ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
Hoàng Tuấn Anh
Năng lực cạnh tranh của ngân hàng TMCP Quốc tế
Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
LUẬN VĂN THẠC SỸ
Hà nội - 2007
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ
Hoàng Tuấn Anh
Năng lực cạnh tranh của ngân hàng TMCP Quốc tế
Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
Luận văn Thạc sĩ Kinh doanh và quản lý
Mã Số: 60.34.05
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Trịnh Thị Hoa Mai
Hà nội - 2007
LỜI NÓI ĐẦU
1.
Sự cần thiết nghiên cứu của đề tài
Quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang diễn ra nhanh
chóng, quyết liệt và trở thành xu thế phát triển không thể đảo ngược của nền kinh
tế thế giới hiện nay. Trong quá trình này, sự liên kết phụ thuộc lẫn nhau giữa các
nền kinh tế trên thế giới nói chung và giữa các thành phần trong nền kinh tế của
mỗi quốc gia nói riêng đang ngày một gia tăng, được thể hiện ở xu hướng tăng
cường các hoạt động hợp tác song phương, đa phương và các cấp độ liên kết khu
vực.
Nhận thức rõ xu thế phát triển tất yếu của nền kinh tế thế giới. Việt Nam đã
xác đinh rõ sự cần thiết phải tham gia hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế. Hội
nhập kinh tế quốc tế đã và đang tiếp tục được khẳng định là một nội dung quan
trọng trong công cuộc đổi mới của Việt Nam hiện nay và được thực hiện với quy
mô và mức độ ngày càng cao.
Với đặc điểm là nền kinh tế đi sau, có điểm xuất phát thấp nên hội nhập
kinh tế của Việt nam là một quá trình mới mẻ và khó khăn. Để từng bước hội nhập
theo xu thế kinh tế quốc tế, nhiệm vụ của chúng ta là xác định đúng vị thế của
mình nhằm đề ra những chính sách hội nhập thích hợp và giảm thiểu những
thương tổn có thể xảy ra đối với nền kinh tế trong quá trình hội nhập kinh tế quốc
tế.
Tiền tệ - Ngân hàng là một lĩnh vực hết sức nhạy cảm đối với nền kinh tế
quốc dân. Với tư cách là những doanh nghiệp “đặc biệt”, hoạt động của hệ thống
NHTM liên quan đến tất cả các chủ thể trong nền kinh tế. Vì vậy, một hệ thống
ngân hàng hoạt động hiệu quả sẽ thực hiện tốt vai trò trung gian tài chính trong
việc dẫn vốn từ nơi có nguồn vốn nhàn rỗi đến những nơi có nhu cầu về vốn và
cũng không thể có một nền kinh tế mạnh với một hệ thống NHTM yếu kém và
ngược lại.
Để hoạt động kinh doanh có hiệu quả và đứng vững trong quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế, các NHTM phải hoạt động theo nguyên tắc thị trường. Mở
cửa thị trường tài chính trong nước sẽ dẫn đến quá trình tái cơ cấu lại hệ thống
1
Ngân hàng, phân chia lại thị trường giữa các Ngân hàng theo hướng cân bằng hơn,
thị phần của các NHTM Nhà nước có thể bị giảm, thị phần của các NHTM Cổ
phần và các Chi nhánh ngân hàng nước ngoài sẽ tăng lên. Từ đó sẽ xuất hiện các
Ngân hàng hoạt động theo hướng chuyên môn hóa (bán buôn, bán lẻ hoặc đa
năng) tùy theo vị thế cạnh tranh của mỗi Ngân hàng. Nâng NLCT và kỷ luật thị
trường trong hoạt động ngân hàng là điều kiện để hình thành những ngân hàng có
quy mô lớn, tài chính lành mạnh và kinh doanh có hiệu quả. Các ngân hàng kinh
doanh yếu kém sẽ bị đào thải hoặc phải vươn lên nếu muốn tồn tại. Do vậy, khả
năng cạnh tranh của ngân hàng sẽ được nâng cao bởi cơ hội liên kết, hợp tác với
các đối tác trong và ngoài nước trong việc chuyển giao công nghệ, phát triển sản
phẩm và khai thác thị trường.
Dưới sự tác động của hội nhập kinh tế quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng, các
dịch vụ ngân hàng phát triển rất nhanh và có chất lượng hơn, đặc biệt là các dịch
vụ ngân hàng có hàm lượng công nghệ cao. Qua đó, uy tín và vị thế của NHTM sẽ
được nâng lên, ít nhất là ở thị trường khu vực và từ đó sẽ góp phần thúc đẩy sự
phát triển của khu vực tài chính, khơi thông dòng vốn, các NHTM trong nước có
khả năng huy động các nguồn vốn từ thị trường tài chính quốc tế và sử dụng vốn
có hiệu quả hơn để giảm thiểu rủi ro và các chi phí cơ hội.
Theo lộ trình ra nhập WTO thì kể từ ngày 1/4/2007 Việt nam cho phép ngân
hàng 100% vốn nước ngoài được thành lập và đi vào hoạt động tại thị trường Việt
Nam. Các ngân hàng 100% vốn nước ngoài, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài
có năng lực tài chính mạnh, có kinh nghiệm quản lý rủi ro tốt và đặc biệt có quy
trình nghiệp vụ chuẩn mực tiên tiến và công nghệ hơn hẳn các Ngân hàng Thương
mại trong nước. Đó sẽ là một thách thức lớn đối với hệ thống NHTM Việt nam,
đặc biệt là hệ thống Ngân hàng TMCP.
Trong khi đó, các ngân hàng TMCP trong nước chiếm tỷ trọng rất nhỏ (tính
đến tháng 06/2006 thì Việt nam có 37 ngân hàng TMCP và chiếm khoảng 20% thị
phần NHTM trong nước) và hầu hết nằm ở mức độ thấp về công nghệ, quy mô
vốn nhỏ, trình độ quản lý rủi ro còn nhiều hạn chế, các sản phẩm dịch vụ còn đơn
điệu, chất lượng chưa cao và còn nặng về dịch vụ ngân hàng truyền thống. Huy
2
động vốn chủ yếu dưới dạng tiền gửi(chiếm 94% tổng nguồn vốn huy động) và
cấp tín dụng là hoạt động chủ yếu(chiếm trên 80% tổng thu nhập).
Trước tình hình đó, nâng cao NLCT của các Ngân hàng TMCP Việt nam
trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế là yêu cầu hết sức thực tế và cấp thiết. Để
nghiên cứu một cách chi tiết, cụ thể, tôi đã mạnh dạn chọn đề tài “ Năng lực canh
tranh của Ngân hàng TMCP Quốc Tế Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh
tế quốc tế” làm đề tài cho Luận văn của mình.
2.
Tình hình nghiên cứu
Ở nước ta trong thời gian vừa qua đã có một số Công trình nghiên cứu liên
quan đến năng lực cạnh tranh của các NHTM, cụ thể:
-
PGS.TS Trịnh Thị Hoa Mai_Bài tham gia Hội thảo Việt nam gia nhập WTO
“Nâng cao năng lực cạnh tranh của các NHTM Việt nam trong tiến trình hội
nhập”, năm 2004. Nội dung chủ yếu của nghiên cứu này là phân tích, đánh
giá những cơ hội và cũng như những thách thức của các NHTM Việt nam khi
Việt nam ra nhập WTO. Từ đó tác giả cũng đưa ra một số nhóm giải pháp
nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các NHTM Việt nam trong tiến trình
hội nhập.
-
Nguyễn Thị Hiền, Vụ chiến lược NHNN_ Trong bài tham luận đăng trên Tạp
chí Ngân hàng số 5 tháng 03 năm 2006: “ Một số giải pháp nâng cao năng lực
cạnh tranh của hệ thống NHTM cổ phần Việt Nam” đã khái quát quá trình
hoạt động của hệ thống NHTM cổ phần Việt nam trong thời gian qua, đánh
giá những tồn tại của hệ thống NHTM cổ phần Việt Nam và đưa ra một số
giải pháp nâng cao NLCT của các NHTM cổ phần.
-
Đặng Công Hoàn_Luận án Thạc sỹ “Nâng cao khả năng cạnh tranh của các
NHTM Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế”_ Đại học Quốc
gia Hà nội, năm 2004. Công trình này đã phân tích thực trạng khả năng
cạnh tranh của hệ thống NHTM Việt Nam, từ đó đưa ra những giải pháp giải
pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của hệ thống NHTM Việt Nam trong tiến
trình hội nhập kinh tế quốc tế.
3
-
Lê Đình Hạc_Luận án Tiến sỹ Kinh tế “ Giải pháp nâng cao NLCT của các
NHTM Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế “_ĐH Kinh tế Hồ
Chí Minh năm 2005. Công trình nghiên cứu này đã nghiên cứu hoạt động
của NHTM trong điều kiện nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc
tế. Thực trạng năng lực cạnh tranh và giải pháp nâng cao NLCT của các
NHTM Việt Nam.
-
Trịnh Quốc Trung_Luận án Tiến sỹ Kinh tế “Các giải pháp nâng cao NLCT
và hội nhập của các NHTM”_Đại học Kinh tế Hồ Chí Minh , năm 2004.
Công trình này đã nghiên cứu những lí luận chung về NHTM, thực trạng
cạnh tranh và hội nhập quốc tế của các NHTM Việt Nam trong thời gian qua.
Một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh và hội nhập của NHTM Việt
Nam đến năm 2010.
Các nghiên cứu trên đây đều tập trung vào nghiên cứu, phân tích, đánh giá
một cách chung nhất về những cơ hội, thách thức, điểm mạnh, điểm yếu và khả
năng cạnh tranh của hệ thống NHTM Việt nam trong tiến trình hội nhập kinh tế
quốc tế. Tuy nhiên, vẫn cần phải có những nghiên cứu sâu, nhận thức một cách
toàn diện và có những đánh giá cụ thể, chi tiết về năng lực cạnh tranh của một
ngân hàng cụ thể, nhất là NHTM cổ phần để từ đó đề xuất ra những giải pháp
nhằm nâng cao năng lực canh tranh của NHTM cổ phần trong đó tiến trình hội
nhập kinh tế quốc tế và Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt nam đã được chọn để
nghiên cứu và đánh giá trên những tiêu chí cụ thể.
3.
Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1
Mục đích nghiên cứu
Khảo cứu thực tế hoạt động của Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam, đưa
ra những đánh giá về NLCT của Ngân hàng. Từ đó, đề xuất một số giải pháp
nhằm nâng cao NLCT của Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam trong điều kiện
hội nhập kinh tế quốc tế.
3.2
-
Nhiệm vụ nghiên cứu
Hệ thống hoá những lý luận về các yếu tố ảnh hưởng đến NLCT của các
NHTM trong cơ chế thị trường.
4
-
Phân tích, đánh giá thực trạng NLCT của Ngân hàng TMCP Quốc Tế Việt
Nam.
-
Đề xuất một số giải pháp nâng cao NLCT của Ngân hàng TMCP Quốc Tế
Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
4.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1
Đối tượng nghiên cứu
Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam và các nhân tố ảnh hưởng đến nâng
cao NLCT của Ngân hàng TMCP Quốc Tế Việt Nam trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế.
4.2
-
Phạm vi nghiên cứu
Về không gian:
÷
Luận văn tập trung vào nghiên cứu NLCT của hệ thống NHTM Việt
Nam và đồng thời luận văn cũng khảo sát một số khía cạnh về năng lực
cạnh tranh của một số chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
÷
Tập trung đi sâu vào nhóm nhân tố ảnh hưởng đến NLCT và đưa ra
những giải pháp nâng cao NLCT của Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt
Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
-
Về thời gian: Phân tích đánh giá thực trạng về NLCT của hệ thống Ngân
hàng Thương mại Việt Nam và Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam từ năm
2003 đến nay.
5.
Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, thực hiện đề tài. Luận văn chủ yếu dựa trên
phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp duy vật lịch sử, phương pháp
thống kê, tổng hợp, phân tích, đối chiếu, so sách cũng như sử dụng bảng biểu để
trình bày nội dung lý luận và thực tiễn…
6.
Dự kiến đóng góp của luận văn
Dự kiến luận văn đưa ra những đóng góp chủ yếu sau:
-
Phân tích làm sáng tỏ và khẳng định những tác động tích cực của hệ thống
NHTM cổ phần trong nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế.
5
-
Đánh giá điểm mạnh, điểm yếu cũng như cơ hội và thách thức của Ngân hàng
TMCP Quốc Tế Việt Nam
-
Đề xuất các giải pháp khắc phục những điểm yếu, điểm hạn chế để nâng cao
NLCT của Ngân hàng TMCP Quốc Tế Việt Nam và đưa Ngân hàng TMCP
Quốc Tế Việt Nam vượt qua những thách thức tụt hậu khi Việt nam ra nhập
WTO.
7.
Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được trình bày theo 3 chương:
Chương 1:
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về năng lực cạnh tranh của Ngân hàng
Thương mại.
Chương 2:
Thực trạng về năng lực cạnh tranh của Ngân hàng TMCP Quốc Tế Việt Nam.
Chương 3:
Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của Ngân hàng TMCP
Quốc Tế Việt nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
6
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ
CẠNH TRANH CỦA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1
Tổng quan về NHTM
1.1.1
Khái niệm NHTM
NHTM là một loại hình tổ chức có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế
nói chung và đối với cộng đồng địa phương nói riêng. Vậy NHTM là gì?
Theo pháp luật nước Mỹ, bất kỳ một tổ chức nào cung cấp tài khoản tiền
gửi cho phép khách hàng rút tiền theo yêu cầu và cho vay đối với các tổ chức kinh
doanh hay cho vay thương mại sẽ được xem là một NHTM.
Một cách tiếp cận khác của Peter S.Rose cho thấy: NHTM là loại hình tổ
chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc
biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài
chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.
Theo quan điểm của các nhà kinh tế Việt Nam: NHTM là một tổ chức mà
hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi, trên nguyên tắc hoàn trả, tiến
hành cho vay, chiết khấu và làm các phương tiện thanh toán. Quan điểm này cho
thấy, hoạt động của các NHTM ở Việt Nam mới chỉ bao gồm các hoạt động
truyền thống, tương ứng với hoạt động của các Ngân hàng trên thế giới ở giai
đoạn thứ nhất từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 18 và Việt Nam vẫn là một nước thiếu các
dịch vụ ngân hàng.
Theo Luật các tổ chức tín dụng số 02/1997/QH10 ngày 12 tháng 12 năm
1997, NHTM được định nghĩa là ngân hàng được thực hiện toàn bộ hoạt động
ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan vì mục tiêu lợi nhuận,
góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế của Nhà nước.
Như vậy, một cách chung nhất có thể thấy NHTM là một doanh nghiệp đặc
biệt hoạt động và kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng.
7
1.1.2
Các sản phẩm cung ứng của NHTM
Hiện nay ở nước ta , chưa có sự thống nhất về danh mục các chỉ tiêu về dịch
vụ ngân hàng và cũng chưa có công trình nghiên cứu điều tra thống kê về dịch vụ
ngân hàng. Theo một số tác giả, dịch vụ ngân hàng cần được hiểu theo hai khía
cạnh: nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng, toàn bộ hoạt động tiền tệ, tín
dụng, thanh toán, ngoại hối…của hệ thống ngân hàng đều là hoạt động cung ứng
dịch vụ cho nền kinh tế. Quan niệm này phù hợp với phân ngành dịch vụ ngân
hàng trong dịch vụ tài chính của WTO và của Hiệp định Thương mại Việt Nam –
Hoa Kỳ, cũng như nhiều nước phát triển. Còn theo nghĩa hẹp, dịch vụ ngân hàng
chỉ bao gồm các hoạt động chức năng của định chế tài chính trung gian huy động
vốn và cho vay.
Ở nước ta lĩnh vực dịch vụ ngân hàng được Luật Các tổ chức tín dụng( tại
khoản 1 và khoản 7, điều 20) quy định nhưng không định nghĩa và giải thích. Cụm
từ “hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng” được bao trùm cả ba nội
dung: Nhận tiền gửi, cấp tín dụng, cung ứng dịch vụ thanh toán. Trong phạm vi
luận văn này, tác giả chia dịch vụ ngân hàng thành hai mảng, đó là: các sản phẩm
dịch vụ truyền thống và các sản phẩm dịch vụ hiện đại.
Các sản phẩm truyền thống:
-
Tiền gửi tiết kiệm: Cho vay được coi là hoạt động sinh lời cao, do đó các
ngân hàng đã tìm kiếm mọi cách để huy động nguồn vốn cho vay. Một trong
những nguồn vốn quan trọng là các khoản tiền gửi tiết kiệm của khách hàng. Vì
vậy, đây là một trong những nguồn vốn quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn trong
nguồn vốn cho vay của ngân hàng. Hiện nay, các NHTM thường cạnh tranh bằng
cách nhận tiền gửi với nhiều loại kỳ hạn khác nhau, lãi và phương thức trả nợ
khác nhau và cố gắng đáp ứng một cách tốt nhất nhằm đem lại sự thỏa mãn cho
khách hàng.
-
Bảo quản vật có giá: Các ngân hàng thực hiện việc lưu giữ vàng và các vật
có giá khác cho khách hàng trong kho bảo quản. Ngân hàng giữ vàng và giao cho
khách tờ biên nhận (giấy chứng nhận do ngân hàng phát hành). Do khả năng chi
trả bất cứ lúc nào cho giấy chứng nhận nên giấy chứng nhận đã được sử dụng như
8
tiền – dùng để thanh toán các khoản nợ trong phạm vi ảnh hưởng của ngân hàng
phát hành. Lợi ích của việc sử dụng phương tiện thanh toán bằng giấy thay cho
bằng kim loại đã khuyến khích khách hàng gửi tiền vào ngân hàng để đổi lấy giấy
chứng nhận của ngân hàng. Đó là hình thức đầu tiên của giấy bạc ngân hàng.
Ngày nay, vật có giá được tách khỏi tiền gửi và khách hàng phải trả phí bảo quản.
-
Cung cấp các tài khoản giao dịch: Hoạt động này của ngân hàng cho phép
người gửi tiền mở một tài khoản tiền gửi giao dịch và viết séc thanh toán cho việc
mua bán hàng hoá và dịch vụ. Việc đưa ra loại tài khoản tiền gửi mới này được
xem là một trong những bước đi quan trọng nhất trong công nghiệp ngân hàng bởi
vì nó cải thiện đáng kể hiệu quả của quá trình thanh toán, làm cho các giao dịch
kinh doanh trở nên dễ dàng hơn, nhanh chóng hơn và an toàn hơn.
-
Thực hiện trao đổi ngoại tệ: Lịch sử cho thấy rằng một trong những dịch vụ
ngân hàng đầu tiên được thực hiện là trao đổi ngoại tệ và hưởng phí dịch vụ. Sự
trao đổi đó là rất quan trọng đối với khách du lịch vì họ sẽ cảm thấy thuận tiện và
thoải mái hơn khi có trong tay đồng bản tệ của quốc gia hay thành phố mà họ đến.
Trong thị trường tài chính ngày nay, mua bán ngoại tệ thường chỉ do các Ngân
hàng lớn nhất thực hiện bởi vì những giao dịch như vậy có độ rủi ro cao, đồng thời
yêu cầu phải có trình độ chuyên môn cao.
-
Chiết khấu thương phiếu: Ngay ở thời kỳ đầu các ngân hàng đã chiết khấu
thương phiếu mà thực tế là cho vay đối với các doanh nhân địa phương, những
người bán các khoản nợ (khoản phải thu) của các khách hàng cho ngân hàng để
lấy tiền mặt.
- Cho vay và đầu tư:
Cho vay kinh doanh: Các NHTM cho các doanh nghiệp vay vốn ngắn hạn
và trung dài hạn để bổ sung vốn kinh doanh. Các khoản vay ngắn hạn
thường có mục đích bổ sung vốn lưu động với các hình thức như thấu chi,
cho vay trực tiếp từng lần và cho vay luân chuyển; trong khi các khoản vay
trung dài hạn thường dùng để đầu tư vào tài sản cố định như mua sắm máy
móc thiết bị, xây dựng nhà xưởng hay thực hiện các dự án.
9
Đầu tư: Các khoản đầu tư vào chứng khoán có khả năng trao đổi trên thị
trường đóng một vai trò quan trọng trong hoạt động của ngân hàng. Chứng
khoán cung cấp một nguồn thu nhập bổ sung cho ngân hàng, đây là một
nguồn thu nhập tương đối quan trọng trong việc quản lý ngân hàng cũng
như cho các cổ đông khi thu nhập từ danh mục cho vay suy giảm.
Khoản mục đầu tư chứng khoán thanh khoản tạo nên tính lỏng cho tài sản
của ngân hàng, hỗ trợ cho nguồn tiền mặt và nguồn tiền vay từ thị trường tiền tệ
khi ngân hàng phải đáp ứng các yêu cầu thanh khoản quy mô lớn. Việc đầu tư vào
chứng khoán chất lượng cao ngân hàng có thể điều chỉnh mức rủi ro tín dụng tổng
thể trong danh mục tài sản.
Hiện nay, các ngân hàng đầu tư vào nhiều loại chứng khoán khác nhau bao
gồm các công cụ ngắn hạn trên thị trường tiền tệ như tín phiếu kho bạc, chứng
khoán của các cơ quan Chính phủ, chứng chỉ tiền gửi ngắn hạn... và các công cụ
trên thị trường vốn phổ biến là trái phiếu kho bạc, trái phiếu của Chính quyền địa
phương, chứng khoán được bảo lãnh bằng các khoản cho vay mua nhà và trái
phiếu Công ty.
-
Cung cấp các dịch vụ uỷ thác: Thực hiện hoạt động này tức là ngân hàng
quản lý tài sản và quản lý hoạt đông tài chính cho cá nhân và doanh nghiệp
thương mại. Theo đó ngân hàng sẽ thu phí trên cơ sở giá trị tài sản hay quy mô
vốn mà họ quản lý. Hầu hết các ngân hàng đều cung cấp cả hai loại: dịch vụ uỷ
thác thông thường cho cá nhân, hộ gia đình và uỷ thác thương mại cho các doanh
nghiệp.
Thông qua Phòng uỷ thác cá nhân, các khách hàng có thể tiết kiệm các
khoản tiền để cho con đi học. Ngân hàng sẽ quản lý và đầu tư khoản tiền đó cho
đến khi khách hàng cần. Thậm chí phổ biến hơn, các ngân hàng đóng vai trò là
người được uỷ thác trong di chúc quản lý tài sản cho khách hàng đã qua đời bằng
cách công bố tài sản, bảo quản các tài sản có giá, đầu tư có hiệu quả và đảm bảo
cho người thừa kế hợp pháp việc nhận được khoản thừa kế. Trong phòng uỷ thác
thương mại, ngân hàng quản lý danh mục đầu tư chứng khoán và kế hoạch tiền
lương cho các công ty kinh doanh. Ngân hàng đóng vai trò như những người đại
10
lý cho các Công ty trong hoạt động phát hành cổ phiếu, trái phiếu. Điều này đòi
hỏi phòng uỷ thác phải trả lãi hoặc cổ tức cho chứng khoán của công ty, thu hồi
các chứng khoán khi đến hạn bằng cách thanh toán toàn bộ cho những người nắm
giữ chứng khoán.
-
Bảo lãnh: Các NHTM có thể phát hành chứng bảo lãnh, trong đó ngân hàng
cam kết với bên thứ ba về việc sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho khách hàng khi
khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên thứ ba. Nhờ có
hoạt động bảo lãnh của các NHTM mà tạo điều kiện cho các quan hệ kinh tế,
thương mại phát sinh nhất là các quan hệ thương mại quốc tế. Bù vào rủi ro mà
các NHTM có thể gánh phải, các NHTM sẽ được hưởng khoản phí do khách hàng
trả.
Các sản phẩm hiện đại.
-
Cho thuê tài chính: Cho thuê tài chính là hình thức tín dụng trung, dài hạn
được thực hiện thông qua việc cho thuê tài sản như máy móc, thiết bị, các động
sản và bất dộng sản khác. NHTM sẽ dụng vốn của mình để mua tài sản, thiết bị và
nắm giữ quyền sở hữu đối với tài sản cho thuê. Bên thuê sử dụng tài sản thuê và
thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê đã được hai bên thoả thuận và không
được huỷ bỏ hợp đồng trước hạn. Khi hết thời hạn thuê, bên thuê được chuyển
quyền sở hữu, mua lại hoặc tiếp tục thuê tài sản đó theo các điều kiện đã thoả
thuận trong hợp đồng.
-
Tài trợ dự án: Các ngân hàng ngày trở nên năng động trong việc tài trợ cho
các dự án lớn, đặc biệt là trong ngành công nghệ cao. Do rủi ro trong hình thức tín
dụng này là tương đối cao nên các dự án này thường được thực hiện qua sự tham
gia của các nhà đầu tư khác để chia sẻ rủi ro.
-
Thẻ: Với sự phát triển của công nghệ thông tin đã giúp cho các NHTM tạo
ra được sản phẩm mới đó là thẻ. Thẻ có chức năng đa dạng, thông qua thẻ người
sử dụng có thể dụng để thanh toán, rút tiền mặt, gửi tiền, tra cứu số dư, chuyển
tiền, và tìm hiểu các thông tin khác…Đối với NHTM, từ việc phát hành thẻ sẽ thu
hút được một khối lượng lớn tiền gửi giao dịch, từ đó sử dụng các nguồn vốn huy
11
động với chi phí rẻ này để cho vay. Ngay nay, có nhiều loại thẻ khác nhau và nó
được chia làm hai loại, thẻ nội địa và thẻ quốc tế.
Cho vay tiêu dùng: Trước đây hầu hết các ngân hàng không tích cực cho
vay đối với các cá nhân và hộ gia đình bởi họ tin rằng các khoản cho vay
tiêu dùng nói chung có quy mô rất nhỏ nhưng rủi ro lại rất cao nên mức sinh
lời thấp. Nhưng với sự cạnh tranh khốc liệt để dành giật thị trường thì buộc
các ngân hàng phải đa dạng hoá các sản phẩm cho vay, trong đó cho vay
tiêu dùng là một trong những sản phẩm tín dụng quan trọng và luôn tăng
trưởng ở mức cao và nhanh nhất. Đây sẽ là một xu thế tất yếu để phát triển
ngân hàng theo định hướng ngân hàng bán lẻ như hiện nay.
-
Tư vấn tài chính: Ngân hàng ngày nay cung cấp nhiều dịch vụ tư vấn tài
chính đa dạng, từ chuẩn bị về thuế, thủ tục xuất nhập khẩu và các kế hoạch tài
chính cho các cá nhân đến tư vấn về các cơ hội kinh doanh trong và ngoài nước
cho các khách hàng kinh doanh của họ.
-
Phát hành chứng khoán nợ: Các ngân hàng có thể huy động vốn từ nền kinh
tế bằng việc phát hành các công cụ nợ trên thị trường tài chính như: Phát hành
chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu, cổ phiếu…Để cạnh tranh và tạo tiện ích cho khách
hàng trong việc chuyển đổi nhu cầu đầu tư, các ngân hàng phát hành các loại giấy
tờ này với nhiều kỳ hạn, lãi suất khác nhau và có thể ghi danh hoặc không ghi
danh.
-
Cung cấp các dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán: Trên thị trường tài
chính hiện nay nhiều ngân hàng đang phấn đấu để trở thành một “bách hoá tài
chính” thực sự, cung cấp đủ các dịch vụ tài chính cho phép khách hàng thoả mãn
mọi nhu cầu tài chính tại một thời điểm. Đây là lý do khiến các ngân hàng bắt đầu
bán các dịch vụ môi giới chứng khoán, cung cấp cho khách hàng các cơ hội mua
cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán khác mà không phải nhờ đến người kinh
doanh chứng khoán.
-
Quản lý tiền mặt: Qua nhiều năm, các ngân hàng đã phát hiện ra rằng một
số dịch vụ mà họ làm cho bản thân mình cũng có ích đối với khách hàng. Một
trong những ví dụ nổi bật nhất là dịch vụ quản lý tiền mặt, trong đó ngân hàng
12
đồng ý quản lý việc thu chi cho một công ty kinh doanh và tiến hành đầu tư phần
thặng dư tiền mặt tạm thời vào các chứng khoán sinh lợi và tín dụng ngắn hạn cho
đến khi khách hàng cần tiền mặt để thanh toán.
-
Tư vấn tài chính: Các ngân hàng từ lâu đã đã được khách hàng yêu cầu thực
hiện hoạt động tư vấn tài chính, đặc biệt là về tiết kiệm và đầu tư. Ngân hàng ngày
nay thực hiện nhiều dịch vụ tư vấn tài chính đa dạng, từ chuẩn bị về thuế và kế
hoạch tài chính cho các cá nhân đến tư vấn về các cơ hội thị trường trong nước và
ngoài nước cho các khách hàng kinh doanh của họ.
-
Bán các dịch vụ bảo hiểm: Hiện nay các ngân hàng đưa các hợp đồng bảo
hiểm các nhân thông thường và hợp đồng bảo hiểm tổn thất tài sản như ô tô, nhà
cửa, kho bãi hay hàng hoá trong tương lai thông qua liên doanh hoặc thoả thuận
hợp tác với các công ty bảo hiểm trong và ngoài nước. Hoạt động này vừa đáp
ứng nhu cầu phục vụ nhu cầu của khách hàng một cách nhanh chóng và thuận
tiện, từ đó nang cao sự thoả mãn của khách hàng đồng thời cũng mang lại nguồn
thu cho Ngân hàng từ các dịch vụ này.
-
Cung cấp các dịch vụ hưu trí: Phòng uỷ thác của ngân hàng rất năng động
trong việc quản lý kế hoạch hưu trí mà hầu hết các doanh nghiệp lập cho người lao
động, đầu tư vốn và phát lương hưu cho những người đã nghỉ hưu hoặc tàn phế.
Ngân hàng cũng bán các kế hoạch tiền gửi hưu trí cho cá nhân và giữ nguồn tiền
gửi cho đến khi người sở hữu các kế hoạch này cần đến.
-
Dịch vụ ngân hàng đầu tư và ngân hàng bán buôn: Những dịch vụ này bao
gồm các nghiệp vụ như: Tài trợ mua lại công ty, bán các chứng khoán cho khách
hàng, cung cấp các dịch vụ marketing chiến lược, các dịch vụ hạn chế rủi ro để
bảo vệ khách hàng. Các ngân hàng cũng dấn sâu vào thị trường bảo đảm, hỗ trợ
các khoản nợ do Chính phủ và các công ty phát hành để những khách hàng này có
thể vay vốn với chi phí thấp nhất từ thị trường tự do hay từ các tổ chức cho vay
khác.
-
Bao thanh toán: Đây là dịch vụ mà ngân hàng mua lại các giấy nợ của
khách hàng để ứng trước cho khách hàng một lượng vốn nhất định. Tuỳ theo tiêu
chí phân loại mà có cách phân chia loại hình bao thanh toán như: Bao thanh toán
13
nội địa và bao thanh toán ngoại hoặc bao thanh toán có quyền truy đòi và bao
thanh toán không có quyền truy đòi…Tuy nhiên hiện nay loại hình bao thanh toán
còn phát triển rất chậm vì đây là sản phẩm mang lại nhiều rủi ro cho ngân hàng
nên ngân hàng cũng chỉ mua lại những giấy nợ của các công ty lớn, có khả năng
tài chính mạnh mẽ và có uy tín cao trong thanh toán.
Tóm lại, không phải bất kỳ một ngân hàng nào cũng thực hiện được tất cả
các dịch vụ trên mà tuỳ theo quy định của luật pháp từng quốc gia mà cho các
ngân hàng thực hiện tất cả các dịch vụ trên hay chỉ cho phép thực hiện một số
những dịch vụ nhất định. Nhưng khi luật pháp cho phép thì khi triển khai cũng
còn tuỳ thuộc vào từng đặc điểm, chiến lược kinh doanh, mục tiêu hoạt động của
từng ngân hàng trong từng giai đoạn cụ thể để có thể lựa chọn những sản phẩm
cung cấp cho phù hợp.
1.1.3
Đặc trưng của sản phẩm dịch vụ ngân hàng
Để có thể nâng cao năng lực cạnh tranh thông qua thiết lập một chiến lược
cạnh tranh, với các hoạt động marketing nhằm hướng tới khách hàng thì trước tiên
phải hiểu đặc tính của sản phẩm. Các sản phẩm dịch vụ của NHTM cơ bản nhất
vẫn là các dịch vụ tài chính. Do vậy, việc nghiên các đặc trưng của sản phẩm dịch
vụ tài chính có tác dụng cho nghiên cứu các hành vi ứng xử của NHTM. Các dịch
vụ tài chính nói chung và các dịch vụ ngân hàng nói riêng thường có những đặc
điểm cơ bản sau:
Tính vô hình: Đây là một đặc trưng cơ bản nhất để phân biệt sản phẩm dịch
vụ tài chính với các sản phẩm hàng hoá khác. Các sản phẩm dịch vụ tồn tại dưới
dạng trừu tượng và phức tạp như kinh nghiệm hay một quy trình. Bởi là vô hình
nên sản xuất và cung ứng dịch vụ diễn ra đồng thời nhưng không thể sản xuất ra
hàng loạt và lưu giữ trong kho để sau đó tiêu dùng. Người mua sản phẩm sản
phẩm dịch vụ tài chính thường không nhìn thấy hình thái vật chất cụ thể của loại
dịch vụ này. Từ đặc tính này làm cho người mua khó đánh giá chất lượng và khó
có thể so sánh với những loại hàng hoá khác trước khi mua, người mua chỉ có thể
cảm nhận tiện ích mà nó mang lại. Do vậy, để đưa sản phẩm dịch vụ ra ngoài công
chúng thì ngân hàng cần có một đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp có đủ năng lực
14
để chuyển tải tính trìu tượng và phức tạp(tiện ích) của sản phẩm dịch vụ ngân
hàng đến khách hàng.
Chu trình phân phối sản phẩm dịch vụ của ngân hàng mang tính độc quyền
và trực tiếp. Khách hàng thường trực tiếp nhận sản phẩm, dịch vụ ngân hàng từ
các NHTM mà không thông qua các chủ thể trung gian khác như các doanh
nghiệp kinh doanh trong các lĩnh vực khác.
Không có quy chế bảo hộ độc quyền sản phẩm dịch vụ trong hoạt động
ngân hàng. Đây là điểm khác biệt lớn giữa kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân
hàng với các lĩnh vực kinh doanh khác vì các NHTM được quyền tự do sao chép
sản phẩm dịch vụ của nhau mà không phải chi trả cho người phát hiện hoặc tạo ra
sản phẩm dịch vụ mới.
1.2
Chức năng của NHTM
1.2.1
Trung gian tài chính:
NHTM trước hết là những doanh nghiệp kinh doanh một loại hàng hóa và
dịch vụ đặc biệt: tiền tệ. NHTM thực hiện các nghiệp vụ chuyển tiết kiệm thành
đầu tư, gắn kết hai chủ thể trong nền kinh tế: (1) các cá nhân và các tổ chức tạm
thời thâm hụt chi tiêu, đây là những người cần vốn, họ có cơ hội tạo ra thu nhập
nhưng lại thiếu vốn; (2) các cá nhân và các tổ chức thặng dư trong chi tiêu, họ có
tiền để tiết kiệm và tìm kiếm các cơ hội để các khoản tiết kiệm đó có khả năng
sinh lời nhiều hơn. NHTM đứng giữa là chứng năng trung gian, trung chuyển các
khoản tiền giữa hai chủ thể này. Qua hệ thống các NHTM, sự không đồng bộ về
khối lượng và thời gian sử dụng đồng vốn giữa hai chủ thể trong nền kinh tế sẽ
được khắc phục, chi phí giao dịch sẽ giảm đi do lợi thế kinh tế nhờ quy mô. Kết
quả là cả người tiết kiệm và người cần huy động vốn đều có lợi. Động lực của quá
trình này chính là lợi nhuận, các NHTM trong quá trình theo đuổi mục tiêu lợi
nhuận sẽ phải cạnh tranh để thu hút khách hàng, sử dụng các kỹ thuật để hạn chế
và phân tán rủi ro và giảm chi phí giao dịch.
Là trung gian tài chính, các NHTM đóng vai trò là nhân tố hỗ trợ doanh
nghiệp khai thác nguồn lực một các hiệu quả nhất. Nguồn lực ở đây là nguồn lực
xã hội. Vốn là nguồn lực khan hiếm. Để cạnh tranh trong quá trình hội nhập kinh
15
tế quốc tế một các hiệu quả, cần phải có cơ chế phân bổ và sử dụng nguồn lực một
cách hợp lý và hiệu quả nhất. NHTM sẽ phát huy vai trò này thông qua việc: (1)
Lựa chọn và thẩm định các dự án vay vốn; (2) Giám sát và sử dụng đồng vốn và
có các biện pháp xử lý kịp thời khi các khoản vay có dấu hiệu xấu; (3) thu hút tiền
gửi của khách hàng với mức lãi suất phù hợp với độ rủi ro của từng ngân hàng.
NHTM là nơi cung cấp chủ yếu đối với tiêu dùng các nhân. Khi nền kinh tế
mở của và phát triển, không chỉ các doanh nghiệp có nhu cầu vốn lớn, nhu cầu
vốn để phục vụ nhu cầu tiêu dùng cá nhân như: mua nhà trả góp, mua ô tô, du
học, kinh doanh…không ngừng tăng lên. Các khoản tín dụng tiêu dùng các nhân
có tác dụng điều hòa cuộc sống, nâng cao phúc lợi cũng sẽ là nhân tố thúc đẩy sự
phát triển của xã hội. Đặc biệt đối với các nước đang phát triển, vai trò trung gian
tài chính phục vụ cá nhân đã và đang có những bước phát triển không ngừng.
1.2.2
Cung cấp phương tiện thanh toán hiện đại và nhiều tiện ích:
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế buộc các hoạt động kinh tế phải tuân
theo quy chuẩn và thông lệ quốc tế, trong đó có vấn đề thánh toán không dùng tiền
mặt. Việc duy trì thói quen thanh toán bằng tiền mặt không chỉ gây ra sự lãng phí
nguồn lực mà còn là một trở ngại lớn cho sự thiết lập các quan hệ kinh doanh với
các đối tác nước ngoài.
Ngày nay, để thanh toán nhanh chóng, thuận tiện và tiết kiệm chi phí các
ngân hàng cung cấp cho khách hàng nhiều hình thức thanh toán nhanh như: thanh
toán bằng séc, ủy nhiệm chi, thanh toán nhờ thu, quản lý tiền mặt và các loại
thẻ…Ngoài ra các ngân hàng còn thực hiện thanh toán bù trừ cho nhau thông qua
Ngân hàng Trung ương hoặc Trung tâm thanh toán. Công nghệ ngân hàng càng
đạt hiệu quả cao khi khi quy mô sử dụng công nghệ đó càng được mở rộng, nhiều
hình thức thanh toán được chuẩn hóa đã góp phần tạo ra tính thống nhất trong
thanh toán không chỉ giữa các ngân hàng trong nước và còn giữa các ngân hàng
trên toàn thế giới.
Thông qua hệ thống thanh toán swift toàn cầu, các nghiệp vụ mở và thanh
toán L/C, T-T, nhờ thu,.. của các doanh nghiệp trong nước với các doanh nghiệp
nước ngoài đều được thực hiện thông qua các NHTM. Như vậy, với vai trò trung
16
gian thanh toán quốc tế, hoạt động này của các NHTM chính là cầu nối giữa các
doanh nghiệp trong nước với thế giới bên ngoài trong tiến trình hội nhập kinh tế
quốc tế.
1.2.3
Tạo môi trường cho việc thực hiện chính sách tiền tệ của Ngân hàng
Trung ương:
Hoạt động theo theo quy luật thị trường và thông qua các công cụ tài chính,
NHTM chính là cầu nối để thực thi các chính sách tiện tệ của Ngân hàng Trung
ương. Để thực thi các chính sách tiền tệ phải sử dụng các công cụ như lãi suất, dự
trữ bắt buộc, thị trường mở…chính các NHTM chịu sự tác động trực tiếp của các
công cụ này và đồng thời đóng vai trò cầu nối trong việc chuyển tiếp các tác động
của chính sách tiền tệ đến nền kinh tế. Bởi vì hoạt động kinh doanh của các
NHTM gắn chặt với các hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, các tổ chức
và các chủ thể trong nền kinh tế.
Các nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng lượng tiền gửi mà hệ thống NHTM tạo ra
chịu sự tác động trực tiếp từ các chính sách của Ngân hàng Trung ưong như: Quy
định về tỷ lệ dự trữ bắt buộc, lãi suất chiết khấu,…Mặc khác, cũng qua NHTM và
các định chế tài chính trung gian khác, tình hình tăng trưởng, giá cả, công ăn việc
làm, lãi suất, tỷ giá, lạm phát…của nền kinh tế được phản hồi về cho Ngân hàng
Trung ương, từ đó cơ quan này có trách nhiệm tham mưu cho chính phủ để đưa ra
những chính sách điều tiết thích hợp với từng điều kiện, từng giai đoạn cụ thể.
Thông qua hệ thống NHTM các Chính phủ có thể sử dụng các công cụ tài
chính để góp phần ổn định, lành mạnh nền kinh tế. Thông qua các NHTM, chính
phủ có thể hỗ trợ ngành này phát triển hoặc hạn chế những ngành không có lợi thế
thông qua các chính sách tín dụng có mục tiêu trong từng thời kỳ.
1.3
Năng lực cạnh tranh của NHTM
1.3.1
Khái niệm NLCT
Cạnh tranh nói chung là sự phấn đấu, vươn lên không ngừng để giành lấy vị
trí hàng đầu trong lĩnh vực hoạt động nào đó bằng cách ứng dụng những tiến bộ
khoa học, kỹ thuật tạo ra nhiều lợi thế nhất, tạo sản phẩm mới, tạo năng suất và
hiệu quả cao nhất.
17
Trong kinh tế, cạnh tranh là đấu tranh để giành lấy thị trường tiêu thụ sản
phẩm bằng các phương pháp và biện pháp khác nhau như kỹ thuật, kinh tế, chính
trị, quân sự, tâm lí xã hội.
Trong cạnh tranh nảy sinh ra kẻ có khả năng cạnh tranh mạnh, người có khả
năng cạnh tranh yếu hoặc sản phẩm có khả năng cạnh tranh mạnh, sản phẩm có
khả năng cạnh tranh yếu. Khả năng cạnh tranh đó là năng lực cạnh tranh hay sức
cạnh tranh.
NLCT của doanh nghiệp là khả năng doanh nghiệp tạo ra lợi thế cạnh tranh,
có khả năng tạo ra năng suất và chất lượng cao hơn đối thủ cạnh tranh, chiếm lĩnh
thị phần lớn, tạo ra thu nhập cao và phát triển bền vững. Để đánh giá năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp người ta dựa vào tiêu chí: thị phần, doanh thu, lợi
nhuận và tỷ suất lợi nhuận, thu nhập bình quân, phương pháp quản lý, bảo vệ môi
trường, uy tín của doanh nghiệp đối với xã hội, tài sản của doanh nghiệp, tỷ lệ
công nhân lành nghề, tỷ lệ đội ngũ quản lý giỏi, nghiên cứu, sáng tạo…
1.3.2
Tiêu chí đánh giá NLCT của các NHTM
NLCT của NHTM được hiểu là một chỉ tiêu tổng hợp phản ánh khả năng tự
duy trì lâu dài một cách ý chí trên thị trường, trên cơ sở thiết lập một mối quan hệ
bền vững với khách hàng để đạt được một số lượng lợi nhuận nhất định, hoặc là
khả năng chống lại một cách thành công các sức ép của các lực lượng cạnh tranh.
Hiện nay ở Việt Nam chưa có ai hay tổ chức nào đưa ra tiêu chí để đánh giá
NLCT của các NHTM. Tuy nhiên, dựa vào các yếu tố cấu thành NLCT của
NHTM ta có thể đưa ra một số chỉ tiêu để đánh giá NLCT của các NHTM như
sau:
Một là, tiềm lực tài chính của NHTM: Để phát triển quy mô hoạt động, đáp
ứng nhu cầu về vốn ngày càng gia tăng của khách hàng cũng như để tăng đầu tư
vào tài sản cố định khi phát triển chi nhánh hay hiện đại hoá công nghệ ngân hàng
nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ thì các NHTM phải nâng cao tiềm lực tài
chính. Vì vậy, tiềm lực tài chính chính là thước đo sức mạnh của NHTM tại một
thời điểm nhất định và được thể hiện thông qua các chỉ tiêu:
18
- Mức độ an toàn vốn và khả năng huy động vốn: Tiềm lực về vốn thể hiện
qua các chỉ tiêu cụ thể như: Quy mô vốn chủ sở hữu, hệ số an toàn về vốn(capital
Adequacy Ratio-Car). Tiềm lực về vốn chủ sở hữu phản ánh sức mạnh của một
ngân hàng và khả năng chống đỡ rủi ro của ngân hàng đó. Cách thức mà một ngân
hàng có khả năng cơ cấu lại vốn, huy động thêm vốn cũng là một khía cạnh phản
ánh tiềm lực về vốn của một ngân hàng. Đây là một trong những nguồn lực quan
trọng nhất quyết định khả năng cạnh tranh của một ngân hàng. Một số chỉ tiêu
đánh mức độ an toàn vốn và khả năng huy động vốn:
Khả năng huy động vốn và hệ số an toàn vốn = Vốn chủ sở hữu/ Tổng tài
sản rủi ro. Hệ số này tối thiểu băng 8% theo quy định của NHTW để đảm bảo hoạt
động an toàn của ngân hàng.
Các chỉ tiêu đánh giá cơ cấu vốn và nguồn vốn: Tỷ lệ nợ, tỷ lệ vốn cố định.
Chất lượng tài sản có: Chất lượng tài sản có được thể hiện thông qua các chỉ
tiêu: tỷ lệ nợ xấu/ tổng tài sản có, mức độ lập dự phòng và khả năng thu hồi các
khoản nợ xấu, mức độ tập trung và đa dạng hoá các danh mục tín dụng, Rủi ro tín
dụng tiềm ẩn,…
Mức sinh lời: Chỉ tiêu mức sinh lời có thể phân tích qua các chỉ tiêu như
giá trị tuyệt đối của mức lợi nhuận sau thuế, tốc độ tăng trưởng lợi nhuận, cơ cấu
lợi nhuận, hiệu quả sử dụng vốn chủ sở hữu(ROE) = Thu nhập sau thuế/Vốn chủ
sở hữu; Hiệu quả sử dụng tài sản (ROA) = Thu nhập sau thuế/ Tổng tài sản có.
- Khả năng thanh khoản: Các chỉ tiêu đánh giá khả năng thanh toán: Khả
năng thanh toán nhanh, Khả năng thanh toán hiện hành, Khả năng thanh toán tức
thời.
Hai là, năng lực về công nghệ: Trong lĩnh vực ngân hàng, công nghệ ngày
càng đóng vai trò quan trọng như là một trong những nguồn lực tạo ra lợi thế
cạnh tranh cho ngân hàng. Công nghệ ngân hàng bao gồm công nghệ mang tính
tác nghiệp như hệ thống thanh toán điện tử, hệ thống ngân hàng bán lẻ, hệ thống
máy rút tiền tự động,…; hệ thống thông tin quản lí SMS, hệ thống báo cáo rủi
ro,…; và khả năng mở rộng, thay đổi, nâng cấp công nghệ trong tương lai. Vì thế,
năng lực công nghệ không chỉ thể hiện ở số lượng, chất lượng công nghệ hiện đại
19
mà còn bao gồm cả khả năng mở(khả năng đổi mới, nâng cấp) của các công
nghệ…
Ba là, nguồn nhân lực: là yếu tố quan trọng hàng đầu và không thể thiếu của
các ngân hàng, năng lực cạnh tranh của nguồn nhân lực thể hiện qua các chỉ tiêu:
trình độ đào tạo, tỉ lệ nhân viên công nhân lành nghề, tỷ lệ các chuyên viên(
Chuyên viên cao cấp, chuyên viên chính, chuyên viên) động cơ phấn đấu, mức độ
cam kết gắn bó với ngân hàng. Sản phẩm của ngân hàng là cung ứng dịch vụ nên
trình độ và kinh nghiệm của nguồn nhân lực là rất quan trọng. Vì vậy, nếu một
ngân hàng có tốc độ luân chuyển nhân viên cao sẽ không phải là một ngân hàng có
lợi thế về nguồn nhân lực. Hiệu quả của các chính sách tuyển dụng, cơ chế thù lao
và đề bạt là những chi tiêu quan trọng để đánh giá khả năng duy trì một đội ngũ
nhân sự chất lượng cao.
Bốn là, Năng lực quản lí và cơ cấu tổ chức: Năng lực quản lý phản ánh
năng lực điều hành của Hội đồng quản trị và Ban giám đốc. Năng lực quản lý thể
hiện ở mức độ chi phối của Hội đồng quản trị đối với Ban giám đốc. Năng lực
quản lý quyết định hiệu quả sử dụng các nguồn lực của một ngân hàng. Một Hội
đồng quản trị đối với Ban giám đốc yếu kém thì không thể đưa ra những chính
sách chiến lược hợp lý để thích ứng với sự thay đổi của thị trường sẽ làm lãng phí
nguồn lực và làm yếu đi năng lực cạnh tranh của ngân hàng đó.
Cơ cấu tổ chức là chỉ tiêu quan trọng phản ánh cơ chế quản lý của ngân
hàng có phù hợp với cơ chế phân bổ nguồn lực. Hiệu quả của cơ chế quản lý
không chỉ phản ánh ở số lượng các phòng ban, sự phân công, phân cấp mà còn
phụ thuộc vào sự phối hợp giữa các phòng ban và các đơn vị triển khai chiến lược
kinh doanh, các hoạt dộng nghiệp vụ diễn ra hàng ngày…
Năm là, thị phần của ngân hàng và mức độ đa dạng hóa các dịch vụ ngân
hàng cung cấp:
Hệ thống kênh phân phối của một ngân hàng thể hiện ở số lượng các chi
nhánh, phòng giao dịch và sự phân bổ các chi nhánh trên địa bàn hoạt động. Ngày
nay, công nghệ ngân hàng phát triển và nó sẽ làm rút ngắn khoảng cách về không
gian và thời gian. Tuy nhiên vai trò của một mạng lưới chi nhánh, phòng giao dịch
20
rộng khắp vẫn có một vai trò rất quan trọng, đặc biệt trong điều kiện các dịch vụ
truyền thống của ng ân hàng vẫn còn phát triển mãnh mẽ.
Mức độ đa dạng hóa các dịch vụ ngân hàng cung cấp: phản ánh mức độ
cạnh tranh của ngân hàng, một ngân hàng có nhiều loại hình sản phẩm cung cấp
phù hợp với nhu cầu thị trường và năng lực quản lý sẽ là một ngân hàng có lợi thế
cạnh tranh. Bởi vì, nếu ngân hàng đưa ra hàng loạt danh mục sản phẩm, những
sản phẩm này không phù hợp với nhu cầu thị trường và ngân hàng cũng không đủ
nguồn lực để triển khai thực hiện thì sẽ không mang lại hiệu quả cho ngân hàng.
Sáu là, Khả năng hợp tác với các đối tác chiến lược
Sự hợp tác giữa các định chế tài chính là xu hướng tất yếu . Chính vì thế mà
các NHTM phải chú trọng phát triển đa liên kết với các tổng công ty lớn, có quy
mô hoạt động rộng để cùng nhau hỗ trợ về kinh nghiệm quản lý, hỗ trợ nhau về
nguồn
Bên canh đó các NHTM trong nước cũng cần hợp tác với các đối tác chiến
lược là các tập đoàn tài chính, các ngân hàng nước ngoài có năng lực tài chính
mạnh, có kinh nghiệm quản lý rủi ro tốt và đặc biệt có quy trình nghiệp vụ chuẩn
mực tiên tiến, công nghệ hiện đại, đặc biệt là các đối tác chiến lược có bề dày
kinh nghiệm về ngân hàng bán lẻ.
1.3.3
Các nhân tố ảnh hưởng đến NLCT của các NHTM
1.3.3.1 Đối thủ cạnh tranh:
Đối thủ cạnh tranh là những đối thủ đang cùng tham gia cung ứng các dịch
vụ tài chính như những dịch vụ mà các NHTM đang cung ứng. Ở Việt Nam hiện
nay các đối thủ cạnh tranh của NHTM là: Các công ty chứng khoán, các quỹ đầu
tư, các công ty tài chính, Công ty bảo hiểm, các quỹ tín dụng, tiết kiệm bưu điện
và các ngân hàng nước ngoài. Tìm hiểu đối thủ cạnh tranh cần chú ý đến: Chiến
lược cạnh tranh hiện tại của, mục tiêu tương lai của đối thủ cạnh tranh, điểm mạnh
điểm yếu của đối thủ…
Đối thủ cạnh tranh trong tương lai là những đối thủ có khả năng và có thể sẽ
cùng kinh doanh những dịch vụ tài chính với các NHTM trong tương lai. Đối thủ
cạnh tranh càng nhiều thì mức độ cạnh tranh trong ngành càng gay gắt và khốc
21
liệt. Vì vậy, đòi hỏi các NHTM phải tìm hiểu, phân tích ,dự đoán những đối thủ
cạnh tranh trong tương lai sẽ tham gia vào thị trường.
1.3.3.2 Sản phẩm thay thế:
Đó là những sản phẩm có tính năng gần giống như các sản phẩm mà NHTM
đang cung ứng, đã được cung ứng bởi một tổ chức tài chính nào đó hoặc sẽ phát
triển trong tương lai.
Nếu sản phẩm thay thế ít, tính năng đơn giản làm cho người sử dụng dịch
vụ ít có cơ hội và quyền lựa chọn do vậy sản phẩm dịch vụ của ngân hàng sẽ có cơ
hội gia tăng thị phần và ít bị cạnh tranh. Ngược lại, nếu sản phẩm thay thế nhiều
làm cho người sử dụng dịch vụ có nhiều cơ hội và quyền lựa chọn, khi đó sản
phẩm mà ngân hàng cung ứng sẽ có nguy cơ bị đe dọa vì bị thu hẹp thị phần.
1.3.3.3 Môi trường kinh tế vĩ mô:
Môi trường kinh tế vĩ mô có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự phát triển của
hệ thống ngân hàng, vì thế nghiên cứu năng lực cạnh tranh của ngành ngân hàng
không thể không phân tích môi trường kinh tế vĩ mô, mỗi một biến động bất lợi
của môi trường kinh tế vĩ mô đều có thể ảnh hưởng bất lợi đến hoạt động kinh
doanh ngân hàng. Một nước có nền kinh tế phát triển ổn định , có tốc độ phát triển
kinh tế cao, các chỉ số về lạm phát, tỷ giá, lãi suất… phát triển ổn định sẽ là một
điều kiện hết sức thuận lợi cho sự phát triển của hệ thống ngân hàng và ngược lại,
sự bất ổn của nền kinh tế sẽ tạo ra sự dè dặt, co cụm của cả một hệ thống ngân
hàng.
Nghiên cứu các chỉ tiêu của môi trường kinh tế vĩ mô cũng như chiều
hướng phát triển của toàn bộ nền kinh tế còn là cơ sở quan trọng để các nhà hoạch
định chiến lược ngân hàng định ra những chiến lược đầu tư, đổi mới kinh doanh
của mình cho phù hợp với nhu cầu phát triển của thị trường.
Đặc điểm về chính trị, văn hóa, xã hội: Khi xem xét ảnh hưởng của chính trị
đến các mặt của đời sống kinh tế xã hội ta xem xét trên góc độ đó là hệ tư tưởng.
Hệ tư tưởng có khả năng tác động trực tiếp hay gián tiếp đến hoạt động ngân
hàng. Nó sẽ tác động trực tiếp khi thông qua hệ thống pháp luật trong kinh doanh
22
ngân hàng. Từ đó, sẽ trực tiếp tác động đến chiến lược kinh doanh của một ngân
hàng.
Những đặc điểm văn hóa có ảnh hưởng tới nguồn lực trong lĩnh vực ngân
hàng, có thể kể đến như: quan điểm về doanh nhân, quan điểm về sự giầu có, quan
điểm về thăng tiến, quan điểm về đạo đức nghề nghiệp, quan điểm về học tập và
đào tạo…Nếu một đất nước mà người dân coi trọng những giá trị trên thì thì
ngành ngân hàng sẽ có cơ hội để tuyển chọn được nguồn nhân lực có nhiều phẩm
chất phù hợp với sự phát triển của mình.
1.3.3.4 Trình độ phát triển của các ngành liên quan và phụ trợ
Ngân hàng là ngành liên quan đến hầu hết tất cả các ngành trong nền kinh tế
quốc dân. Các ngành có quan hệ mật thiết phải kể đến đó là các công ty tài chính,
công ty chứng khoán, các công ty bảo hiểm, các quỹ tín dụng nhân dân…và các
ngành cung cấp cho ngân hàng là bưu chính viễn thông cung cấp các thiết bị thông
tin liên lạc, truyền tải dữ liệu, ngành công nghệ thông tin cung cấp các trang thiết
bị máy móc hiện đại cho ngành ngân hàng…
Trình độ phát triển của các ngành trên có tác động trực tiếp đến sự phát
triển của ngành ngân hàng. Thị trường tiền tệ, thị trường chứng khoán phát triển
tạo điều kiện thuận lợi cho lĩnh vực ngân hàng phát triển, ngành bưu chính viễn
thông phát triển tạo điều kiện giảm thiểu chi phí giao dịch, ngành công nghệ thông
tin giúp cho ngân hàng ứng dụng các công nghệ hiện đại tạo ra sự đa dạng các
danh mục sản phẩm dịch vụ cung ứng, đáp ứng tối đa nhu cầu của khách hàng.
1.3.3.5 Môi trường pháp lý:
Vai trò của Chính phủ: Vai trò của Chính phủ là một yếu tố mang chất xúc
tác rất quan trọng đối với sự phát triển của bất cứ ngành nào ở một nước. Đối với
lĩnh vực ngân hàng , chính phủ lại càng đóng vai trò quan trọng.
Chính phủ tác động đến sự phát triển của các ngân hàng trước hết với vai
trò quản lý và giám sát của toàn hệ thống thông qua vai trò của Ngân hàng Trung
ương. Sự hoạt động mạnh mẽ và an toàn của hệ thống NHTM là điều kiện tiên
quyết để phát triển kinh tế ở một quốc gia. Vì thế, hoạt động của NHTM phải chịu
23