Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

Phát huy vai trò của đội ngũ trí thức nữ trong các trường cao đẳng và trung học chuyên nghiệp ở tỉnh gia lai hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (925.33 KB, 102 trang )

TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

PHẠM THỊ THANH HÀ
Phát huy vai trò của đội ngũ trí thức nữ trong các
trường cao đẳng và trung học chuyên nghiệp ở tỉnh
Gia Lai hiện nay
Luận văn Thạc sỹ chủ nghĩa xã hội khoa học
Mã số: 5 01 02

Người hướng dẫn khoa học: TS TÔ NGỌC THẮNG

Hà nội - 2004


BẢNG QUY ƢỚC CHỮ VIẾT TẮT

- Chủ nghĩa xã hội:

CNXH

- Xã hội chủ nghĩa:

XHCN

- Giáo sư:

GS

- Tiến sĩ:

TS



- Phó tiến sĩ:

PTS

- Trung ương:

TW

- Nhà xuất bản:

NXB

- Giai cấp vô sản:

GCVS

- Công nghiệp hóa, hiện đại hóa: CNH, HĐH
- Chủ nghĩa tư bản:

CNTB

- Đế quốc chủ nghĩa:

ĐQCN

- Chủ nghĩa xã hội khoa học :

CNXHKH


- Phổ thông trung học :

PTTH

1


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong quá trình dựng nước và giữ nước, phụ nữ Việt Nam đã có những
đóng góp to lớn vào sự nghiệp chấn hưng, trường tồn của dân tộc. Có rất nhiều
phụ nữ đã hy cả cuộc đời mình cho sự sống còn của Tổ quốc, để lại những tấm
gương mãi mãi sáng ngời trong lịch sử phụ nữ Việt Nam. Rồi cũng chính họ phụ nữ - là những người quyết định đến sự phát triển giống nòi, hạnh phúc gia
đình, sự phát triển sản xuất xã hội cũng như sự ổn định chính trị đất nước.
Tiếp thu những quan điểm đúng đắn của Chủ nghĩa Mác - Lênin về trí
thức và truyền thống tốt đẹp của dân tộc, từ khi ra đời đến nay, Đảng Cộng sản
Việt Nam luôn coi trọng trí thức, trong đó có trí thức nữ.
Đại hội lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (1986) đã đề ra đường lối
đổi mới toàn diện của đất nước, trong đó đặc biệt coi trọng vai trò của trí thức,
coi liên minh công nông trí thức là nền tảng chính trị của Nhà nước Cộng hoà
XHCN Việt Nam.
Với tinh thần ấy, Đảng và Nhà nước ta đã ra nhiều văn bản quan trọng trực
tiếp liên quan đến việc nâng cao vai trò đội ngũ trí thức: Nghị quyết TW 4 (khoá
VII), Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VIII, IX, thực sự nhấn mạnh Giáo dục - Đào
tạo là quốc sách hàng đầu, là động lực quan trọng trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hoá (CNH), hiện đại hoá( HĐH) đất nước... Trong tình hình đó vai trò đội
ngũ trí thức nói chung, đội ngũ trí thức nữ nói riêng trong lĩnh vực Giáo dục Đào tạo lại càng được chú ý.
Cũng như các địa phương trong cả nước, để phát triển kinh tế, xã hội... đi
lên ngang bằng với các tỉnh khác, tỉnh Gia Lai càng phải coi trọng và phát huy
vai trò của đội ngũ trí thức nói chung, đội ngũ trí thức nữ nói riêng. Song không


2


phải lúc nào thực tế cũng diễn ra như ý muốn của con người. Mặc dù đã có nhiều
cố gắng song ở tỉnh Gia Lai vẫn xảy ra tình trạng chưa có nhận thức đầy đủ và
những giải pháp hữu hiệu để phát huy vai trò của đội ngũ trí thức nói chung, đội
ngũ trí thức nữ nói riêng... nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới. Là một
tỉnh Tây nguyên kinh tế - xã hội còn gặp nhiều khó khăn, kinh phí đầu tư cho
giáo dục đào tạo còn hạn hẹp, mạng lưới các trường Cao đẳng và Trung học
chuyên nghiệp ở Gia Lai chưa có điều kiện phát triển như các địa phương khác
trong cả nước.
Vấn đề đặt ra là làm thế nào để đội ngũ trí thức nữ Gia Lai thực hiện tốt
chức năng của mình, có thể cống hiến được nhiều nhất tài năng và trí tuệ cho địa
phương, đất nước đang là vấn đề trăn trở của số đông phụ nữ, đặc biệt là phụ nữ
trí thức Gia Lai đang hoạt động trong lĩnh vực Giáo dục - Đào tạo và những
người quan tâm đến vấn đề trên.
Để góp phần vào tiếng nói chung của đội ngũ trí thức nữ tỉnh Gia Lai,
chúng tôi chọn đề tài: "Phát huy vai trò của đội ngũ trí thức nữ trong các
trường Cao đẳng và Trung học chuyên nghiệp ở tỉnh Gia Lai hiện nay - Thực
trạng và giải pháp" làm luận văn Thạc sĩ Chuyên ngành CNXHKH của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Sự hưng thịnh hay suy vong của một quốc gia phụ thuộc rất lớn vào việc
nhà cầm quyền sử dụng và đãi ngộ đội ngũ trí thức của mình như thế nào. Vì
vậy, vấn đề trí thức nói chung, tầng lớp trí thức XHCN nói riêng, vị trí vai trò
tầng lớp trí thức trong Cách mạng XHCN, đã được các nhà kinh điển của Chủ
nghĩa Mác - Lênin đề cập trong nhiều tác phẩm.
Ở nước ta, vấn đề trí thức luôn thu hút sự quan tâm của các cấp lãnh đạo
Đảng, Nhà nước và sự tìm tòi nghiên cứu của các nhà khoa học với những khía


3


cạnh khác nhau. Đó là những Văn kiện của Đảng tại Đại hội toàn quốc (lần IV,
V, VII, IX), những bài viết, bài nói chuyện của Hồ Chủ tịch và các đồng chí lãnh
đạo Đảng và Nhà nước về trí thức. Đến nay, các công trình nghiên cứu về trí
thức, trí thức nữ đã được công bố tương đối phong phú. Bàn về vấn đề này có
một số bài viết như: “Phát huy vai trò của các nhà khoa học nữ trong công cuộc
đổi mới hiện nay" của GS. Lê Thi, Tạp chí Khoa học về phụ nữ số 2/1993;
“Những động lực mới của các nhà khoa học nữ trong cơ chế thị trường”. TS. Lê
Thị Muội, Tạp chí Khoa học về phụ nữ số 2/1994; “Trí thức Việt Nam thực tiễn
và triển vọng”, Phạm Tất Dong, NXB Chính trị quốc gia, tháng 4/1995; “Vai trò
của các nhà khoa học nữ trong nền kinh thế thị trường ở Việt Nam”, Tạp chí
Khoa học về phụ nữ, số 2/1996; “Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục trí thức
khoa học cho nhân dân”, Trần Trọng Lưu, Tạp chí Sinh hoạt lý luận số 6/1996;
“Phát biểu của đồng chí Trương Thị Mỹ Hoa, Bí thư TW Đảng, Chủ tịch Hội
liên hiệp phụ nữ Việt Nam tại Hội thảo “Nâng cao năng lực quản lý của phụ nữ
trong cơ chế thị trường”, Hà Nội 9/2/1996; “Phụ nữ tham gia lãnh đạo quản lý”,
Viện Khoa học lao động và các vấn đề xã hội nghiên cứu khoa học lao động nữ,
NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội, 1997; “Một số vấn đề về trí thức Việt Nam”,
PTS. Nguyễn Thanh Tuấn, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998; “Gia đình và
người phụ nữ”, Lê Minh, NXB Lao động năm 2000 và nhiều công trình khác.
Nội dung của những công trình trên rất đa dạng, đề cập đến nhiều góc độ
khác nhau của vấn đề trí thức. Trong đó, các công trình nghiên cứu về vấn đề
trên có thể chia thành các nhóm sau:
Một là: Nghiên cứu về vai trò, vị trí của trí thức đối với sự phát triển của
đất nước qua các giai đoạn lịch sử. Bàn về vấn đề này có một số bài viết như:

4



“Khi trí thức là nguồn lực phát triển” của Phan Thanh Khôi cho rằng nếu
chúng ta biết khai thác tiềm năng của lực lượng trí thức, coi họ là nguồn lực phát
triển thì chắc chắn chúng ta sẽ gặt hái được những thành công trong sự nghiệp
CNH, HĐH đất nước.
“Phát triển đất nước nhanh và bền vững theo định hướng XHCN” của Thủ
tướng Phan Văn Khải cho rằng: Muốn đưa Việt Nam thoát khỏi thực trạng: là
nước nông nghiệp nghèo, đất hẹp, người đông, tài nguyên có hạn… thì động lực
cơ bản giúp chúng ta vượt qua thử thách ấy là ý chí kiên cường và trí tuệ sáng
tạo của dân tộc ta được phát huy trên nền tảng văn hoá Việt Nam. Trong đó
nhiệm vụ lịch sử lớn lao được đặt lên vai các nhà trí thức.
“Tôn vinh trí thức trẻ tài năng” của Hà Thanh Minh đăng trên báo Quân
đội nhân dân, ra ngày 20/08/2004 lại đề cập đến trí thức ở góc độ mới. Ngoài
việc Hà Thanh Minh mô tả buổi “Bái đường” tại “Quốc tử giám” của 112 gương
mặt sinh viên tiêu biểu trên các lĩnh vực và tốt nghiệp thủ khoa tại gần 50 trường
Đại học, Cao đẳng trên địa bàn thành phố Hà Nội, tác giả đã nêu lên suy nghĩ
của sinh viên về chính sách “Chiêu hiền đãi sĩ”, những chính sách đã thực hiện
và chưa thực hiện, họăc còn bất cập khi sử dụng đối với đội ngũ trí thức trẻ. Bài
viết còn nhấn mạnh “Tài năng và trí tuệ của thế hệ trẻ chỉ có ý nghĩa khi đem
phục vụ cho sự nghiệp bảo vệ độc lập dân tộc, phát triển kinh tế xã hội". Sự
nghiệp CNH, HĐH đất nước còn đòi hỏi các em phải không ngừng học tập, rèn
đức, luyện tài để phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân”.
“Trí thức với Đảng, Đảng với trí thức trong sự nghiệp giải phóng và xây
dựng đất nước” của PGS. TS. Nguyễn Văn Khánh chỉ rõ: “Dân tộc ta trân trọng
ghi công và tôn vinh trí thức, những hiền tài của đất nước… Sự nghiệp vẻ vang
của Đảng, của dân tộc không thể thành công nếu không được sự ủng hộ tích cực

5



và tham gia đông đảo của trí thức”. Công trình đã phân tích quan điểm Chủ
nghĩa Mác - Lênin về trí thức và vai trò của họ trong sự nghiệp Cách mạng của
giai cấp vô sản; giới thiệu khái quát về trí thức Việt Nam thời phong kiến, những
đóng góp của họ trong xây dựng và phát triển nền văn hóa dân tộc, trong phong
trào giải phóng dân tộc (trước khi có Đảng) cũng như trình bày những họat động
của trí thức Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đặc
biệt tác phẩm đã nêu bật sự quan tâm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Đảng, Nhà
nước đối với trí thức, đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ trí thức cách mạng
đáp ứng những đòi hỏi của thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
Hai là, nhóm các bài viết về vai trò vị trí của trí thức nữ trong CNH, HĐH
đất nước. Các công trình nghiên cứu tiêu biểu về nhóm này gồm có: “Phụ nữ
tham gia lãnh đạo quản lý” của Trần Thị Tuy Hòa và Tập thể cán bộ Trung tâm
Nghiên cứu khoa học lao động nữ đã chỉ ra rằng “Cho dù ở bất kỳ cương vị nào,
làm công việc gì thì người phụ nữ luôn tỏ rõ vai trò và năng lực của giới mình”.
Tác giả trên cơ sở tìm hiểu thực trạng và những chính sách đối với lao động nữ,
nhất là trong lĩnh vực lãnh đạo quản lý nhằm đánh giá đúng thực trạng của phụ
nữ trong lĩnh vực này, đã đưa ra một số giải pháp nâng cao năng lực của phụ nữ
trong công tác lãnh đạo, quản lý.
“Xây dựng đội ngũ cán bộ nữ đáp ứng yêu cầu sự nghiệp CNH, HĐH đất
nước” của TS. Trương Thị Minh Thông đăng trên Tạp chí Lịch sử Đảng (số
2/2004, trang 9) nghiên cứu trí thức nữ trên lĩnh vực cán bộ lãnh đạo là nữ. Bài
viết đã chứng minh: Phụ nữ ngày càng trưởng thành, đảm nhận nhiều vị trí quan
trọng trong bộ máy lãnh đạo của Đảng, chính quyền các cấp từ Trung ương đến
cơ sở, số nữ trong Ban Chấp hành Trung ương Đảng ngày càng tăng lên, từ đó
đưa ra những giải pháp căn bản nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ nữ trong thời kỳ
mới.

6



“Bài phát biểu của Thứ trưởng Bộ Giáo dục - Đào tạo Đặng Thị Huỳnh
Mai”, đăng trên báo Giáo dục - Thời đại ra ngày 16/10/2004 đã chỉ ra “Lực cản
lớn nhất của phụ nữ ngành Giáo dục - Đào tạo cũng có phần chính là từ phía chủ
quan của chị em…”, từ đó Thứ trưởng khẳng định “muốn thành công chị em
phải vượt qua trở ngại ấy, tự lực vươn lên, tự ý thức về năng lực trình độ bản
thân…”
“Tổng kết 9 năm thực hiện Chỉ thị 37 của Ban bí thư về công tác cán bộ
nữ” - Báo Đà Nẵng - ra ngày 12/11/2003 đã chỉ ra những bước chuyển của trí
thức nữ. Tỷ lệ cán bộ nữ được cử đi đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn
tăng hơn so với trước. Đào tạo sau đại học 10,71%, đào tạo đại học 56,18%, đào
tạo trung cao cấp, Cử nhân chính trị chiếm 27,54%…, bên cạnh đó cũng nêu ra
một số hạn chế trong công tác cán bộ nữ.
Ba là, nhóm các bài viết đề cập đến chiến lược phát triển trí tuệ con người
ở thế kỷ XXI:
“Chuẩn bị sẵn sàng đội ngũ trí thức mới đủ sức đủ tài”, bài phát biểu của
đồng chí Đỗ Mười, đăng trên báo Giáo dục - thời đại số 42/2003 đã khẳng định
Việt Nam cần phải chuẩn bị sẵn sàng đội ngũ trí thức mới đủ sức đủ tài trên cơ
sở phân tích tầm quan trọng của trí thức và thực trạng trí thức hiện nay.
“Hội thảo Quốc tế về phụ nữ trong chiến lược phát triển con người ở thế
kỷ XXI được tổ chức từ ngày 14 đến ngày 16/9/2000 tại Hà Nội. Hội thảo tập
trung vào 3 lĩnh vực chính: Tiếp cận chủ đề trên bình diện lý luận và lịch sử, tình
hình đội ngũ chuyên gia khoa học nữ hiện nay và một số phương hướng giải
pháp cho ngày mai. Đặc biệt, Hội thảo nhấn mạnh giải pháp “Tăng cường hợp
tác đào tạo quốc tế, nhất là đào tạo cao học cho nữ, giáo dục cần được gắn với
kinh tế mà trước hết coi nhà trường như một thiết chế trong chuỗi thiết chế của

7


nền kinh tế quốc dân. Giáo dục không những tạo nguồn nhân lực mà còn là “cỗ

máy tạo việc làm” của xã hội.
Bốn là nhóm bài viết đề cập về bình đẳng nam nữ trong lĩnh vực giáo dục:
“Bình đẳng nam nữ trong lĩnh vực Giáo dục - Đào tạo” của TS. Lê Thị
Vinh Thi cập nhật trên báo Nhân dân điện tử (3/12/2003). Tác giả đã nêu bật
được những thành tựu đã đạt được ở Việt Nam trong lĩnh vực giáo dục như: “Đạt
tỉ lệ rất cao cho người biết chữ cả nam và nữ… khắc phục tệ phân biệt đối xử với
phụ nữ khi thực hiện chương trình cung cấp giáo dục cơ bản, có chất lượng cho
toàn dân… Giáo dục đại học và trên đại học được mở rộng dần cả hai phía cho
cả nam và nữ”. Tác giả khẳng định có được điều này là do “Việt Nam đã khơi
dậy sự đa dạng phong phú các hình thức và phương pháp giáo dục - đào tạo. Nhờ
vậy, phụ nữ chẳng những đã hỗ trợ để thực hiện các chức năng sản suất, tái sản
xuất mà còn được hưởng lợi từ nhiều chính sách đặc biệt, khuyến khích họ tích
cực tham gia quá trình giáo dục - đào tạo và tự đào tạo dưới nhiều hình thức”.
Nhìn chung, những công trình nghiên cứu về trí thức ở nước ta chưa phải
là nhiều, còn rất ít tác giả bàn đến trí thức nữ và hầu như chưa có đề tài nào
chuyên bàn về thực trạng và những giải pháp nhằm phát huy vai trò đội ngũ trí
thức nữ trong các trường chuyên nghiệp ở tỉnh Gia Lai hiện nay. Vì thế, chúng
tôi chọn đề tài "Phát huy vai trò của đội ngũ trí thức nữ trong các trường Cao
đẳng và Trung học chuyên nghiệp ở tỉnh Gia lại hiện nay - thực trạng và giải
pháp" làm đề tài nghiên cứu cho luận văn của mình.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích

8


Mục đích nghiên cứu của luận văn là khảo sát thực trạng và đưa ra một số
giải pháp nhằm phát huy vai trò của đội ngũ trí thức nữ trong các trường cao
đẳng và trung học chuyên nghiệp ở tỉnh Gia Lai hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ

- Hệ thống hoá một số quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về vị trí vai trò của tầng lớp trí thức,
trong đó có đội ngũ trí thức nữ trong công cuộc đổi mới, thực hiện CNH, HĐH
đất nước.
- Khảo sát thực trạng đội ngũ trí thức nữ trong các trường cao đẳng và
trung học chuyên nghiệp của tỉnh Gia Lai.
- Bước đầu nêu lên phương hướng và một số giải pháp để phát huy vai trò
của đội ngũ trí thức nữ Gia Lai trong sự nghiệp đổi mới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đội ngũ trí thức nữ - cán bộ giảng dạy, cán bộ nghiên cứu khoa học, cán
bộ quản lý tại các trường chuyên nghiệp.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Do hạn chế về tư liệu, thời gian và khuôn khổ đề tài, Luận văn chủ yếu
nghiên cứu, phân tích vai trò của trí thức nữ tại một số trường Cao đẳng và
Trung học chuyên nghiệp ở tỉnh Gia Lai hiện nay (khoảng 5 năm gần đây)
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh, các văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam về đội ngũ trí
thức...

9


Trong quá trình thực hiện, tác giả có kế thừa những thành tựu nghiên cứu
của các nhà khoa học đi trước, qua các công trình hoặc các bài viết đã được công
bố có liên quan đến đề tài.
Luận văn vận dụng phương pháp lôgích - lịch sử, điều tra xã hội học, kết
hợp phân tích tổng hợp...


10


6. Đóng góp của luận văn
Luận văn làm rõ thực trạng của đội ngũ trí thức nữ trong các trường cao
đẳng và trung học chuyên nghiệp ở tỉnh Gia Lai hiện nay.
Đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm phát huy vai trò của đội ngũ
trí thức nữ tại các trường cao đẳng và trung học chuyên nghiệp ở tỉnh Gia Lai
hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm 3 chương.
Chương 1: Vị trí vai trò của tầng lớp trí thức và đội ngũ trí thức nữ trong
công cuộc đổi mới, thực hiện CNH, HĐH đất nước.
Chương 2: Thực trạng và xu hướng phát triển của đội ngũ trí thức nữ
trong các trường Cao đẳng và Trung học chuyên nghiệp tỉnh Gia Lai.
Chương 3: Phương hướng và một số giải pháp nhằm phát huy vai trò đội
ngũ trí thức nữ trong các trường cao đẳng và trung học chuyên nghiệp ở tỉnh Gia
Lai hiện nay.

11


Chƣơng 1
VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA TẦNG LỚP TRÍ THỨC
VÀ ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC NỮ TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI,
THỰC HIỆN CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ ĐẤT NƢỚC
1.1. Về khái niệm trí thức, tầng lớp trí thức và trí thức nữ nƣớc ta
Từ khi ra đời, trí thức đã trở thành "một lực lượng xã hội đặc biệt", là
nguồn lực trí tuệ quan trọng không thể thiếu đối với sự phát triển kinh tế xã hội ở

mỗi quốc gia và trên phạm vi quốc tế trong mọi thời đại. Họ có vai trò to lớn
trong việc sáng tạo ra những giá trị văn hoá, tinh thần, đem lại những thành tựu
quan trọng trong khoa học - kỹ thuật, góp phần thúc đẩy sự tiến bộ xã hội...
Song, trí thức là gì ? như thế nào được gọi là trí thức vẫn đang còn rất
nhiều quan điểm khác nhau về nội dung của thuật ngữ này. Có sự khác nhau đó
là do ở mỗi thời đại khác nhau, những chuẩn mực riêng về trí thức cũng khác
nhau. Điều này được Bách khoa toàn thư của Pháp - Tập 10 có nêu: "Trí thức là
một phạm trù lịch sử. Trong các nước khác nhau, chức năng của trí thức cũng
khác nhau. Trong các thời đại khác nhau, khái niệm trí thức khác nhau. Trong
đời sống xã hội, trí thức có vị trí nhất định" [12, tr.14].
Đi ngược dòng thời gian, lịch sử Việt Nam đã từng tồn tại một thời kỳ mà
ở đó trí thức là những cụ Đồ nho. Học vấn thuở ấy chủ yếu là những giá trị đạo
đức được ghi trong sách của các bậc thánh hiền và người thầy bằng phẩm chất,
uy tín và năng lực của mình sẽ truyền lại cho thế hệ sau những nội dung ấy. Thời
ấy, có người đi học để kiếm "dăm ba cái chữ", kẻ có chí hơn thì cố gắng dùi mài
kinh sử để kiếm cho mình một chức sắc nào đó trong thiên hạ, họ học là để làm
quan và cũng có thể là để "tề gia, trị quốc". Bằng cấp tú tài lúc bấy giờ rất hiếm

12


nên ai có văn bằng này đều được xem là trí thức. Ngày nay khi mà khoa học
công nghệ phát triển như vũ bão, quyết định trình độ phát triển của mỗi quốc gia
thì việc có tấm bằng tốt nghiệp PTTH cũng chưa thể được xem là trí thức.Xã hội
hiện nay, thiếu trình độ học vấn tương đương với trình độ đại học thì chẳng thể
coi là trí thức. Ở nước ta và nhiều nước khác xác định bằng cấp của trí thức là
được đào tạo từ bậc cao đẳng trở lên. Bằng cấp chỉ là một dấu hiệu, trong thực tế
có những người trình độ học vấn cao nhưng không giữ vai trò là trí thức, thực sự
do họ đi vào hướng lao động của nhóm xã hội khác hoặc đang vươn tới mức độ
lao động của trí thức. Như vậy văn bằng đại học và sau đại học cũng chỉ là điều

kiện cần chứ chưa đủ để trở thành trí thức.
Từ điển Triết học thì coi trí thức là toàn bộ những người lao động bằng trí
óc. Trí thức là “tập đoàn xã hội gồm những người làm nghề lao động trí óc. Giới
trí thức bao gồm kỹ sư, kỹ thuật viên, thầy thuốc, luật sư, nghệ sỹ thầy giáo và
người làm công tác khoa học, một bộ phận lớn viên chức” [42, tr.598]. Quan
điểm này có những chỗ chưa hợp lý, nhất là dùng nó trong giai đoạn hiện nay,
bởi vì lao động trí óc bao gồm cả lao động trí óc giản đơn và lao động trí óc phức
tạp, ngoài bộ phận lớn là trí thức thì lao động trí óc còn bao gồm một bộ phận
lớn các viên chức, những người điều khiển hệ thống máy tự động (bấm nút , theo
dõi, điều chỉnh), những người này do công việc của họ chủ yếu là thừa hành nên
không nhất thiết họ phải có trình độ học vấn cao. Đây là điều kiện phân biệt lao
động trí óc với lao động phức tạp của trí thức. Vì vậy nếu đem đồng nhất trí thức
với những người lao động trí óc sẽ không thấy nét đặc thù của trí thức.
Từ điển Chủ nghĩa Cộng sản khoa học cũng định nghĩa trí thức tương tự
nhưng rõ hơn: "Trí thức là một nhóm xã hội bao gồm những người chuyên làm
nghề lao động trí óc phức tạp và có học vấn chuyên môn cần thiết cho ngành lao
động đó. Sự tồn tại của trí thức với tính cách là một nhóm xã hội đặc biệt gắn

13


liền với sự phân công lao động xã hội giữa lao động trí óc và lao động chân tay"
[41, tr.360].
V.I. Lênin thì cho rằng: "Trí thức bao hàm không chỉ những nhà trước tác
mà thôi mà còn bao hàm tất cả mọi người có học thức, các đại biểu của những
nghề tự do nói chung, các đại biểu của lao động trí óc" [23, tr.372].
Chủ tịch Hồ Chí Minh khi bàn luận đến khái niệm trí thức, Người đã
khẳng định: "Lao động trí óc là ai? là thầy giáo, thầy thuốc, kỹ sư, những nhà
khoa học, văn nghệ, những người làm bàn giấy... có nhiệm vụ rất quan trọng
trong sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc, trong công cuộc hoàn thành cách mạng

dân chủ mới để tiến lên CNXH" [24, tr.202-203].
Vấn đề trí thức còn được Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập đến trong tác phẩm
"Sửa đổi lối làm việc" (10/1947). Người cho rằng: "Một người trí thức hoàn toàn
phải đem tri thức áp dụng vào thực tế nếu không chỉ là "trí thức" một nửa..." [8,
tr.565]. Theo tư tưởng của Người, cần phải đưa trí thức về với nhân dân. Người
trí thức cách mạng phải là người trí thức nhân dân, đem tài năng phục vụ Tổ
quốc, phục vụ nhân dân. Người trí thức nhân dân theo Hồ Chủ tịch phải vừa có
năng lực chuyên môn, phải vừa biết vận dụng những kiến thức của mình vào
thực tiễn, đem lại hiệu quả cao trong công việc...
Nhìn chung các quan điểm trên về trí thức dù ở góc độ này hay khía cạnh
khác thì chúng cũng đều nổi lên những dấu hiệu cơ bản mà qua đó chúng ta có
thể xác định được thế nào là trí thức. Đó là lao động trí óc và trình độ học vấn.
Trí thức là một tầng lớp xã hội đặc biệt là người lao động trí óc phức tạp ở trình
độ cao. Chỉ có những người có mức độ học vấn nhất định mới trở thành trí thức.
Vì thế khi định nghĩa trí thức, chúng tôi thấy rằng cần phải dựa vào hai thuộc
tính cơ bản sau:

14




Phải đạt đến trình độ học vấn nhất định (từ cao đẳng trở lên)



Phải lao động trí óc và mang tính sáng tạo.

Từ đây, có thể định nghĩa trí thức như sau: Trí thức là tầng lớp xã hội bao
gồm những người lao động trí óc, có trình độ học vấn nhất định, có khả năng

sáng tạo tri thức khoa học, tiếp thu truyền bá và vận dụng tri thức khoa học vào
sản xuất và đời sống xã hội phục vụ lợi ích con người. Lao động trí thức mang
tính độc lập, sáng tạo cao.
Từ sự tìm hiểu khái niệm trí thức, tầng lớp trí thức trên, chúng tôi muốn
bước đầu nhận dạng người trí thức nữ, bộ phận trí thức nữ nước ta.
Trí thức nữ Việt Nam nằm trong cơ cấu hợp thành của tầng lớp trí thức
Việt Nam, họ mang trong mình đầy đủ những đặc trưng cơ bản của lực lượng trí
thức. Tuy nhiên, họ vẫn có những nét đặc thù phân biệt với những người trí thức.
Nét đặc thù mang bản tính tự nhiên mà ngày nay khoa học diễn đạt bằng thuật
ngữ giới tính (hay là giống- sex) và những đặc thù mang tính xã hội được diễn tả
bằng thuật ngữ Giới (genđer). Tư cách trí thức và tư cách nữ gắn bó hữu cơ trong
mỗi người trí thức nữ nước ta, buộc chúng tôi phải tiếp cận từ hai phía. Chỉ hiểu
trí thức nữ Việt Nam có đầy đủ đặc trưng miêu tả của người trí thức là đúng
nhưng chưa đủ, còn phải tìm hiểu họ ở tư cách (phương diện) nữ. Tức là từ góc
độ giới tính, họ là một bộ phận phụ nữ Việt Nam. Họ có những nét đặc thù,
những thiên chức giới tính khác với trí thức nam. Xét cả về mặt tự nhiên và mặt
xã hội, họ đang gặp trở ngại nhiều hơn so với nam trí thức. Đó cũng chính là
những tác động đang làm giảm năng lực và vai trò hoạt động trí tuệ, sáng tạo của
bộ phận này.
Như vậy, trí thức nữ Việt Nam trước hết là những trí thức. Họ là bộ phận
quan trọng tạo nên sự hùng hậu của đội ngũ trí thức Việt Nam. Hiện tại và trong

15


tương lai họ đang và sẽ có mặt trên tất cả các lĩnh vực mà trước kia chỉ dành
riêng cho nam giới và trong quá trình phát triển của mình, họ sẽ có những đặc
trưng mới, chức năng mới do thời đại tạo ra để đáp ứng yêu cầu phát triển của
thời đại mà họ đang sống.
1.2. Quá trình hình thành và phát triển lý luận về giải phóng phụ nữ,

thực hiện bình đẳng nam nữ của chủ nghĩa xã hội khoa học
Một xã hội gọi là tiến bộ khi tiêu chí đánh giá quan trọng là phụ nữ trong
xã hội ấy phải được giải phóng. Vì thế, ngay từ nhiều thế kỷ trước giải phóng
phụ nữ đã được các nhà XHCN quan tâm nghiên cứu. Tư tưởng giải phóng phụ
nữ của họ còn để lại cho đến ngày nay, thể hiện rõ qua 2 vấn đề sau:
- Muốn giải phóng phụ nữ, trước hết phải giải phóng họ khỏi chế độ hôn
nhân và gia đình của xã hội cũ, xây dựng chế độ hôn nhân và gia đình tiến bộ:
Hôn nhân một vợ một chồng, tự nguyện dựa trên cơ sở tình yêu chân chính, có
quyền li hôn khi không còn tình yêu.
- Giải phóng phụ nữ với tư cách họ là những người lao động, những công
dân của xã hội. Nhà nước và xã hội cần thực hiện sự phân công hợp lý, có chế độ
khen thưởng, kỷ luật công bằng, coi trọng lao động nữ...
Những tư tưởng tiến bộ trên đã được các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác kế
thừa trong hệ thống lý luận của mình mà cho đến ngày nay vẫn còn nguyên giá
trị.
C.Mác và Ph.Ăngghen khi nghiên cứu con đường giải phóng loài người đã
dành sự quan tâm đặc biệt đến vấn đề giải phóng phụ nữ, bởi họ là một lực lượng
không thể thiếu trong xã hội, "một nửa thế giới"... bởi ngoài sự áp bức giai cấp,
dân tộc... phụ nữ còn chịu sự áp bức về giới. Các nhà sáng lập chủ nghĩa MácLênin đã chứng minh được rằng: Chính nguyên nhân kinh tế, cụ thể là sự chuyển

16


từ chế độ mẫu hệ sang phụ hệ trên phạm vi toàn cầu là cơ sở của sự bất bình
đẳng đối với phụ nữ. Sự áp bức phụ nữ là biểu hiện của sự áp bức xã hội. Với sự
ra đời của tác phẩm "Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của Nhà
nước", Ph.Ăngghen đã bác bỏ quan điểm cho rằng: "Ngay từ khi có xã hội, đàn
bà đã là nô lệ của đàn ông". Theo ông, gia đình cá thể ra đời thì cùng với nó là sự
bất bình đẳng, sự áp bức, sự coi thường cũng như thói thô bạo trong đối xử của
người đàn ông đối với đàn bà. Và như vậy chế độ hôn nhân cá thể không phải là

sự hoà giải giữa đàn ông và đàn bà mà nó thể hiện sự nô dịch của giới này đối
với giới kia", điều mà xã hội trước đó chưa hề có. Cũng từ đó, trong các xã hội
có giai cấp tiếp theo cứ thế duy trì sự phân biệt đối với phụ nữ, đẩy họ xuống vị
trí thấp hèn và lệ thuộc... Ngoài sự lên án tố cáo các xã hội bóc lột đã đày đoạ
phụ nữ, Ph.Ăngghen đã khẳng định vai trò của phụ nữ "Ai đã biết lịch sử thì biết
rằng muốn sửa sang xã hội mà không có phụ nữ giúp thì sẽ không làm nổi"... Vì
thế, ba nguyên tắc không thể thiếu trong cuộc đấu tranh giải phóng phụ nữ mà
các ông đã rút ra chính là:
Một là, giải phóng phụ nữ, thực hiện nam nữ bình đẳng là một trong
những mục tiêu của cuộc cách mạng vô sản.
Hai là, giải phóng phụ nữ phải gắn với giải phóng nhân loại, gắn với sự
phát triển và tiến bộ của toàn xã hội.
Ba là, phụ nữ chỉ thực sự bình đẳng khi họ thoát khỏi các đối xử bất công
trong hôn nhân và gia đình, được tham gia vào các hoạt động xã hội với tư cách
ngang bằng với nam giới.
Trên cơ sở tư tưởng của Mác, Ăngghen, V.I.Lênin đã phát triển và cụ thể
hóa học thuyết của chủ nghĩa Mác về giải phóng phụ nữ trong thời đại mới, thời
đại CNTB đã chuyển sang đế quốc chủ nghĩa. Thông qua việc ban hành hệ thống

17


luật pháp và các chính sách cụ thể của nhà nước Xô viết lúc bấy giờ, Lênin đã
thực hiện thành công nhiệm vụ giải phóng phụ nữ, biến ước mơ nhân loại thành
hiện thực. Để thực hiện nam nữ bình đẳng, ông rất quan tâm đến việc giải phóng
phụ nữ ngay từ trong gia đình, tạo điều kiện cho họ vươn lên ngang bằng nam
giới.
Kế tục, phát triển và vận dụng sáng tạo quan điểm của các nhà kinh điển
chủ nghĩa Mác-Lênin về vấn đề giải phóng phụ nữ, Chủ tịch Hồ Chí Minh trong
suốt cuộc đời hoạt động của mình, đã viết và bàn nhiều về vấn đề phụ nữ cũng

như đã đề ra nhiều giải pháp hữu hiệu để giải phóng phụ nữ Việt Nam. Hồ Chủ
tịch cảm thông và thấu hiểu được cảnh tình của người phụ nữ Việt Nam dưới chế
độ thực dân phong kiến. Họ là những người chịu thiệt thòi nhất trong xã hội lúc
bấy giờ; chiến tranh và những tàn tích của "tứ đức tam tòng" luôn là những gánh
nặng đè lên vai người phụ nữ. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng viết: “Thói dâm bạo
thuộc địa là hiện tượng phổ biến và tàn ác không thể nào tưởng tượng nổi" [25,
tr.52]. Vì thế, theo Người cần phải giải phóng dân tộc, giải phóng phụ nữ ra khỏi
xiềng xích của xã hội cũ. Người nói: "nếu không giải phóng phụ nữ thì không
giải phóng nửa loài người, nếu không giải phóng phụ nữ tức là xây dựng CNXH
chỉ có một nửa" [26, tr.523-524] và giải phóng phụ nữ theo Chủ tịch Hồ Chí
Minh, không còn cách nào khác là con đường giải phóng dân tộc, giải phóng xã
hội, xoá bỏ áp bức nghèo đói và lạc hậu.
Để biến ước mơ thành hiện thực Hồ Chủ tịch đã chỉ đạo nam nữ bình
quyền, điều này thể hiện rõ trong Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam:
Không phân biệt nam nữ, nếu ai đủ điều kiện sẽ được vào Đảng... Trong Hiến
pháp đầu tiên của nước ta (ra đời năm 1946) cũng có điều quy định “phụ nữ
Việt Nam đã được đứng ngang với đàn ông, được chung mọi quyền tự do của

18


một công dân...”. Luật hôn nhân và gia đình (1960) cũng có ghi “luật lấy vợ lấy
chồng là nhằm giải phóng phụ nữ, giải phóng phân nửa xã hội” [29, tr.281-282].
Tuy vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ việc thực hiện nam nữ bình
quyền thành công sẽ là một việc làm khó khăn, đó là một cuộc cách mạng To và
Khó. Vì tập quán cũ đã ăn sâu vào trong lối sống, cách nghĩ của người dân. Theo
Người, đạo luật ra đời không phải là đã xong mà còn phải tiếp tục tuyên truyền,
giáo dục lâu dài trong nhân dân thì mới có thể thực hiện tốt.
Nhận thức được lời giáo huấn của Người, kể từ khi giành được độc lập,
Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn dành sự quan tâm đặc biệt tới giải phóng phụ

nữ thông qua việc ban hành hệ thống pháp luật, chính sách và chương trình phát
triển. Vì vậy, trong điều kiện còn gặp nhiều khó khăn nhưng Việt Nam luôn đạt
được những thành tựu về giải phóng phụ nữ.
1.3. Một số đặc điểm của đội ngũ trí thức nữ nƣớc ta trong thời kỳ đổi
mới
Là một bộ phận tạo nên "sức mạnh" cho kho tàng tri thức nhân loại, đội
ngũ trí thức nữ nước ta trong thời kỳ đổi mới đã có nhiều đóng góp to lớn đối với
sự "thay da đổi thịt" của đất nước.
Bên cạnh những đặc điểm của đội ngũ trí thức nói chung như: "là những
người có trình độ học vấn cao, am hiểu sâu rộng lĩnh vực lao động trí tuệ của
mình, không có hệ tư tưởng độc lập mặc dù lịch sử nhân loại đã chứng minh họ
có công dùng kinh nghiệm trí tuệ của mình khái quát kinh nghiệm thực tiễn
thành lý luận và xây dựng nên những học thuyết với tính cách là hệ tư tưởng cho
giai cấp thống trị đương thời..." thì đội ngũ trí thức nữ nước ta trong thời kì đổi
mới còn có những đặc điểm riêng:

19


Trí thức nữ phải đảm nhận nhiều vai trò khác nhau với những chức năng
khác nhau mà bản thân họ không được quyền từ chối bất kì một vai trò nào hay
bê trễ trong bất kì chức năng nào. Họ phải bươn trải để tồn tại được trong điều
kiện phát triển của đất nước, vừa phải hoàn thành thật tốt nhiệm vụ chuyên môn,
vừa phải làm tốt chức năng người vợ, người mẹ, người con trong gia đình như
mang thai, sinh nở, nuôi dưỡng giáo dục con cái, chăm sóc cho gia đình riêng,
đồng thời phải thực hiện đạo hiếu đối với cha mẹ già... và ở thời đại nào, người
phụ nữ, trí thức nữ, cũng vừa là người lao động trong xã hội với chức năng sản
xuất, nghiên cứu khoa học hoặc tham gia quản lý, vừa là người vợ, người mẹ
chăm lo săn sóc cho gia đình. Song, khi chuyển sang cơ chế thị trường thì trách
nhiệm đó của nữ trí thức lại càng nặng nề hơn. Bằng thu nhập của gia đình họ

phải cân đối thu chi trong gia đình cho đủ cũng là một bài toán khá hóc búa, vì
chỉ đơn thuần sống bằng lương nhà nước cấp (trừ một vài ngành có thu nhập cao,
còn đa số lao động nữ là lương thấp, nhất là ở khu vực hành chính sự nghiệp).
Đây cũng là khó khăn lớn đối với lao động nữ là công chức, cán bộ nữ làm công
tác quản lý ở khu vực hành chính sự nghiệp. Vì vậy, để đảm bảo mức sống của
gia đình, nhiều phụ nữ đã phải nỗ lực học tập để xin vào làm việc cho các liên
doanh nước ngoài (chủ yếu là lao động nữ trẻ) điều này dẫn đến nguy cơ mất đi
rất nhiều chất xám, trong khi ta rất cần nó để góp phần hiện đại hoá đất nước.
Phần đông trí thức nữ phải làm thêm ngoài giờ bằng nhiều cách, chẳng hạn như
làm thêm các đề tài nghiên cứu, may, dệt..., làm cho các cơ sở dịch vụ (bán hàng
hoặc chăn nuôi, nhận làm gia công...), để có thêm thu nhập trang trải cho cuộc
sống. Điều đó không thể không ảnh hưởng đến sức khoẻ bản thân, ảnh hưởng
đến nhịp sống gia đình. Thông thường, lao động nữ ngoài giờ làm việc cho xã
hội còn dành 4-6 giờ làm việc gia đình. Việc các bà mẹ vì phải làm thêm nên
không có thời gian chăm sóc đến việc học hành, sinh hoạt, sức khoẻ của con cái

20


sẽ là một thiệt thòi lớn đối với trẻ thơ. Bởi thiếu bàn tay chăm sóc, quản lý của
người mẹ thì trẻ thơ sẽ khuyết đi một phần nhân cách của con người.
Mặt khác, đã gọi là lao động khoa học thì điều cần thiết nhất đó là phải có
sự say mê, kiên trì chịu đựng, vượt mọi khó khăn để theo đuổi sự nghiệp đến
cùng. Điều này trí thức nữ Việt Nam có thể làm được, song để thực hiện tốt
không phải là không có những khó khăn (khách quan, chủ quan) nhất định. Nhìn
chung nữ trí thức nước ta giàu lòng yêu nước, ở họ luôn có tâm huyết với nghề
cũng như ý chí phấn đấu vươn lên, khắc phục mọi khó khăn để làm khoa học dù
cuộc sống đời thường còn muôn nỗi gian truân.
- Phụ nữ Việt Nam nói chung, trí thức nữ Việt Nam nói riêng luôn cần cù
chịu khó là phẩm chất rất cần thiết đối với lao động khoa học. Sự cần cù chịu

khó trong việc tham khảo tài liệu, sách báo, tích luỹ tư liệu, nắm bắt những kiến
thức cần thiết cho hoạt động "nghề" sẽ giúp cho các nhà khoa học nữ có cái nhìn
tổng quan từ đó có thể đưa ra ý kiến, quan điểm của mình trong lĩnh vực khoa
học mà bản thân theo đuổi.
- Lợi thế lớn nhất của phụ nữ, trí thức nữ, đặc biệt là cán bộ nữ là ở chỗ họ
có khả năng động viên đối với chính phụ nữ. Họ hiểu được những tâm tư nguyện
vọng, khó khăn cũng như những ưu khuyết điểm của mình. Chúng ta thường nói
"không ai hiểu mình bằng chính mình" và chính từ khả năng hiểu biết lẫn nhau
sâu sắc mà phụ nữ dễ đến với nhau lúc bình thường cũng như trong hoạn nạn, dễ
tập hợp được người khác cùng làm việc với mình. Một điều dễ thấy là dù khó
khăn đến đâu, phụ nữ (trí thức nữ) nếu được động viên tin cậy thì họ sẽ cố gắng
hết sức mình và họ vốn nhạy bén với mọi việc, dễ phục thiện.
Trong công tác lãnh đạo - quản lý, người nữ trí thức đã thể hiện tinh thần
trách nhiệm cao. Họ biết cách trò chuyện và cũng biết tìm hiểu thị trường qua

21


con người nhờ ở tính mềm dẻo của họ. Họ không thích ra lệnh, trong khi đó lại
thường biết cách chỉ dẫn cho đồng đội để làm việc tốt hơn. Chỉ dẫn cho cán bộ
cách hoàn thành nhiệm vụ là cách đào tạo cán bộ tốt nhất mà phụ nữ thường làm.
Chính trong cơ chế thị trường hiện nay, người nữ trí thức càng có nhiều cơ hội
để làm tốt chức năng của người lãnh đạo và quản lý, nhà nghiên cứu khoa học...
thông qua việc phát huy tiềm năng vốn có của mình, song bên cạnh đó, bản thân
họ vẫn còn một số mặt hạn chế cần khắc phục:
Hạn chế trước tiên cần bàn đến đó là vấn đề sức khoẻ. Thông thường thì
phụ nữ sức khoẻ kém hơn nam giới do cấu tạo tự nhiên về cơ thể nhưng vì
thương chồng thương con nên nhiều chị em trong điều kiện khó khăn về kinh tế,
đã lao vào làm thêm để tăng thu nhập hoặc nhịn ăn cho chồng, cho con nên phụ
nữ gặp nhiều khó khăn về nâng cao thể lực, trí lực, không đủ thời gian để nghỉ

ngơi, học tập vươn lên. Chúng ta thấy rằng, nghiên cứu khoa học muốn có hiệu
quả , đòi hỏi phải có sự tập trung tư tưởng cao độ trong khoảng thời gian dài, liên
tục. Trong khi đó người nữ trí thức trăm công nghìn việc chia cắt quỹ thời gian
làm việc của họ. Đó là chưa kể đến các mối quan hệ gia đình cũng không phải
không ảnh hưởng, chi phối đến tâm trí về mặt tâm lý, trong gia đình người chồng
thường được coi là trụ cột nên thường được ưu tiên về các điều kiện học hành
phấn đấu. Nhiều nữ trí thức đã tự nhận phần thua thiệt về mình để hy sinh cho
con đường danh nghiệp của chồng.
Vì quỹ thời gian có hạn nên nếu nữ trí thức tham gia công tác lãnh đạo
quản lý thì phải kiên trì phấn đấu và mất rất nhiều công sức. Ngoài ra, các điều
kiện sinh hoạt, dịch vụ xã hội còn bị hạn chế cũng làm cho họ mất rất nhiều thời
gian vào phục vụ gia đình, ít có thời gian để học tập nâng cao trình độ và tham
gia các hoạt động khác của xã hội nên khả năng tự vươn lên ở một số chị em còn
hạn chế.

22


- Trong nghiên cứu khoa học sự độc lập suy nghĩ, sự sáng tạo cá nhân trên
cơ sở tự do tư tưởng sau khi thu thập tài liệu, quan sát thực tiễn, tiến hành thí
nghiệm... là yêu cầu không thể thiếu để dẫn đến sự thành công. Song, trên thực
tế, ở một số chị em, khả năng tư duy lôgíc và khái quát có phần yếu, chưa dám
mạnh dạn nêu lên ý kiến độc lập của mình trong khi đánh giá, tranh luận các vấn
đề khoa học đối với đồng nghiệp.
- Sự cập nhật những thông tin và kiến thức mới là việc làm cần thiết cho
việc nghiên cứu khoa học. Muốn thực hiện được điều đó, đòi hỏi các chị em phải
giỏi ngoại ngữ, phải thông thạo rất nhiều ngoại ngữ, vì đây là điều kiện quyết
định để họ có thể tiếp cận với các tài liệu nước ngoài, tiếp cận với các chuyên
gia... để nâng tầm nhìn của bản thân lên tầng cao mới. Nhiều chị em cũng nhận
thức được điều này nhưng rồi "biết cũng chỉ là biết vậy"!

- Thực tế, do ảnh hưởng của việc đào tạo trước đây, trong hoàn cảnh trình
độ kinh tế xã hội còn thấp, tư tưởng phong kiến còn rơi rớt, nhiều gia đình chú
trọng việc học hành đào tạo cho con trai, còn con gái ít có điều kiện học tập hoặc
có học cũng phải nghỉ học sớm để giúp việc trong gia đình để ...lấy chồng vẫn
còn tồn tại, nên số phụ nữ có đủ điều kiện đi học, có trình độ cao thường ít hơn
nam giới. "Tàn dư của một quá khứ trọng nam khinh nữ làm cho việc đánh giá
khả năng trình độ, hiệu quả làm việc và sử dụng, bồi dưỡng phát huy vai trò của
các nhà khoa học nữ chưa có sự công bằng, dân chủ đúng mức và đầy đủ. Vấn đề
đề bạt nữ trong chức vụ quản lý khoa học thường được xử lý dè dặt hơn nam
giới. Mô hình "nam trưởng nữ phó" thường được dễ chấp nhận hơn mô hình
ngược lại. Kết quả điều tra cho thấy 100% các nhà khoa học nữ đều phát biểu:
Muốn được công nhận ngang bằng với nam giới, bao giờ người phụ nữ cũng
phải làm tốt hơn nam giới". Nghiên cứu về vấn đề này trong dự án Athena, được
Hiệp hội "Đòi hỏi công bằng Anh" công bố. Trong cuộc điều tra người ta phỏng

23


vấn hơn 2000 nhà khoa học và kỹ sư của cả hai giới tại các trường đại học thì có
78% các giảng viên nam đạt được danh hiệu giảng viên cao cấp hoặc chức vị phó
giáo sư nhờ đề bạt chứ không phải qua các cuộc thi tuyển trong khi tỷ lệ này với
nữ chỉ là 68%. Nhiều dấu hiệu cho thấy phụ nữ nước ta ít có điều kiện theo đuổi
các ngành khoa học mới, có hàm lượng trí thức cao như công nghệ thông tin,
khoa học kỹ thuật... Nếu không có biện pháp điều chỉnh phù hợp thì trong vài
năm nữa, một số ngành công nghệ mũi nhọn sẽ là độc quyền của nam giới".
Theo tiến sĩ Phan Thị Thanh, giám đốc Trung tâm nghiên cứu khoa học về lao
động nữ (Bộ Lao động Thương binh và Xã hội), số phụ nữ có học hàm, học vị và
uy tín khoa học quá ít, tuổi cao và phải về hưu theo chế độ sớm hơn nam giới 5
năm. Vì vậy ước tính 10 năm nữa, trên 70% số nữ trí thức sẽ về hưu, trong khi
đội ngũ kế cận chưa kịp đáp ứng về chất lượng. Trong lĩnh vực công nghệ thông

tin, số phụ nữ tham gia rất hạn chế. Hàng năm có gần 1000 kỹ sư tin học tốt
nghiệp ở 8 trường đại học trên cả nước nhưng nữ chỉ chiếm 10%. Đối với các
chuyên gia máy tính con số này là 12%. Ngành kỹ thuật điện tử cũng có tỷ lệ
tương tự [38].
- Mặt khác, việc đào tạo tuyển chọn nữ làm công việc lãnh đạo, quản lý
chưa được hệ thống, chưa có kế hoạch đào tạo lâu dài ở nhiều cơ quan, đơn vị
cộng với lâu nay, nhà nước đã đề bạt cán bộ nữ làm lãnh đạo, quản lý ngoài
những chị em được tuyển chọn đào tạo qua thực tế đã thực sự đảm đương được
công việc chuyên môn của mình nhưng cũng có không ít cơ quan, đơn vị do
quan liêu, không đào tạo, lựa chọn kỹ càng mà đề bạt cán bộ nữ theo cơ cấu vì
thế họ đã không làm được hoặc làm kém hiệu quả. Điều này, đã tạo thành dư
luận không tốt cho phụ nữ , coi phụ nữ không có khả năng làm việc.
Tóm lại: Trí thức nữ cũng là phụ nữ, họ vừa mang trong mình những ưu
điểm và hạn chế nhất định. Ngày nay, trong sự nghiệp đổi mới, họ buộc phải tự

24


×