kinh tế, một
sự “liên minh kinh tế với tư bản tài chính tiên tiến ở các nước tiên tiến” như
Lênin đã nói, nó còn là phương thức, hình thức để thực hiện sự hội nhập
nhằm khai thác tối đa các lực lượng sản xuất tư bản quốc tế.
Nghị quyết Đại hội VI và tiếp theo là nghị quyết của Hội nghị giữa
nhiệm kỳ khoá VII của Đảng đã chỉ ra rằng “ phải vận dụng sáng tạo và tiếp
16


tục phát triển Chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về chính
sách Kinh tế mới, về chủ nghĩa tư bản nhà nước, sáng tạo những hình thức
quá độ, những nấc thang trung gian đa dạng phù hợp với hoàn cảch lịch sử
cụ thể để đưa nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội một cách vững chắc’’[8,tr.24].

Tóm lại, từ thực tế của nền kinh tế nước ta và dưới tác động của xu thế
thời đại mới đã khẳng định xu thế khách quan và yêu cầu cấp bách của việc
phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, đặt trong mối quan hệ với
các thành phần kinh tế khác trước hết là với kinh tế nhà nước, kinh tế tư bản
tư nhân và với mục tiêu xã hội cần đạt được, trong hiện trạng đó thì việc áp
dụng các hình thức kinh tế tư bản nhà nước là rất cần thiết. Với sự cần thiết
nêu trên cho chúng ta thấy vai trò quan trọng của kinh tế tư bản nhà nước là:
- Kinh tế tư bản nhà nước là con đường đi lên chủ nghĩa xã hội trong
thời kỳ quá độ, là nhân tố cực kỳ quan trọng thúc đấy nền kinh tế xã hội phát
triển theo xu hướng xã hội chủ nghĩa. Thông qua kinh tế tư bản nhà nước mà
chúng ta sẽ kiểm kê, kiểm soát được nền kinh tế bằng pháp luật, ngăn chặn
và đẩy lùi tham nhũng tiêu cựu, đẩy mạnh sản xuất góp phần chăm lo đời
sống nhân dân, giải quyết công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người lao
động, giải quyết các vấn đề xã hội, môi trường của đất nước. Sử dụng kinh
tế tư bản nhà nước như là một công cụ, phương tiện, biện pháp để hoàn
chỉnh cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa nhằm đạt mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh”
- Kinh tế tư bản nhà nước có vai trò quan trọng trong quá trình đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, góp phần nâng cao trình độ
khoa học công nghệ, nâng cao trình độ sản xuất, phương thức tổ chức lao
động, quản lý kinh tế…Sử dụng kinh tế tư bản nhà nước sẽ là điều kiện cần
thiết để hạn chế tính tự phát trong sản xuất và chế độ sản xuất phân tán kém
hiệu quả của kinh tế sản xuất nhỏ, nhằm khai thác tối đa tiềm năng để tập
17


trung cho các nguồn lực hướng về mục tiêu kinh tế - xã hội cao nhất là công
nghiệp hoá, hiện đại hoá và các chương trình kinh tế khác. Tố chất cạnh
tranh vốn có của hình thức kinh tế tư bản nhà nước còn giúp cho tất cả các

thành phần kinh tế khác trong xã hội có một sự nhận thức về bản thân mình
đúng hơn và cùng vươn lên. Một hệ quả hết sức quan trọng của sự phối hợp
kinh tế trong nước với nhau và với nước ngoài là sự giao lưu và tăng trưởng
trí tuệ, kiến thức đa dạng và do đó thúc đẩy mặt bằng học vấn xã hội được
nâng cao. Lênin đã xác định “ Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là sự
chuẩn bị vật chất đầy đủ nhất cho chủ nghĩa xã hội, là phòng chờ đi vào chủ
nghĩa xã hội’’[22,tr. 258].
- Mặt khác. kinh tế tư bản nhà nước có tác dụng kích thích lợi ích cá
nhân, làm động lực cho sự phát triển, là công cụ đắc lực huy động sức
người, sức của nhất là trong việc thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước.
Đánh giá vai trò của kinh tế tư bản nhà nước ở nước ta hiện nay, Nghị quyết
Đại hội lần thứ VIII của Đảng khẳng định : “Kinh tế tư bản nhà nước có vai
trò quan trọng trong việc động viên tiềm năng to lớn về vốn, công nghệ, khả
năng tổ chức quản lý…của các nhà tư bản vì lợi ích của bản thân họ, cũng
như của công cuộc xây dựng và phát triển đất nước” [10,tr. 95]
Sự khẳng định này có ý nghĩa cựu kỳ quan trọng. Lần đầu tiên vai trò
của kinh tế tư bản nhà nước được khẳng định trong văn kiện chính thức của
Đảng, thực chất là vận dụng sáng tạo học thuyết của Lênin về kinh tế hàng
hoá và chủ nghĩa tư bản nhà nước trong bối cảnh lịch sử cụ thể ở nước ta,
mà thực chất là quan điểm về sự cần thiết và vai trò của kinh tế tư bản nhà
nước trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay.
1.2. Sự phát triển kinh tế tƣ bản nhà nƣớc ở nƣớc ta thời
gian qua và những bài học kinh nghiệm.
1.2.1. Tình hình phát triển kinh tế tư bản nhà nước ở nước ta từ 1986 đến
nay.

18


Cuộc khủng hoảng kinh tế – xã hội trầm trọng kéo dài suốt những năm của

thập kỷ 80 của thế kỷ trước là do hậu quả của 2 cuộc chiến tranh kéo dài. Mặt
khác, là hậu quả của những quan niệm sai lầm về chủ nghĩa xã hội trước đó,
những khuyết tật của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp đã không được nhận thức
và sửa chữa kịp thời.
Đứng trước vận mệnh dân tộc Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã
nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng hiện trạng nền kinh tế xã hội của đất
nước, đưa ra đường lối đổi mới toàn diện nền kinh tế xã hội, đưa đất nước ta
bước vào thời kỳ đổi mới với một loạt quyết định có tính chất chiến lược:
Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần với nhiều loại hình tổ
chức kinh doanh đa dạng, chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ
chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, xây dựng nền kinh tế mở, đa dạng hoá, đa phương hoá các quan hệ
kinh tế đối ngoại. Trong đó, phát triển kinh tế tư bản nhà nước dưới nhiều
hình thức với phương châm: “Khuyến khích tư nhân đầu tư, kinh doanh
trong nhiều ngành nghề lĩnh vực có lợi cho quốc kế dân sinh, đồng thời đảm
bảo sự kiểm soát và điều tiết của Nhà nước hướng tư bản tư nhân từng bước
đi vào kinh tế hợp tác xã và kinh tế tư bản nhà nước dưới nhiều hình thức
nhằm phát triển sản xuất kinh doanh và nâng cao hiệu quả kinh tế” [9].
Trong bối cảnh đó, cùng với việc chú trọng đổi mới, phát triển kinh tế
nhà nước, kinh tế hợp tác xã và các thành phần kinh tế khác thì kinh tế tư
bản nhà nước ở nước ta cũng được chú ý phát triển dưới nhiều hình thức đa
dạng với những nội dung mới. Sự xuất hiện của kinh tế tư bản nhà nước gắn
liền với sự nhận thức lại về thời kỳ quá độ, về chủ nghĩa xã hội, là sản phẩm
của chính sách phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo
cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, là kết quả của chính sách mở cửa và hoạt động kinh tế đối ngoại của
Đảng, Nhà nước ta. Kinh tế tư bản nhà nước được thừa nhận là một thành
19



phần kinh tế với nhiều hình thức đa dạng, có vai trò rất lớn trong việc phát
triển lực lượng sản xuất. Ở nước ta kinh tế tư bản nhà nước được chia làm 2
loại và trong mỗi loại có những hình thức cụ thể khác nhau.
- Loại hình kinh tế nhà nước hợp tác liên doanh với kinh tế tư bản tư
nhân trong nước còn gọi là kinh tế tư bản nhà nước trong khu vực có vốn
đầu tư trong nước.
- Loại hình kinh tế nhà nước hợp tác liên doanh với tư bản nước ngoài
hay là kinh tế tư bản nhà nước trong khu vực có vốn đầu tư nước ngoài.
a) Kinh tế tư bản nhà nước trong khu vực có vốn đầu tư trong nước
Quá trình đổi mới ở nước ta trong thời gian qua làm xuất hiện nhiều
hình thức của kinh tế tư bản nhà nước trong khu vực kinh tế có vốn đầu tư
trong nước. Thời gian qua chúng ta đã tích cực triển khai hình thức liên kết
với tư nhân trong nước được tổ chức theo khuôn khổ pháp lý hiện hành, tồn
tại công khai không chỉ trong lĩnh vực sản xuất mà cả trong lĩnh vực lưu
thông, tài chính-ngân hàng...
- Hình thức liên doanh liên kết giữa kinh tế nhà nước với tư bản tư
nhân trong nước. Sự liên doanh liên kết này được thể hiện dưới 2 hình thức:
Liên doanh, liên kết theo kiểu thành lập công ty hợp doanh và thành lập
công ty cổ phần.
Đảng ta luôn nêu cao phương châm dựa vào nguồn lựu bên trong là
chính, đi đôi với tranh thủ nguồn lực bên ngoài. Trong thời gian qua chúng
ta đã tích cực triển khai hình thức liên kết với tư nhân trong nước, đây là
kiểu liên doanh mà các bên cùng góp vốn kinh doanh, cùng quản lý, cùng
chia sẻ rủi ro, cùng phân chia lợi nhuận. Đó chính là tổ chức kinh tế tư bản
tư nhân hình thành pháp nhân kinh tế mới có tên gọi là công ty trách nhiệm
hữu hạn hoặc công ty cổ phần. Cho đến nay kiểu liên doanh liên kết xuất
hiện không nhiều, tính chung trên cả nước có khoảng hơn 70 đơn vị liên

20



doanh theo kiểu này, một số đơn vị liên doanh sau một thời gian hoạt động
đã không trụ được phải chuyển thành công ty cổ phần.
Hiện nay xuất hiện một kiểu liên doanh liên kết giữa Nhà nước với tư
bản tư nhân trong nước không phải bằng con đường trực tiếp và gián tiếp
dưới hình thức công ty cổ phần.
Nhằm tạo điều kiện pháp lý thuận lợi cho sự phát triển sản xuất trong
cơ chế mới. Nhà nước đã ban hành Nghị định số 229/HĐBT ngày 23/7/1991
của Hội đồng bộ trưởng về cụ thể hóa một số điều quy định trong luật công
ty. Theo điều 2: các công ty (xí nghiệp liên doanh) đã được thành lập trước
đây theo Nghị định 28/HĐBT ngày 22/3/1989 của Hội đồng bộ trưởng nếu
đủ điều kiện của công ty trách nhiệm hữu hạn hay công ty cổ phần đều
thuộc phạm vi điều chỉnh của luật công ty. Từ chính sách hợp doanh, hợp
vốn các hình thức công ty cổ phân có vốn Nhà nước được hình thành và
phát triển.
Ở Hà Nội có công ty cổ phần bảo hiểm dầu khí (Pjico) công ty cổ phần
Taxi, Công ty cổ phần xây dựng và kinh doanh chợ Đồng Xuân... ở TPHCM
có hơn 30 công ty trách nhiệm hữu hạn có vốn của Nhà nước trong số 2670
công ty và 30 công ty cổ phần có vốn của Nhà nước trong số 62 công ty
được thành lập [34,tr. 72].
Tuy là những hình thức tổ chức kinh doanh mới mẻ, đang trên bước
đường tìm tòi hướng đi phù hợp với định hướng xã hội chủ nghĩa nên còn
gặp nhiều khó khăn trong kinh doanh nhưng các công ty trách nhiệm hữu
hạn và công ty cổ phần có vốn của Nhà nước đã đạt được những kết quả
đáng khích lệ trong việc gọi vốn đầu tư tư nhân, thu hút giải quyết việc làm
cho nhiều người lao động. Chúng ta có thể thấy qua dẫn chứng 7 công ty
trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần ở thành phố Hồ Chí Minh đã thu
hút vốn đầu tư tư nhân hơn 43,5 tỉ đồng, trong đó có công ty cổ phần phát
triển Nam Sài Gòn đã thu hút vốn đầu tư tư nhân 28 tỉ. Công ty trách nhiệm
21



hữu hạn sao biển (Hải Phòng) năm 1996 có vốn kinh doanh là 7,04 tỉ đồng
(doanh thu đạt 6,2 tỉ nộp ngân sách 78 triệu đồng). Tuy nhiên nhìn chung sự
phát triển của hình thức hợp tác liên doanh giữa kinh tế nhà nước với kinh tế
tư bản tư nhân còn chậm chạp và với quy mô còn rất nhỏ bé, chỉ chiếm một
phần nhỏ so với số vốn liên doanh với tư bản nước ngoài. Năm 1996 kinh tế
nhà nước liên doanh với tư nhân trong nước đạt 100 tỷ đồng, thì khu vực
kinh tế nhà nước liên doanh với nước ngoài đạt 100.975 tỷ đồng.
- Hình thức hợp tác liên doanh giữa kinh tế nhà nước và kinh tế tư bản
tư nhân trong lĩnh vực dịch vụ ngân hàng thể hiện qua việc thành lập các
ngân hàng thương mại cổ phần. Ở Việt Nam, ngoài ngân hàng thương mại
quốc doanh, các chi nhánh của ngân hàng thương mại nước ngoài và liên
doanh với nước ngoài còn có các ngân hàng thương mại cổ phần đó là các
ngân hàng thương mại được thành lập dưới hình thức công ty cổ phần trong
đó một cá nhân hoặc một tổ chức không được sở hữu cổ phần của ngân hàng
quá tỷ lệ do ngân hàng Nhà nước quy định. Việc hình thành loại ngân hàng
này nhằm đa dạng hoá các kênh huy động vốn và cung ứng vốn, vừa nhằm
phát huy vai trò chủ đạo của ngân hàng nhà nước thông qua sự kiểm soát
của Nhà nước.
Tính đến cuối 1997 cả nước đã có 52 ngân hàng thương mại cổ phần
trong đó miền Bắc 14 và miền Nam 38 ngân hàng [1]. Từ sau chương trình
ba năm củng cố hệ thống ngân hàng cổ phần (1998-2001), đến nay ở Việt
Nam còn 36 ngân hàng thương mại cổ phần được phép tiếp tục hoạt động
với mức vốn điều lệ từ 50 tỷ đồng trở lên (Nếu ở Thành phố Hồ Chí Minh
và Hà Nội thì vốn điều lệ phải từ 70 tỷ đồng, các ngân hàng nông thôn là
trên 5tỷ đồng). Kết quả hoạt động của các ngân hàng thương mại cổ phần đã
bước đầu góp phần vào việc huy động vốn của dân cư và các tổ chức kinh
tế, cho vay phục vụ kinh doanh, góp phần làm sống động thị trường tiền tệ
trong nước, góp phần làm chuyển dịch cơ cấu đầu tư tín dụng theo hướng phục

22


vụ công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Đạt được một số kết quả như vậy, nhưng do
lượng vốn huy động không nhiều chỉ chiếm 9,22% của toàn bộ hệ thống ngân
hàng (Tổng vốn huy động chỉ đạt 34,450 tỷ đồng)[3], nên các ngân hàng
thương mại cổ phần thường không có khả năng phát triển mạnh các nghiệp vụ
kinh doanh, đầu tư phát triển công nghệ, mở rộng địa bàn…do đó khả năng
cạnh tranh yếu. Khi có biến động kinh tế một số ngân hàng mất khả năng thanh
toán dẫn đến phá sản, đóng cửa (Trong 6 năm qua Nhà nước đã buộc phải đóng
cửa 8 ngân hàng ở đô thị, 5 ở nông thôn và hiện 3 ngân hàng đang ngừng hoạt
động).
Với cơ chế mới, việc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho phép Công ty
cổ phần tài chính Sài Gòn (SFC) và Ngân hàng thương mại cổ phần Đà Nẵng
hợp nhất thành Ngân hàng thương mại cổ phần Việt-Á (Việt-Á có vốn điều lệ
trên 76 tỷ đồng, trong đó SFC đóng góp 70 tỷ. Việt-Á sẽ tăng vốn điều lệ lên
150 tỷ vào năm 2004). Đó là sự “trở mình” của hệ thống ngân hàng thương mại
cổ phần vốn dĩ đang cần một cuộc cách mạng. Đây là lần đầu tiên hình thức
hợp nhất một ngân hàng với một công ty tài chính được thực hiện ở Việt Nam,
mở ra một triển vọng mới cho hệ thống ngân hàng thương mại cổ phần.
- Hình thức liên doanh giữa kinh tế nhà nước với kinh tế tư bản tư
nhân được thực hiện thông qua cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước.
Công ty cổ phần, cũng như cổ phần hoá xí nghiệp không phải là vấn đề
mới mẻ mà đã có từ hàng trăm năm về trước. Công ty cổ phần với tính cách
là hình thức kinh tế tư bản nhà nước, tư bản chủ nghĩa cũng đã tồn tại từ rất
lâu. Công ty cổ phần xuất hiện là một tất yếu khách quan do yêu cầu tập
trung tư bản và có vai trò rất lớn trong việc phát triển lực lượng sản xuất
cùng với việc xây dựng các công ty cổ phần (thành lập mới) bắt đầu từ việc
bán cổ phần và thu hút vốn công ty cổ phần còn được thành lập trên cơ sở
các xí nghiệp quốc doanh hiện hành bằng biện pháp “cổ phần hoá xí nghiệp”

mà gần đây được bàn tới nhiều. Thực chất cổ phần hoá doanh nghiệp nhà
23


nước hiện nay là chuyển từ sở hữu Nhà nước thành sở hữu tập thể, hỗn hợp
hay chính là nhằm xác lập đan xen quyền sở hữu của Nhà nước, của người
lao động trong doanh nghiệp và các tổ chức cá nhân ngoài doanh nghiệp
thuộc các thành phần kinh tế; là làm gọn nhẹ, tối ưu hoá thành phần kinh tế
quốc doanh, đó là giải pháp nhằm thoát khỏi tình trạng làm ăn thua lỗ của các
doanh nghiệp nhà nước.
Từ chủ chương thí điểm cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước bắt đầu
bằng Quyết định số 143/HĐBT ngày 10/5/1990 và trên cơ sở Nghị quyết kỳ
họp thứ 10 Quốc hội khoá VIII năm 1992. Chính phủ đã ban hành Quyết định
202/CT về thí điểm chuyển một số doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ
phần. Năm 1993 Chính phủ có chỉ thị 84/TTg về việc tiếp tục xúc tiến thí
điểm cổ phần và đa dạng hoá sở hữu doanh nghiệp nhà nước và gần đây Nghị
định 44/CP ngày 29/6/1998 và Nghị định 64/CP ngày19/6/2002 cho thấy
quyết tâm rất lớn của Đảng và Nhà nước khẳng định việc cần thiết phải xúc
tiến nhanh hơn nữa cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước.
Từ chủ trương thí điểm cổ phần hoá đến hết năm 2003 cả nước đã có
hơn 950 doanh nghiệp và bộ phận doanh nghiệp hoàn thành cổ phần hoá và
đa dạng hoá sở hữu.
Bảng 1: Số lượng các doanh nghiệp nhà nước đãcổ phần hoá tính đến 1/8/2002.
Năm
Số

1990 1993 1994

1995 1996 1997 1998


1999

2000

2001

8/2002

250

212

149

272

1992
0

2

1

2

5

7

100


doanh
nghiệp

(Nguồn bộ kế hoạch đầu tư)
Bảng số liệu trên cho thấy trong giai đoạn 1(giai đoạn thí điểm) từ 1990
đến 1995 cả nước mới cổ phần hoá được 5 doanh nghiệp, đến giai đoạn 2
(giai đoạn mở rộng) từ 1996 – 1997 cổ phần hoá thêm được 12 doanh nghiệp,
giai đoạn 3 (giai đoạn triển khai) từ 1998 – nay cổ phần hoá được 938 doanh
24


nghiệp. Xem xét các doanh nghiệp cổ phần hoá ở 2 giai đoạn đầu (17 doanh
nghiệp) thì ngoài một doanh nghiệp nhà nước bán toàn bộ cho công nhân viên
trong doanh nghiệp mà không giữ lại cổ phần nào, số doanh nghiệp còn lại,
Nhà nước nắm ít nhất 18%, cao nhất là 51% cổ phần của Công ty (bình quân
là 34,2%) còn lại là do cán bộ công nhân viên trong công ty và các thành
phần khác ngoài xã hội nắm giữ [18,tr.16].
Về mức độ vốn Nhà nước trong các doanh nghiệp cổ phần hoá:Tính đến
nay Nhà nước có cổ phần ở 59% tổng số doanh nghiệp trong đó 25% số
doanh nghiệp Nhà nước giữ trên 30% vốn điều lệ, 8% giữ trên 50% vốn điều
lệ. Tổng số vốn Nhà nước được đánh giá lại khi cổ phần hoá là hơn 3000 tỷ
đồng (Tăng từ 10 – 15% so với giá trị ghi trên sổ sách). Số các doanh nghiệp
nhà nước đã cổ phần hoá có vốn Nhà nước dưới 1 tỷ đồng là 400 doanh
nghiệp chiếm 40%, từ 1 - 5 tỷ là 348 doanh nghiệp chiếm 34%, từ 5 - 10tỷ
đồng là 150 doanh nghiệp chiếm 15%, loại trên 10 tỷ đồng là 100 doanh
nghiệp chiếm 10% [30,21]. Xem xét 631 doanh nghiệp đã cổ phần hoá (đến
31/5/2001) có thể thấy nếu tổng số vốn Nhà nước được đánh giá trước khi cổ
phần hoá là 2388 tỷ đồng thì khi đánh giá lại đã là 2714 tỷ đồng tăng 13,7%
so với trước khi cổ phần hoá, đồng thời các doanh nghiệp có vốn trên 10 tỷ

đồng có xu hướng tăng (năm 2000 chiếm 6% và 31/5/2001 chiếm 9,9%). Nếu
trước năm 2003 có 7,9% doanh nghiệp cổ phần hoá có vốn Nhà nước từ 10 tỷ
đồng trở lên thì năm 2003 tăng lên 15%, số doanh nghiệp có quy mô lớn đã
được cổ phần hoá nhiều hơn[4].
Về hiệu quả sản xuất kinh doanh: Theo báo cáo của 220 doanh nghiệp
nhà nước đã cổ phần hơn 1 năm, phần vốn Nhà nước đã tăng từ 377,3 tỷ đồng
nên 442,7 tỷ đồng. Kết quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp này
biểu hiện rất rõ nét: doanh thu tăng 1,4 lần, lợi nhuận tăng 2 lần, nộp ngân
sách tăng 1,2 lần, thu nhập của người lao động tăng 22% và số người lao
động tăng 5,1% so với trước khi cổ phần hoá [15,tr.35-37]. Năm 2003, báo
25


×