Tải bản đầy đủ (.pdf) (126 trang)

So sánh đặc điểm sử dụng phép liên kết nội dung qua hai tác phẩm viết về bác hồ (búp sen xanh của sơn tùng cha và con của hồ phương) luận văn ths ngôn ngữ học 60 22 01 pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.32 MB, 126 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------------

NGUYỄN THỊ NHUNG

SO SÁNH ĐẶC ĐIỂM SỬ DỤNG PHÉP LIÊN KẾT NỘI DUNG
QUA HAI TÁC PHẨM VIẾT VỀ BÁC HỒ
(BÚP SEN XANH CỦA SƠN TÙNG - CHA VÀ CON CỦA HỒ PHƯƠNG)

Chuyên ngành : LÝ LUẬN NGÔN NGỮ
Mã số

: 602201

LUẬN VĂN THẠC SỸ NGÔN NGỮ HỌC

Người hướng dẫn Khoa học:
PGS. TS NGUYỄN HỮU ĐẠT

Hà Nội, năm 2010


MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cảm ơn
Lời cam đoan
MỞ ĐẦU.........................................................................................................1
1.Lý do chọn đề tài...........................................................................................1
2. Ý nghĩa của luận văn....................................................................................1
3. Đối tượng, mục đích và phạm vi nghiên cứu...............................................2


4. Phương pháp nghiên cứu..............................................................................2
5. Cấu trúc của luận văn...................................................................................2
NỘI DUNG......................................................................................................4
CHƯƠNG I:CƠ SỞ LÝ THUYẾT...............................................................4
1.1. Văn bản ................................................................................................ ... 4
1.1.1 Khái niệm văn bản .......................................................................... 4
1.1.2 Đặc trưng của văn bản .................................................................... 7
1.2. Đặc trưng của thể loại văn bản tiểu thuyết.......................................... 7
1.2.1 Tiểu thuyết và đặc trưng thể loại của “Búp sen xanh”, “Cha và con” ..... 7
1.2.2 Xu hướng cấu trúc của tiểu thuyết. ................................................ 8
1.2.3 Đặc trưng của tiểu thuyết ............................................................... 9
1.2.4 Đặc trưng của “Búp sen xanh”, “Cha và con” ............................... 11
1.3 Vấn đề liên kết nội dung ......................................................................... 11
1.3.1 Liên kết ........................................................................................... 11
1.3.2 Liên kết nội dung ............................................................................ 14
1.3.3 Mạch lạc ......................................................................................... 18
1.3.3.1 Định nghĩa mạch lạc ......................................................... 18
1.3.3.2. Biểu hiện của mạch lạc .................................................... 19


1.3.3.3. Biểu hiện của mạch lạc trong truyện ............................... 23
1.4.Tiểu kết ..................................................................................................... 26
CHƯƠNG 2
LIÊN KẾT NỘI DUNG THỂ HIỆN QUA QUAN HỆ THỜI GIAN
TRONG TIỂU THUYẾT “BÚP SEN XANH” ........................................... 18
2.1. Dẫn nhập ................................................................................................. 28
2. 2. Quan hệ thời hạn trong tiểu thuyết “Búp sen xanh” ......................... 28
2.2.1. Quan hệ thời hạn giữa các phần của tiểu thuyết “Búp sen xanh” . 28
2.2.2. Quan hệ thời hạn giữa các chương ở từng phần của tiểu thuyết
“Búp sen xanh” ........................................................................................ 29

2.2.3. Quan hệ thời hạn giữa các bloc sự kiện ở từng chương của từng
phần trong tiểu thuyết “Búp sen xanh” ................................................... 35
2.3. Quan hệ trật tự thời gian trong tiểu thuyết “Búp sen xanh”............. 38
2.3.1. Quan hệ trật tự thời gian giữa các phần trong của tiểu thuyết “Búp
sen xanh” ................................................................................................. 38
2.3.2. Quan hệ trật tự thời gian giữa các chương ở từng phần trong của
tiểu thuyết “Búp sen xanh” ...................................................................... 39
2.3.2.1. Quan hệ trật tự thời gian giữa các chương của phần I ... 40
2.3.2.2. Quan hệ trật tự thời gian giữa các chương ở phần II .... 42
2.3.2.3. Quan hệ trật tự thời gian giữa các bloc sự kiện của từng
chương ở phần III tiểu thuyết "Búp sen xanh".............................. 43
2.3.3. Quan hệ trật tự thời gian giữa các bloc sự kiện của từng chương ở
từng phần trong tiểu thuyết "Búp sen xanh". ........................................ 44
2.3.3.1. Quan hệ trật tự thời gian giữa các bloc sự kiện của từng
chương ở phần I của tiểu thuyết "Búp sen xanh" ............................ 44
2.3.3.2. Quan hệ trật tự thời gian giữa các bloc sự kiện của từng
chương ở phần II của tiểu thuyết "Búp sen xanh" ........................... 53
2.3.3.3. Quan hệ trật tự thời gian giữa các bloc sự kiện của từng
chương ở phần III tiểu thuyết "Búp sen xanh" ................................ 61
2.3.4. Quan hệ trật tự thời gian giữa các sự kiện nhỏ trong từng bloc sự
kiện ở từng chương của từng phần trong tiểu thuyết "Búp sen xanh" .... 67


2.4. Quan hệ tần số trong tiểu thuyết "Búp sen xanh".............................. 67
2.5. Tiểu kết .................................................................................................... 69
CHƯƠNG 3
LIÊN KẾT NỘI DUNG THỂ HIỆN QUA QUAN HỆ THỜI GIAN
TRONG TIỂU THUYẾT "CHA VÀ CON"
SO SÁNH LIÊN KẾT NỘI DUNG QUA QUAN HỆ THỜI GIAN GIỮA
TIỂU THUYẾT "BÚP SEN XANH" VỚI TIỂU THUYẾT "CHA VÀ

CON" .............................................................................................................. 70
3.1. Dẫn nhập ................................................................................................. 70
3.2. Quan hệ thời hạn trong tiểu thuyết "Cha và con" ............................ 71
3.2.1. Quan hệ thời hạn giữa các phần của tiểu thuyết ........................... 71
3.2.2. Quan hệ thời hạn giữa các đoạn trong từng phần của tiểu thuyết "Cha và
con" .......................................................................................................................... 72
3.2.3. Quan hệ thời hạn giữa các bloc sự kiện trong từng đoạn của từng
phần tiểu thuyết "Cha và con" ................................................................ 83
3.3. Quan hệ trật tự thời gian trong tiểu thuyết "Cha và con" ................ 87
3.3.1. Quan hệ trật tự thời gian giữa các phần trong tiểu thuyết "Cha và
con" ......................................................................................................... 87
3.3.2. Quan hệ trật tự thời gian giữa các đoạn trong từng phần của tiểu
thuyết “Cha và con”................................................................................. 89
3.3.2.1. Quan hệ trật tự thời gian giữa các đoạn của phần I..... 90
3.3.2.2. Quan hệ trật tự thời gian giữa các đoạn của phần II .. 91
3.3.2.3. Quan hệ trật tự thời gian giữa các đoạn của phần III .. 92
3.3.2.4. Quan hệ trật tự thời gian giữa các đoạn của phần IV .. 94
3.3.2.5. Quan hệ trật tự thời gian giữa các đoạn của phần V ... 94
3. 3.2.6. Quan hệ trật tự thời gian giữa các đoạn ở phần VI ..... 95
3.3.3. Quan hệ trật tự thời gian giữa các bloc sự kiện của từng đoạn ở
từng phần trong tiểu thuyết "Cha và con" .............................................. 96
3.3.3.1. Quan hệ trật tự thời gian giữa các bloc sự kiện của mỗi
đoạn : .......................................................................................... 96


3.3.3.2. Quan hệ trật tự thời gian giữa các bloc sự kiện của từng
đoạn ở phần II của tiểu thuyết "Cha và con" ............................. 97
3.3.3.3. Quan hệ trật tự thời gian giữa các bloc sự kiện của từng
đoạn ở phần III tiểu thuyết "Cha và con" .................................. 98
3.3.3.4. Quan hệ trật tự thời gian giữa các bloc sự kiện của từng

đoạn ở phần IV tiểu thuyết "Cha và con" ............................... 100
3.3.3.5. Quan hệ trật tự thời gian giữa các bloc sự kiện của từng
đoạn trong phần V tiểu thuyết "Cha và con" ......................... 101
3.3.3.6. Quan hệ trật tự thời gian giữa các bloc sự kiện của từng
đoạn trong phần VI tiểu thuyết "Cha và con" ....................... 103
3.3.4. Quan hệ trật tự thời gian giữa các sự kiện nhỏ trong từng bloc sự
kiện của tiểu thuyết "Cha và con" ...................................................... 105
3.4. Quan hệ tần số trong tiểu thuyết "Cha và con" ............................. 105
3.5. So sánh liên kết nội dung theo quan hệ thời gian giữa hai tiểu thuyết
“Búp sen xanh” và “Cha và con” ............................................................ 106
3.5.1. Về quan hệ thời hạn................................................................... 107
3.5.2. Về quan hệ trật tự thời gian ....................................................... 110
3.5.3. Về quan hệ tần số ...................................................................... 111
3.6. Tiểu kết ............................................................................................... 113
KẾT LUẬN ................................................................................................ 114
Tài liệu tham khảo .................................................................................... 117


MỞ ĐẦU
1 - Lí do chọn đề tài
Liên kết nội dung là kiểu liên kết có tác dụng quyết định đối với sự tồn
tại của tác phẩm văn học cũng như đối với việc hình thành phong cách tác giả.
Tuy nhiên, việc nghiên cứu liên kết nội dung trong các tác phẩm văn học nói
chung hiện chưa được quan tâm nhiều. Đặc biệt, việc nghiên cứu liên kết nội
dung trong các tác phẩm viết về cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cho đến
nay vẫn chưa có ai thực hiện. Trong khi đó, những tác phẩm viết về cuộc đời
của Người ngày càng được giới nhà văn và xã hội quan tâm. Làm thế nào để
có được những tác phẩm hay viết về vị lãnh tụ kiệt xuất của dân tộc? Đó là
một câu hỏi, đồng thời cũng là một đòi hỏi của các thế hệ hôm nay và mai
sau. Trong số những tác phẩm viết về quãng đời niên thiếu của Chủ tịch Hồ

Chí Minh có hai tác phẩm tiêu biểu của hai nhà văn được đông đảo bạn đọc
chú ý là Búp Sen Xanh của nhà văn Sơn Tùng và Cha và Con của nhà văn Hồ
Phương. Để tìm hiểu vai trò của liên kết nội dung trong việc tạo nên sự thành
công của tác phẩm, chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu:
“So sánh đặc điểm sử dụng phép liên kết nội dung qua hai tác phẩm
viết về Bác Hồ “(Búp Sen Xanh - Sơn Tùng và Cha và Con - Hồ Phương)
2- Ý nghĩa của luận văn
Luận văn được thực hiện sẽ có ý nghĩa về lí luận và thực tiễn. Về lí
luận, luận văn sẽ bổ sung thêm về lí thuyết liên kết văn bản. Về thực tiễn, luận
văn có ý nghĩa quan trọng trong việc góp phần đánh giá giá trị của tác phẩm
viết về thời niên thiếu của Hồ Chí Minh và quá trình hình thành tư tưởng yêu
nước của Người. Đây là một việc làm thiết thực hưởng ứng phong trào học
tập và làm theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh từ góc độ chuyên môn của
người làm công tác nghiên cứu ngôn ngữ học.

1


Ngoài ra ở góc độ xuất bản sách, các kết quả nghiên cứu của đề tài còn
giúp ích trực tiếp công tác biên tập và xử lý bản thảo.
3- Đối tượng, mục đích và phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là 2 văn bản "Búp Sen Xanh" của
nhà văn Sơn Tùng (NXB Kim Đồng, năm 2008) và "Cha và Con" của nhà
văn Hồ Phương (NXB Kim Đồng, năm 2008).
Mục đích của luận văn là tìm hiểu giá trị của các phép liên kết nội dung
trong việc xây dựng 1 văn bản nghệ thuật và quá trình hình thành phong cách
nhà văn; Phạm vi nghiên cứu của luận văn là các phép liên kết nội dung được
sử dụng trong 2 bộ tiểu thuyết “Búp sen xanh”, “Cha và con”.
4- Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp chủ đạo được sử dụng trong việc nghiên cứu đề tài này là

phương pháp miêu tả và so sánh. Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng phương
pháp của phân tích diễn ngôn: đặt mọi hiện tượng ngôn ngữ trong đồng văn
bản và ngữ cảnh tình huống, kể cả ngữ cảnh văn hoá.
5- Cấu trúc của luận văn
Nội dung luận văn sẽ được cấu tạo như sau:
Chương 1: Cơ sở lí thuyết
Chương này dành cho việc trình bày và phân tích những vấn đề lí luận
ngôn ngữ làm cơ sở cho việc nghiên cứu ở những chương sau. Nội dung cơ
bản của chương 1 gồm:
- Vài vấn đề về tình hình nghiên cứu ngữ pháp văn bản.
- Đặc trưng của thể loại tiểu thuyết
- Những cách hiểu về liên kết trong văn bản

2


Chương 2: Liên kết nội dung thể hiện qua quan hệ thời gian trong
tiểu thuyết "Búp Sen Xanh"
1. Quan hệ thời hạn trong tiểu thuyết “Búp sen xanh”
- Quan hệ thời hạn giữa các phần trong “Búp sen xanh”
- Quan hệ thời hạn giữa các chương ở từng phần
- Quan hệ thời hạn giữa các bloc sự kiện ở từng chương của từng phần
2. Quan hệ trật tự thời gian
2.3.1. Quan hệ trật tự thời gian giữa các phần
2.3.2. Quan hệ trật tự thời gian giữa các chương ở từng phần
3. Quan hệ tần số
4. Tiểu kết
Chương 3: Liên kết nội dung thể hiện qua quan hệ thời gian trong
tiểu thuyết "Cha và Con"
1. Quan hệ thời hạn trong tiểu thuyết “Cha và Con”

- Quan hệ thời hạn giữa các phần trong “Cha và Con”
- Quan hệ thời hạn giữa các chương ở từng phần
- Quan hệ thời hạn giữa các bloc sự kiện ở từng chương của từng phần
2. Quan hệ trật tự thời gian
2.3.1. Quan hệ trật tự thời gian giữa các thành phần
2.3.2. Quan hệ trật tự thời gian giữa các chương ở từng phần
3. Quan hệ tần số
4. So sánh hai tác phẩm Búp sen xanh và Cha và Con
5. Tiểu kết
KẾT LUẬN

3


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1.1. Văn bản
1.1.1 Khái niệm văn bản
Văn bản là một khái niệm đã được đề cập từ xa xưa. Nhưng ngôn ngữ
học văn bản với tư cách là một lĩnh vực nghiên cứu khoa học thì mới ra đời
giữa những năm 60 của thế kỉ XX. Trước khi ngôn ngữ học văn bản ra đời thì
câu được coi là đơn vị lớn nhất trong nghiên cứu ngôn ngữ học truyền thống.
Cái tên ngôn ngữ học văn bản được khởi xướng từ E. Coseriu năm 1955-1956
và qua nhiều công trình nghiên cứu của các nhà ngôn ngữ học, nó trở thành phổ biến
trên thế giới. Từ đó, văn bản nghiễm nhiên trở thành đối tượng của ngôn ngữ học và nó
chính là đơn vị ngôn ngữ cao nhất trong nghiên cứu ngôn ngữ.
Cũng giống như các thuật ngữ chỉ các đơn vị ngôn ngữ khác, thuật ngữ “văn
bản” cho đến nay đã có khá nhiều định nghĩa và các cách hiểu khác nhau.
Theo định nghĩa trong Bách khoa thư ngôn ngữ và ngôn ngữ học thì
văn bản là một loại đơn vị được làm thành từ một khúc đoạn lời miệng hay lời

viết, hoặc lớn hoặc nhỏ, có cấu trúc, có đề tài... loại như một truyện kể, một
bài thơ, một đơn thuốc, một biển chỉ đường...
Theo M.A.K Halliday trong cuốn Liên kết trong tiếng Anh - xuất bản
năm 1994: Từ văn bản được dùng trong ngôn ngữ học để chỉ một đoạn nào
đó, được nói ra hay được viết ra, có độ dài bất kì, tạo lập được một tổng thể
hợp nhất.
Hiện nay văn bản không được hiểu chỉ là một tập hợp những câu có
phẩm chất như câu mà văn bản được hiểu như là một loại đơn vị khác hẳn

4


câu, trong đó mặt nghĩa là mặt quan trọng nhất [theo Diệp Quang Ban]. Văn
bản là đơn vị của nghĩa. Một văn bản được làm thành từ một số yếu tố nghĩa
nhất định. Các yếu tố nghĩa này có quan hệ với nhau và có thể làm thành
những tầng nghĩa khác nhau, đó là cấu trúc nội dung của văn bản.
Một văn bản có thể được nhận biết qua những dấu hiệu đặc thù bên
trong bản thân nó và cũng cần được nhận biết trong mối quan hệ với những
cái khác có liên quan đến nó. Văn bản phải có đề tài thống nhất và thường là
xác định được. Văn bản có cấu trúc về mặt hình thức và về mặt nội dung.
Theo quan điểm của D.Q Ban : Mạch lạc là yếu tố quyết định việc tạo thành
văn bản, nó tạo nên mạng các mối quan hệ nghĩa, quan hệ lôgíc, quan hệ
chức năng, làm cơ sở cho tính thống nhất đề tài của văn bản. Văn bản là sản
phẩm và văn bản là quá trình.
Có thể khái quát một số khuynh hướng nghiên cứu chính đối với văn bản như sau:
1- Văn bản được xét như một lớp phân chia được thành các khúc đoạn
(L. Hjelmslev, 1953).
2- Văn bản được hiểu ở bậc điển thể là phát ngôn bất kì có kết thúc và
có liên kết, có tính chất độc lập và đúng về ngữ pháp (W. Koch, 1966).
3- Văn bản là chuỗi nối tiếp của các đơn vị ngôn ngữ được làm thành

bởi một dây chuyền của các phương tiện thế có hai trắc diện (trục dọc và
ngang) (R. Harweg, 1968).
4- Văn bản như là một đoạn lời nói hữu tận bất kì, tạo thành một thể
thống nhất xét từ quan điểm nội dung, được truyền đạt cùng với những mục
đích gián tiếp thứ cấp và có một tổ chức nội tại phù hợp với những mục đích
này, vả lại (đoạn lời này) gắn bó với những nhân tố văn hoá khác nữa, ngoài
những nhân tố có quan hệ đến bản thân ngôn ngữ. (Barthes, 1970).

5


5- Một văn bản là một đơn vị của ngôn ngữ trong sử dụng. Nó không
phải là một đơn vị ngữ pháp loại như một mệnh đề hay một câu, mà nó cũng
không được xác định bằng kích cỡ của nó. Một văn bản không phải là một cái
gì loại như một câu, chỉ có điều là lớn hơn; mà nó là một cái khác với một câu về mặt chủng
loại. Tốt hơn nên xem xét một văn bản như là một đơn vị nghĩa: một đơn vị không phải của
hình thức mà là của ý nghĩa. (Halliday, 1976 - 1994).
6- Văn bản có thể định nghĩa là điều thông báo viết có đặc trưng là tính
hoàn chỉnh về ý và cấu trúc và thái độ nhất định của các tác giả đơn vị điều
được thông báo [...]. Về phương diện cú pháp, văn bản là một hợp thể nhiều
câu (ít khi là một câu) liên kết với nhau bởi ý và bằng các phương tiện từ
vựng - ngữ pháp (L.M. Loseva, 1980).
7- Nói một cách chung nhất thì văn bản là một hệ thống mà trong đó
các câu mới chỉ là các phần tử. Ngoài các câu - phần tử, trong hệ thống văn
bản còn có cấu trúc. Cấu trúc của văn bản chỉ ra vị trí của mỗi câu và những
mối quan, liên hệ của nó với những câu xung quanh nói riêng và với toàn văn
bản nói chung. Sự liên kết là mạng lưới của những quan hệ và liên hệ ấy.
(Trần Ngọc Thêm, 1985)
8. Văn bản là một sản phẩm diễn ngôn xuất hiện một cách tự nhiên
dưới dạng nói, viết trong biểu hiện bằng cử chỉ, được nhận dạng vì những

mục đích phân tích. Nó thường là một chỉnh thể ngôn ngữ với một chức năng
giao tiếp có thể xác định được, ví dụ như một cuộc thoại, một tờ áp phích. (D.
Crystal, 1992)
Hiện nay, trong giới nghiên cứu ngôn ngữ đang tồn tại hai thuật ngữ:
Văn bản (text) và diễn ngôn (dicourse). Dưới đây, chúng tôi xin nêu một định
nghĩa của GS Diệp Quang Ban để làm cơ sở cho việc thực hiện đề tài: “Văn
bản là một loại đơn vị được làm thành từ một khúc đoạn lời nói hay lời viết,

6


hoặc lớn hoặc nhỏ, có cấu trúc, có đề tài...loại như một truyện kể, một bài
thơ, một đơn thuốc, một biển chỉ đường...” [6,tr. 50].
1.1.2 Đặc trưng của văn bản
Từ định nghĩa trên, ta có thể tìm hiểu một số đặc trưng của văn bản khi
xét văn bản với tư cách là một chỉnh thể độc lập và xét nó trong mối quan hệ
với những cái khác có liên quan đến nó.
- Về nội dung: Văn bản bao giờ cũng phải có đề tài (hoặc chủ đề xác định).
- Về cấu trúc: Văn bản có cách tổ chức hình thức và cách tổ chức nội
dung do các phong cách chức năng và thể loại mà văn bản lệ thuộc vào quy định.
- Vấn đề Mạch lạc và liên kết: Văn bản có sự nối kết đúng về nghĩa, về
logic, về chức năng giữa các bộ phận bên trong nó và với ngữ cảnh bên ngoài
văn bản- tức là có mạch lạc.
- Yếu tố chỉ lượng: Văn bản gồm nhiều câu- phát ngôn nối tiếp nhau
thường xuất hiện nhiều hơn văn bản được làm thành từ một câu- phát ngôn.
- Yếu tố định biên: Văn bản có biên giới phía trái (hay đầu vào) và biên
giới phía phải (hay đầu ra), tạo nên tính trọn vẹn với tư cách là một chỉnh thể
thống nhất.
Mỗi đặc trưng là một dấu hiệu có tác dụng nhất định góp phần làm cho
một khúc đoạn lời nói là một văn bản, trong số các đặc trưng trên thì hiện nay

đặc trưng mạch lạc và liên kết trong cách hiểu rộng được coi là đặc trưng
quyết định tính văn bản (textuality) hay chất văn bản (texture). [3, tr.51-54].
1.2. Đặc trưng của thể loại văn bản tiểu thuyết
1.2.1 Tiểu thuyết và đặc trưng thể loại của “Búp sen xanh”, “Cha và con”
Trong văn học phương Đông, tiểu thuyết vốn là những chuyện vụn vặt
đời thường, nó khác biệt với đại thuyết và trung thuyết. Và chính những
chuyện vụn vặt, đời thường ấy là những mầm mống của tiểu thuyết phương

7


Đông. Ở một số ngôn ngữ phương Tây, từ tiểu thuyết có nguồn gốc từ tiếng
La tinh, có nghĩa là chuyện mới.
Lịch sử phát triển của tiểu thuyết đã để lại cho nhân loại những kiệt tác
của văn học thế giới, từ những tiểu thuyết chương hồi của văn học Trung Hoa
đến những tiểu thuyết đồ sộ của văn học phê phán phương Tây. Cho đến ngày
nay, tiểu thuyết đã có diện mạo vô cùng phong phú và nguyên lí của nó chi
phối phần lớn các tác phẩm tự sự.
Có thể hiểu tiểu thuyết là một thể loại văn xuôi có hư cấu, thông qua
nhân vật, hoàn cảnh, sự việc để phản ánh bức tranh xã hội rộng lớn và những
vấn đề của cuộc sống con người, biểu hiện tính chất tường thuật, tính chất kể
chuyện bằng ngôn ngữ văn xuôi theo những chủ đề xác định.
Trong một cách hiểu khác, theo nhận định của Belinski: "tiểu thuyết là
sử thi của đời tư" chỉ ra khái quát nhất về một dạng thức tự sự, trong đó sự
trần thuật tập trung vào số phận của một cá nhân trong quá trình hình thành và
phát triển của nó. Sự trần thuật ở đây được khai triển trong không gian và thời
gian nghệ thuật đến mức đủ để truyền đạt cơ cấu của nhân cách.
Ở Việt Nam, tiểu thuyết xuất hiện khá muộn, mãi khoảng thế kỉ 14-16
mới có những nền móng sơ khai cho tư duy thể loại. Phải đến những năm 30
của thế kỉ 20, văn học Việt Nam mới xuất hiện tiểu thuyết với đầy đủ tính

chất của thể loại hiện đại.
1.2.2 Xu hướng cấu trúc của tiểu thuyết.
Có người cho rằng, tiểu thuyết không có một hình thức thể loại nào
hoàn kết. Ở mỗi giai đoạn, tiểu thuyết lại được các nhà văn sáng tạo ra các kĩ
thuật mới để hoàn thiện và làm giàu cho nghệ thuật tiểu thuyết. Cấu trúc của
tiểu thuyết phụ thuộc vào điều kiện lịch sử xã hội qua các giai đoạn. Ở giai
đoạn đầu, khi tiểu thuyết mới được định hình như là một thể loại lớn của văn
bản tự sự thì vai trò điều phối của người kể chuyện được đưa lên hàng đầu,

8


cốt truyện được triển khai theo cấu trúc tuyến tính dưới con mắt khách quan
của người kể chuyện.
Đến chủ nghĩa lãng mạn, cái nhìn xã hội của nhà văn đã thay đổi, dẫn
đến sự thay đổi trong quan niệm nghệ thuật, và từ đó là sự thay đổi của cấu
trúc tiểu thuyết. Các nhà văn lãng mạn không tố cáo xã hội mà quay lưng lại
với xã hội. Và họ đi tìm cái đẹp của nghệ thuật trong quá khứ, trong nội tâm
con người, trong cái tôi cá nhân của nhà văn.
Quá trình phát triển thể loại tiểu thuyết hiện đại, chủ yếu là ở văn học
châu Âu, cho thấy có hai hướng cấu trúc tiểu thuyết.
- Tiểu thuyết mở: Tiểu thuyết mở miêu tả xã hội một cách đa diện, tạo
các lý do thật chi tiết cho sự tiến triển của nhân vật chính, cho nhân vật này
can dự vào nhiều biến cố và những biến cố ấy lại là nơi cư ngụ cho vô số
nhân vật phụ. Kiểu tiểu thuyết này cũng đặc trưng ở sự miêu tả rộng rãi hoàn
cảnh ngoại giới khách quan mà trước nhất là hoàn cảnh xã hội.
-Tiểu thuyết đóng: Tiểu thuyết theo xu hướng cấu trúc "đóng" thể hiện sự
tập trung vào cuộc đời của một con người, đôi khi vào chỉ một xung đột, một
tình huống, do đó mang tính hướng tâm, đồng tâm, xét về kết cấu. Xu hướng
cấu trúc tiểu thuyết này đã trở thành ngọn nguồn của những sáng tác tiểu

thuyết tâm lý giai đoạn sau.
1.2.3 Đặc trưng của tiểu thuyết
- Tính chất văn xuôi
Là một thể loại cao cấp nhất thuộc phương thức tự sự, tính chất văn xuôi,
vì vậy, trở thành đặc trưng tiêu biểu cho nội dung của thể loại. Tính chất đó
đã tạo nên trường lực mạnh mẽ để thể loại dung chứa toàn vẹn hiện thực,
đồng hóa và tái hiện chúng trong một thể thống nhất với những sắc màu thẩm
mỹ mới vượt lên trên hiện thực, cho phép tác phẩm phơi bày đến tận cùng sự
phức tạp muôn màu của hiện thực đời sống.

9


- Nghệ thuật kể truyện
Giống như các hình thái tự sự khác như truyện ngắn, truyện vừa, tiểu
thuyết lấy nghệ thuật kể chuyện làm giọng điệu chính của tác phẩm. Thông
thường ở tác phẩm xuất hiện người kể chuyện như một nhân vật trung gian có
nhiệm vụ miêu tả và kể lại đầu đuôi diễn biến của chuyện. Tuy sự tồn tại của
yếu tố này là ước lệ nghệ thuật của nhiều thể loại thuộc tự sự, nghệ thuật kể
chuyện của tiểu thuyết vẫn cho thấy sự đa dạng đặc biệt về phong cách: có thể
thông qua nhân vật trung gian, có thể là nhân vật xưng "tôi", cũng có thể là
một nhân vật khác trong tác phẩm, tạo nên các tác phẩm có một điểm nhìn trần
thuật. Hiện nay, một trong những xu hướng tìm tòi đổi mới tiểu thuyết là việc tăng thêm các
điểm nhìn ở tác phẩm, khi vai trò của nhân vật trung gian hoặc nhân vật xưng "tôi" được
"san sẻ" cho nhiều nhân vật trong cùng một tác phẩm.
- Khả năng phản ánh toàn vẹn hiện thực
Đặc trưng lớn nhất của tiểu thuyết chính là khả năng phản ánh toàn vẹn
và sinh động đời sống theo hướng tiếp xúc gần gũi nhất với hiện thực. Là một
thể loại tiêu biểu cho phương thức tự sự, tiểu thuyết có khả năng bao quát lớn
về chiều rộng của không gian cũng như chiều dài của thời gian, cho phép nhà

văn mở rộng tối đa tầm vóc của hiện thực trong tác phẩm của mình.
Ở phương diện khác, tiểu thuyết là thể loại có cấu trúc linh hoạt, không chỉ cho phép
mở rộng về thời gian, không gian, nhân vật, sự kiện mà còn ở khả năng dồn nhân vật và sự
kiện vào một khoảng không gian và thời gian hẹp, đi sâu khai thác cảnh ngộ riêng và khám
phá chiều sâu số phận cá nhân nhân vật.
- Hư cấu nghệ thuật
Hư cấu nghệ thuật cũng được coi là một đặc trưng của thể loại, là một
thao tác nghệ thuật không thể thiếu trong tư duy sáng tạo của tiểu thuyết. Hư
cấu cho phép tác phẩm tái hiện những thời đại lịch sử phát triển trong câu
chuyện hư cấu, không hiện thực như sử học, và những nhân vật hoàn toàn

10


không bị lệ thuộc bởi nguyên mẫu ngoài đời như những tác phẩm thuộc thể
ký. Trong vô vàn những gương mặt đời thường và giữa muôn ngàn biến cố
của lịch sử, nhà văn khi trước tác một tác phẩm tiểu thuyết đã thực hiện
những biện pháp nghệ thuật đồng hóa và tái hiện bức tranh đời sống bằng
phương thức chọn lọc, tổng hợp và sáng tạo. Khi đó, hư cấu nghệ thuật, đối
với tiểu thuyết đã trở thành yếu tố bộc lộ rõ rệt phẩm chất sáng tạo dồi dào
của nhà văn.
- Tính đa dạng về sắc độ thẩm mỹ
Tính đa dạng về màu sắc thẩm mỹ cũng là một đặc trưng tiêu biểu của
thể loại. Các thể loại văn học khác thường chỉ tiếp nhận một sắc thái thẩm mỹ
nào đó để tạo nên âm hưởng của toàn bộ tác phẩm, như bi kịch là cái cao cả,
hài kịch là cái thấp hèn, thơ là cái đẹp và cái lý tưởng. Ở tiểu thuyết không
diễn ra quá trình chọn lựa màu sắc thẩm mỹ khi tiếp nhận hiện thực mà nội
dung của nó thể hiện sự pha trộn, chuyển hóa lẫn nhau của các sắc độ thẩm
mỹ khác nhau: cái cao cả bên cái thấp hèn, cái đẹp bên cái xấu, cái thiện lẫn
cái ác, cái bi bên cạnh cái hài v.v.

1.2.4 Đặc trưng của “Búp sen xanh”, “Cha và con”
Búp sen xanh và Cha và con là hai tiểu thuyết lịch sử, vì thế đặc trưng
thể loại của hai tác phẩm này có nhiều nét tương đồng. Hai tác phẩm cùng kể
về thời niên thiếu của Bác Hồ cho đến lúc Người ra đi tìm đường cứu nước.
Trong hai tiểu thuyết này, mốc thời gian, nhân vật và sự kiện chính là sự thật
lịch sử vì thế hư cấu nghệ thuật sẽ bị hạn chế. Tuy nhiên bằng ngòi bút tài
tình, hai nhà văn đã làm nổi bật nhân cách và trí tuệ của vị lãnh tụ từ khi còn
là cậu bé Côn.
1.3 Vấn đề liên kết nội dung
1.3.1 Liên kết

11


Nói đến văn bản là nói đến liên kết. Liên kết góp phần cho việc một sản
phẩm ngôn ngữ trở thành một văn bản. Văn bản không phải là phép cộng đơn
thuần giữa các câu, vì vậy giới nghiên cứu ngôn ngữ học văn bản đã chú ý
đến "những sợi dây liên hệ" giữa các câu. K. Boost viết năm 1949: "Những
sợi dây này kéo dài từ câu nọ sang câu kia nhiều đến nỗi tạo nên một mạng
lưới dày đặc (...), trong đó mỗi câu riêng biệt gắn bó chặt chẽ với những câu
còn lại” "[39,159].
Từ đấy "tính liên kết" được xem là một phát hiện mới, thuộc cấp độ
trên câu. Nikolaeva (1978) và R. Harweg (1968) đã nghiên cứu hiện tượng
"lặp" và gọi chúng là "phép đại từ hoá"[ 39 ]. Đây là hiện tượng liên kết được
khảo sát sớm nhất.
Tuy liên kết là một hiện tượng không khó nhận biết, nhưng cách hiểu
về nó lại rất đa dạng và không dễ đi đến thống nhất.
Trong giai đoạn đầu, các nhà nghiên cứu chỉ tập trung phân tích liên kết
ở những biểu hiện hình thức. Cụ thể là, từ những dấu hiệu liên kết hình thức,
người ta đi tìm những phương thức và phương tiện liên kết. Tuy nhiên khi xét

đến tính liên kết trong một văn bản thì có một vấn đề đáng chú ý là, một sản
phẩm ngôn ngữ có thể có liên kết giữa các câu nhưng nó vẫn không phải là
một văn bản đích thực vì sản phẩm đó không có cùng nội dung. Nó chỉ là các
chuỗi câu được liên kết với nhau đơn thuần về mặt hình thức. Người ta sẽ
thấy ngay sự vô lí khi một sản phẩm "phi văn bản" cũng được xem là văn bản
chỉ bởi trong nó có liên kết hình thức. Khi tách khỏi liên kết nội dung thì
ngoại diên của khái niệm "tính liên kết" trở nên rất rộng.
Đến giai đoạn thứ hai, việc nghiên cứu văn bản được phát triển một
cách sâu rộng hơn thì "tính liên kết" lại được hiểu theo hướng khác. Ngoài
liên kết hình thức, giới nghiên cứu bắt đầu chú ý đến tính liên kết được thể

12


hiện ở phương diện ngữ nghĩa. Ở cấp độ văn bản , cú pháp được xây dựng
trước hết dựa trên cơ sở sự phù hợp những đặc trưng ngữ nghĩa của các đơn vị
thuộc cấp độ dưới. Do đó, khi bàn về sự tương tác giữa cú pháp của câu với cú pháp của
văn bản, V.V. Bogdanov nhấn mạnh rằng "điều quan trọng là sự tương tác ấy hoàn toàn dựa
trên cơ sở ngữ nghĩa". Như vậy, ở giai đoạn này người ta đòi hỏi văn bản phải có đầy đủ cả
liên kết hình thức và liên kết ngữ nghĩa.
Cho đến nay có hai hướng hiểu về liên kết là rõ ràng nhất:
- Quan niệm thứ nhất coi liên kết văn bản thuộc mặt cấu trúc của hệ
thống ngôn ngữ. Và liên kết ở đây xét về cả mặt liên kết hình thức và liên kết
nội dung. Và vì vậy người ta xét một sản phẩm ngôn ngữ có được xem là một
văn bản hay không phụ thuộc vào việc nó có liên kết hay không có liên kết.
- Quan niệm thứ hai cho rằng liên kết không thuộc về cấu trúc của ngôn
ngữ, mặc dù bản thân các yếu tố cấu trúc trong ngôn ngữ có thuộc tính liên
kết. Như vậy liên kết ở đây thuộc về ý nghĩa chứ không thuộc cấu trúc. Và chỉ
các phương tiện hình thức của ngôn ngữ thực hiện chức năng đó mới thuộc
liên kết. Với cách hiểu này thì liên kết không giữ vai trò là yếu tố quyết định

để xem xet một sản phẩm ngôn ngữ có được coi là văn bản hay không.
Hai quan niệm này bắt nguồn từ cách hiểu hai thuật ngữ hệ thống và
cấu trúc trong ngôn ngữ học. Ở Việt Nam, quan niệm ngôn ngữ là một hệ
thống vẫn phổ biến. Hệ thống này gồm các yếu tố có quan hệ qua lại và quyết
định lẫn nhau, trong đó các kiểu quan hệ làm thành mặt cấu trúc của hệ thống.
Hệ thống liên kết của Halliday và Hassan được công bố lần đầu năm
1976 cho rằng liên kết là do các yếu tố ngôn ngữ làm thành các hệ thống con,
các đối hệ không tính sự liên kết do các quan hệ cấu trúc của các yếu tố ngôn
ngữ tạo ra và cho rằng cấu trúc tự thân đã là liên kết. Với cách hiểu này thì

13


liên kết chỉ đề cập đến các yếu tố hình thức, vì thế không có sự phân biệt liên
kết hình thức với liên kết nội dung.
Theo D.Q. Ban: "Liên kết là thứ quan hệ nghĩa giữa hai yếu tố ngôn
ngữ nằm trong hai câu theo kiểu giải thích nghĩa cho nhau. Nói chi tiết hơn,
liên kết là thứ quan hệ nghĩa giữa hai yếu tố mà muốn hiểu nghĩa cụ thể của
yếu tố này thì phải tham khảo nghĩa của yếu tố kia, và trên cơ sở đó hai câu
chứa chúng liên kết được với nhau".
Trong luận văn này, chúng tôi đi theo hướng khái niệm liên kết hình
thức và liên kết nội dung trong "Hệ thống liên kết văn bản TV" của Trần
Ngọc Thêm với sự bổ sung những yếu tố cần thiết.
1.3.2 Liên kết nội dung
Nhìn một cách khái quát, tính liên kết của văn bản có hai mặt: liên kết
hình thức và liên kết nội dung. Giữa hai mặt liên kết nội dung và liên kết hình
thức có mối quan hệ biện chứng chặt chẽ "Liên kết nội dung được thể hiện
bằng một hệ thống các phương thức liên kết hình thức, và liên kết hình thức
chủ yếu dùng để diễn đạt sự liên kết nội dung" (Trần Ngọc Thêm).
Liên kết nội dung là khái niệm thuộc loại khó định nghĩa. Đây là một

khái niệm không những trừu tượng mà còn rất phức tạp. Khái niệm này được
Trần Ngọc Thêm giải thuyết thông qua việc khảo sát ví dụ. Và ông đã rút ra
kết luận "Tất cả các câu trong đó đều phối hợp với nhau một cách hài hoà, bổ
sung cho nhau để cùng thể hiện một nội dung".
Liên kết nội dung sẽ được nhận biết rõ hơn thông qua việc xem xét hai
bình diện của nó là liên kết chủ đề và liên kết lôgic.
a- Liên kết chủ đề.

14


Khái niệm liên kết chủ đề chưa được đặt ra một cách hoàn chỉnh, song
trong những công trình nghiên cứu của các nhà ngôn ngữ học Tiệp Khắc là F.
Danes và B. Palek đã phác hoạ được một số nét cơ bản.
Liên kết chủ đề là một yếu tố quyết định xem một chuỗi câu có phải là
một văn bản hay không. Hiểu một cách chung nhất thì liên kết chủ đề yêu cầu
cả văn bản phải xoay quanh chủ đề lớn. Chủ đề lớn của văn bản được chia ra
thành những chủ đề nhỏ hơn. Và liên kết chủ đề của văn bản chính là sự tổ
chức những chủ đề con ấy trong văn bản để đảm bảo nó thuộc chủ đề lớn.
Đơn vị cơ sở tham gia liên kết chủ dề là các đối tượng của hiện thực,
chủ yếu là các sự vật, khái niệm... Liên kết chủ đề bao gồm: duy trì chủ đề và
triển khai chủ đề.
- Duy trì chủ đề là nhắc lại cùng một vật, một việc nào đó trong các câu
có liên kết với nhau.
- Triển khai chủ đề là đưa thêm những chủ đề khác có liên quan đến
chủ đề ban đàu, đảm bảo tính lôgíc để các câu chứa chúng liên kết với nhau.
Để thực hiện phép liên kết duy trì chủ đề, người ta dùng các phép liên
kết: lặp từ vựng thế đồng nghĩa, thế đại từ, tỉnh lược yếu, tỉnh lược mạnh.
Việc sử dụng những phép liên kết này sẽ tạo ra một chuỗi chủ đề đồng nhất,
có nghĩa là văn bản sẽ được duy trì chủ đề.

Theo Trần Ngọc Thêm, "nguyên tắc chung nhất của việc sử dụng các
phương thức liên kết duy trì chủ đề khác nhau có tác dụng làm tăng độ liên
kết và tính đa dạng của văn bản, nhưng không được vì thế mà làm ảnh hưởng
đến tính chính xác trong việc xác định chủ tố, cũng như không được gây khó
khăn cho việc tiếp thu".
Trần Ngọc Thêm đã hệ thống các quy tắc liên kiết duy trì chủ đề như sau:

15


* Quy tắc chung:
- Kết tố của phép thế đại từ và các phép tỉnh lược phải có chư tố, nếu
không thì không thể sử dụng các phương thức liên kết này.
- Chủ tố của phép thế đại từ và các phép tỉnh lược phải đứng trước kết tố.
* Các quy tắc cụ thể:
- Quy tắc liên kết bắc cầu: các phép thế và tỉnh lược chỉ có thể dùng để
liên kết bắc cầu khi.
+ Được sử dụng lặp lại liên tục trong cả khoảng bắc cầu.
+ Có những phương thức liên kết khác đi kèm để hỗ trợ cho việc xác
định chủ tố được chính xác.
- Quy tắc sử dụng các phương thức duy trì chủ đề khi có nhiều "ứng cử viên" chủ tố
trong chủ ngôn: Nếu trong chủ ngôn có từ hai đối tượng đồng loại có khả năng làm chủ tố
thì các phép thể và tỉnh lược chỉ có thể dùng được khi.
+ Có những phương thức liên kết khác đi kèm hỗ trợ cho việc xác định
chủ tố được đơn nhất
+ Chủ tố chính là đối tượng đứng sau cùng trong chủ ngôn.
- Quy tắc liên kết phương thức: Nếu trong cùng một cặp phát ngôn, một
trong các phép thế hoặc tỉnh lược được sử dụng trên một lần thì những cặp
liên kết này phải ít nhất thoả mãn một trong ba điều kiện:
+ Giữa chủ tố và kết tố của từng cặp phải có những nét nghĩa chung

cho phép khu biệt nó với các cặp liên kết còn lại. Điều kiện này chỉ áp dụng
cho các phép thế.
+ Giữa 2 phát ngôn phải có các phương thức khác đi kèm hỗ trợ cho
việc giới định từng cặp liên kết được chính xác.

16


+ Có sự tương ứng về vị trí của từng cặp liên kết.
Để liên kết triển khai chủ để trong văn bản có thể dùng phép liên tưởng
hoặc phép đổi. Hai phép liên kết này có thể tạo ra chuỗi chủ đề khu biệt. Mục
đích của những chuỗi chủ đề này cũng là phục vụ cho chủ đề chung của
những phần được liên kết. Và tất nhiên, những chủ đề được triển khai phải
phù hợp lôgic với chủ đề chung.
b- Liên kết lôgic.
Nếu ở liên kết chủ đề sự chú ý tập trung vào vật, việc được nói đến thì
ở liên kết lôgic, cái được chú ý đầu tiên là phần nêu đặc trưng của vật, việc
được nói đến. Người ta xét liên kết lôgic ở hai phạm vi rộng hẹp: đó là phạm
vi bên trong một câu và giữa câu với câu.
Có thể hiểu liên kết lôgic là sợi dây nối kết hợp lí giữa vật, việc với đặc
trưng của chúng trong một câu và giữa đặc trưng này với đặc trưng kia trong
những câu liên kết với nhau.
Các sự vật, khái niệm cũng có thể là đơn vị liên kết lôgic nhưng chỉ ở
những cấp độ thấp. Về mặt ngôn ngữ, các đơn vị liên kết lôgic thể hiện bằng
các từ, cụm từ phát ngôn, chuỗi phát ngôn.
Sự kết hợp của hai đơn vị ngôn ngữ sẽ được coi là có liên kết lôgic khi
chúng phù hợp với nhau theo những quan hệ ngữ nghĩa nhất định. Quan hệ
ngữ nghĩa có nhiều loại. Quan hệ ngữ nghĩa mang tính khái quát cao, được
nhiều khoa học quan tâm như: quan hệ thứ tự, quan hệ bao hàm, quan hệ
tương tự, quan hệ đồng nhất, quan hệ mâu thuẫn... Quan hệ làm nhiệm vụ cụ

thể hoá cho các quan hệ trên là quan hệ bậc 2. Rồi những quan hệ bậc 2 này
được tiếp tục cụ thể hoá, quá trình này mỗi lúc một phụ thuộc nhiều hơn và
gắn bó chặt hơn với những nhân tố ngoài ngôn ngữ.

17


Liên kết nội dung chỉ là một biểu hiện của mạch lạc. Mạch lạc là nhân
tố bao trùm lên liên kết nội dung giữa các phát ngôn.
1.3.3 Mạch lạc
1.3.3.1 Định nghĩa mạch lạc
Mạch lạc là vấn đề mới mẻ và phức tạp của ngôn ngữ học. Cho đến
nay, những giải thuyết về mạch lạc vẫn còn chưa thống nhất.
- Theo M.A.K Halliday và Hasan: “Mạch lạc được coi như phần còn
lại (sau khi trừ liên kết) thuộc về ngữ cảnh của tình huống (context of
situation) với những dấu nghĩa tiềm ẩn (redisters). Mạch lạc được coi là phần
bổ sung cần thiết cho liên kết, là một trong những điều kiện tạo thành chất
văn bản (texture)”. (Dẫn theo [28]).
- Theo David Nunan: “Mạch lạc là ‘tầm rộng’ mà ở đó diễn ngôn được
tiếp nhận như là ‘có mắc vào nhau’ chứ không phải là một tập hợp câu và
phát ngôn không có liên quan với nhau” [49,tr.135].
- Theo Diệp Quang Ban: “Cách nhìn chung nhất hiện nay là những từ
ngữ trực tiếp diễn đạt các quan hệ kết nối giữa các câu- phát ngôn làm thành
các tiểu hệ thống (các phương tiện liên kết) thì được xếp vào liên kết, còn
những mối quan hệ kết nối nào thiết lập được thông qua ý nghĩa giữa các câu
thì thuộc về mạch lạc”. [4,tr.71].
- Theo Đỗ Hữu Châu: “Một văn bản, một diễn ngôn là một lập luận
đơn hay phức bất kể văn bản viết theo phong cách chức năng nào. Tính lập
luận là sợi chỉ đỏ đảm bảo tính mạch lạc (coherence) về nội dung bên cạnh
tính liên kết về hình thức (cohesion) của văn bản, của diễn ngôn”. [6, tr.174].

Nhìn chung có thể quy về ba cách hiểu mạch lạc trong quan hệ với liên
kết văn bản như sau:

18


Cách hiểu thứ nhất:
Xem mạch lạc là những mối quan hệ kết nối được thiết lập thông qua ý
nghĩa giữa các phát ngôn. Cách nhìn nhận này đi từ đơn vị tế bào của văn bản.
Cách hiểu thứ hai:
Mạch lạc bổ sung cho liên kết để tạo thành chất keo gắn kết các thành
phần của văn bản, là nhân tố quan hệ hướng ngoại giữa văn bản với ngữ cảnh
tình huống và thể loại, phong cách văn bản. Đây là cách hiểu được thể hiện
trong định nghĩa mạch lạc văn bản của tác giả Halliday và Hasan [46].
Cách hiểu thứ ba:
Mạch lạc là nhân tố bao trùm lên liên kết nội dung giữa các phát ngôn,
liên kết nội dung chỉ là một biểu hiện của mạch lạc. Cách nhìn nhận này đi từ
chỉnh thể đến bộ phận, các đơn vị tế bào của văn bản.
Khái niệm mạch lạc văn bản tuy chưa thống nhất nhưng các nhà nghiên
cứu đều coi mạch lạc là điều kiện và đặc trưng cơ bản nhất của một văn bản
đích thực. Tuy nhiên mạch lạc vẫn là một cái gì đó khó nắm bắt, bởi vì nó
thuộc về tầm rộng và chiều sâu cấu trúc nội dung của toàn văn bản. Trong
khuôn khổ luận văn này, chúng tôi thiên về cách hiểu thứ 3. Xem liên kết nội
dung chỉ là một phần của mạch lạc. Phân tích liên kết nội dung để thấy được
mạch lạc của văn bản.
1.3.3.2. Biểu hiện của mạch lạc
Với cách hiểu chung của văn học, tâm lí học và ngôn ngữ học, mạch lạc
tồn tại trong ba phạm vi khái quát nhất là: Trong quan hệ nghĩa- logic giữa
các từ ngữ trong văn bản với ngữ cảnh tình huống và trong quan hệ giữa các
hành động nói (mạch lạc diễn ngôn). Ở mỗi phạm vi, mạch lạc lại có những

biểu hiện cụ thể của nó.
 Mạch lạc trong quan hệ nghĩa- logic giữa các từ ngữ trong văn bản

19


Giữa các từ ngữ nằm trong một câu cũng như các từ ngữ nằm trong các
câu khác nhau mà có quan hệ nghĩa- logic với nhau (nhưng không phải bao
giờ cũng có) thường góp phần tạo nên mạch lạc trong cách hiểu rộng về từ
mạch lạc.
Mạch lạc trong quan hệ nghĩa- logic giữa các từ ngữ trong văn bản
được thể hện ở bốn trường hợp sau:
*Mạch lạc trong quan hệ nghĩa- logic giữa vật nêu ở chủ ngữ với
đặc trưng nêu ở vị ngữ.
Một câu (mệnh đề) không chỉ đúng về mặt ngữ pháp mà còn phải có
quan hệ nghĩa- logic với nhau. Và một câu chỉ được coi là mạch lạc khi đặc
trưng nêu ở vị ngữ phải phù hợp với vật nêu ở chủ ngữ. Ngược lại, nếu chúng
không dung hợp được với nhau thì câu đó không được chấp nhận.
*Mạch lạc trong quan hệ nghĩa giữa các đề tài (chủ đề) của các câu
Trong các câu, quan hệ giữa các đề tài (chủ đề) được thực hiện theo hai
cách là duy trì đề tài và triển khai đề tài.
*Mạch lạc biểu hiện trong quan hệ nghĩa giữa các thành phần nêu
đặc trưng ở những câu có quan hệ nghĩa với nhau
Quan hệ nghĩa giữa các câu (mệnh đề) phải phù hợp với nhau, tạo
thành một mạch chung văn bản. Ngược lại, nó sẽ gây cười đối với người tiếp
nhận văn bản.
*Mạch lạc biểu hiện trong trình tự hợp lí giữa các câu (mệnh đề)
Trong mối quan hệ nghĩa- logic giữa các câu (mệnh đề) thường được
thể hiện theo trình tự hợp lí bao gồm:
-Trình tự theo quan hệ nguyên nhân

-Trình tự theo quan hệ thời gian
-Trình tự theo quan hệ không gian

20


×