Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Khu vực kinh tế tư nhân với vấn đề giải quyết việc làm ở việt nam luận văn ths kinh tế 60 31 01 pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 96 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
--------------------------------------

Nguyễn Thị Hoàng Nhung

KHU VỰC KINH TẾ TƯ NHÂN VỚI VẤN ĐỀ
GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM Ở VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ

Hà Nội - 2009


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
--------------------------------------

Nguyễn Thị Hoàng Nhung

KHU VỰC KINH TẾ TƯ NHÂN VỚI VẤN ĐỀ
GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành: Kinh tế chính trị
Mã số: 60 31 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS. PHÍ MẠNH HỒNG


Hà Nội - 2009


MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU

1

CHƯƠNG 1: KHU VỰC KINH TẾ TƯ NHÂN VÀ VAI TRÒ CỦA
NÓ TRONG VẤN ĐỀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM

6

1.1 Khu vực kinh tế tư nhân: khái niệm và đặc điểm

6

1.1.1. Khái niệm khu vực kinh tế tư nhân

6

1.1.2. Đặc điểm của kinh tế tư nhân

8

1.2 Vai trò của kinh tế tư nhân trong tăng trưởng kinh tế và mở

10


rộng việc làm
1.2.1. Vai trò của kinh tế tư nhân trong tăng trưởng và phát triển kinh tế

10

1.2.2. Kinh tế tư nhân và vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động

13

1.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của khu vực kinh tế tư
nhân và khả năng mở rộng việc làm của nó

16

1.3.1. Quan niệm và thái độ xã hội đối với kinh tế nhà nước và kinh tế
tư nhân

16

1.3.2. Hệ thống pháp luật

17

1.3.3 Một số yếu tố ảnh hưởng khác

18

1.4.

Kinh nghiệm về phát triển kinh tế tư nhân theo hướng tạo


việc làm cho người lao động ở một số nước trên thế giới

20

1.4.1. Kinh nghiệm Trung Quốc

20

1.4.2. Kinh nghiệm Ấn Độ

26

1.4.3. Kinh nghiệm Đài Loan

29

CHƯƠNG 2: TÌNH HÌNH VIỆC LÀM TRONG KHU VỰC KINH
TẾ TƯ NHÂN Ở VIỆT NAM TỪ NĂM 2000 ĐẾN NAY

31

2.1. Tổng quan về sự phát triển của kinh tế tư nhân Việt Nam
trong thời kỳ đổi mới

31


2.1.1. Sự tiến triển về quan điểm và chính sách của Đảng và Nhà nước
đối với kinh tế tư nhân


31

2.1.2. Tình hình phát triển kinh tế tư nhân Việt Nam trong những năm
đổi mới

35

2.2. Tác động của sự phát triển kinh tế tư nhân Việt Nam đối với
việc giải quyết việc làm cho người lao động

42

2.2.1. Tương quan giữa tăng trưởng của khu vực kinh tế tư nhân và
tăng trưởng việc làm

42

2.2.2. Tăng trưởng việc làm trong khu vực kinh tế tư nhân: phân tích
theo ngành và lĩnh vực của nền kinh tế

48

2.2.3. Tăng trưởng việc làm trong khu vực kinh tế tư nhân: phân tích
theo tiêu chí vùng, miền

54

2.3. Đánh giá chung


59

2.3.1. Tăng trưởng việc làm trong khu vực kinh tế tư nhân: những khía
cạnh tích cực

59

2.3.2. Những vấn đề đặt ra và nguyên nhân

60

CHƯƠNG 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP PHÁT HUY VAI
TRÒ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CỦA KHU VỰC KINH TẾ TƯ
NHÂN Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI

63

3.1. Một số quan điểm về vai trò của khu vực kinh tế tư nhân trong

63

giải quyết việc làm cho người lao động
3.1.1. Quan điểm chung về kinh tế tư nhân trước thách thức hội nhập

63

quốc tế
3.1.2. Quan điểm nhằm phát huy khả năng mở rộng việc làm thông qua

66


sự phát triển kinh tế tư nhân
3.2. Những giải pháp nhằm phát huy vai trò của khu vực kinh tế tư
nhân trong giải quyết việc làm cho người lao động

70


3.2.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật tạo điều kiện cho sự phát triển của
khu vực kinh tế tư nhân

70

3.2.2. Hoàn thiện các chính sách ưu tiên phát triển kinh tế tư nhân

71

3.2.3. Đào tạo nguồn nhân lực cho khu vực kinh tế tư nhân

75

3.2.4. Thực hiện chính sách khuyến khích phát triển doanh nghiệp nhỏ
và vừa

76

3.2.5. Ưu tiên những ngành có lợi thế để phát triển và sử dụng nhiều
lao động tạo ra việc làm

78


KẾT LUẬN

81

TÀI LIỆU THAM KHẢO

82

PHỤ LỤC

87


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
AFTA

Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN

APEC

Diễn đang Hợp tác Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương

DNNN

Doanh nghiệp nhà nước

DNNVV

Doanh nghiệp nhỏ và vừa


ĐH - CĐ

Đại học - Cao đẳng

FDI

Đầu tư trực tiếp nước ngoài

GDP

Tổng sản phẩm quốc nội

GSO

Tổng cục thống kê

HTX

Hợp tác xã

ISIC

Mã ngành chuẩn phân loại quốc tế

MOLISA

Bộ Lao động Thương binh và xã hội

NXB


Nhà xuất bản

ODA

Viện trợ phát triển chính thức

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

WTO

Tổ chức Thương mại Thế giới


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Trang
Bảng 1.1:

Phần trăm tham gia của các thành phần kinh tế trong GDP
của Trung Quốc

22

Bảng 2.1:

Số cơ sở sản xuất kinh doanh cá thể phi nông nghiệp

36


Bảng 2.2:

37

Bảng 2.3:

Cơ cấu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng phân theo thành
phần kinh tế
Tỷ lệ đóng góp vào GDP của các thành phần kinh tế

Bảng 2.4:

Tốc độ tăng bình quân của các doanh nghiệp

43

Bảng 2.5:

45

Bảng 2.6:

Lao động đang làm việc tại thời điểm 1/7 phân theo thành
phần kinh tế
Lao động của các doanh nghiệp

Bảng 2.7:

Lao động đang làm việc trong khu vực doanh nghiệp tư nhân


50

Bảng 2.8:

chia theo ngành kinh tế
Tốc độ tăng trưởng lao động theo khu vực sản xuất

51

40

46

Cơ cấu lao động theo vị thế doanh nghiệp của khu vực kinh
tế tư nhân trên địa bàn Hà Nội

52

Bảng 2.10: Tiền lương, thu nhập bình quân của các doanh nghiệp tính

53

Bảng 2.9:

theo loại hình doanh nghiệp
Bảng 2.11: Tỷ lệ lao động có việc làm chia theo khu vực kinh tế và vùng
lãnh thổ năm 2007
Bảng 2.12: Tỷ lệ lao động trong khu vực kinh tế tư nhân chia theo vùng
lãnh thổ

Bảng 2.13: Tăng trưởng lao động theo địa phương
Bảng 2.14: Số lượng và tốc độ phát triển số cơ sở, lao động của các cơ sở
sản xuất kinh doanh cá thể phi nông nghiệp phân theo vùng

55
56
57
58


DANH MỤC HÌNH VẼ
Trang
Hình 1.1:

Tốc độ tăng GDP của Ấn Độ 1991 – 2005

27

Hình 2.1:

Vốn đầu tư phát triển toàn xã hội phân theo thành phần kinh tế

39

Hình 2.2:

Tỷ lệ đóng góp vào GDP của các thành phần kinh tế

41


Hình 2.3:

Cơ cấu lao động làm việc tại các doanh nghiệp theo thành
phần kinh tế 2000-2006

47

Hình 2.4:

Lao động có việc làm chia theo ngành và khu vực kinh tế

49

Hình 2.5:

Cơ cấu việc làm theo thành phần kinh tế

60


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việc làm cho người lao động là vấn đề kinh tế - xã hội phổ biến và luôn
mang tính thời sự ở mọi quốc gia, bởi vì đảm bảo việc làm là một trong
những yếu tố cơ bản cho sự phát triển bền vững. Đối với những nước đang
phát triển như Việt Nam thì vấn đề việc làm cho người lao động là hết sức
quan trọng và có ý nghĩa to lớn trong tiến trình xây dựng và phát triển đất
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Chính vì vậy, trong văn kiện Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã nhấn mạnh: “Giải quyết việc làm
là nhân tố quyết định để phát huy nhân tố con người, ổn định và phát triển

kinh tế, làm lành mạnh xã hội, đáp ứng nguyện vọng chính đáng và yêu cầu
bức xúc của nhân dân” [10, tr.210].
Việt Nam là một quốc gia có lực lượng lao động động đông đảo, có tốc
độ gia tăng hàng năm cao thì sức ép việc làm hiện nay đang là vấn đề kinh tế xã hội nóng bỏng, trong khi đó khả năng tạo việc làm từ khu vực kinh tế nhà
nước không lớn và có xu hướng đứng yên. Vì thế nếu chỉ thông qua các
doanh nghiệp nhà nước thì không bao giờ tạo đủ việc làm cho người lao động.
Theo kinh nghiệm quốc tế cho thấy, trong các nền kinh tế thị trường, khu vực
kinh tế tư nhân có lợi thế và vai trò quyết định trong việc mở rộng việc làm,
giải quyết thất nghiệp.
Vai trò của kinh tế tư nhân ở Việt Nam gần đây đang được nhìn nhận
lại và có sự phát triển nhanh chóng, đồng thời dường như khu vực này đang
có những đóng góp tích cực đến tăng trưởng kinh tế chung và mở rộng việc
làm cho người lao động nói riêng. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều yếu tố kìm hãm
sự phát triển của khu vực này và khả năng tạo lập việc làm của nó. Điều đó
đòi hỏi phải làm sáng tỏ: khu vực kinh tế tư nhân thực tế đóng vai trò như thế
nào trong việc tạo lập và mở rộng việc làm trong nền kinh tế thị trường? Tại
-1-


sao nó có thể đóng được vai trò như vậy? Ở Việt Nam, sự phát triển của kinh
tế tư nhân đã đóng góp như thế nào đối với vấn đề giải quyết việc làm?
Những bất cập và giải pháp tháo gỡ nào cần được đề xuất?
Xuất phát từ những yêu cầu của thực tiễn đó, tôi đã chọn đề tài: “Khu
vực kinh tế tư nhân với vấn đề giải quyết việc làm ở Việt Nam” cho luận văn
thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Nghiên cứu về khu vực kinh tế tư nhân và vấn đề việc làm cho người
lao động đã được nhiều tác giả nghiên cứu ở các góc độ khía cạnh khác nhau.
Các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài mà tác giả luận văn được biết
có thể phân thành hai nhóm sau:



Thứ nhất, nhóm các đề tài đi sâu vào nghiên cứu sự phát triển

của khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam:
- Đinh Thị Thơm (CB, 2005), Kinh tế tư nhân Việt Nam sau hai thập kỷ
đổi mới - Thực trạng và những vấn đề, NXB Khoa học xã hội.
- Nguyễn Văn Tuất, Đặng Danh Lợi (2006), Sự vận động, phát triển
của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta,
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Trịnh Thị Hoa Mai (2005), Kinh tế tư nhân Việt Nam trong tiến trình
hội nhập, NXB Thế giới, Hà Nội.
- Lê Khắc Triết (2005), Đổi mới và phát triển kinh tế tư nhân Việt
Nam: Thực trạng và giải pháp, NXB Lao động, Hà Nội.
- Kinh tế tư nhân và quản lý nhà nước đối với kinh tế tư nhân nước ta
hiện nay, Đề tài cấp Bộ năm 2000 - 2001, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội.
- Nguyễn Hữu Thắng (1999), Quản lý nhà nước đối với kinh tế tư nhân
ở nước ta hiện nay, Luận án Tiến sĩ, Hà Nội.
-2-


- Phương Hữu Việt (2002), Phát triển các thành phần kinh tế ngoài
kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam
hiện nay, Luận án Tiến sĩ, Hà Nội.
Các công trình trên tập trung nhiều vào các khía cạnh liên quan trực
tiếp đến sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân. Đóng góp của khu vực này
đối với lĩnh vực tạo lập việc làm chỉ được khảo cứu và đề cập sơ sài bên cạnh
những đóng góp khác.



Thứ hai, nhóm các đề tài tập trung vào vấn đề giải quyết thất

nghiệp, tạo việc làm cho người lao động:
- Nguyễn Thị Thơm (CB, 2006), Thị trường lao động Việt Nam, thực
trạng và giải pháp, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Đinh Đăng Định (CB, 2004), Một số vấn đề về lao động - việc làm và
đời sống người lao động ở Việt Nam hiện nay, NXB Lao động, Hà Nội.
- Phạm Quang Vinh (1996), Một số vấn đề về việc làm và thất nghiệp ở
Việt Nam, Luận án Phó tiến sĩ, Hà Nội.
- Tạ Đức Khánh (1996), Doanh nghiệp tư nhân (nhỏ và vừa) với vấn đề
việc làm ở Việt Nam hiện nay, Luận án Phó tiến sĩ, Hà Nội.
- Bùi Anh Tuấn (1999), Tạo việc làm cho người lao động qua vốn đầu
tư nước ngoài trực tiếp vào Việt Nam, Luận án Tiến sĩ, Hà Nội.
Như vậy, việc nghiên cứu chuyên sâu về vai trò của khu vực kinh tế
tư nhân trong lĩnh vực tạo lập việc làm ở Việt Nam chưa được chú ý trong
các công trình nghiên cứu và đó là lý do để luận văn lựa chọn chủ đề nghiên
cứu này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của luận văn:
Trên cơ sở làm rõ vai trò của khu vực kinh tế tư nhân trong giải quyết
việc làm cho người lao động trong tiến trình đổi mới ở Việt Nam, luận văn đề
-3-


xuất một số quan điểm và giải pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển của khu vực
này và phát huy khả năng tạo lập việc làm của nó.
Nhiệm vụ của luận văn:
- Làm rõ về mặt lý thuyết vai trò của khu vực kinh tế tư nhân trong việc
giải quyết việc làm của người lao động.

- Phân tích kinh nghiệm của một số nước trên thế giới trong việc phát
huy khả năng giải quyết việc làm của khu vực kinh tế tư nhân.
- Luận giải thực trạng phát triển của khu vực kinh tế tư nhân và ảnh
hưởng của nó đến tạo lập việc làm ở nước ta trong thời kỳ đổi mới.
- Đề xuất quan điểm và giải pháp nhằm phát huy vai trò của khu vực
kinh tế tư nhân trong việc giải quyết việc làm trong thời gian tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu: Vai trò của khu vực kinh tế tư nhân Việt nam
trong lĩnh vực gải quyết việc làm.
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu sự phát triển của
khu vực kinh tế tư nhân và khả năng tạo lập việc làm trong thời gian từ năm
2000 đến nay.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trên cơ sở lấy phương pháp biện chứng duy vật làm phương pháp luận
tổng quát, trong quá trình nghiên cứu, luận văn chú trọng các phương pháp
nghiên cứu cụ thể như: lô gíc kết hợp với lịch sử; phân tích kết hợp với tổng
hợp; phương pháp phỏng vấn chuyên gia.
6. Những đóng góp mới của luận văn
- Làm rõ thực trạng đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân trong việc
giải quyết việc làm cho người lao động ở Việt Nam. Qua đó, góp phần làm rõ
hơn vai trò, vị trí của khu vực kinh tế tư nhân trong giải quyết việc làm trong
nền kinh tế thị trường nói chung.
-4-


- Đề xuất các quan điểm và giải pháp nhằm phát huy khả năng của khu
vực tư nhân trong việc mở rộng việc làm cho người lao động ở Việt Nam.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn được kết cấu gồm 3 chương:

Chƣơng 1: Những vấn đề chung về khu vực kinh tế tư nhân và vấn đề giải
quyết việc làm
Chƣơng 2: Tình hình việc làm trong khu vực kinh tế tư nhân từ năm 2000
đến nay
Chƣơng 3: Quan điểm và giải pháp thúc đẩy việc làm của khu vực kinh tế
tư nhân trong thời gian tới

-5-


CHƢƠNG 1
KHU VỰC KINH TẾ TƢ NHÂN VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ
TRONG VẤN ĐỀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM

1.1.

Khu vực kinh tế tƣ nhân: khái niệm và đặc điểm

1.1.1. Khái niệm khu vực kinh tế tư nhân
Hiện nay trong giới nghiên cứu đang có nhiều cách lý giải khác nhau về
khu vực kinh tế tư nhân. Có người cho rằng, “kinh tế tư nhân” đồng nghĩa với
“kinh tế tư bản tư nhân”. Có người lại đồng nhất kinh tế tư nhân với kinh tế
ngoài quốc doanh, theo đó một doanh nghiệp hay công ty… sẽ được coi là
ngoài quốc doanh nếu như tư nhân làm chủ trên 50% vốn đầu tư. Hiện nay,
niên giám của Tổng cục Thống kê nước ta vẫn thường dùng khái niệm “ngoài
quốc doanh”, ví dụ trong Niên giám thống kê năm 2002, Tổng cục Thống kê
đã xếp các loại doanh nghiệp ngoài quốc doanh gồm: tập thể, tư nhân, cá thể,
hỗn hợp. Riêng khu vực có vốn đầu tư nước ngoài lại được tách riêng. Quan
điểm khác lại cho kinh tế có 100% vốn nước ngoài cũng nằm trong kinh tế tư
nhân (nếu thuộc sở hữu tư nhân). Còn theo quan điểm hiện nay được Đảng ta

nêu ở Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX, tháng
3-2002 thì: “kinh tế tư nhân gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư
nhân, hoạt động dưới hình thức hộ kinh doanh cá thể và các loại hình doanh
nghiệp của tư nhân” [12, tr.55].
Theo cách phân chia thành phần kinh tế trong Báo cáo chính trị trình
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng cộng sản Việt Nam thì nền
kinh tế quốc dân ở nước ta hiện nay gồm 5 thành phần kinh tế: kinh tế nhà
nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (bao gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh
tế tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Như vậy, theo quan niệm của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X thì kinh tế
-6-


tư nhân được hiểu theo góc độ hẹp bao gồm: kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế
tư bản tư nhân. Nếu xét về nguồn gốc thì 2 loại hình kinh tế cá thể, tiểu chủ và
kinh tế tư bản tư nhân có chung một nguồn gốc, đó là sở hữu tư nhân. Tuy
nhiên phải thấy rằng tính chất và trình độ của kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh
tế tư bản tư nhân là khác nhau, nhưng chúng có mối liên hệ với nhau.
+ Kinh tế cá thể, tiểu chủ: bao gồm những đơn vị kinh tế hoạt động trên
cơ sở sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, có quy mô nhỏ hơn các loại hình
doanh nghiệp tư nhân, hoạt động chủ yếu dựa vào sức lao động của chính họ.
Kinh tế cá thể, tiểu chủ tồn tại độc lập dưới hình thức: xưởng thợ gia
đình, công ty tư nhân nhỏ, hộ kinh doanh thương mại, dịch vụ, hộ làm kinh tế
trang trại, hoặc tham gia liên doanh, liên kết với các loại hình kinh tế khác.
+ Kinh tế tư bản tư nhân: đây là loại hình kinh tế dựa trên hình thức sở
hữu tư nhân về tư liệu sản xuất của một hay nhiều chủ, có sử dụng lao động
làm thuê, hoạt động một cách độc lập, trong đó chủ thể tư bản đồng thời là
chủ doanh nghiệp.
Ở Việt Nam hiện nay, kinh tế tư bản tư nhân thường được nhận thức
theo cách xác định của Luật doanh nghiệp (ban hành cuối năm 1999) gồm có:

công ty trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần và công
ty hợp danh được thành lập theo Luật doanh nghiệp.
Như vậy, do chưa có sự thống nhất chung nên ta vẫn có thể hiểu khái
niệm kinh tế tư nhân qua hai cấp độ khác nhau:
Theo cấp độ khái quát nhất: Kinh tế tư nhân là khu vực kinh tế nằm
ngoài quốc doanh (ngoài khu vực kinh tế nhà nước), bao gồm cả các doanh
nghiệp trong và ngoài nước, trong đó tư nhân nắm trên 50% vốn đầu tư.
Theo cấp độ hẹp hơn: Kinh tế tư nhân gồm có kinh tế cá thể, tiểu chủ
và kinh tế tư bản tư nhân.
Từ hai cách hiểu trên, chúng ta đi đến một nhận thức mang tính khái
-7-


quát chung về kinh tế tư nhân như sau:
Kinh tế tư nhân là khu vực kinh tế gắn liền với loại hình sở hữu tư nhân.
Trong đó các chủ thể của nó tự chủ tiến hành sản xuất kinh doanh vì lợi ích
trực tiếp của cá nhân, hay tập thể cá nhân hoạt động dưới những hình thức
kinh tế khác nhau, dù có thuê hay không thuê lao động.
Tuy nhiên, trong quá trình phân tích, lấy số liệu, luận văn sẽ đề cập đến
khu vực kinh tế tư nhân với nghĩa là khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh
bao gồm: tập thể, tư nhân, cá thể, hỗn hợp và tách riêng khu vực doanh
nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
1.1.2. Đặc điểm của kinh tế tư nhân
Trong sự phân loại các loại hình kinh tế của V.I. Lênin không có tên
kinh tế cá thể, tiểu chủ. Đây chỉ là cách gọi riêng của Việt Nam. “Kinh tế cá
thể, tiểu chủ” và “kinh tế tư nhân” (được hiểu đồng nghĩa với kinh tế tư bản tư
nhân) đã trở thành đối tượng của công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam từ năm 1958 đến năm 1985. Việc đặt trung tâm của công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội là sự chiến thắng của chủ nghĩa xã hội trước con đường tư
bản chủ nghĩa, đã trực tiếp chuyển loại hình kinh tế trên, từ vấn đề kinh tế, trở

thành vấn đề chính trị. Quan điểm này trên thực tế đã trở nên lỗi thời, không
còn phù hợp.
Thực ra cách tiếp cận lâu nay của chúng ta chia kinh tế tư nhân ra nhiều
loại hình kinh tế (thường được gọi là thành phần kinh tế) là hướng theo mục
đích làm rõ kết cấu quan hệ sản xuất, theo góc độ quan hệ sở hữu giữa các
tầng lớp, các giai cấp, để từ đó có những đối sách cụ thể về mặt chính trị đối
với từng thành phần kinh tế. Cách chia này lại mang tính chất định tính, rất
khó nêu ra một tiêu chí cụ thể và chính xác cho mỗi loại hình kinh tế. Hiện
nay trên thế giới người ta thường sử dụng một số tiêu chí để phản ánh quy mô
và phân biệt ranh giới giữa các loại doanh nghiệp: cực nhỏ, nhỏ, vừa và lớn.
-8-


Nhìn chung các nước đều sử dụng các tiêu chí rất khác nhau để chỉ quy mô
các loại doanh nghiệp. Mặt khác, các tiêu chí này thường được thay đổi theo
thời gian, theo hoàn cảnh lịch sử nhằm phù hợp với sự phát triển không ngừng
của nền kinh tế - xã hội.
Với lý do trên, chúng tôi cho rằng, không thể có một tiêu chí chính thức
nhằm phân định ranh giới giữa kinh tế cá thể, tiểu chủ với kinh tế tư bản tư
nhân. Bởi nếu định ra một tiêu chí như vậy sẽ là chủ quan, không khoa học,
thiếu tính thuyết phục và dẫn đến những cuộc tranh luận vô tận về nó. Thực tế
cho thấy, cũng như kinh tế nhà nước, kinh tế tư nhân tuy có nhiều trình độ
phát triển khác nhau nhưng cũng không nên chia cắt nó theo những góc độ
khác nhau để có sự phân biệt đối xử giữa chúng. Bản chất chung của khu vực
kinh tế tư nhân chính là sở hữu tư nhân. Dù là kinh tế cá thể, tiểu chủ hay
kinh tế tư bản tư nhân thì giữa chúng cũng có điểm chung là, đều dựa trên chế
độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và về các nguồn lực sản xuất.
Như vậy, không cần thiết phải sử dụng khái niệm “thành phần kinh tế”,
mà thay vào đó chỉ nên dùng khái niệm “khu vực kinh tế”. Theo đó, trong nền
kinh tế nước ta hiện nay có hai khu vực kinh tế cơ bản là “khu vực kinh tế nhà

nước” và “khu vực kinh tế tư nhân”…
Cũng có thể hiểu và gọi các khái niệm trên bằng các khái niệm có chung
một nội dung, nhưng gọn hơn là: “kinh tế nhà nước” và “kinh tế tư nhân”…
Nếu sử dụng cách tiếp cận “khu vực kinh tế” và sử dụng một số khái
niệm nêu trên, chúng ta sẽ gặp được nhiều thuận lợi sau đây:
- Khắc phục được tính trừu tượng, tính phi định lượng của cách tiếp cận
thành phần kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác thống kê chính xác
hơn và quản lý thông thoáng hơn.
- Tránh được sự phân biệt đối xử, sự thành kiến mặc cảm, cổ vũ sự bình
đẳng giữa các khu vực kinh tế, tạo tâm lý yên tâm phấn khởi, tạo niềm tin cho
-9-


các nhà đầu tư tư nhân trong và ngoài nước.
- Phù hợp với cách phân định khu vực kinh tế của các nước, tạo thuận
lợi cho việc hội nhập và tăng sức cạnh tranh cho nền kinh tế của nước ta.
- Tránh được việc tranh luận không có hồi kết về sự phân định ranh
giới giữa hai loại hình kinh tế: cá thể, tiểu chủ và tư bản tư nhân.
- Khi không cần phải sử dụng khái niệm “thành phần kinh tế tư bản tư
nhân”, thì việc tranh luận về vấn đề “đảng viên làm kinh tế tư bản tư nhân”
cũng không cần thiết phải đặt ra nữa. Bởi nó cũng rất khó giải quyết như việc ta
đang tìm tiêu chí cụ thể cho việc phân định ranh giới giữa hai loại hình kinh tế
trong khu vực kinh tế tư nhân vậy. Song cũng cần có những quy định cần thiết
cho những đảng viên làm chủ doanh nghiệp ở quy mô lớn và tương đối lớn.
1.2.

Vai trò của kinh tế tƣ nhân trong tăng trƣởng kinh tế và mở

rộng việc làm
1.2.1. Vai trò của kinh tế tư nhân trong tăng trưởng và phát triển kinh tế

Thực tiễn hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới của nước ta cho
thấy sự tái lập và phát triển khu vực kinh tế tư nhân đã tạo ra sự biến đổi sâu
sắc cơ cấu nền kinh tế quốc dân, từ một nền kinh tế đơn sở hữu thành một nền
kinh tế đa sở hữu, nhiều thành phần. Từ đó đã tạo ra cơ sở để chuyển nền kinh
tế nước ta từ mô hình kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Việc tái lập và phát triển khu vực kinh tế tư nhân đã khơi dậy và huy
động được tiềm lực nội sinh của các tầng lớp nhân dân vào đầu tư phát triển
kinh tế - xã hội, tạo ra nhiều việc làm, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế
ngành, kinh tế vùng, kinh tế nhiều thành phần, từ đó thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế, tăng thêm hàng hóa xuất khẩu, tăng thu ngân sách, tăng thêm thu
nhập cho nhân dân, xóa đói giảm nghèo, góp phần quan trọng vào việc ổn
định tình hình chính trị, xã hội của đất nước.
- 10 -


Sự tái lập và phát triển khu vực kinh tế tư nhân còn thúc đẩy khu vực
kinh tế nhà nước phải tự đổi mới để vươn lên khẳng định vai trò, vị trí của
mình trong nền kinh tế quốc dân. Sự tác động đó được thể hiện trên một số
mặt chủ yếu như:
- Sự xuất hiện các chủ thể sản xuất kinh doanh thuộc khu vực kinh tế tư
nhân trong tất cả các lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp, công nghiệp, thương mại,
dịch vụ hoạt động trên thương trường đã đẩy lùi dần tình trạng độc quyền của
các chủ thể thuộc khu vực kinh tế nhà nước, tăng thêm đối tác cạnh tranh làm
cho nền kinh tế quốc dân trở nên phong phú và sống động hơn.
- Kinh tế tư nhân phát triển đương nhiên các hình thức sở hữu của nền
kinh tế đa dạng hơn, sự phân công lao động xã hội tất yếu sẽ diễn ra và cả hai
nhân tố đó sẽ thúc đẩy sản xuất hàng hóa phát triển, thị trường được mở rộng,
các quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh phát huy tác dụng
tạo sức ép đẩy lùi cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp vốn đã ăn sâu

trong tiềm thức xã hội, đặc biệt là trong doanh nghiệp nhà nước tạo nên sự ỷ
lại, trì trệ, kém hiệu quả của khu vực này và của cả nền kinh tế.
- Sự có mặt của các loại hình doanh nghiệp của khu vực kinh tế tư nhân
trong tất cả các lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội mà luật pháp không
cấm đã tạo ra một áp lực thực sự buộc các doanh nghiệp nhà nước phải vươn
lên đổi mới và chỉnh đốn một cách toàn diện thì mới có thể tồn tại và phát
triển được.
Trước hết nó đòi hỏi khu vực doanh nghiệp nhà nước phải được sắp
xếp lại. Chỉ giữ những doanh nghiệp 100% vốn nhà nước ở những ngành,
những lĩnh vực có vị trí chiến lược trong nền kinh tế quốc dân như: công
nghiệp quốc phòng, bưu chính viễn thông, vận tải hàng không, đường sắt,
đường biển, xuất nhập khẩu,… Số còn lại được tiến hành cổ phần hóa, bán,
khoán, cho thuê… Các doanh nghiệp được phân tách rõ thành hai loại hình
- 11 -


hoặc sản xuất kinh doanh vì mục đích lợi nhuận, hoặc hoạt động vì mục đích
công ích. Việc sắp xếp này không những không làm cho khu vực doanh
nghiệp nhà nước mất đi vai trò, vị trí của mình mà thực sự còn làm cho nó
mạnh lên trên nhiều mặt như: huy động được nguồn vốn của nhân dân để đầu
tư chiều sâu hoặc mở rộng doanh nghiệp; tập trung vốn của nhà nước để đầu
tư vào ngành chiến lược; phát huy được quyền làm chủ của người lao động,
tiếp thêm sức sống cho doanh nghiệp, nhờ vậy đã đem lại hiệu quả kinh tế cao
hơn. Cụ thể: năm 1991 cả nước có trên 12.800 doanh nghiệp nhà nước nắm
đến 70% giá trị tài sản cố định của nền kinh tế quốc dân, nhưng chỉ đóng vào
GDP được 31,07%, nộp ngân sách nhà nước khoảng 33%. Sau 10 năm sắp
xếp lại đến cuối năm 2000, số doanh nghiệp nhà nước chỉ còn lại trên 5.000
đơn vị, nhưng đã đóng góp vào GDP gần 39,0%, nộp ngân sách 39,2% và
chiếm 50% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước.
Đi đôi với việc sắp xếp lại, các doanh nghiệp nhà nước phải thực hiện

chấn chỉnh tổ chức bộ máy, đổi mới cơ chế quản lý, đổi mới thiết bị máy móc,
công nghệ để nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường.
Sự phát triển mạnh mẽ khu vực kinh tế tư nhân với hàng chục triệu hộ
sản xuất kinh doanh cá thể và trên 152.000 doanh nghiệp tư nhân trong nước,
hoạt động dưới nhiều hình thức và hàng ngàn doanh nghiệp có vốn nước
ngoài đầu tư vào Việt Nam đã thúc đẩy các doanh nghiệp nhà nước hoạt động
trong các lĩnh vực dịch vụ như: tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, kiểm toán, y
tế, văn hóa phải đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động để thích ứng với
xu thế phát triển nền kinh tế thị trường. Chẳng hạn, trước đây các doanh
nghiệp này chỉ tiến hành giao dịch với 12.800 doanh nghiệp nhà nước, nay
phải giao dịch với hàng chục triệu đầu mối khác nhau. Hoặc trước đây trong
quan hệ giao dịch kinh tế với doanh nghiệp nhà nước nếu có sự cố gì xảy ra
thì đã có nhà nước hỗ trợ nên các doanh nghiệp trên cũng chẳng quan tâm lắm
- 12 -


đến kết quả của hoạt động dịch vụ. Nhưng nay phải quan hệ giao dịch kinh tế
với các hộ sản xuất, các doanh nghiệp tư nhân trong và ngoài nước nên dù
muốn hay không muốn các doanh nghiệp hoạt động trong khu vực dịch vụ
của nhà nước phải tính toán chặt chẽ hơn, phong cách phục vụ cũng phải mềm
mỏng, uyển chuyển hơn. Đó là chưa kể phải trực tiếp cạnh tranh với doanh
nghiệp dịch vụ của tư nhân trong và ngoài nước cùng hoạt động trên một lĩnh
vực kinh doanh. Ví dụ như trong lĩnh vực ngân hàng thì ngoài các ngân hàng
thương mại nhà nước, còn có ngân hàng cổ phần, ngân hàng nước ngoài, quỹ
tín dụng nhân dân và các hình thức tín dụng khác. Trong lĩnh vực bảo hiểm, y
tế, văn hóa, giáo dục, thể dục, thể thao cũng có một tình hình tương tự.
Phát triển kinh tế tư nhân là một trong những cầu nối quan trọng để thu
hút vốn, công nghệ, trí tuệ của nước ngoài đầu tư vào Việt Nam. Đồng thời nó
cũng tạo ra tiền đề và điều kiện để cho nền kinh tế nói chung và khu vực kinh
tế nhà nước nói riêng tham gia vào quá trình khu vực hóa và toàn cầu hóa

(thực hiện cam kết AFTA, tham gia APEC, Hiệp định Thương mại song
phương với Hoa kỳ, và Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO)…).
1.2.2. Kinh tế tư nhân và vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động
Giải quyết việc làm là một vấn đề quan trọng của mọi quốc gia. Giảm
tỷ lệ thất nghiệp là một mục tiêu kinh tế vĩ mô mà quốc gia nào cũng theo
đuổi. Điều đó càng đặc biệt quan trọng đối với Việt Nam, một quốc gia có lực
lượng lao động đông đảo, có tốc độ gia tăng hàng năm cao trong khi khả năng
tạo việc làm từ khu vực kinh tế nhà nước không lớn và có xu hướng đứng yên,
khả năng thu hút vốn từ nước ngoài đang có xu hướng tăng chậm lại. Vì thế
nếu chỉ thông qua các doanh nghiệp nhà nước thì không bao giờ tạo đủ việc
làm cho người lao động. Nhất là trong giai đoạn này, các doanh nghiệp nhà
nước đang có xu hướng sắp xếp lại tổ chức và giảm biên chế. Chỉ có khu vực
kinh tế tư nhân mới có khả năng thu hút và sử dụng nhiều lao động. Hiện nay
- 13 -


nước ta hàng năm có thêm khoảng 1,4 triệu người đến tuổi lao động, yêu cầu
mỗi năm phải tạo thêm được hàng triệu việc làm đang là một áp lực xã hội
mạnh đối với chính phủ và chính quyền địa phương.
Đối với một nền kinh tế thị trường, cả lý thuyết lẫn kinh nghiệm đều
chứng tỏ khu vực tư nhân bao giờ cũng là động lực chính của tăng trưởng
kinh tế. Nó tự tìm kiếm hoạt động đem lại lợi ích kinh tế, có động lực để duy
trì sự năng động, sử dụng hiệu quả các nguồn lực xã hội. Tuy nhiên, nếu chỉ
có khu vực tư nhân thì không đảm bảo đầy đủ các yếu tố cho sự phát triển của
một quốc gia, đặc biệt là yếu tố lợi ích công cộng. Do đó, phải có cả khu vực
Nhà nước để khắc phục những thất bại do thị trường mang lại. Và thực tiễn
cũng cho thấy tăng trưởng kinh tế tư nhân luôn là yếu tố quyết định tăng
trưởng chung của cả nền kinh tế.
Một điều cũng dễ nhận thấy rằng, khu vực tư nhân dễ tạo việc làm hơn
khu vực nhà nước. Nó được thể hiện bởi các lý do sau:

Thứ nhất, khu vực tư nhân rất rộng lớn, bao gồm tất cả các lĩnh vực
công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ…; số lượng doanh nghiệp tư nhân hay các
lĩnh vực hoạt động tư nhân trong một nền kinh tế thị trường luôn chiếm vị tri
áp đảo trong nền kinh tế. Do vậy, nó cho phép khu vực này tạo nhiều việc làm
cho nền kinh tế.
Thứ hai, khu vực nhà nước chỉ tập trung vào những lĩnh vực then chốt
của nền kinh tế, do đó, khu vực này thường hay phát triển ở những lĩnh vực
sử dụng nhiều vốn. Về nguyên tắc thì những lĩnh vực sử dụng nhiều vốn lại
thường ít tạo việc làm cho xã hội. Do vậy, khả năng tạo việc làm ở khu vực
nhà nước là rất thấp so với khu vực tư nhân.
Thứ ba, khu vực doanh nghiệp tư nhân thường tập trung ở những lĩnh
vực nông nghiệp, công nghiệp nhẹ. Mà đây là những lĩnh vực dễ tạo ra nhiều
việc làm nhất trong nền kinh tế. Đặc điểm của doanh nghiệp tư nhân, đặc biệt
- 14 -


là doanh nghiệp tư nhân vừa và nhỏ, là có tính linh hoạt, dễ chuyển đổi, dễ
thích nghi kể cả ở những nơi vùng sâu, vùng xa… Vì thế, nó dễ tận dụng
được lao động của địa phương đó. Mỗi một doanh nghiệp tư nhân có thể nhỏ,
nhưng nếu cả khu vực doanh nghiệp tư nhân thì rất lớn và luôn luôn tiềm ẩn
sức sống mãnh liệt. Do đó, khu vực tư nhân có khả năng đóng góp tạo việc
làm rất lớn cho xã hội.
Như vậy để tạo việc làm cho những nguồn lao động lớn, đa dạng và
phức tạp hiện nay thì khu vực kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng đặc biệt.
Vai trò này thể hiện ở các hình thức sau:
- Tạo cơ hội kinh doanh cho các nhà doanh nghiệp, những người có
vốn để họ đóng vai trò là người sáng tạo và tím kiếm việc làm cho những
người khác.
- Tạo việc làm cho những người có nghề cổ truyền, có tri thức và bí
quyết công nghệ để họ góp phần cùng các chủ doanh nghiệp sáng tạo và tìm

kiếm việc làm cho những người khác.
- Tạo việc làm cho những người thiếu việc làm, góp phần tăng thu nhập
thông qua khu vực phi kết cấu và kinh tế hộ gia đình.
- Đào tạo và truyền nghề mới, nghề truyền thống cho thanh niên và
những người có yêu cầu chuyển đổi nghề nghiệp.
- Tạo việc làm có ích về vật chất và tinh thần, văn hóa phù hợp với yêu
cầu tăng thu nhập, nhu cầu và sở thích sáng tạo tinh thần - văn hóa của cá
nhân và hộ gia đình.
- Môi giới việc làm giữa các thành phần kinh tế và khu vực kinh tế
nông thôn, thành thị nhằm xúc tiến việc làm và tạo ra các luồng di cư lao
động và trung chuyển việc làm hợp lý và có hiệu quả trong xã hội.
Việc tạo thêm công ăn việc làm mới trong khu vực tư nhân sẽ tạo cơ
hội cho việc mở rộng thị trường, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng
- 15 -


cao năng suất lao động, sức cạnh tranh của nền kinh tế, cải thiện thu nhập và
nâng cao đời sống nhân dân. Như vậy, khu vực kinh tế tư nhân nếu được quản
lý và định hướng đúng đắn sẽ đóng góp vai trò rất quan trọng thúc đẩy mạnh
mẽ quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo con đường xã hội
chủ nghĩa.
1.3.

Các yếu tố ảnh hƣởng đến sự phát triển của khu vực kinh tế

tƣ nhân và khả năng mở rộng việc làm của nó
1.3.1. Quan niệm và thái độ xã hội đối với kinh tế nhà nước và kinh
tế tư nhân
Ở Việt Nam đã có thời kỳ tồn tại tư tưởng kỳ thị khu vực kinh tế tư
nhân. Thang bậc xã hội trong việc tôn vinh nghề nghiệp đã đặt nghề kinh

doanh vào bậc chót trong thang bậc sau “Sĩ, Nông, Công, Thương”. Hiện vẫn
còn đang tồn tại một nhận thức chung rằng những người làm trong các công
ty tư nhân có địa vị xã hội thấp hơn các cán bộ nhà nước. Hiện nay ở Việt
Nam đang có một hiện tượng phổ biến là các sinh viên có năng lực thường
xin vào làm việc cho các doanh nghiệp nhà nước hoặc các chi nhánh công ty
nước ngoài. Người ta cũng cho rằng một phần của kết quả kinh doanh có
nguồn gốc từ các hoạt động bất hợp pháp, do đó địa vị xã hội của một doanh
nhân thành đạt không phải lúc nào cũng ở vị trí cao.
Phần lớn các nghiên cứu gần đây ở Việt Nam đã ghi nhận sự thay đổi to
lớn trong môi trường kinh doanh và sự phát triển của khối tư nhân từ sau
chính sách đổi mới trong thang bậc “Sĩ, Nông, Công, Thương”. Vị trí của
thương nhân đã được nâng lên thứ nhất. Tuy nhiên thể chế và chính sách vẫn
chưa khuyến khích khối doanh nghiệp tư nhân thành lập hoặc mở rộng đơn vị
kinh doanh hợp pháp của mình. Những biểu hiện thiếu khuyến khích đó là:
- Hình ảnh tiêu cực của khu vực kinh tế tư nhân qua các cuộc điều tra
doanh nghiệp.
- 16 -


- Làm việc trong khu vực kinh tế tư nhân thường là sự lựa chọn việc
làm cuối cùng.
- Khu vực kinh tế tư nhân đối mặt với sự phân biệt đối xử của các tổ
chức tín dụng.
- Khu vực kinh tế tư nhân đối mặt với sự phân biệt đối xử của các nhà
cung cấp và khách hàng.
- Báo chí, các phương tiện truyền thông là cơ quan chủ yếu trong việc
hình thành nên dư luận xã hội. Tuy vậy, cho đến nay các kênh truyền thông
này vẫn chưa thực sự đóng vai trò tích cực trong việc ủng hộ sự phát triển của
khu vực kinh tế tư nhân trong các lĩnh vực hoạt động đáng có của nó.
1.3.2. Hệ thống pháp luật

Để phát triển khu vực kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thì hệ thống
pháp luật về kinh tế luôn có vai trò vô cùng to lớn. Nhận thức được tầm quan
trọng này, từ cuối những năm 1980 đến nay, việc không ngừng hoàn thiện hệ
thống pháp luật, đặc biệt là pháp luật về kinh tế luôn là mối quan tâm lớn,
thường xuyên và là một trong những chủ trương quan trọng của Đảng và Nhà
nước ta. Đại hội lần thứ IX của Đảng tiếp tục khẳng định phải “đổi mới và
hoàn thiện khung pháp lý, tháo gỡ mọi trở ngại về cơ chế, chính sách và thủ
tục hành chính để phát huy tối đa mọi nguồn lực, tạo sức bật mới cho sản xuất,
kinh doanh của mọi thành phần kinh tế với các hình thức sở hữu khác nhau”
[10, tr.188].
Vai trò của hệ thống pháp luật luôn có tính hai mặt. Nếu pháp luật hoàn
thiện, đối xử bình đẳng giữa khu vực tư nhân và khu vực nhà nước thì sẽ tạo
điều kiện phát triển khu vực tư nhân hơn. Ngược lại, nếu hệ thống pháp luật
tỏ ra có sự phân biệt đối xử giữa khu vực tư nhân với khu vực nhà nước thì sẽ
kìm hãm sự phát triển của khu vực tư nhân. Mặt khác, nếu pháp luật rõ ràng,
minh bạch, tạo ra những môi trường pháp lý thuận lợi cho các hoạt động kinh
- 17 -


×