Tải bản đầy đủ (.pdf) (113 trang)

Phát huy vai trò của đội ngũ giảng viên ở Đại học Thái Nguyên hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.32 MB, 113 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ





TRẦN THỊ LAN






PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN
Ở ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN HIỆN NAY


Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học
Mã số 60 22 85




TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC


















HÀ NỘI - 2007


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ





TRẦN THỊ LAN






PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN

Ở ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN HIỆN NAY







TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC















HÀ NỘI - 2007






MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
Chƣơng 1 ĐẶC ĐIỂM VÀ VAI TRÒ CỦA ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN 10
1.1. Đội ngũ giảng viên - bộ phận đặc thù của trí thức giáo dục đại học 11
1.1.1. Quan niệm về trí thức GDĐH 11
1.2. Vai trò của ĐNGV trong GD - ĐT 20
Chƣơng 2 THỰC TRẠNG PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN Ở ĐẠI HỌC
THÁI NGUYÊN 35
2.1. Đại học Thái Nguyên trong tiến trình nâng cao chất lƣợng đào tạo 35
2.2. Khái quát thực trạng phát huy vai trò ĐNGV ở ĐHTN 37
2.2.1. Những thành tựu đạt được 37
2.2.2. Những hạn chế 47
2.2.3. Nguyên nhân của thực trạng nêu trên 58
2.3. Một số vấn đề đặt ra 60
Chƣơng 3 PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA
ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN Ở ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN 66
3.1. Phƣơng hƣớng 66
3.1.1. Những căn cứ làm cơ sở cho việc đề xuất phương hướng 66
3.1.2. Phương hướng phát huy vai trò ĐNGV ở ĐHTN 70
3.2. Những giải pháp chủ yếu phát huy vai trò ĐNGV ở ĐHTN 73
3.2.1. Đổi mới mục tiêu, nội dung và phương pháp giảng dạy 73
3.2.2. Tạo động lực để phát huy vai trò của ĐNGV 79
3.2.3. Đổi mới phương thức đánh giá chất lượng giảng viên 94
3.2.4. Giáo dục nâng cao ý thức, tinh thần trách nhiệm, phẩm chất chính trị và đạo đức của
ĐNGV 97
KẾT LUẬN 102
TÀI LIỆU THAM KHẢO 105


1

MỞ ĐẦU

1.Lý do chọn đề tài
Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí mạnh thì quốc gia
hưng, nguyên khí yếu thì quốc gia suy. Tính đúng đắn của chân lý ấy đã và
đang tiếp tục được khẳng định trong thế kỷ XXI - Thế kỷ của nền văn minh
trí tuệ, nền kinh tế tri thức với sự tác động sâu sắc của xu thế hội nhập và
toàn cầu hoá.
Thực tiễn đó làm thay đổi căn bản tiêu chí về nguồn nhân lực. Do vậy,
tất yếu đòi hỏi có sự đổi mới mang tính cách mạng về việc đào tạo, bồi
dưỡng, phát huy nhân tố con người ở hầu hết các quốc gia. Giải pháp có ý
nghĩa chiến lược là phát triển GD - ĐT. Đó là cội nguồn cho những đột phá
tạo ra bước tiến vượt bậc của nguồn lực con người trong tương lai.
Việt Nam cũng không thể thoát ly những bối cảnh và đòi hỏi thực tế
ấy nếu muốn đạt tới sự phát triển nhanh, bền vững của toàn xã hội. Vì vậy,
Đảng ta đã chỉ rõ: Phải phát triển mạnh GD - ĐT, coi GD - ĐT là quốc sách
hàng đầu.
Tuy nhiên trên thực tế, hệ thống GD - ĐT hiện hành ở nước ta, đặc
biệt là GDĐH đã có những dấu hiệu hụt hẫng, mất cân đối, chất lượng đào
tạo còn nhiều yếu kém, bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu về trình độ, kỹ
năng của nguồn nhân lực trước đòi hỏi ngày càng cao của thời đại và sự
nghiệp CNH, HĐH đất nước. Do vậy, nâng cao chất lượng GDĐH đã trở
thành vấn đề được dư luận quan tâm ở nhiều khía cạnh.
Một trong những chìa khoá để giải quyết vấn đề chất lượng GDĐH là
phát huy vai trò của ĐNGV. Ý thức được tầm quan trọng đó, trong nhiều
năm qua cùng với sự quan tâm, khuyến khích của Đảng và Nhà nước,
ĐNGV ở ĐHTN đã không ngừng tự bồi dưỡng, nâng cao trình độ, chuyên

2
môn nghiệp vụ… Song nhìn chung, đội ngũ này vẫn còn nhiều hạn chế, yếu

kém, bất cập cần được khắc phục để phát triển.
ĐNGV ở ĐHTN đang phải đối mặt với nhiều nguy cơ và thách thức.
Một bộ phận CBGD yếu về chuyên môn, có biểu hiện suy thoái đạo đức,
phai nhạt về lý tưởng, chạy theo lối sống thực dụng, chủ nghĩa cá nhân, vị
kỷ, ngại tư duy, sợ đổi mới, thụ động, thờ ơ trước trọng trách vinh quang của
sự nghiệp “trồng người”. Điều đó xa lạ với bản chất của lao động khoa học
sư phạm và phẩm chất cao quý của nhà giáo. Mặt khác, không ít giảng viên
đại học hiện nay đang gặp phải những khó khăn và mâu thuẫn. Đó là, thông
tin bùng nổ với gia tốc lớn mà thời gian dành cho nghiên cứu thì rất ít bởi áp
lực trong giảng dạy, phần lớn thời gian các giảng viên phải dành cho việc lên
lớp. NCKH đối với giảng viên đại học tuy rất quan trọng và cần thiết nhưng
giảng viên lại không có điều kiện thực hiện. Yêu cầu của xã hội đối với
GDĐH ngày càng cao nhưng chính sách, cơ chế lại lạc hậu, chậm đổi mới,
không tạo được động lực kích thích giảng viên lao động say mê, tận tâm, tận
lực. Tác động mặt trái của kinh tế thị trường đang làm suy thoái đạo đức
nghề nghiệp và những lệch lạc trong nhân cách nhà giáo, trong quan hệ thầy
trò.
Tất cả nhược điểm, yếu kém của ĐNGV chưa được sửa đổi ở ĐHTN
từ nhiều năm nay thực sự đáng lo ngại, nếu không kịp thời khắc phục chắc
chắn sẽ để lại những “di chứng” trong thập niên tới. Điều đó đang hối thúc
mạnh mẽ và đặt ra nhiều vấn đề bức xúc đối với ĐHTN đòi hỏi phải đổi mới
nhận thức và tiến hành những cải cách sâu rộng, triệt để trong việc xây dựng
đội ngũ nhà giáo: Giỏi về chuyên môn, vững về nghiệp vụ, có phẩm chất
chính trị, đạo đức tốt, phát huy vai trò chủ động, tích cực, sáng tạo trong hoạt
động giảng dạy và NCKH trước thách thức nâng cao chất lượng đào tạo.

3
Xuất phát từ thực tế nêu trên, tác giả chọn vấn đề “Phát huy vai trò của
ĐNGV ở ĐHTN hiện nay” làm đề tài nghiên cứu luận văn Ths chuyên ngành
chủ nghĩa xã hội khoa học.

2.Tình hình nghiên cứu đề tài
Xuất phát từ yêu cầu ngày càng cao của xã hội đối với sự nghiệp
“trồng người” trong giai đoạn hiện nay, vấn đề GD - ĐT, xây dựng và phát
huy vai trò của ĐNGV luôn là một trong những đề tài được nhiều người
quan tâm nghiên cứu ở các khía cạnh khác nhau.
Về những vấn đề lí luận, nhiều năm gần đây, ở nước ta đã có không ít
công trình nghiên cứu về GD - ĐT. Đó là những tài liệu tham khảo bổ ích,
cung cấp cơ sở lý luận chung để tác giả nghiên cứu về ĐNGV ở ĐHTN,
đáng chú ý là:
- “Vấn đề GD - ĐT”, Phạm Văn Đồng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 1999.
-“Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa của thế kỷ XXI” - Phạm Minh
Hạc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999.
- “Ngành GD - ĐT thực hiện nghị quyết TW2 khoá VIII và Nghị
quyết Đại hội Đảng lần thứ IX, Nxb Giáo dục, 2002.
Những công trình nghiên cứu nêu trên đã đề cập, phân tích: Tính tất
yếu phải tiến hành đổi mới giáo dục trên cơ sở khảo sát thực trạng nền giáo
dục nước ta trong những năm qua. Phát hiện những vấn đề đặt ra nhìn từ góc
độ mâu thuẫn, đồng thời dự báo xu hướng phát triển, quan điểm chỉ đạo của
Đảng, phương hướng và giải pháp chung để nâng cao chất lượng GD - ĐT
đáp ứng yêu cầu của xã hội ở thế kỷ XXI.

4
Trực tiếp bàn về GDĐH trong những năm gần đây đã có nhiều tác giả
với các công trình nghiên cứu được xuất bản thành sách.
-“Phát triển nguồn nhân lực GDĐH Việt Nam”, TS Đỗ Minh Cương
và GS, TS. Nguyễn Thị Doan - Chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2001. Hai tác giả đã đi sâu phân tích đặc điểm thực trạng và yêu cầu của xã
hội đối với chất lượng nguồn nhân lực GDĐH nước ta hiện nay. Trên cơ sở
đó, các tác giả đã khẳng định: Cần thực hiện đồng bộ những giải pháp có ý

nghĩa thiết thực nhằm tạo điều kiện tốt nhất để phát triển nguồn nhân lực
GDĐH Việt Nam cả về cơ cấu và chất lượng.
- “Nền sư phạm Đại học”/ Polodupont, Marcelossandon/ do Trần Thị
Thục Nga dịch, Nxb Thế giới, 1999 là cuốn sách có đối tượng nghiên cứu là
quá trình hình thành, phát triển, đặc điểm cơ bản của GDĐHở các trường Sư
phạm nói chung trên thế giới và ít nhiều đề cập đến đội ngũ trí thức GDĐH
với tư cách là chủ thể của nền Sư phạm Đại học.
Tất cả những tài liệu quý giá đó là cơ sở lý luận chung để tác giả giải
quyết vấn đề đặt ra trong đề tài.
Quan trọng hơn, có nhiều công trình, nhiều tác giả nghiên cứu một
cách có hệ thống về trí thức Việt Nam, trí thức GDĐH. Đây là những tài liệu
cung cấp cách nhìn toàn diện cho bản thân tác giả trong việc luận giải về vai
trò của ĐNGV trong GD - ĐT.
-Đề tài KX.04-06 do Giáo sư Phạm Tất Dong (chủ biên) được viết
thành sách “Trí thức Việt Nam - thực tiễn và triển vọng” Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 1995 nghiên cứu một cách tổng thể, khái quát tầng lớp trí thức
Việt Nam. Ở một chừng mực nhất định, đã đề cập gián tiếp đến vai trò, vị trí,
nhiệm vụ của trí thức GDĐH trong sự nghiệp đào tạo, bồi dưỡng nhân tài
cho đất nước. Đề tài còn chỉ rõ xu hướng phát triển của trí thức Việt Nam,

5
chủ trương xây dựng chính sách phát triển GD - ĐT, kết hợp đúng đắn giữa
đào tạo, sử dụng và đãi ngộ đối với tầng lớp này.
-Đề tài KX 05 - 03: “Đội ngũ trí thức, chuyên gia và cán bộ quản lý
khoa học - thực trạng và giải pháp”, Hà Nội, 1998 của tác giả Phan Thanh
Khôi. Đề tài tập trung làm rõ vai trò, nhiệm vụ của Trí thức Việt Nam với tư
cách vừa là chuyên gia vừa là cán bộ quản lý khoa học. Đề tài khẳng định:
Phát triển đội ngũ trí thức là một nhiệm vụ cấp bách, cần được ưu tiên.
-Đề tài KX.07-14 do GS, TS Nguyễn Minh Đường chủ biên, nghiên
cứu việc bồi dưỡng, đào tạo lại đội ngũ nhân lực trong điều kiện mới. Đề tài

xác định chức năng “kép” của ĐNGV Đại học. Họ vừa là người trực tiếp
giảng dạy, vừa thực hiện NCKH. Đó là lực lượng quan trọng đòi hỏi không
ngừng được bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ … đáp ứng
yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
-Đề tài KX -03-09, trong đó có đề tài nhánh “Trí thức trẻ và sinh viên”
do PGS Bùi Khắc Việt chủ biên. Đối tượng nghiên cứu của đề tài là đội ngũ
trí thức trẻ trong các trường đại học, cao đẳng và các thế hệ sinh viên với tư
cách là nguồn bổ sung nhân lực cho đội ngũ trí thức.
-“Trí thức GDĐH Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH” của
Tiến sĩ Nguyễn Văn Sơn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002 . Cuốn sách
tập trung nghiên cứu đội ngũ trí thức GDĐH với tư cách là bộ phận đặc thù
của trí thức Việt Nam. Tác giả đi sâu luận giải về quá trình hình thành, phát
triển cũng như đặc điểm, vai trò, cơ cấu của đội ngũ này đồng thời phát hiện
những bất cập về trình độ, năng lực của đội ngũ trí thức GDĐH Việt Nam
trước yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Không chỉ dừng lại
ở đó, tác giả còn bước đầu đưa ra các giải pháp nhằm xây dựng đội ngũ trí thức
GDĐH Việt Nam: giỏi về chuyên môn, vững về nghiệp vụ, sáng về đạo đức.

6
-Luận án PTS Triết học của Phan Thanh Khôi “Động lực của trí thức
lao động sáng tạo ở nước ta hiện nay”, Hà Nội, 1992 cũng đi sâu luận giải
những chính sách xã hội với tư cách là đòn bẩy tạo động lực vật chất và tinh
thần để đội ngũ trí thức lao động sáng tạo ở nước ta phát huy hơn nữa tính
tích cực, chủ động đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của thực tiễn.
Bên cạnh các công trình, đề tài nghiên cứu, luận văn, luận án còn có
khá nhiều những bài viết độc lập của các nhà khoa học đã được công bố trên
sách, báo, tạp chí… trực tiếp bàn đến ĐNGV ở các trường đại học và cao
đẳng, như:
“Giảng viên với việc nâng cao chất lượng bài giảng” của Phạm Đình
Đạt, Tạp chí Khoa học Chính trị, 2001, số 6

“Đội ngũ giảng viên và yêu cầu nâng cao chất lượng đào tạo đại học,
và sau đại học” của Võ Xuân Đàn, Tạp chí Hoạt động khoa học, 2004, số 2.
“Phát huy vai trò của đội ngũ nữ giảng viên đại học hướng tới nền
kinh tế tri thức” của Nguyễn Văn Duệ, Tạp chí Phát triển Giáo dục, 2003, số
4.
“Xây dựng đội ngũ CBGD đại học” của Nguyễn Đình Trí đăng trên
báo Nhân dân, năm 2000, số 21.
Nhìn chung, tất cả các công trình nghiên cứu, các tác giả nêu trên đều
giải quyết được một số vấn đề lý luận và thực tiễn về trí thức, trí thức GDĐH
nói chung và Đại học Sư phạm nói riêng. Ở mức độ nào đó đã khảo sát thực
trạng cơ cấu, chất lượng, đề xuất những phương hướng, giải pháp để xây
dựng đội ngũ trí thức ở các trường đại học, cao đẳng phát triển về cơ cấu,
chất lượng, nâng cao phẩm chất đạo đức, phát huy vai trò trong sự nghiệp
đào tạo và bồi dưỡng nhân tài cho đất nước.
Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có một công trình nào nghiên cứu có
tính chất chuyên khảo, hệ thống, trực tiếp bàn sâu vào việc phát huy vai trò

7
của ĐNGV đặc biệt là trong lĩnh vực GD - ĐT ở ĐHTN. Chính điều đó đã
thôi thúc tác giả nghiên cứu vấn đề này với mong muốn và hy vọng góp phần
vào việc giải quyết vấn đề đặt ra.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích:
-Làm rõ thực trạng phát huy vai trò ĐNGV trong GD - ĐT ở ĐHTN
những năm qua. Từ đó đưa ra phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm
phát huy hơn nữa vai trò của đội ngũ này trong GD - ĐT ở ĐHTN hiện nay.
*Nhiệm vụ của luận văn:
Để thực hiện mục đích nói trên, luận văn tập trung giải quyết những
vấn đề chủ yếu dưới đây:
- Phân tích, luận chứng về mặt lý luận đặc điểm, vị trí, vai trò của

ĐNGV trong GD- ĐT.
- Khảo sát thực trạng phát huy vai trò của đội ngũ này trong GD - ĐT
ở ĐHTN những năm gần đây.
- Phát hiện những vấn đề đang đặt ra để xác định phương hướng và đề
xuất giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao, phát huy vai trò của ĐNGV trong GD -
ĐT ở ĐHTN thời gian tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu:
Vai trò của ĐNGV trong GD - ĐT ở ĐHTN .
* Phạm vi nghiên cứu
- Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu, khảo sát việc phát huy vai trò của
ĐNGV trong GD - ĐT ở ĐHTN.
-Về thời gian: Luận văn chỉ đề cập đến giai đoạn từ năm 2000 đến
nay.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phƣơng pháp nghiên cứu

8
- Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, đường lối của Đảng, pháp luật
của nhà nước về con người, phát huy nhân tố con người, về GD - ĐT, đội
ngũ trí thức, nhà giáo.
- Luận văn còn kế thừa hợp lý những kết quả nghiên cứu lý luận của
các tác giả trong và ngoài nước.
- Cơ sở thực tiễn của luận văn là tình hình thực trạng ĐNGV về cơ
cấu, chất lượng, việc phát huy vai trò của đội ngũ này trong GD - ĐT ở
ĐHTN từ năm 2000 đến nay.
- Thực hiện luận văn, tác giả chủ yếu sử dụng phương pháp duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, phương pháp lôgíc
- lịch sử và các phương pháp có tính liên ngành: phân tích, tổng hợp, so
sánh, thống kê, điều tra xã hội học để làm rõ vấn đề nghiên cứu.

6. Đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn
- Làm rõ những cơ sở để xác định vai trò của ĐNGV xét riêng trong
lĩnh vực GD - ĐT ở các trường đại học nói chung.
- Nghiên cứu một cách tổng thể và có hệ thống về thực trạng việc
phát huy vai trò của đội ngũ này ở ĐHTN những năm qua. Từ đó thẳng
thắn, nghiêm túc đánh giá mặt mạnh, mặt yếu, chỉ ra nguyên nhân của thực
trạng đó.
- Phát hiện những vấn đề đặt ra cần phải giải quyết, đề xuất một số
giải pháp nhằm phát huy hơn nữa vai trò của ĐNGV trong GD - ĐT ở
ĐHTN nói riêng và các trường đại học, cao đẳng nói chung.
7. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn
- Luận văn giúp cho mỗi người và nhất là ĐNGV nhận thức sâu sắc
hơn về vị trí, vai trò, trách nhiệm của mình đối với sự nghiệp “trồng người”.

9
- Những kết quả nghiên cứu của luận văn được sử dụng làm cơ sở
khoa học cho việc quản lý GDĐH, xây dựng ĐNGV ở ĐHTN nói riêng và
các trường đại học, cao đẳng nói chung hiện nay.
- Luận văn còn được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho giảng dạy
một số chuyên đề của chuyên nghành chủ nghĩa xã hội khoa học về trí thức
và nguồn lực con người.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài tiệu tham khảo, phụ lục,
luận văn gồm 3 chương , 7 tiết.

10
Chƣơng 1
ĐẶC ĐIỂM VÀ VAI TRÒ CỦA ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN
TRONG GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO



1.1. Đội ngũ giảng viên - bộ phận đặc thù của trí thức giáo dục đại học
1.1.1. Quan niệm về trí thức GDĐH
Trí thức là thuật ngữ có nguồn gốc từ tiếng Latinh: "Intelligentia"
("Intelligens" là thông minh, có trí tuệ, có hiểu biết). "Intelligentia" là trí lực,
trí thức.
Trong suốt tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại, thuật ngữ trí thức
đã được tiếp cận ở nhiều khía cạnh. Do vậy, quan niệm về trí thức cũng rất
phong phú ở mỗi thời đại và từng giai đoạn lịch sử. Hiện nay trên thế giới,
theo thống kê có hơn 60 định nghĩa về trí thức.
Tiếp cận thuật ngữ trí thức ở khía cạnh phương thức lao động, cơ cấu,
thành phần, theo từ điển Triết học (năm 1986): "Trí thức là tập đoàn xã hội;
gồm những người làm nghề lao động trí óc. Giới trí thức bao gồm kỹ sư, kỹ
thuật viên, thầy thuốc, luật sư, nghệ sĩ, thầy giáo và người làm công tác khoa
học, một bộ phận lớn viên chức" [82, tr.598].
Từ điển Chủ nghĩa Cộng sản khoa học (năm 1986) viết: "Trí thức -
một nhóm xã hội, bao gồm những người chuyên làm nghề lao động trí óc
phức tạp và có học vấn chuyên môn cần thiết cho ngành lao động đó [83, tr.
360].
V.I. Lênin quan niệm: Trí thức "bao hàm không những chỉ những nhà
trước tác mà thôi, mà còn bao hàm tất cả mọi người có học thức, các đại biểu
của những nghề tự do nói chung, các đại biểu của lao động trí óc" [48, tr.372].

11
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Lao động trí óc là ai? Là thầy
giáo, thầy thuốc, kỹ sư, những nhà khoa học, văn nghệ, những người làm bàn
giấy có nhiệm vụ rất quan trọng trong sự nghiệp kháng chiến kiến quốc,
trong công cuộc hoàn thành cách mạng dân chủ mới để tiến lên chủ nghĩa xã
hội" [56; tr.202 - 203].
Nhấn mạnh tiêu chí về tính chất lao động, TS Nguyễn Thanh Tuấn cho

rằng: "Tầng lớp trí thức là tầng lớp hoạt động sáng tạo các giá trị tinh thần và
vật chất cho xã hội và do loại hình lao động trí óc phức tạp mà bắt buộc họ
phải có một trình độ học vấn cần thiết ngày càng cao" [77; tr.9]. TS Phan
Thanh Khôi nhận định: "Trí thức là lao động trí óc phức tạp hao phí năng
lượng thần kinh trung ương nhiều hơn cả trong quá trình làm việc".
Những quan niệm không hoàn toàn giống nhau về thuật ngữ trí thức
nêu trên cho phép chúng ta khẳng định tính chất phong phú về phương pháp
tiếp cận thuật ngữ này. Nhưng nhìn chung, những định nghĩa trên đều đề cập
đến các đặc trưng cơ bản của trí thức: là một tầng lớp xã hội; lao động trí óc;
có trình độ học vấn, chuyên môn cao; có nhiệm vụ sáng tạo các giá trị tinh
thần và vật chất cho xã hội.
Với cách tiếp cận tiêu chí nghề nghiệp, tính chất lao động, về vai trò,
nhiệm vụ của trí thức, tác giả luận văn cho rằng: Trí thức là tầng lớp những
người lao động trí tuệ sáng tạo, có trình độ học vấn, chuyên môn cao, có khả
năng phát triển, truyền bá, ứng dụng những tri thức khoa học vào đời sống xã
hội, góp phần thúc đẩy sự phát triển của mỗi quốc gia cũng như toàn nhân
loại.
Trí thức Việt Nam có cơ cấu, thành phần đa dạng. Trong đó, trí thức
GD - ĐT là một bộ phận, "một lực lượng xã hội, một nhóm xã hội - nghề
nghiệp đặc thù, một đội ngũ nghề nghiệp của trí thức Việt Nam" [72; tr.13].

12
Khái niệm GD - ĐT được tổng hợp từ nghĩa của hai từ giáo dục và
đào tạo.
Giáo dục là "tất cả các hoạt động và tác động có mục đích, có kế
hoạch hướng vào sự hình thành và phát triển nhân cách, bao gồm năng lực
(tri thức, kỹ năng, kỹ xảo ); phẩm chất (niềm tin, lý tưởng, động cơ, tình
cảm, thái độ, hành vi, thói quen, đạo đức) ở con người, thông qua các hoạt
động giao tiếp giữa nhà giáo dục và người được giáo dục".
Đào tạo là “quá trình hoạt động có mục đích, có tổ chức nhằm đạt

được các kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo trong lý thuyết và thực tiễn, tạo ra năng
lực để thực hiện thành công một hoạt động xã hội (nghề nghiệp) cần thiết"
[72; tr.14].
Như vậy, GD - ĐT được hiểu là quá trình hoạt động, tác động có mục
đích, có tổ chức của nhà giáo dục trang bị những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo;
hình thành và rèn luyện phẩm chất cho người học để mỗi người thực hiện tốt
ngành nghề, nhiệm vụ của mình.
Trí thức GD - ĐT là "những người trí thức hoạt động trong lĩnh vực
giáo dục và đào tạo, có chức năng chủ yếu là trực tiếp truyền bá tri thức văn
hóa, rèn luyện nhân cách cho người học, nhằm nâng cao dân trí, phát triển
nguồn nhân lực và bồi dưỡng nhân tài cho đất nước" [72; tr.16].
Sự nghiệp GD - ĐT ở nước ta được đảm bảo thực hiện thông qua hệ
thống giáo dục quốc dân, bao gồm: Giáo dục mầm non, Giáo dục phổ thông,
Giáo dục nghề nghiệp, GDĐH.
GDĐH bao gồm tất cả các loại hình học tập, đào tạo hoặc đào tạo cho
nghiên cứu, được bảo đảm ở trình độ sau trung học bởi một cơ sở đại học hoặc
được những nhà chức trách có thẩm quyền công nhận như một cơ sở đại học.

13
GDĐH có hai bậc: Đại học và sau đại học. GDĐH là cơ sở đào tạo
nhân lực trình độ cao, có phẩm chất chính trị, đạo đức, có ý thức phục vụ
nhân dân, có kiến thức và năng lực thực hành nghề nghiệp tương xứng với
trình độ đào tạo, có sức khỏe đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Trí thức GDĐH là những người trực tiếp tham gia công tác GD - ĐT ở
bậc cao nhất trong hệ thống giáo dục quốc dân (bậc đại học), bao gồm: Cán bộ
quản lý, cán bộ nghiên cứu, CBGD góp phần đào tạo nguồn nhân lực trình độ
cao đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước và tiến trình hội nhập.
Với tư cách là một bộ phận của trí thức Việt Nam, trí thức GDĐH là
những người tiêu biểu cho lớp trí thức xã hội chủ nghĩa, họ mang trong mình
đầy đủ những tố chất cơ bản của người trí thức nói chung: lao động trí óc

sáng tạo, ý thức dân tộc cao, có tinh thần yêu nước, cần cù, thông minh, năng
động và nhạy bén với sự vận động, biến đổi của thời đại Ngoài ra tính đặc
thù trong lĩnh vực hoạt động (GD - ĐT) đã quy định một số đặc trưng cơ bản
cho đội ngũ trí thức GDĐH.
Họ là lực lượng đóng vai trò "kép": vừa là nhà giáo, nhà khoa học, nhà
chính trị.
Lao động sáng tạo của đội ngũ trí thức GDĐH liên quan trực tiếp đến
con người. Đó là quy trình tác động đến con người nhằm nhận thức và cải
biến đối tượng. Do vậy, sản phẩm lao động sáng tạo của họ là các giá trị tinh
thần - nhân cách con người. Điều này tạo nên tính khó khăn, phức tạp, tính
đặc biệt trong phương thức lao động của họ.
Trí thức GDĐH là lực lượng đại biểu cho hầu hết các ngành khoa học
của quốc gia: khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật, khoa học xã hội và nhân
văn.
Như vậy, trí thức GDĐH là sự hội tụ của nhiều yếu tố trong quan hệ
biện chứng với nhau: phương thức lao động là lao động trí tuệ sáng tạo; hoạt

14
động trên lĩnh vực GD - ĐT ở bậc cao nhất trong hệ thống giáo dục quốc dân;
trình độ học vấn tốt nghiệp đại học trở lên; có trình độ chuyên môn sâu; sản
phẩm lao động sáng tạo của họ là sự phát triển toàn diện con người; mục đích
hoạt động nghề nghiệp của họ là đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao, đáp ứng
mục tiêu tạo động lực để tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững xã hội.
Phần lớn trí thức GDĐH là nhà giáo - giảng viên hay còn được gọi
là CBGD. Do vậy, ĐNGV là bộ phận quan trọng, đặc thù của trí thức
GDĐH nói chung.
1.1.2. Đặc điểm của ĐNGV
Giảng viên là thuật ngữ được sử dụng phổ biến trong lĩnh vực GD -
ĐT đặc biệt là GDĐH.
Luật Giáo dục nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (tháng

12/1998) tại điều 91 nêu rõ khái niệm nhà giáo "là người làm nhiệm vụ giảng
dạy, giáo dục trong nhà trường hoặc các cơ sở giáo dục khác. Nhà giáo phải
có những tiêu chuẩn sau: phẩm chất, đạo đức, tư tưởng tốt; đạt trình độ
chuẩn được đào tạo về chuyên môn, nghiệp vụ; đủ sức khỏe theo yêu cầu
nghề nghiệp; lý lịch bản thân rõ ràng. Nhà giáo dạy ở cơ sở giáo dục mầm
non, giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp gọi là giáo viên; ở cơ sở giáo
dục đại học và sau đại học gọi là giảng viên".
Tiêu chuẩn nghiệp vụ các ngạch công chức bậc đại học, đã chỉ rõ:
"Giảng viên có chức trách là công chức chuyên môn đảm nhiệm việc giảng
dạy và đào tạo ở bậc đại học, cao đẳng thuộc một chuyên ngành đào tạo của
trường đại học hoặc cao đẳng".
Như vậy, giảng viên là nhà giáo làm nhiệm vụ giảng dạy trong các
trường đại học, cao đẳng. Họ không chỉ có nhiệm vụ truyền thụ tri thức khoa
học; hình thành kỹ năng, kỹ xảo cho sinh viên mà họ còn là những người
"dạy sinh viên cách học và cách đưa ra sáng kiến cho công việc", hình thành

15
và phát triển năng lực, phẩm chất cho sinh viên nhằm đạt mục tiêu: "Đào tạo
con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, có tri thức, có sức
khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội".
Mỗi giảng viên không chỉ hoạt động nghề nghiệp với tư cách là cá
nhân riêng lẻ, mà họ còn là thành viên trong tập thể các nhà giáo, là lực
lượng cấu thành ĐNGV.
Theo từ điển tiếng Việt, "đội ngũ là khối đông người cùng chức năng
nghề nghiệp được tập hợp và tổ chức thành một lực lượng" [84; tr.17].
Tác giả Đặng Quốc Bảo nhận định: "đội ngũ là một tập thể người gắn
kết với nhau cùng chung lý tưởng, mục đích, ràng buộc nhau về vật chất, tinh
thần và hoạt động theo một nguyên tắc" [12, tr.6].
Theo tác giả Trần Thanh Giang, "đội ngũ được hiểu là tập hợp những

người có đặc điểm hoạt động, chức năng riêng, được tổ chức thành một lực
lượng xã hội" [38; tr.16].
Nhìn chung, những định nghĩa trên đã đề cập một số dấu hiệu để nhận
biết về đội ngũ, trong đó nhấn mạnh những đặc trưng cơ bản sau: là một
nhóm người, được tổ chức và tập hợp thành một lực lượng, có cùng chức
năng, nghề nghiệp, có cùng chung mục đích và cùng hướng tới mục đích đó.
Như vậy, ĐNGV là tập hợp những người làm nhiệm vụ giảng dạy và
đào tạo trong các trường đại học, cao đẳng được tổ chức thành một lực lượng
xã hội có cùng chung chức năng chủ yếu là truyền thụ tri thức; rèn luyện kỹ
năng, kỹ xảo nghề nghiệp; hình thành và phát triển nhân cách cho người học.
Đề cập đến ĐNGV, ta phải đứng trên quan điểm hệ thống. Đó không
phải là một tập hợp những cá nhân rời rạc, càng không phải một phép cộng
đơn thuần, cơ học những giảng viên mà bên cạnh tính độc lập của từng chủ
thể còn có mối quan hệ biện chứng, ràng buộc, tác động qua lại lẫn nhau tạo

16
nên tính thống nhất của cả lực lượng đông đảo các giảng viên. Vì vậy, mỗi
tác động đến từng giảng viên riêng lẻ vừa có ý nghĩa cục bộ vừa có ý nghĩa
trên toàn thể, tác động lên toàn bộ đội ngũ cũng có nghĩa là tác động đến
từng giảng viên.
Với tư cách là bộ phận đặc thù của trí thức GDĐH nói riêng và trí thức
Việt Nam nói chung nên khi đề cập đến ĐNGV không thể không kể đến
những tố chất cần thiết của người trí thức Việt Nam và trí thức GDĐH.
Ngoài ra, ĐNGV là lực lượng tham gia trực tiếp vào nhiệm vụ giảng
dạy ở bậc cao nhất trong hệ thống giáo dục quốc dân, thông qua hai cấp đào
tạo là đại học và sau đại học nên ĐNGV cũng có những đặc điểm mang đậm
bản sắc của nhà sư phạm:
ĐNGV có cơ cấu rất đa dạng, không đồng nhất về chức danh, chuyên
môn, trình độ đào tạo, độ tuổi, giới tính Vì vậy, việc đảm bảo tính đồng
thuận, thống nhất trong toàn bộ đội ngũ là vấn đề không đơn giản.

Mỗi giảng viên có thể đóng nhiều vai trò: vừa là nhà quản lý, vừa là
CBGD hay cán bộ NCKH, thậm chí còn là nhà chính trị. Nhưng dù ở chức
danh nào cũng đòi hỏi phải có chuyên môn sâu và gắn với tiêu chí trực tiếp
tham gia giảng dạy, NCKH. Vì vậy, thường xuyên bồi dưỡng nâng cao trình
độ học vấn, chuyên môn là trách nhiệm của mỗi giảng viên.
Hoạt động lao động sáng tạo của ĐNGV có đối tượng là thanh niên,
sinh viên, học viên cao học và nghiên cứu sinh. Đó là những người đã bắt
đầu hoặc đã có khả năng so sánh, bình luận, đánh giá, tự lựa chọn và có trình
độ nhận thức nhất định. Do vậy, dạy những gì và dạy như thế nào để họ tiếp
thu một cách chủ động, ham học, say mê và tích cực nghiên cứu trở thành
mục đích của PPGD. Điều đó đòi hỏi ĐNGV phải có bản lĩnh chính trị vững
vàng, không ngừng trau dồi kiến thức sâu, rộng và tích lũy kinh nghiệm, rèn
luyện bản lĩnh khoa học (gồm trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp,

17
năng lực tư duy khoa học ). Đây là nhiệm vụ thường xuyên, cấp bách, lâu
dài biểu hiện thành thói quen, thành nhu cầu "học suốt đời" của toàn thể
ĐNGV.
Lao động của ĐNGV cũng như lao động của các nhà giáo nói chung là
loại lao động sáng tạo, lao động trí óc, có cả một số yếu tố độc hại từ bụi
phấn, từ việc sử dụng hóa chất, điện cao áp và căng thẳng đặc thù do
thường xuyên phải suy ngẫm, tìm tòi, nghiên cứu
Lao động của giảng viên là "loại lao động có mức độ đơn điệu khá cao
về tư thế; cử động của mắt khi quan sát, theo dõi; của miệng khi giảng giải;
của tay khi viết" [22; tr.6]. Khắc phục sự đơn điệu này đòi hỏi phải đổi mới
phương pháp dạy học phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của thầy và trò.
ĐNGV đại học còn không đồng nhất về đơn vị công tác: giảng dạy và
đào tạo ở các trường đại học hoặc cao đẳng khác nhau. Vì vậy, đoàn kết đội
ngũ này trong việc thực hiện nhiệm vụ GD - ĐT là vấn đề quan trọng.
Tham gia giảng dạy và NCKH là hai mặt, hai nhiệm vụ song hành,

gắn liều mật thiết có quan hệ biện chứng với nhau trong hoạt động lao động
của ĐNGV. Đó là yêu cầu có kiến thức và yêu cầu biết truyền thụ kiến thức.
Thực tế cho thấy: có kết hợp một cách hài hòa nhiệm vụ giảng dạy và NCKH
thì người giảng viên mới có thể nâng cao năng lực sư phạm của mình.
NCKH tự nó cũng có mục đích trang bị tri thức, kỹ năng, kỹ xảo chuyên sâu
cho ĐNGV. Nhờ đó, họ thực hiện tốt hơn chức năng giảng dạy của mình.
Suy cho cùng, bồi dưỡng cho người học phương pháp tự học, tự nghiên cứu
chính là bồi dưỡng phương pháp NCKH. Chỉ có người giảng viên biết cách,
am hiểu sâu và đạt được một số kết quả trong NCKH mới có nhiều khả năng
làm việc đó. Giảng dạy và NCKH vì thế luôn là hai nhiệm vụ chủ yếu của
ĐNGV.

18
Sự nêu gương là một trong những đặc điểm cơ bản, quan trọng của
nhà giáo nói chung và người giảng viên đại học nói riêng. Bởi người giảng
viên không chỉ truyền thụ tri thức mà còn giáo dục phẩm chất cho người học.
Chính năng lực và phẩm chất đạo đức của người thầy có sức lôi cuốn, khích
lệ rất lớn đối với học trò trong quá trình học tập, nghiên cứu.
Người giảng viên có thể ở nhiều cương vị khác nhau, tùy vào từng mối
quan hệ. Trong phạm vi nhà trường, họ là cán bộ công chức; trong tập thể
lao động, họ là một thành viên; trong quan hệ với lãnh đạo, họ là một nhân
viên; trong quan hệ với học trò, họ là một người thầy; ở ngoài xã hội, họ là
một công dân - một con người với những nhu cầu, lợi ích ràng buộc trong
quan hệ xã hội; trong quan hệ với những giảng viên khác họ là đồng
nghiệp Dù ở cương vị nào, sự nêu gương đều cần thiết đối với mỗi giảng
viên. Họ phải là tấm gương sáng để học sinh noi theo và người đời kính
trọng.
Sản phẩm của hoạt động lao động sáng tạo của ĐNGV không phải là
các vật thể dễ dàng kiểm định mà là nhân cách, năng lực, phẩm chất, trí tuệ,
phương pháp tư duy, hành động một cách khoa học của lớp lớp sinh viên,

học viên; là kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp của những nhà giáo, những thầy
thuốc, kỹ sư, công nhân, những chuyên gia, những nhà khoa học trong tương
lai. Mặt khác, bản thân một nhà giáo không thể tự tạo nên "sản phẩm" hoàn
thiện, trái lại họ phải được tổ chức thành lực lượng thống nhất, đoàn kết mới
có thể hình thành và phát triển nhân cách người học. Hơn nữa, chất lượng
của loại lao động càng cao, càng quý và phụ thuộc chủ yếu vào trình độ, mức
độ toàn tâm, toàn ý của tập thể nhà giáo. Vì lẽ đó, ĐNGV ngoài năng lực sư
phạm còn phải có tâm huyết với nghề.
Trên đây là một số đặc điểm tuy chưa đầy đủ nhưng là những đặc
điểm cơ bản được hình thành do tính đặc thù trong hoạt động GD - ĐT ở bậc

19
đại học của ĐNGV. Đó cũng là những tiêu chí cần thiết để phân định giảng
viên với trí thức nói chung.
1.2. Vai trò của ĐNGV trong GD - ĐT
"Tôn sư trọng đạo"; “trọng học, trọng thầy” vốn là một quan điểm cơ
bản và là truyền thống văn hóa của dân tộc Việt Nam.
Từ xa xưa, trong dân gian đã truyền tụng câu ca dao: "Muốn khôn thì
phải có thầy, không thầy dạy dỗ đố mày làm nên"; "Muốn sang thì bắc cầu
kiều, muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy"
Ngay từ những ngày đầu cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng
định vai trò quan trọng có tính quyết định của GD - ĐT đối với tương lai của
dân tộc. Bác nói: "Dân tộc Việt Nam ta có truyền thống hiếu học, tôn sư
trọng đạo, quý trọng thầy giáo. Nghề thầy giáo là nghề cao quý. Vì lợi ích
mười năm thì phải trồng cây. Vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người. Bác
mong các cô, các chú luôn xứng đáng với nghề thầy giáo của mình".
Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng từng ca ngợi: "Nghề dạy học là
nghề cao quý nhất trong các nghề cao quý, sáng tạo nhất trong các nghề sáng
tạo". "Vượt lên hoàn cảnh đất nước còn nghèo, còn nhiều khó khăn, thiếu
thốn, ngành GD - ĐT Việt Nam đã cung cấp cho xã hội một đội ngũ trí thức

đông đảo, một nguồn nhân lực có trình độ cao - một tài sản hết sức quý báu
của dân tộc, có vai trò quyết định và không gì thay thế được trong sự phát
triển hiện nay cũng như tương lai lâu dài của đất nước" [52; tr.19].
Bước vào thời kỳ CNH, HĐH , với xu thế toàn cầu, hội nhập, trong đó
sức mạnh trí tuệ sáng tạo của nguồn nhân lực trình độ cao trở thành lợi thế
cạnh tranh của đất nước. Điều đó cho phép chúng ta khẳng định vai trò của
ngành giáo dục, của tầng lớp trí thức lại càng quan trọng. Do vậy, Đảng ta
xác định: "Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài là trách

20
nhiệm của toàn xã hội song ngành giáo dục bao giờ cũng giữ vai trò chủ yếu"
[25; tr.13].
Trong xu thế lớn này, GDĐH có vai trò mới hết sức quan trọng góp
phần nâng cao tiềm lực khoa học công nghệ quốc gia, đào tạo những chuyên
gia, những nhà quản lý có trình độ, năng lực, có lý tưởng, tâm huyết và phẩm
chất đạo đức cách mạng.
Như vậy, dù trong thời điểm nào, nghề dạy học vẫn luôn được tôn
vinh, vị trí của nhà giáo nói chung, đội ngũ giảng viên đại học nói riêng luôn
được đề cao. "Chúng ta có đội ngũ giáo viên là lực lượng nòng cốt trong sự
nghiệp giáo dục, người thầy giáo là chiến sỹ cách mạng trên mặt trận tư
tưởng - văn hóa. Đó là những người truyền thụ cho thế hệ trẻ lý tưởng và
đạo đức cách mạng, bồi đắp cho các em nhân cách, dạy cho các em có tri
thức, kỹ năng lao động nghề nghiệp, tạo nên lớp người có ích cho đất
nước" [13; tr.135].
Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII của Đảng ghi nhận "Giáo viên là
nhân tố quyết định chất lượng giáo dục và được xã hội tôn vinh. Giáo viên
phải có đủ đức, đủ tài".
Trong khi vị trí của nghề dạy học luôn được coi trọng thì việc xác định
vai trò của ĐNGV đối với việc nâng cao chất lượng đào tạo đại học đã trở
thành mối quan tâm hàng đầu trong sự nghiệp chấn hưng nền giáo dục nước

nhà. Bởi lẽ chất lượng đào tạo là sự biểu hiện kết quả tổng hợp các yếu tố,
các mặt hoạt động, các nguồn lực của trường đại học: giảng viên, chương
trình, nội dung kiến thức, PPGD, công tác quản lý giảng dạy - học tập,
NCKH, cơ sở vật chất kỹ thuật Xét đến cùng, chất lượng đào tạo đại học
phụ thuộc rất lớn vào ĐNGV, vì phần lớn các yếu tố trên đây đều có xuất
phát điểm và liên quan trực tiếp đến nhà giáo. Mặt khác, mọi nguồn lực của
nhà trường, của xã hội chỉ đóng vai trò hỗ trợ, tiếp sức, tạo điều kiện để nhà

21
giáo thực hiện chức năng cao quý của mình là đào tạo thế hệ trẻ thành những
nhân tài - chủ nhân của đất nước. Hơn nữa, chỉ có ĐNGV mới giải quyết
được thách thức của chất lượng GDĐH với việc trực tiếp đào tạo nguồn nhân
lực trình độ cao. Họ là lực lượng xung kích, là những chiến sỹ trên mặt trận
nâng cao chất lượng đào tạo đại học hiện nay hướng vào mục tiêu: tạo bước
chuyển mạnh về phát triển nguồn nhân lực, đưa GDĐH nước ta thoát khỏi
tình trạng lạc hậu so với các nước trong khu vực; góp phần vào sự nghiệp
CNH, HĐH đất nước, từng bước phát triển nền kinh tế tri thức. Chức năng
chính của họ là truyền thụ kiến thức, rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp
tương ứng, dạy cách ứng xử, giáo dục hành vi, phát hiện và bồi dưỡng nhân
tài Không những thế, mỗi nhà giáo với trọng trách của người kỹ sư tâm hồn
còn phải gieo vào lòng thế hệ trẻ niềm đam mê học tập, trí tiến thủ lập
nghiệp, khát vọng và nhu cầu kiếm tìm chân lý mới. Chức năng ấy không hề
thay đổi trước những biến động của đời sống xã hội nhưng vai trò của
ĐNGV trong việc thực hiện chức năng của mình đã có những thay đổi nhất
định: họ phải thật sự chủ động, tích cực, sáng tạo trong toàn bộ hoạt động
giảng dạy và NCKH. Nói vai trò chủ động, tích cực, sáng tạo của ĐNGV là
để xác định mức độ, trạng thái hăng hái, nhiệt tình, say mê gắn liền với khả
năng tự ý thức, tinh thần trách nhiệm cao, với tư duy không ngừng đổi mới
PPGD.
Vai trò, nhiệm vụ của ĐNGV ngày càng quan trọng, phức tạp hơn khi

chúng ta nhìn nhận vai trò ấy không phải với tư cách là một cá nhân đơn lẻ
mà đặt trong mối quan hệ với cái tổng thể - đội ngũ. Vì vậy, tính đồng thuận
trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ nhà giáo, lý tưởng đào tạo thế hệ
trẻ trở thành điểm tương đồng để xác định, đánh giá vai trò của ĐNGV. Điều
này khách quan đòi hỏi mỗi nhà giáo phải biết hành động phối hợp, tác động
cùng chiều tới học sinh. Nếu không sự tác động trái chiều, tích cực – nêu

22
gương xen lẫn tiêu cực – phản tác dụng… thì vô hình chung sẽ dẫn tới những
phản cảm trong nhận thức của học sinh. Sự đồng thuận của ĐNGV bao hàm
tính phong phú, đa dạng những khác biệt thuộc về phương pháp, phong cách
sáng tạo riêng của từng người. Nó tuyệt nhiên không đồng nghĩa với sự
thống nhất giản đơn, càng không phải là sự tuyệt đối hoá cái “tôi” mà trái lại,
nó đòi hỏi sự cộng tác, chia sẻ có trách nhiệm, lòng nhiệt huyết của cả một tập
thể nhà giáo đối với trọng trách “trồng người” mà xã hội tôn vinh và giao phó.
Vai trò chủ động, tích cực, sáng tạo của ĐNGV trong hoạt động giảng
dạy và NCKH được thể hiện ở chỗ: Họ là lực lượng tham gia trực tiếp vào
quá trình hướng dẫn, gợi mở, định hướng, tổ chức hoạt động học của trò một
cách chủ động, tích cực, tức là dạy cho người học phương pháp tự học, tự
nghiên cứu. Có như vậy, mục tiêu đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao, có
khả năng thích ứng của GDĐH mới trở thành hiện thực.
Nhận thức sâu sắc vai trò của nhà giáo nói chung, Cố thủ tướng Phạm
Văn Đồng đã nhắc nhở: “Sự nghiệp giáo dục của chúng ta là do ông thầy làm
nên, cố nhiên là dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chính phủ, với sự giúp đỡ của
nhân dân. Nhưng phải thấy vai trò rất trọng yếu của ông thầy Ông thầy là
những người trực tiếp làm chủ việc giáo dục, là những người được nhân dân
giao cho việc trực tiếp dạy dỗ con em chúng ta. Nói như vậy để chúng ta
thấy rõ ý nghĩa quan trọng và trách nhiệm to lớn của các ông thầy" [31,
tr.16].
Viện dẫn lời nhận định của Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng không phải

chỉ để chúng ta nhớ lại sự chỉ đạo sâu sát của Người với vấn đề trọng dụng
người thầy mà quan trọng hơn, nó cho phép chúng ta có thêm cơ sở để khẳng
định vai trò chủ động, tích cực, sáng tạo của người thầy trong sự nghiệp giáo
dục. ĐNGV đại học lại cần thấm nhuần tư tưởng đó hơn ai hết, nhất là trong
bối cảnh hiện nay, khi mà họ chính là lực lượng có sứ mạng đi đầu để tiến

×