Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

Đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hoá ở hà tây luận văn ths kinh tế 5 02 0

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 106 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

NGUYỄN THỊ TÂM

ĐÀO TẠO VÀ SỬ DỤNG NGUỒN NHÂN LỰC
TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ
Ở HÀ TÂY

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

HÀ NỘI - 2004


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

NGUYỄN THỊ TÂM

ĐÀO TẠO VÀ SỬ DỤNG NGUỒN NHÂN LỰC
TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ
Ở HÀ TÂY

Chuyên ngành: Kinh tế chính trị
Mã số:
5.02.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. PHAN THANH PHỐ


HÀ NỘI - 2004


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là nhiệm vụ trung tâm trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, có ý nghĩa, tác dụng to lớn và toàn diện,
song cũng không kém phần khó khăn phức tạp. Để sự nghiệp CNH, HĐH
thành công cần phải có các điều kiện như vốn, nguồn nhân lự, tiềm lực khoa
học và công nghệ... trong các điều kiện đó, NNL đóng vai trò đặc biệt quan
trọng.
Kinh nghiệm của nhiều nước cho thấy đầu tư cho phát triển NNL được
coi là “chìa khoá" của tăng trưởng và phát triển. Vận dụng lý luận vào điều
kiện cụ thể của nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam cho rằng: “Phát huy nguồn
lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của người Việt Nam, coi khoa học công nghệ
là nền tảng và động lực của sự nghiệp CNH, HĐH" và phát triển giáo dục đào
tạo không chỉ là "Động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp CNH, HĐH mà còn
là điều kiện để phát huy nguồn lực con người - yếu tố cơ bản của sự phát triển
xã hội, tăng trưởng nhanh và bền vững " [17, tr.108 - 109].
Giải quyết vấn đề NNL trong quá trình CNH, HĐH bao gồm nhiều
nhiệm vụ trong đó, có nhiệm vụ đào tạo và sử dụng NNL. Nhiệm vụ này vừa
là nhiệm vụ chung của cả nước, vừa là nhiệm vụ của mỗi địa phương.
Cũng như các địa phương khác, Hà Tây trong thời gian qua đã và
đang có những cố gắng giải quyết vấn đề đào tạo và sử dụng NNL và đã thu
được kết quả nhất định. Song cho đến nay về cơ cấu; chất lượng đào tạo và sử
dụng NNL chưa đáp ứng nhu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH. Tình trạng vừa
thừa vừa thiếu NNL trong sử dụng luôn xảy ra.
Để góp phần làm rõ thêm cơ sở lý luận và thực tiễn và tìm những lời
giải khoa học đối với việc đào tạo và sử dụng NNL phục vụ tốt quá trình


1


CNH, HĐH ở Hà Tây. Tôi chọn đề tài: “Đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực
trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Hà Tây” nghiên cứu làm
luận văn thạc sĩ kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề NNL đối với CNH, HĐH cho đến nay đã có nhiều công trình
khoa học, nhiều cuốn sách, bài báo nghiên cứu và đăng tải, dưới đây là một số
công trình tiêu biểu:
- Nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá của
tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996.
- Phát triển nguồn nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá của Phan Xuân Dũng, Tạp chí Cộng sản, tháng 9/1997.
- Vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá của
giáo sư, tiến sĩ Phạm Minh Hạc, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996.
- Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế của tiến sĩ
Nguyễn Hữu Dũng, Tạp chí Lý luận chính trị, 8/2002.
- Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước của tác giả Mai Quốc Chánh, NXB Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 1999.
- Sử dụng nguồn lao động và giải quyết việc làm ở Việt Nam của tác
giả Trần Đình Hoan và Lê Mạnh Khoa, NXB Sự thật, Hà Nội, 1991.
Tuy nhiên, do nội hàm của vấn đề quá rộng và phức tạp nên chưa thể
coi những công trình nghiên cứu nói trên là đầy đủ và hoàn thiện, các giải
pháp đưa ra còn rất chung chưa thể coi là hoàn toàn thích hợp khi vận dụng ở
Hà Tây. Xung quanh vấn đề đào tạo và sử dụng NNL ở Hà Tây tuy đã được
nghiên cứu và được thể hiện trong một số công trình và bài báo nhưng chưa


2


nhiều và chưa nghiên cứu một cách hệ thống đầy đủ với tư cách như một đề
tài mang tính độc lập.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích của luận văn:
Trên cơ sở phân tích lý luận và thực trạng đào tạo và sử dụng NNL
trong quá trình CNH, HĐH, đề xuất phương hướng và các giải pháp cơ bản
thúc đẩy việc đào tạo và sử dụng NNL trong quá trình CNH, HĐH trong thời
gian tới ở Hà Tây.
* Nhiệm vụ của luận văn:
- Hệ thống hoá những vấn đề lý luận về NNL, đào tạo và sử dụng NNL
trong quá trình CNH, HĐH.
- Phân tích thực trạng đào tạo và sử dụng NNL ở Hà Tây thời gian qua.
- Đề xuất phương hướng và các giải pháp cơ bản thúc đẩy việc đào tạo
và sử dụng NNL trong quá trình CNH, HĐH thời gian tới ở Hà Tây.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn lấy việc đào tạo và sử dụng NNL trong quá trình CNH, HĐH
làm đối tượng nghiên cứu.
* Phạm vi nghiên cứu:
Lấy Hà Tây làm không gian nghiên cứu và giới hạn về thời gian khảo
sát từ 1996 đến nay.
Các giải pháp đề cập trong luận văn là những giải pháp cơ bản nhìn từ
góc độ kinh tế chính trị.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận:

3



Lý luận Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng
cộng sản Việt Nam và các lý thuyết kinh tế hiện đại về NNL, về đào tạo và sử
dụng NNL.
* Phương pháp nghiên cứu:
Tác giả tiếp cận đối tượng nghiên cứu bằng việc sử dụng phương pháp
biện chứng duy vật, phương pháp trìu tượng hoá, phương pháp phân tích và
tổng hợp. Ngoài ra trong quá trình nghiên cứu còn sử dụng phương pháp
thống kê định lượng so sánh v.v.
6. Đóng góp và ý nghĩa của luận văn.
* Đóng góp của luận văn:
- Góp phần làm rõ thêm những cơ sở lý luận và thực tiễn về việc đào
tạo và sử dụng NNL trong quá trình CNH, HĐH.
- Đề xuất những phương hướng và giải pháp cơ bản thúc đẩy đào tạo
và sử dụng NNL trong quá trình CNH, HĐH ở Hà Tây.
* Ý nghĩa của luận văn:
- Kết quả của luận văn góp thêm cơ sở khoa học cho việc hoạch định
sự phát triển NNL trong quá trình CNH, HĐH ở Hà Tây.
- Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy
môn Kinh tế chính trị trong các trường Đại học và Cao đẳng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương 7 tiết.

4


Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực
trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Chương 2: Thực trạng đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực trong quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Hà Tây .
Chương 3: Phương hướng và giải pháp cơ bản thúc đẩy việc đào tạo và sử
dụng nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá thời
gian tới ở Hà Tây
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ ĐÀO TẠO
VÀ SỬ DỤNG NGUỒN NHÂN LỰC TRONG QUÁ TRÌNH
CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ ĐẤT NƢỚC
1.1 Công nghiệp hoá, hiện đại hoá với vấn đề đào tạo và sử dụng nguồn
nhân lực
I.1.1 Một số khái niệm cơ bản
1.1.1.1. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Công nghiệp hoá, là một quá trình tất yếu của lịch sử phát triển xã hội.
Các nước công nghiệp trên thế giới đều đã trải qua quá trình CNH ở những
thời điểm khác nhau với qui mô, tốc độ khác khác nhau, trong những điều
kiện lịch sử KT - XH khác nhau. Xét về mặt lịch sử thì CNH là quá trình diễn
ra trước HĐH, nhưng trong thời đại ngày nay luôn có sự đan xen, tác động
qua lại lẫn nhau, hai quá trình này không hoàn toàn đồng nhất với nhau. Về
mặt thuật ngữ cho thấy HĐH là làm thay đổi trạng thái kỹ thuật - công nghệ
và kinh tế đạt trình độ của thời đại ngày nay Nói cách khác, HĐH nền kinh tế
quốc dân là làm cho kỹ thuật và công nghệ sản xuất cũng như cơ cấu kinh tế
của đất nước đạt được ngang với trình độ của thời đại, đây chính là khía cạnh
kinh tế - kỹ thuật của HĐH. Tuy nhiên, HĐH không phải chỉ như vậy mà còn
bao hàm cả khía cạnh xã hội, gắn với quá trình xây dựng một xã hội văn

5


minh. Như vậy, quá trình kinh tế - kỹ thuật và quá trình KT - XH có quan hệ

biện chứng với nhau. Quá trình kinh tế kỹ thuật tạo điều kiện vật chất cho
việc thực hiện nội dung của quá trình KT - XH và đến lượt mình quá trình KT
- XH lại góp phần tạo nên động lực cho việc thực hiện quá trình kinh tế kỹ
thuật. Sự phát triển CNH hiểu theo nghĩa đầy đủ hơn còn là quá trình xây
dựng và phát triển văn hoá trong đó phát triển con người và nguồn lực con
người là nội dung cốt lõi.
Ở nước ta, một nước tiến hành CNH sau, nên CNH phải gắn liền với
HĐH, bởi lẽ trong thời đại ngày nay nhân loại đã trải qua hai cuộc cách mạng
kỹ thuật: cuộc cách mạng công nghiệp và hiện nay là cuộc cách mạng khoa
học công nghệ hiện đại. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại này đã
dẫn tới sự thay đổi về chất kỹ thuật và công nghệ sản xuất. Là nước tiến hành
công nghiệp sau nên chúng ta không thể thực hiện theo mô hình CNH phát
triển theo kiểu tuần tự như các nước đi trước, nghĩa là tiến hành với nội dung
căn bản là cơ khí hoá các ngành của nền kinh tế rồi mới tiến hành HĐH. Vả
lại khi thực hiện cơ khí hoá cũng không thể sử dụng máy móc được sản xuất
trước đây mà phải sử dụng kỹ thuật và công nghệ sản xuất tiên tiến. Với ý
nghĩa trên Hội nghị lần thứ 7 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII
và Đại hội Đảng lần thứ IX, nhấn mạnh về con đường CNH rút ngắn đáng kể
về thời gian, vừa có bước đi tuần tự vừa có bước nhảy vọt, muốn vậy CNH
phải gắn liền với HĐH. Đảng ta quan niệm CNH, HĐH là: "Quá trình chuyển
đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ và quản lý
KT - XH từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ
biến sức lao động cùng với công nghệ và phương tiện, phương pháp tiên tiến
hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học công
nghệ tạo ra năng suất lao động xã hội cao" [14, tr. 80].

6


Thực chất CNH, HĐH ở nước ta là quá trình xây dựng cơ sở vật chất

kỹ thuật dựa trên công nghệ, phương tiện và phương pháp sản xuất tiên tiến
hiện đại, yếu tố vật chất cơ bản của lực lượng sản xuất cho CNXH nhằm đạt
năng suất lao động xã hội cao. Tuy nhiên, đây không chỉ là quá trình tăng
thêm một cách giản đơn về tốc độ và tỷ trọng của sản xuất công nghiệp trong
nền kinh tế mà còn là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với việc
thường xuyên đổi mới công nghệ tạo nền tảng cho sự tăng trưởng bền vững
hiệu quả cao theo định hướng XHCN trong tất cả các ngành, các vùng và các
thành phần kinh tế của nền kinh tế quốc dân.
1.1.1.2. Nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực là khái niệm được hình thành khi nghiên cứu về vai
trò của yếu tố con người trong sự phát triển KT - XH. Nguồn nhân lực được
đề cập trên nhiều góc độ khác nhau:
- Theo lý thuyết phát triển, NNL được hiểu theo nghĩa rộng là nguồn
lực của một quốc gia, một vùng lãnh thổ, là một bộ phận cấu thành của các
nguồn lực, là lực lượng lao động của một quốc gia có thể huy động để tham
gia vào quá trình phát triển KT - XH, đó là bộ phận dân số trong độ tuổi qui
định có khả năng tham gia lao động.
- Trong lý luận về vốn, con người được đề cập đến như một loại vốn
(vốn người "Tư bản người"), một thành tố cơ bản của quá trình sản xuất, kinh
doanh. Ngoài ra lý luận về vốn người còn xem xét con người từ quan điểm về
nhu cầu, về các nguồn cho sự phát triển của nó. Đầu tư cho con người được
phân tích tương tự đầu tư vào các nguồn lực vật chất có tính đến tổng hiệu
quả của các đầu tư này hoặc thu nhập mà con người và xã hội thu được từ các
đầu tư đó. Cách tiếp cận này được áp dụng một cách phổ biến ở các nước hiện
nay. Theo cách tiếp cận này Ngân hàng thế giới cho rằng: NNL là toàn bộ vốn
người (thể lực, trí lực, kỹ năng nghề nghiệp) mà mỗi cá nhân sở hữu. Ở đây

7



con người được coi như là một nguồn vốn bên cạnh các loại vốn vật chất khác
như: vốn bằng tiền, công nghệ, tài nguyên. Việc đầu tư cho con người giữ vị
trí trung tâm trong các loại đầu tư và là cơ sở vững chắc cho sự phát triển bền
vững. Do đó NNL là nguồn vốn đặc biệt, nhất là trong giai đoạn phát triển của
kinh tế tri thức gắn với đặc trưng của lao động trí tuệ.
- Theo quan niệm của các nhà khoa học Việt Nam thể hiện trong
Chương trình cấp nhà nước KX - 07, NNL được hiểu là "số dân và chất lượng
con người, bao gồm cả thể chất và tinh thần, sức khoẻ và trí tuệ, năng lực
phẩm chất, thái độ, phong cách làm việc" [24, tr.28].
Như vậy, nguồn nhân lực được biểu hiện trên hai mặt số lượng và chất
lượng.
- Về số lượng: nguồn nhân lực phụ thuộc vào thời gian làm việc có thể
có được của cá nhân và qui định độ tuổi lao động của mỗi quốc gia. Ở Việt
Nam hiện nay, Luật Lao động qui định độ tuổi lao động đối với nam từ 15 60, đối với nữ từ 15 - 55. Số lượng NNL đóng vai trò quan trọng đối với sự
phát triển KT - XH. Nếu số lượng không tương xứng với sự phát triển (thừa
hoặc thiếu) thì sẽ ảnh hưởng không tốt đến quá trình CNH, HĐH. Nếu thừa sẽ
dẫn đến thất nghiệp, tạo gánh nặng về mặt xã hội cho nền kinh tế; nếu thiếu
thì không có đủ lực lượng nhân lực cho quá trình CNH, HĐH và phát triển
kinh tế đất nước.
- Về chất lượng, nguồn nhân lực được biểu hiện ở thể lực, trí lực, tinh
thần thái độ, động cơ, ý thức lao động, văn hoá lao động công nghiệp, phẩm
chất tốt đẹp của người công dân đó là yêu nước, yêu CNXH. Trong ba mặt:
thể lực, trí lực, tinh thần thì thể lực là nền tảng, cơ sở để phát triển trí lực, là
phương thức để chuyển tải khoa học kỹ thuật vào thực tiễn. Ý thức tinh thần
đạo đức tác phong là yếu tố chi phối hiệu quả hoạt động chuyển hoá của trí
lực thành thực tiễn. Trí tuệ là yếu tố có vai trò quan trọng hàng đầu của NNL

8



bởi có nó con người mới có thể nghiên cứu sáng tạo và ứng dụng tiến bộ khoa
học vào quá trình hoạt động sản xuất và cải biến xã hội. Mác và Ăng ghen đã
nói "Tất cả cái gì thúc đẩy con người hành động đều tất nhiên phải thông qua
đầu óc của họ" [32, tr.438].
Từ những phân tích trên cho thấy: nguồn nhân lực là tổng hợp những
con người cụ thể có khả năng tham gia vào quá trình lao động với tổng thể
các yếu tố về thể lực, trí lực, tâm lực. Với cách hiểu này, NNL bao gồm
những người trong độ tuổi lao động có khả năng tham gia vào nền sản xuất xã
hội theo Luật lao động quy định.
1.1.1.3. Đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực
* Đào tạo nguồn nhân lực:
Sự xuất hiện của nền kinh tế tri thức trong thời đại ngày nay cho thấy
đầu tư cho NNL được coi trọng hơn các nguồn đầu tư khác. Đầu tư phát triển
NNL được hiểu ở cả ba mặt: chăm sóc sức khoẻ, nâng cao chất lượng cuộc
sống và giáo dục đào tạo, trong đó giáo dục đào tạo có vai trò quan trọng
nhất. Khái niệm giáo dục luôn gắn với khái niệm đào tạo và nhiều khi bao
gồm cả khái niệm đào tạo. Theo từ điển tiếng Việt, đào tạo được hiểu là: "Đào
tạo, quá trình tác động đến một con người nhằm làm cho người đó lĩnh hội và
nắm những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo... một cách có hệ thống nhằm chuẩn bị
cho người đó thích nghi với cuộc sống và khả năng nhận một sự phân công
lao động nhất định góp phần của mình vào việc phát triển xã hội, duy trì và
phát triển nền văn minh loài người. Tuỳ theo tính chất chuẩn bị cho cuộc sống
và lao động, người ta phân biệt đào tạo chuyên môn và đào tạo nghề nghiệp.
Hai loại này gắn bó và hỗ trợ nhau với những nội dung do các đòi hỏi của sản
xuất, của các quan hệ xã hội, của tình trạng khoa học, kỹ thuật - công nghệ và
văn hoá của đất nước. Có nhiều dạng đào tạo; đào tạo cấp tốc, đào tạo chuyên
môn, đào tạo cơ bản, đào tạo ngắn hạn, đào tạo từ xa, đào tạo tập trung, đào

9



tạo chính quy và không chính quy". Về cơ bản, đào tạo là hoạt động giảng dạy
trong nhà trường, gắn việc truyền thụ tri thức với giáo dục đạo đức và nhân
cách. Kết quả và trình độ được đào tạo của một người ngoài việc phụ thuộc
vào hoạt động nêu trên còn do việc tự đào tạo của người đó thể hiện ra ở việc
tự học và tham gia các hoạt động xã hội, lao động sản xuất, tự rút kinh
nghiệm của người đó quyết định. Chỉ khi nào quá trình đào tạo biến thành quá
trình tự đào tạo một cách tích cực, tự giác thì việc đào tạo mới có hiệu quả
cao.
Đào tạo là một mắt xích trong chu trình phát triển NNL. Nó phải đáp
ứng yêu cầu cung cấp NNL cho xã hội ở các lĩnh vực sau:
- Nhân lực trong lĩnh vực khoa học - công nghệ.
- Nhân lực trong lĩnh vực hành chính công.
- Nhân lực trong lĩnh vực quản lý doanh nghiệp.
- Nhân lực trong lĩnh vực lao động thuộc các ngành nghề kinh tế, kỹ
thuật.
Thực tế cho thấy dù nhân lực ở lĩnh vực nào đi chăng nữa cũng phải
đảm bảo được yêu cầu của công việc như trình độ chuyên môn, kỹ thuật (tức
các tri thức, kỹ năng, kỹ xảo thực hành, thái độ, phong cách, năng lực sáng
tạo để có khả năng thực hiện một loạt các công việc trong phạm vi ngành
nghề theo sự phân công lao động xã hội.
Từ những vấn đề trên có thể hiểu: Đào tạo NNL là quá trình tác động,
dạy và rèn luyện con người thông qua việc tổ chức truyền thụ tri thức và
những kinh nghiệm lịch sử xã hội của loài người để gây dựng họ trở thành
người có hiểu biết đạt đến một trình độ chuyên môn nghề nghiệp nhất định,
có khả năng đảm nhận một sự phân công lao động xã hội trong từng thời kỳ
của quá trình phát triển KT - XH.

10



Đào tạo NNL tạo lên sự chuyển biến về chất của NNL, biến những tiềm
năng nhân lực của quốc gia thành những lực lượng lao động hiện thực phù
hợp với yêu cầu phát triển KT - XH. Để thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH,
HĐH, việc đào tạo NNL cần phải đảm bảo được yêu cầu, mục tiêu sau:
- Đổi mới chất lượng đào tạo nhân lực theo hướng phù hợp với việc
nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế.
- Đào tạo phải gắn kết thường xuyên và chặt chẽ với sử dụng và việc
làm phải gắn và phù hợp với yêu cầu chuyển dịch cơ cấu lao động và thị
trường lao động.
Đào tạo NNL theo yêu cầu, mục tiêu nêu trên cần được thực hiện với
nhiều loại hình và nhiều phương thức khác nhau sao cho mọi người có nhu
cầu được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao và đào tạo lại đều có thể được đáp ứng.
Việc đào tạo có thể được thực hiện tại các trường dạy nghề trường Đại học,
Cao đẳng, các Trung tâm do Nhà nước hoặc tư nhân quản lý, hoặc các trường,
lớp thuộc doanh nghiệp, trong các thành phần kinh tế, hay tại các lớp dạy
nghề do các tổ chức xã hội và các làng nghề truyền thống tổ chức. Việc đào
tạo NNL có thể được thực hiện theo các cấp trình độ tuỳ theo yêu cầu đổi mới
của nền sản xuất - xã hội và nhu cầu của người học như đào tạo bán lành nghề
- lành nghề - trình độ cao; đào tạo trình độ trình độ sơ cấp - trung học chuyên
nghiệp - cao đẳng - đại học và sau Đại học.
* Sử dụng nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực được đề cập đến như một nguồn vốn tổng hợp với hệ
thống các yếu tố tổ hợp thành: sức lực, trí tuệ, khối lượng cùng đặc trưng về
chất lượng lao động như trình độ văn hoá, kỹ thuật, kinh nghiệm nghề nghiệp,
thái độ phong cách làm việc, tính năng động xã hội và sức sáng tạo. Đó là sức
lao động, như Mác nói khả năng mà con người có thể thông qua lao động để

11



biến thành hiện thực. Từ đó có thể đóng góp vào sự nghiệp CNH, HĐH và sự
phát triển KT - XH. Tuy nhiên, khi nói NNL tức là nói sức lao động, do vậy
nó còn ở trạng thái khả năng, ở trạng thái tĩnh, nó phải được chuyển sang
trạng thái động tức là phải được đem phân bố sử dụng nó một cách có hiệu
quả, phải làm thế nào để NNL dưới dạng khả năng đó thành hiện thực, thành
vốn nhân lực.
Sử dụng NNL tức là tiêu dùng sức lao động của con người trong quá
trình lao động sản xuất để tạo ra của cải vật chất, tinh thần phục vụ các nhu
cầu sản xuất và nhu cầu con người trong xã hội. Quá trình lao động sản xuất
đó là quá trình kết hợp sức lao động với các yếu tố khác của lực lượng sản
xuất nên việc khai thác và phát huy NNL không thể tách rời việc tổ chức nền
sản xuất cùng những cách thức của sự phát triển KT - XH. Bởi vậy sử dụng
NNL được hiểu: là việc khơi dậy và phát huy tất cả các khả năng của con
người thành hiện thực, biến sức lao động thành lao động trong quá trình phát
triển KT - XH.
Quá trình sử dụng NNL luôn gắn kết với sản xuất nên kết quả của nó
phụ thuộc vào những đổi mới trong cách thức tổ chức quản lý sản xuất, những
cải tiến về công nghệ và phụ thuộc rất lớn vào việc hoàn thiện giáo dục đào
tạo (đặc biệt là đào tạo nghề).
Trong quá trình CNH, HĐH ở nước ta, việc khai thác sử dụng NNL có
thể được xem xét trên các khía cạnh sau:
Một là, nguồn nhân lực được biểu hiện ra là nguồn lao động nó bao
gồm toàn bộ những người lao động đang có khả năng phục vụ cho xã hội và
các thế hệ nối tiếp, vì vậy sử dụng NNL trước hết là sử dụng lực lượng lao
động sản xuất. Tạo việc làm và sử dụng có hiệu quả nhất NNL hiện có là yêu
cầu cơ bản và chủ yếu của sử dụng NNL.

12



Hai là, con người khi tham gia vào các quá trình phát triển KT - XH
không những chỉ sử dụng lao động chân tay mà còn phải sử dụng cả lao động
trí óc ngày càng nhiều khi xã hội càng phát triển. Ngày nay thế giới đã bước
vào giai đoạn phát triển kinh tế tri thức thì vai trò của lao động trí tuệ của con
người thể hiện ngày càng rõ nét. Dự báo của Mác và Ăng ghen: Khoa học do
lao động trí tuệ của con người sáng tạo ra sẽ trở thành lực lượng sản xuất trực
tiếp. Tri thức khoa học đang thấm sâu vào mọi yếu tố của quá trình sản xuất
và trở thành một nhân tố có ý nghĩa quyết định sự phát triển. Do đó có thể
khẳng định lao động trí tuệ, lao động qua đào tạo là yếu tố giữ vai trò quan
trọng hàng đầu của NNL, do vậy cần coi trọng và phát huy tiềm năng của
NNL qua đào tạo.
Ba là, sự tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại đã
và đang làm thay đổi tính chất, nội dung của lao động, cơ cấu lao động và
việc làm và làm cho tốc độ tăng trưởng kinh tế không còn đi đôi với tiến trình
phát triển việc làm. Điều đó đòi hỏi phải chuyển việc sử dụng lao động theo
chiều rộng sang khai thác sử dụng theo chiều sâu. Việt Nam là một nước
chậm phát triển, thực hiện CNH sau, NNL khá dồi dào nhưng chất lượng và
trình độ còn thấp, vì vậy trong quá trình sử dụng NNL chúng ta vẫn cần thiết
phải sử dụng lao động theo hướng kết hợp cả chiều rộng và chiều sâu.
Nói tóm lại, để khai thác, phát huy và nâng cao hiệu quả NNL cần phải
căn cứ vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể của NNL và sự phát triển KT - XH
trong từng thời kỳ của quốc gia.
1.1.2. Mối quan hệ tác động giữa công nghiệp hoá, hiện đại hoá với đào tạo
và sử dụng nguồn nhân lực
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá và NNL có mối quan hệ tác động qua lại
lẫn nhau. Trong nền kinh tế thị trường, thực chất của mối quan hệ này là mối
quan hệ về cung cầu lao động. Trong mối quan hệ đó yếu tố con người bao

13



giờ cũng giữ vị trí quyết định. Điều này thể hiện ở chỗ: Con người là chủ thể
của quá trình CNH, HĐH. Con người là lực lượng sản xuất hàng đầu của nhân
loại, có khả năng biến các nguồn lực khác thành động lực phát triển. Con
người với tất cả những phẩm chất tích cực của mình là động lực cơ bản của sự
nghiệp CNH, HĐH. Mối quan hệ này thể hiện:
1.1.2.1. Sự tác động của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đến đào tạo và sử
dụng nguồn nguồn nhân lực
Thứ nhất: Đối với đào tạo nguồn nhân lực
Sự nghiệp CNH, HĐH đất nước đã và đang mở ra cơ hội lớn đồng thời
đòi hỏi rất nhiều ở Giáo dục đào tạo NNL. Đại hội Đảng lần thứ IX đã xác
định chỉ có thể thực hiện bằng con đường "phát triển rút ngắn" mới thu hẹp
được khoảng cách chênh lệch về trình độ phát triển của nước ta so với các
nước khác trên thế giới. Tiến trình đó đòi hỏi hoạt động giáo dục đào tạo phải
có NNL đủ về số lượng, đảm bảo về chất lượng và cơ cấu trình độ, đặc biệt
phải có NNL trình độ cao.
- Trong suốt tiến trình CNH, HĐH một mặt bao giờ cũng kéo theo và
đặt ra yêu cầu mới cho đào tạo NNL. Với tư cách là người sử dụng NNL qua
đào tạo, nó đòi hỏi phải tuyển chọn để thu hút được một đội ngũ lao động có
trình độ học vấn cao, tay nghề giỏi để thực hiện vai trò quyết định của NNL.
Ăng ghen nhấn mạnh "Muốn nâng sản xuất công nghiệp và nông nghiệp lên
một mức độ cao mà chỉ có phương tiện cơ giới và hoá học phù trợ thì không
đủ, còn cần phải phát triển một cách tương xứng năng lực của con người sử
dụng những phương tiện đó nữa” [32, tr. 474].
- Mặt khác, CNH, HĐH còn là điều kiện vật chất cần thiết để cho định
hướng đào tạo và phát triển NNL. Điều đó thể hiện ở chỗ:
+ công nghiệp hoá, hiện đại hoá là điều kiện vật chất tồn tại cần thiết để
cải biến nếp nghĩ, nếp làm, vốn còn mang nặng dấu ấn tiểu nông, sản xuất nhỏ


14


của một bộ phận đáng kể lực lượng lao động xã hội mà trong đào tạo nhất
thiết phải tính đến.
+ Trong mỗi giai đoạn phát triển của CNH, HĐH, sự biến đổi về kinh
tế, kỹ thuật và công nghệ lại luôn thúc đẩy sự phát triển chất lượng của NNL
và đòi hỏi NNL qua đào tạo ngày càng nhiều và với chất luơng cao.
+ Công nghiệp hoá, hiện đại hoá con là cơ sở quan trọng cho việc thực
hiện mục tiêu giải phóng và phát triển con người một cách toàn diện. Điều đó
tác động không nhỏ đến mục tiêu đào tạo toàn diện NNL cho CNH, HĐH đất
nước.
Để đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH, nhanh chóng đổi mới đưa
kỹ thuật công nghệ của nền sản xuất lên trình độ tiên tiến, thực hiện chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tỷ trọng nông nghiệp ngày càng giảm, công
nghiệp, dịch vụ ngày càng tăng trong GDP và chuyển dịch cơ cấu lao động
theo hướng tỷ trọng và số tuyệt đối của lao động nông nghiệp giảm, tỷ trọng
và số tuyệt đối lao động công nghiệp và dịch vụ tăng. Đặc biệt CNH, HĐH
nông nghiệp nông thôn đòi hỏi vệc đào tạo NNL không chỉ đáp ứng yêu cầu
về chất lượng mà ngày càng phải tiến dần tới sự đáp ứng yêu cầu về số lượng,
qui mô, cơ cấu hợp lý về trình độ đào tạo cho các ngành công nghiệp, nông
nghiệp, dịch vụ và cho các lĩnh vực quản lý xã hội và sản xuất kinh doanh ở
nông thôn. Trên cơ sở đó nâng cao năng suất lao động, hiệu quả sử dụng lao
động và sức cạnh tranh của lao động nước ta. Vì vậy việc đào tạo NNL phải
làm tốt công tác dự báo, phải điều chỉnh qui hoạch đào tạo; bồi dưỡng thường
xuyên NNL bao gồm cả đào tạo CĐ ĐH, THCN và đào tạo nghề với các cấp
trình độ bán lành nghề, lành nghề, trình độ cao cho các ngành, các lĩnh vực
KT - XH để khắc phục sự bất cập về trình độ, qui mô, cơ cấu của NNL hiện
nay để có thể tiếp thu sử dụng công nghệ hiện đại mới. Vấn đề này đã được
nêu trong kết luận của Hội nghị Trung ương 6: "Điều chỉnh cơ cấu đào tạo,


15


tăng nhanh dạy nghề và trung học chuyên nghiệp. Hiện đại hoá một số trường
dạy nghề nhằm chuẩn bị đội ngũ công nhân bậc cao có trình độ tiếp thu và sử
dụng công nghệ mới và công nghệ cao" [18, tr.129].
Như vậy, vấn đề đào tạo NNL ở nước ta vừa phải đáp ứng yêu cầu chất
lượng vừa phải đáp ứng yêu cầu số lượng, qui mô, cơ cấu trình độ và thực tiễn
phát triển của các ngành nghề trong các lĩnh vực khác nhau, trên địa bàn lãnh
thổ khác nhau. Điều đó có nghĩa là đào tạo NNL phải gắn với nhu cầu thực
tiễn; nhu cầu NNL cần sử dụng để giải quyết sự mất cân đối "rất thiếu nhưng
rất thừa nhân lực hiện nay" như định hướng của Hội nghị Trung ương 6, khoá
IX: "Nâng cao chất lượng và hiệu quả Giáo dục. Phát triển qui mô Giáo dục
cả đại trà và mũi nhọn trên cơ sở bảo đảm chất lượng và điều chỉnh cơ cấu
đào tạo, gắn đào tạo với yêu cầu phát triển KT - XH, đào tạo với sử dụng"
[18, tr. 126].
Thứ hai: Đối với sử dụng nguồn nhân lực.
Đào tạo và sử dụng NNL là hai mặt của sự phát triển. Khi xác định
chiến lược phát triển đất nước đẩy mạnh CNH, HĐH Đảng ta đã chỉ rõ những
nguồn lực làm cơ sở cho việc thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH đất
nước là con người Việt Nam, nguồn lực tự nhiên, cơ sở vật chất và tiềm lực
khoa học kỹ thuật vốn có và các nguồn lực ngoài nước (vốn, thị trường, công
nghệ, kinh nghiệm quản lý). Nhưng các nguồn lực đó tự nó không thể tham
gia vào các quá trình KT - XH bởi phần lớn mới ở dạng tiềm năng. Để thực
hiện được mục tiêu của CNH chúng ta không thể không khai thác, sử dụng
phát huy tối đa nguồn lực lâu bền và quan trọng nhất đó là NNL vì chỉ có con
người mới có thể tác động khai thác các nguồn lực đó biến nó ở dạng tiềm
năng thành hiện thực. Hơn nữa, nguồn lực con người không chỉ quyết định sử
dụng hiệu quả việc khai thác các nguồn lực tự nhiên mà còn góp phần tạo ra

các nguồn lực mới. Như Mác - Ăngghen đã nói: "Những con người có năng

16


lực phát triển toàn diện, đủ sức tinh thông và nắm vững nhanh chóng toàn bộ
hệ thống sản xuất trong thực tiễn đáp ứng được nhu cầu khai thác sử dụng các
nguồn lực tự nhiên cho sự phát triển xã hội..." [32, tr.474-475].
Đào tạo NNL đông đảo có trình độ chuyên môn là một vấn đề quan
trọng nhưng việc sử dụng NNL đó như thế nào để phát huy được mọi tiềm
năng của nó đặc biệt là tiềm năng trí tuệ và sức sáng tạo lại càng quan trọng
hơn. Điều này đã được khẳng định thông qua kinh nghiệm thực tiễn của các
nước trong khu vực và thế giới. Vấn đề thực tiễn đặt ra cho nước ta hiện nay
là với một nguồn lực lao động dồi dào nhưng còn có những điểm bất cập về
trình độ, cơ cấu, sự phân bổ lao động trong các ngành, vùng chưa hợp lý
nhưng lại phải khắc phục sự tụt hậu quá xa về kinh tế kỹ thuật bởi vậy cần
phải có chính sách phân công lao động hợp lý để có thể thu hút được tất cả
lực lượng lao động xã hội, tạo điều kiện cho mọi người đều có việc làm, có cơ
hội để cống hiến sức lực trí tuệ của mình cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Lực lượng lao động xã hội phải được xem như một tổng thể nằm trong một cơ
cấu lao động thống nhất. Ở đó, mỗi cá nhân người lao động được sử dụng
đúng trình độ chuyên môn kỹ thuật, đúng công việc mà mình yêu thích theo
hướng toàn dụng lao động. Mặt khác dưới sự tác động của cuộc cách mạng
khoa học công nghệ hiện đại, lao động trí tuệ trở thành đặc trưng, với ý nghĩa
đó việc khai thác phát huy tiềm năng lao động trí tuệ trở thành yêu cầu cơ bản
nhất của sử dụng NNL qua đào tạo để bảo đảm năng suất, hiệu quả lao động
cao. Trong điều kiện nền kinh tế mở, quan hệ phân công và hợp tác lao động
quốc tế ngày càng mở rộng, việc sử dụng NNL càng mang tính mở rộng, tính
quốc tế hoá cao. Nhu cầu sử dụng người lao động nước ngoài ở mỗi quốc gia
trên thế giới hiện nay rất đa dạng về chủng loại, cơ cấu ngành nghề, trình độ

chuyên môn, do vậy việc xuất khẩu lao động là một lĩnh vực hoạt động kinh
tế quan trọng cần được chú ý tới trong việc khai thác sử dụng lao động. Xuất

17


khẩu lao động - một mặt nhằm giải quyết việc làm, giảm bớt những căng
thẳng về lao động dư thừa trong nước, tăng thu nhập cho người lao động và
tăng nguồn thu ngoại tệ cho nhà nước và mặt khác, đây còn là con đường để
đào tạo nguồn lao động cho quốc gia. Nên nhà nước cần có chính sách và sự
quan tâm thích đáng cho hoạt động xuất khẩu lao động để khai thác lợi thế
nguồn lao động dồi dào phục vụ quá trình CNH, HĐH và hội nhập quốc tế.
Như vậy khai thác sử dụng, phát huy tối đa và hiệu quả NNL là điều kiện
quan trọng trong quá trình CNH, HĐH ở nước ta.
Từ những vấn đề nêu trên cho thấy quá trình CNH, HĐH ở nước ta nói
chung và quá trình CNH, HĐH ở Hà Tây nói riêng hiện nay đòi hỏi phải đào
tạo NNL chất lượng cao và khai thác sử dụng một cách hiệu quả NNL đó mà
CNH, HĐH với tư cách thuộc phía cầu của NNL trên thị trường lao động ở
nước ta.
1.1.2.2. Sự tác động của đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực đối với quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Nguồn nhân lực, nhất là NNL qua đào tạo là yếu tố vật chất quan trọng
nhất, quyết định nhất của lực lượng sản xuất, của việc nhận thức, lĩnh hội và
sử dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ vào quá trình sản xuất, thúc
đẩy CNH, HĐH và phát triển KT - XH như Lênin nói: "Nếu không có các
chuyên gia am hiểu các lĩnh vực khoa học kỹ thuật và kinh nghiệm sản xuất
thì không thể nào có bước chuyển lên xã hội XHCN" [29, tr.362]. NNL, đặc
biệt là NNL chất lượng cao, một yếu tố không thể thiếu của quá trình CNH,
HĐH, được Lênin viết: "Việc điện khí hoá không phải do những người mù
chữ thực hiện được mà chỉ biết chữ thôi thì không đủ... điều đó chỉ có thể

thực hiện được trên cơ sở một nền học vấn hiện đại và nếu không có nền học
vấn hiện đại đó thì chủ nghĩa Cộng sản chỉ là nguyện vọng mà thôi" [29,
tr.364- 365]. Theo Lênin cái quyết định cho sự thắng lợi của trật tự xã hội mới

18


đối với xã hội cũ là năng suất lao động bởi vậy muốn đạt được năng suất lao
động cao thì cần phải thực hiện sự phát triển NNL Từ ý tưởng đó có thể thấy
để nâng cao năng suất lao động trước hết phải nâng cao trình độ tiến bộ của
nền giáo dục và văn hoá của đông đảo quần chúng nhân dân tiếp đến phải
nâng cao tinh thần kỷ luật của người lao động, năng cao tài khéo léo và trình
độ thành thạo của NNL. Trên cơ sở nhận thức lý luận và thực tiễn Đảng ta đã
chỉ rõ những nguồn lực làm cơ sở cho quá trình CNH, HĐH đất nước là
nguồn lực con người Việt Nam, nguồn lực tự nhiên, cơ sở vật chất, tiềm lực
khoa học công nghệ, các nguồn lực ngoài nước nhưng trong các nguồn lực đó
thì nguồn lực con người là quan trọng nhất". Nguồn lao động dồi dào, con
người Việt Nam có truyền thống yêu nước, cần cù sáng tạo có nền tảng văn
hoá, giáo dục, có khả năng nắm bắt nhanh khoa học và công nghệ... đó là
nguồn lực quan trọng" [11, tr.5]. Sở dĩ như vậy vì NNL qua đào tạo là lực
lượng duy nhất có khả năng phát hiện, xác định mục tiêu, nội dung và các giải
pháp đúng đắn để tiến hành CNH, HĐH. Mặt khác NNL qua đào tạo có ưu
thế hơn hẳn các nguồn lực khác, nó có khả năng tái sinh và tự sản sinh nên nó
là nguồn lực không bao giờ cạn như một tác giả đã viết chỉ có con người và tri
thức của con người là không bao giờ cạn: "Tri thức có tính chất lấy không bao
giờ hết " [1,tr.41].
Chính vì vậy Đảng Cộng sản Việt Nam cho rằng: "Phương hướng chủ
yếu phát triển trí tuệ của con người Việt Nam thể hiện trong các lĩnh vực khoa
học công nghệ đào tạo để nâng cao dân trí đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân
tài" [13, tr.28]. Đến Hội nghị lần thứ Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII

Đảng ta nhấn mạnh rằng: "Muốn tiến hành CNH, HĐH thắng lợi phải phát
triển Giáo dục đào tạo, lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ
bản cho việc phát triển nhanh và bền vững" [14, tr.19].

19


Thực tiễn của nước ta và các nước đi trước đã chứng minh quá trình
CNH, HĐH diễn ra với tốc độ nhanh hay chậm, hiệu quả cao hay thấp phụ
thuộc vào nhiều yếu tố nhưng trước hết tuỳ thuộc vào chất lượng NNL bởi
nền kinh tế thế giới đã phát triển theo hương kinh tế tri thức, yếu tố tri thức đã
chiếm tỷ trọng lớn trong giá trị sản phẩm, tỷ lệ lao động chân tay trong sản
phẩm chỉ còn 1/10, trí tuệ được coi là thước đo trình độ CNH và động lực của
quá trình phát triển. Mặt khác trong xu thế toàn cầu hoá và việc mở rộng quan
hệ giao lưu quốc tế hiện nay, các nước có thể khắc phục sự yếu kém về kỹ
thuật, công nghệ thông qua con đường chuyển giao, khắc phục sự thiếu vốn
qua con đường nhập khẩu hoặc gia tăng nguồn vốn bằng cách vay từ ngân
hàng, quỹ phát triển của thế giới, nhưng không thể khắc phục hoàn toàn sự
yếu kém về NNL qua nhập khẩu lao động hay vay mượn khả năng sáng tạo
của con người. Vì vậy, Việt Nam cũng như tất cả các nước trên thế giới đều
quan tâm tới việc đầu tư phát triển NNL qua đào tạo. Tại Đại hội IX Đảng
Cộng sản Việt Nam đã chỉ ra rằng: "Phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh
tinh thần của người Việt Nam, coi phát triển Giáo dục và đào tạo, khoa học và
công nghệ là nền tảng và động lực của sự nghiệp CNH, HĐH" [17, tr.91].
Tóm lại, những quan điểm trên cho thấy NNL qua đào tạo có vai trò
quan trọng và có ý nghĩa quyết định đối với sự thành bại của CNH, HĐH và
sự phát triển KT - XH. Vì vậy phải chăm lo đào tạo NNL đặc biệt cần quan
tâm tới việc nâng cao chất lượng và trình độ NNL để hướng tới sự phát triển
nền kinh tế tri thức.
Cần ý thức sâu sắc rằng đầu tư cho Giáo dục đào tạo là một trong

những hướng chính của đầu tư phát triển; Giáo dục đào tạo phải thật sự trở
thành quốc sách hàng đầu, hoàn thành tốt việc đào tạo bồi dưỡng nguồn lực
con người kịp thời và phù hợp với yêu cầu CNH, HĐH. Xét một cách tổng thể
việc đào tạo NNL phải đáp ứng yêu cầu giải quyết mối quan hệ cung - cầu lao

20


động cả số lượng, chất lượng, cơ cấu, hạn chế tối đa việc dư thừa bất hợp lý
về lao động đã đào tạo trên tất cả các lĩnh vực. Trước hết phải tạo ra được
những con người có khả năng để đảm nhận và hoàn thành công việc ở cương
vị công tác theo sự phân công lao động xã hội. Đó là những con người vừa có
tài vừa có đức. Theo tiêu chí của tài và đức thì hệ thống các cơ sở đào tạo
NNL phải làm thế nào để người học sau khi được đào tạo phải được trang bị
kiến thức văn hoá, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng, kỹ xảo thực
hành, có năng lực hợp tác trong mọi hoạt động, có năng lực nhận thức, vận
dụng công nghệ tiên tiến hiện đại, hiểu và biết vận dụng đường lối chính sách
của Đảng, biết lựa chọn các giải pháp tối ưu cho các hoạt động của
mình...đồng thời phải có phẩm chất đạo đức tốt, biết đặt lợi ích của cộng đồng
xã hội lên trên lợi ích cá nhân, có ý thức trách nhiệm cao đối với công việc, ý
thức tự hào và phát huy truyền thống dân tộc, ý chí vươn lên để thoát khỏi
nghèo nàn lạc hậu.
1.2. Nội dung, nhân tố ảnh hƣởng và vai trò đào tạo và sử dụng nguồn
nhân lực
1.2.1. Nội dung của đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực
1.2.1.1. Nội dung đào tạo nguồn nhân lực
Nước ta bắt đầu thực hiện CNH, HĐH với một xuất phát điểm thấp. Từ
một nước nông nghiệp lạc hậu (72 % dân số làm nông nghiệp, tỷ trọng nông
nghiệp chiếm 50 % GDP) chưa có lợi thế về chỉ số phát triển con người. Tốc
độ nâng cao dân trí ở nước ta trong nhiều năm qua còn rất chậm. Với mặt

bằng dân trí thấp thì số người được đào tạo có trình độ tay nghề cao cũng như
số người có học vấn đại học và sau đại học còn ít, phần đông số người lao
động chưa qua đào tạo về nghề nghiệp. Đây là một khó khăn lớn cho việc tiếp
thu khoa học công nghệ mới nhằm đạt tới mục tiêu CNH, HĐH. Mặt khác do
tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ đang phát triển theo hướng

21


kinh tế tri thức với sự xuất hiện của nhiều ngành nghề mới nên lợi thế về lao
động giản đơn đang mất dần ý nghĩa nhường chỗ cho lao động trí tuệ. Do đó
nội dung giáo dục đào tạo nhằm chuẩn bị NNL chất lượng cho tương lai được
xác định theo hướng "Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện về
chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, ý thức cộng
đồng, lòng nhân ái, khoan dung, tôn trọng nghĩa tình, lối sống có văn hoá,
quan hệ hài hoà trong gia đình, cộng đồng và xã hội, tự hoàn thiện nhân cách,
kế thừa truyền thống cách mạng của dân tộc, phát huy tinh thần yêu nước, ý
trí tự lực tự cường xây dựng và bảo vệ tổ quốc " [16, tr.114]. Như đã biết, sự
nghiệp CNH, HĐH đang đặt ra yêu cầu và đòi hỏi rất cao và đa dạng, phong
phú cả về nội dung và phương thức đối với việc đào tạo NNL ở nước ta hiện
nay. Nội dung đào tạo NNL ở nước ta không chỉ là những kiến thức về khoa
học, kỹ thuật, công nghệ, chuyên môn nghiệp vụ mà còn bao hàm cả đạo đức,
truyền thống dân tộc. Nội dung các tri thức cấu thành chương trình đào tạo,
các loại nhân lực cũng phải bao hàm sự kế thừa các yếu tố truyền thống, tiếp
cận các trí thức hiện đại và tính tới sự phát triển. Đào tạo chuyên môn, trình
độ học vấn cho mỗi người là rất quan trọng để tạo điều kiện cho họ có khả
năng lao động, khả năng đảm nhận một công việc nào đó trong xã hội. Còn
đào luyện "Đức" chính là tạo ra cái gốc, yếu tố cơ bản đem lại sức khoẻ về
tinh thần để làm người có văn hoá, có tài. Đến lượt nó lại trở thành động lực
thúc đẩy người lao động có những quyết định đúng đắn và hiệu quả trong hoạt

động của họ, giúp họ biết hợp tác với ai, biết làm cái gì, làm vì ai và sẽ làm
như thế nào. Nội dung của đào tạo NNL được thực hiện qua nhiều cấp bậc
học với các mức độ khác nhau. Nhưng tác giả quan tâm chú ý đến nhiều hơn
tới bậc đào tạo trung học chuyên nghiệp, dạy nghề, đào tạo đại học, cao đẳng
nên đã phân một cách khái quát qua các cấp bậc sau đây:

22


Thứ nhất: Đối với các cấp bậc học phổ thông đặc biệt là trung học phổ
thông.
Đối với bậc học này cần cung cấp kiến thức nền tảng khoa học tự
nhiên, khoa học xã hội, giáo dục ý thức công dân, định hướng giá trị: chân thiện - mỹ và giáo dục hướng nghiệp để các em có thể ra quyết định đúng đắn
cho việc lựa chọn bước đường tiếp theo cho tương lai, theo học nghề gì, chọn
trường chuyên nghiệp hoặc trường cao đẳng, đại học nào cho phù hợp với khả
năng của mình và yêu cầu của xã hội.
Thứ hai: Đối với các trường trung học chuyên nghiệp - dạy nghề - cao
đẳng - đại học đào tạo như đã nêu ở phần trên là quá trình kết hợp giữa đào
tạo ban đầu và tự đào tạo, giữa truyền thụ tri thức, rèn luyện kỹ năng nghề
nghiệp với giáo dục đạo đức nhân văn để cung cấp nhân lực cho tất cả các
lĩnh vực hoạt động KT - XH nên việc xác định nội dung đào tạo NNL trong
hệ thống các trường nêu trên cần được đề cập tới các vấn đề sau:
- Coi trọng giáo dục ý thức công dân đặc biệt hình thành niềm tin lý
tưởng Cộng sản, ý thức bảo vệ tổ quốc, rèn luyện sức khoẻ thông qua hệ
thống các môn học chung.
- Cung cấp các kiến thức thiết thực với nhu cầu thực tế của các ngành
trong nền kinh tế quốc dân như công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ đặc biệt
chú ý tới các ngành và lĩnh vực kinh tế mũi nhọn như công nghệ cao và du
lịch. Gắn liền với việc truyền thụ tri thức là việc hình thành năng lực và
phương pháp tư duy khoa học để người học có thể tiếp trục tự hoàn thiện về

nhân cách và trình độ chuyên môn sau thời gian được đào tạo trong trường;
biết phát hiện và lý giải được những vấn đề thực tiễn cuộc sống đặt ra cho
nghề nghiệp. Thực tiễn cho thấy kết quả của đào tạo không chỉ tính bằng
lượng kiến thức được truyền đạt mà chủ yếu phải tính bằng sự phát triển của

23


×