Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Skkn: Kĩ năng kể chuyện lớp 2, tg: Vũ Thị Cúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (182.86 KB, 13 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Đề tài: MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KĨ NĂNG NÓI
TRONG GIỜ KỂ CHUYỆN CHO HỌC SINH LỚP 2
PHẦN I
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong các môn học ở bậc học Tiểu học, môn Tiếng Việt là môn học có
nhiều phân môn và chiếm nhiều thời gian học tập của học sinh nhất. Tuy nhiên,
trong môn Tiếng Việt, phân môn Kể chuyện được nhìn nhận với tầm quan trọng
đặc biệt, vì nó mang tính thực hành cao.
Như chúng ta đã biết, phân môn Kể chuyện luôn có mối quan hệ gắn bó
chặt chẽ với môn Tập đọc và Tập làm văn. Nó có sự gắn bó không chỉ ở sự phân
bố giờ học mà còn ở nội dung dạy, thể hiện rõ quan điểm tích hợp, tạo ra một
phong cách mới trong dạy học. Việc lấy văn bản ở bài Tập đọc làm ngữ liệu cho
giờ kể chuyện, giúp giáo viên tiết kiệm được khá nhiều thời gian (khi học sinh
tìm hiểu truyện, ghi nhớ cốt truyện). Do đó, trong tiết Kể chuyện, giáo viên đã
dành được nhiều thời gian cho việc rèn kỹ năng nói cho học sinh. Từ tiết kể
chuyện này, học sinh sẽ rút được nhiều kinh nghiệm để nói và viết văn tốt hơn.
Có thể nói rằng rèn kỹ năng nói cho học sinh trong khi kể chuyện là một
hoạt động khó. Học sinh muốn kể chuyện tốt đòi hỏi phải biết cách vận dụng
linh hoạt, sáng tạo những kiến thức đã được học với trí tưởng tượng và vốn ngôn
ngữ của mình để kể chuyện. Từ việc kể tốt câu chuyện, học sinh được rèn luyện
các kĩ năng khác với nhiều yêu cầu một cách đa dạng, phong phú.
Trong thực tiễn dạy tiết kể chuyện ở lớp 2, bản thân tôi nói riêng và các bạn
đồng nghiệp của tôi nói chung thường gặp phải những hạn chế như:
- Giáo viên chưa chú ý, chưa quan tâm hướng dẫn, gợi mở cho học sinh,
thường để các em tự kể theo trí nhớ nên các em thường kể chuyện như đọc, dần
dần các em ngại học phân môn này.
- Giáo viên chưa đưa ra những yêu cầu nâng cao để phát triển khả năng kể
chuyện của học sinh. Chưa chú ý sửa chữa câu, từ cho học sinh khi kể, chưa
giúp học sinh phát triển trí tưởng tượng, óc quan sát của mình qua tranh ảnh. Từ
đó khả năng quan sát, sử dụng tiếng việt của học sinh kém linh hoạt, không sáng


tạo. Khi học sinh kể chuyện, từ ngữ khô khan, câu văn dài dòng hoặc quá cụt
lủn… dẫn đến việc kể chuyện không đạt kết quả như mong muốn.
- Giáo viên chưa giúp đỡ, định hướng tốt cho học sinh các vấn đề cần nói
đến trong câu chuyện. Bên cạnh đó, giáo viên chưa chú trọng chuẩn bị tốt tranh
ảnh, đồ dùng cho tiết kể chuyện khiến tiết học kém hấp dẫn, không gây được sự
hứng thú cho học sinh.
- Học sinh lớp 2 hầu hết chưa biết cách diễn đạt câu từ, thường kể chuyện
theo trí nhớ nên khi quên nội dung câu chuyện thì dẫn đến ấp úng, kể không rõ
nghĩa, không gây được sự hứng thú cho người nghe dẫn đến chán học tiết Kể
chuyện.
Sáng kiến kinh nghiệm Vũ Thị Cúc

1


Trong quá trình giảng dạy ở trường Tiểu học, tôi cho rằng tiết Kể chuyện
là tiết dạy khó rất cần người giáo viên đầu tư thời gian, sức lực, trí tuệ để tiết
dạy có hiệu quả. Thực tế không chỉ riêng bản thân tôi băn khoăn, trăn trở mà
một số đồng nghiệp trong trường cũng luôn suy nghĩ để tìm ra phương pháp dạy
tiết học này một cách hiệu quả nhất. Qua nhiều năm tìm tòi, áp dụng các biện
pháp giảng dạy, tôi đã rút được một số kinh nghiệm trong việc rèn kỹ năng nói
cho học sinh lớp 2 trong tiết Kể chuyện tương đối hiệu quả. Tôi xin được trình
bày ra đây với mong muốn cùng các đồng nghiệp trao đổi kinh nghiệm để tìm ra
cách giảng dạy khoa học, hiệu quả nhất cho tiết dạy này.
PHẦN II
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Cơ sở lí luận:
Theo luật giáo dục về yêu cầu nội dung, phương pháp giáo dục Tiểu học
thì: phương pháp giáo dục Tiểu học phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ
động của từng học sinh, phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học, bồi

dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn,
tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú cho học sinh.
Đổi mới phương pháp dạy học là một khâu quan trọng không thể thiếu
được trong quá trình giáo dục. Đổi mới phương pháp dạy học được thể hiện đậm
nét trong chương trình mới ở chỗ: Chương trình Tiểu học mới tập trung vào cách
dạy học, đặc biệt là giúp học sinh biết cách học và có nhu cầu tự học, khuyến khích
dạy học cá nhân và dạy học hợp tác để phát triển năng lực theo tốc độ học, khả năng
của từng học sinh.
Trong mục tiêu giáo dục và giảng dạy Tiếng Việt ở Tiểu học, phân môn
Kể chuyện có vị trí, vai trò rất quan trọng, góp phần tích cực trong việc bồi
dưỡng tâm hồn, tình cảm, trau dồi những tri thức về cuộc sống và bồi dưỡng vốn
văn học cho học sinh. Ngoài ra nó còn nhằm nâng cao năng lực trí tuệ, đồng thời
rèn luyện cho các em khả năng diễn đạt bằng ngôn ngữ. Bên cạnh đó, phân môn
kể chuyện còn giúp các em phát triển các năng lực tư duy cơ bản như: Trí tưởng
tượng, óc phán đoán, khả năng ghi nhớ, năng khiếu thẩm mỹ, hình thành ở trẻ
em nhiều phẩm chất tốt đẹp, rất cần thiết cho nhu cầu phát triển ở lứa tuổi này.
Cùng với các môn học khác, phân môn Kể chuyện góp phần hình thành
nhân cách rất lớn cho học sinh, nó mở mang sự hiểu biết cho các em. Các em
được học hỏi những điều hay, lẽ phải từ rất nhiều các câu chuyện, thuộc nhiều
thể loại chuyện khác nhau, phản ánh đa dạng cuộc sống muôn hình muôn vẻ
trong đó có cả những câu chuyện dân gian như: Truyện cổ tích, truyện ngụ ngôn,
truyện cười… mà ông cha ta đã đúc kết kinh nghiệm trong cuộc sống để truyền
lại cho con cháu đời sau.
Chính vì vậy tiết Kể chuyện đòi hỏi giáo viên vừa biết kể chuyện hấp dẫn,
vừa biết dạy cho học sinh tập nói, tập kể chuyện và phát triển ngôn ngữ, bước
đầu tập dùng ngôn ngữ của bản thân để diễn tả (tập kể chuyện). Qua mỗi tiết kể
chuyện, học sinh được tiếp xúc với một văn bản truyện kể khá lý thú, cảm nhận
Sáng kiến kinh nghiệm Vũ Thị Cúc

2



được nội dung và thu hoạch được những bài học bổ ích... nhưng điều quan trọng
hơn là các em học được cách dùng từ ngữ, câu văn để diễn đạt một ý, liên kết
các ý trong một đoạn, một bài. Đây chính là yêu cầu rèn kỹ năng nói cho học
sinh.
Có thể nói, việc hình thành cho học sinh lớp 2 nới riêng, học sinh Tiểu
học nói chung kĩ năng kể chuyện tốt là rất quan trọng. Học tốt phân môn Kể
chuyện, học sinh bước đầu có một số kiến thức cơ bản, đơn giản và thiết thực về
dùng từ ngữ, tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh học tốt môn Tập làm văn của
các lớp trên.
2. Cơ sở thực tiễn.
2.1. Thực trạng ban đầu:
Tổng số học sinh lớp 2C do tôi chủ nhiệm có 32 em, trong đó có 16 học
sinh nữ. Gia đình các em đa số có hoàn cảnh kinh tế khó khăn: cha làm nghề
biển, mẹ nội trợ hoặc làm làm thuê. Chính vì cuộc sống khó khăn về kinh tế,
nghề nghiệp không ổn định đã khiến Phụ huynh học sinh ít quan tâm tới việc
học tập của con cái, thường phó mặc việc dạy dỗ con em cho nhà trường, thầy
cô. Vì vậy, trong lớp chưa có sự thi đua trong học tập, học sinh ít khi học và làm
bài trước khi đến lớp...
Đầu năm khi nhận lớp qua kiểm tra lớp tôi thấy có 12/32 em không biết
kể chuyện, khi thấy học sinh yếu về môn kể chuyện quá cao, tôi không khỏi băn
khoăn suy nghĩ về vấn đề này. Tôi luôn đặt ra câu hỏi: Học sinh học yếu môn kể
chuyện là do đâu? nguyên nhân nào các em lại học yếu? làm thế nào để hạn chế
học sinh học yếu? Xuất phát từ câu hỏi do tôi nêu trên, tôi đã suy nghĩ, nghiên
cứu tìm ra nguyên nhân học sinh học yếu môn Kể chuyện để tìm cách khắc
phục.
2.2. Thống kê chất lượng đầu năm:
Kết quả kiểm tra chất lượng đầu năm phân môn Kể chuyện như sau:
- Tổng số học sinh 32 em. Trong đó:

+ Giỏi: 2 em = 6 %
+ Khá:
5 em = 15%
+ TBình: 13 em = 41%
+ Yếu: 12 em = 38%
3. Nguyên nhân:
3.1. Từ phía giáo viên:
Trong những năm vừa qua, hầu hết giáo viên vẫn còn bị ảnh hưởng theo
lối dạy kể chuyện theo chương trình cũ. Giờ Kể chuyện, giáo viên kể mẫu xong
chỉ đặt các câu hỏi như: Câu chuyện này có mấy nhân vật? là những nhân vật
nào? để cho các em nhớ lại cốt truyện, sau đó để các em kể lại theo đoạn và cả
câu chuyện. Với hình thức dạy kể chuyện như vậy nhiều khi học sinh không thể
nắm bắt được cốt truyện ngay trên lớp, trừ một số em đã đọc truyện đó ở nhà
một hai lần. Phương pháp này hạn chế kỹ năng kể chuyện và nhận xét bạn kể
của các em. Điều đó cũng ảnh hưởng đến việc rèn khả năng nghe, nói cho học
sinh.
Mặt khác, khi tổ chức các hoạt động dạy trong giờ Kể chuyện, giáo viên
chưa phát huy được tính tích cực, sáng tạo, năng động của học sinh. Chưa linh
Sáng kiến kinh nghiệm Vũ Thị Cúc

3


hoạt khi xử lí các tình huống có vấn đề khi dạy kể chuyện. Trong quá trình dạy
học, giáo viên chưa động viên kịp thời học sinh, chưa giúp các em nhập hồn vào
các nhân vật khi kể dẫn đến giờ học hiệu quả chưa cao.
Ở phân môn Kể chuyện, trong bộ SGK không có quyển truyện kể dùng
riêng cho các giờ Kể chuyện. Trên lớp, học sinh chỉ kể lại hoặc dựng lại dưới
hình thức hoạt cảnh những câu chuyện đã học trong tiết Tập đọc đầu tiên trong
tuần. Từ đó dẫn đến học sinh chưa phân biệt được các mức độ: Kể bằng lời

trong văn bản, kể bằng lời của chính mình, kể bằng lời trong câu chuyện. Các
em diễn đạt chưa lưu loát, chưa biết thay đổi giọng phù hợp với nội dung câu
chuyện, chưa biết sử dụng điệu bộ, cử chỉ hỗ trợ cho lời kể của mình. Vì vậy
chưa phát huy được khả năng nói của học sinh trong giờ học kể chuyện.
3.2. Từ phía học sinh:
- Phụ huynh học sinh hầu hết đời sống kinh tế còn khó khăn nên chưa có
điều kiện để giúp đỡ con em về phương pháp học tập. Việc chuẩn bị bài của học
sinh chưa chu đáo, tình trạng học sinh không nắm được yêu cầu, nội dung câu
chuyện cần kể còn nhiều nên dẫn đến việc các em chưa yêu thích tiết học Kể
chuyện.
- Học sinh lớp 2 còn nhỏ tuổi nên chưa thực sự tự tin khi nói trước lớp.
Khi kể chuyện, nhiều em còn lúng túng, hay quên. Đặc biệt, các em chưa mạnh
dạn khi kể chuyện theo cách phân vai.
3.3. Từ phía nhà trường:
Điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị của nhà trường còn nhiều hạn chế,
tranh ảnh, đồ dùng phục vụ cho tiết Kể chuyện còn ít, chưa đàm bảo được yêu
cầu giảng dạy của giáo viên và học tập của học sinh.
4. Một số biện pháp rèn kĩ năng nói trong giờ kể chuyện cho học sinh
lớp 2.
- Rèn luyện kĩ năng nói qua phương pháp, hình thức tổ chức dạy học.
- Rèn luyện kĩ năng nói qua hình thức kể chuyện theo tranh.
- Rèn luyện kĩ năng nói qua hình thức kể chuyện bằng hội thoại, giao
tiếp.
- Rèn luyện kĩ năng nói qua hình thức kể chuyện phân vai.
4.1. Rèn luyện kĩ năng nói qua phương pháp, hình thức tổ chức dạy
học:
Là một phân môn nằm trong chương trình Tiểu học mới, phân môn Kể
chuyện lớp 2 cũng được dạy theo phương pháp mới. Trong giờ kể chuyện, giáo
viên chỉ nêu đầu bài, yêu cầu và mục đích của tiết Kể chuyện. Học sinh tự kể (cá
nhân) hoặc nhóm theo các yêu cầu đó. Giáo viên chỉ là người đạo diễn, hướng

dẫn, chỉ đạo, còn học sinh là diễn viên, là người thực hiện, chủ đạo trong tiết kể
chuyện đó.
Giáo viên chỉ kể mẫu một lần, thậm chí giáo viên không cần kể mẫu, mà
gọi một học sinh khá kể mẫu, cho học sinh xung phong kể mẫu. Còn lại các học
Sáng kiến kinh nghiệm Vũ Thị Cúc

4


sinh khác lần lượt kể theo đoạn và cả câu chuyện bằng nhiều hình thức khác
nhau. Trong khi học sinh kể, chỗ nào các em quên, lúng túng thì giáo viên nhắc
một cách khéo léo, tế nhị hoặc mời một học sinh khác nhắc giúp bạn học. Như
vậy, trong giờ dạy học kể chuyện, học sinh sẽ phát huy được khả năng nghe nói
của mình một cách tối đa. Hơn nữa giáo viên lại sử dụng các phương tiện dạy
học như tranh ảnh, một số dụng cụ thật với hình thức kể chuyện sắm vai, làm
cho giờ học kể chuyện thực sự sôi nổi, hấp dẫn.
Hình thức dạy học cũng cần được đổi mới: Giáo viên có thể tổ chức dạy
học theo lớp, theo nhóm. Trước kia giáo viên chỉ dạy theo lớp là chủ yếu, học
sinh ít được học theo nhóm. Học theo hình thức mới này sẽ giúp cho học sinh
phát triển kĩ năng nói trước lớp, trước đám đông.
Ví dụ bài: Con chó nhà hàng xóm (Tiếng Việt 2 - tập 1 trang 128) yêu cầu
dựa vào tranh kể lại từng đoạn câu chuyện đã học. Với tiết Kể chuyện này, giáo
viên cho học sinh làm việc theo nhóm. Giáo viên cho học sinh quan sát tranh 1,
sau đó đặt câu hỏi gợi ý:
- Bạn của Bé ở nhà là ai?
- Bé và Cún Bông đang làm gì?
Sau khi quan sát tranh 1 và nghe giáo viên đặt câu hỏi, học sinh phải nghe
để nhớ câu hỏi, khi hiểu câu hỏi rồi các em vừa quan sát tranh vừa nhớ lại nội
dung câu chuyện đã được học để xác định nội dung câu trả lời. Cuối cùng, các
em phải trình bày được câu trả lời của mình dưới hình thức nói. Như vậy, để trả

lời được câu hỏi, học sinh phải sử dụng nhiều kĩ năng như: nghe - nhớ, nghe hiểu, xác định nội dung câu trả lời, nói trước lớp...
Sau khi học sinh đã nhớ lại được đoạn 1 của câu chuyện, giáo viên cho
học sinh kể. Đây là lúc các em bước đầu rèn luyện kĩ năng nói nhưng mới chỉ ở
dạng độc thoại. Lời kể của các em diễn ra liên tục, do đó các em ít có thời gian
để ngừng nghỉ, chuẩn bị. Chính vì vậy giáo viên phải giúp học sinh chuẩn bị kĩ
càng nội dung kể, tâm thế kể chuyện (thậm chí cả ngôn từ và các yếu tố phụ trợ).
Khi kể chuyện, ngoài việc tự nghe mình kể, các em còn phải lưu ý quan sát
những phản ứng từ người nghe, để có sự điều chỉnh phù hợp về nội dung, giọng
kể, điệu bộ...
Những học sinh khác, khi bạn kể chú ý nghe để nhận xét lời kể của bạn về
nội dung, về cách diễn đạt, cách thể hiện để bạn rút được kinh nghiệm và chính
bản thân các em cũng được bổ trợ những kinh nghiệm đó để điều chỉnh mình khi
kể.
Qua đây ta thấy: rõ ràng phương pháp kể chuyện mới này đã có những
tiến bộ rõ rệt: Trong tiết học, giáo viên chỉ là người hướng dẫn chỉ đạo còn học
sinh mới thực sự là người làm cho tiết học sôi nổi, hấp dẫn hơn. Bởi trong tiết kể
chuyện, hoạt động của học sinh chiếm 2/3 tiết học. Như vậy có nghĩa là học sinh
được chủ động trong việc nghe nói, đẩy ngôn ngữ nói của các em lên một mức
cao hơn.
4.2. Rèn luyện kĩ năng nói qua hình thức kể chuyện theo tranh:
Sáng kiến kinh nghiệm Vũ Thị Cúc

5


Chúng ta cần phân biệt kể chuyện theo tranh và sử dụng tranh minh hoạ
cho truyện. Tranh ảnh là đồ dùng trực quan có thể được sử dụng trong bất kì một
môn học nào. Nếu các môn học khác sử dụng tranh khi giới thiệu khái niệm
hoặc nhằm minh họa cho khái niệm thì ở tiết dạy Kể chuyện của chương trình
cải cách giáo dục, giáo viên sử dụng tranh vẽ để thể hiện nội dung, diễn biến của

câu chuyện. Tranh vừa là phương tiện trợ giúp trí nhớ một cách đắc lực, vừa là
công cụ làm cho việc thể hiện lại câu chuyện một cách sinh động và hấp dẫn.
Hình thức kể chuyện theo tranh là hình thức rất hay, phát huy được khả năng
quan sát, óc tưởng tượng, đặc biệt là phát huy khả năng nói (ngôn ngữ) ở các
em.
Trong phân môn Kể chuyện, đa số các câu chuyện đều được kể theo tranh.
Mỗi bức tranh sẽ tương ứng với nội dung của một đoạn truyện, thường thì mỗi
câu chuyện có từ 3 đến 4 đoạn nên có từ 3 đến 4 bức tranh minh họa. Nhưng
cũng có những truyện có từ 5 đến 6 đoạn nên được minh hoạ bằng 5 đến 6 tranh,
ví dụ như truyện “Tìm ngọc” (Tiếng việt 2 - trang 140 tập 1).
Tranh sử dụng trong kể chuyện có hai loại: tranh kèm lời gợi ý (dùng
trong những tuần đầu năm học) và tranh không kèm lời gợi ý (dùng trong những
tuần sau). Trong việc áp dụng biện pháp này, giáo viên có thể sử dụng tranh
trong sách giáo khoa hoặc vẽ tranh lớn treo trên bảng.
Đối với những truyện có tranh kèm theo lời gợi ý: Ví dụ truyện “Có công
mài sắt có ngày nên kim” (lớp 2 - tập 1), sách giáo viên hướng dẫn như sau:
* Quy trình hướng dẫn:
- Cho học sinh quan sát từng tranh.
- Giáo viên đặt câu hỏi gợi ý.
- Cho từng học sinh kể.
- Sau mỗi lần cho một học sinh kể, cho lớp nhận xét:
+ Về nội dung: Kể đã đủ ý chưa? Kể có đúng trình tự không?
+ Về cách diễn đạt: Nói đã thành câu chưa? Dùng từ có hợp không? Đã
biết kể bằng lời của mình chưa(mức độ cao)?
+ Về cách thể hiện: Kể có tự nhiên không? Đã biết phối hợp lời kể với
điệu bộ, nét mặt chưa? Giọng kể có thích hợp không?
* Kể theo tranh 1:
Câu hỏi gợi ý:
+ Cậu bé đang làm gì? Cậu đọc sách như thế nào?
+ Em hãy nhớ lại truyện đã đọc: Cậu bé tập viết như thế nào?

- Ví dụ về lời kể có sáng tạo: Ngày xưa có một cậu bé làm gì cũng chóng
chán. Cứ cầm đến quyển sách, đọc được vài ba dòng là cậu đã ngáp ngắn ngáp
dài, rồi gục đầu ngủ lúc nào không biết. Lúc tập viết, cậu cũng chỉ nắn nót được
mấy chữ đầu, rồi viết nguệch, viết ngoạc cho xong chuyện.
* Kể theo tranh 2:
Câu hỏi gợi ý:
- Tranh vẽ bà cụ đang làm gì?
- Cậu bé hỏi bà cụ điều gì?
- Bà cụ trả lời thế nào?
- Cậu bé có tin lời bà cụ nói không?
Sáng kiến kinh nghiệm Vũ Thị Cúc

6


* Kể theo tranh 3:
Câu hỏi gợi ý:
- Bà cụ trả lời thế nào?
- Sau khi nghe bà cụ giảng giải, cậu bé làm gì?
Học sinh có thể tách lời giảng giải của bà cụ thành nhiều câu ngắn:
Hôm nay bà mài. Ngày mai bà lại mài. Mỗi ngày thỏi sắt nhỏ lại một ít.
Chắc chắn có ngày nó sẽ thành cái kim...
* Kể theo tranh 4:
Câu hỏi gợi ý:
- Em hãy nói lại câu tục ngữ.
- Câu tục ngữ khuyên em điều gì?
Như vậy, ta thấy: đối với những câu chuyện kèm theo lời gợi ý, sách giáo
viên đã hướng dẫn khá kĩ. Vì vậy, giáo viên nhìn hệ thống câu hỏi gợi ý này có
thể điều hành một tiết Kể chuyện dễ dàng, còn học sinh thì dựa vào hệ thống câu
hỏi đó có thể tự mình kể được câu chuyện.

Vậy là hình thức kể chuyện theo tranh đã phát huy được tác dụng của nó,
đó là việc rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh.
Để dạy được hình thức bài tập này đạt hiệu quả cao thì giáo viên không
nên trao đổi nội dung tất cả các tranh cùng một lúc. Kể đoạn nào giáo viên treo
tranh đoạn đó để thu hút sự tập trung của các em. Nếu nhìn tranh kể lại toàn bộ
câu chuyện thì mới treo tất cả tranh cùng một lúc (Phần củng cố).
Hơn nữa, giáo viên nên cho học sinh quan sát dưới lớp trước, sau đó gọi
các em lên bảng kể và khuyến khích các em khi kể không cần nhìn chăm chú
vào tranh mà chỉ dùng tranh như một phương tiện làm cho lời kể hay hơn, hấp
dẫn hơn. Nghĩa là học sinh quay xuống lớp kể chỗ nào cần đến tranh thì các em
mới chỉ vào tranh.
4.3. Rèn luyện kĩ năng nói qua hình thức kể chuyện bằng hội thoại,
giao tiếp.
Kể chuyện là khả năng sử dụng ngôn ngữ ở dạng nói có tính nghệ thuật.
Đây là một dạng đặc biệt của đối thoại. Kể chuyện bằng hội thoại, giao tiếp là
hình thức kể chuyện sử dụng dàn ý, câu hỏi gợi ý để hướng dẫn học sinh kể
chuyện. Trong tất cả các hình thức kể chuyện thì đây là hình thức dễ nhất vì các
tình tiết, diễn biến câu chuyện đã được ghi lại (trong dàn ý hoặc câu trả lời), học
sinh dựa vào đó để kể lại truyện. Với các câu chuyện dài, nhiều tình tiết, giáo
viên sử dụng hình thức kể chuyện này sẽ giúp học sinh dễ dàng kể lại câu
chuyện.
Ví dụ như truyện “Kho báu” (lớp 2 - tập 2). Nói chung đây cũng là một
truyện khá dài, nhưng nếu giáo viên dùng hình thức hội thoại, giao tiếp trong tiết
Kể chuyện sẽ giúp học sinh kể được câu chuyện dễ dàng hơn, đồng thời giúp
học sinh phát huy được khả năng nói của mình. Giáo viên có thể dùng dàn ý
dưới đây để giúp học sinh kể lại câu chuyện:
- Đoạn 1: Hai vợ chồng chăm chỉ.
+ Thức khuya dậy sớm.
+ Không lúc nào ngơi tay.
+ Kết quả tốt đẹp.

Sáng kiến kinh nghiệm Vũ Thị Cúc

7


- Đoạn 2: Dặn con.
+ Tuổi già.
+ Hai người con lười biếng.
+ Lời dặn của người cha.
- Đoạn 3: Tìm kho báu.
+ Đào ruộng tìm kho báu.
+ Không thấy kho báu.
+ Hiểu lời dặn của cha.
Để rèn được kỹ năng nới cho học sinh thông qua hình thức hội thoại, giao
tiếp, giáo viên phải chú ý nghiên cứu kỹ nội dung kiến thức trong sách giáo khoa
và hướng dẫn trong sách giáo viên để có thể chuẩn bị tốt cho tiết dạy, cụ thể như
sau:
* Trong sách giáo khoa:
Qua tìm hiểu sách giáo khoa lớp 2 chương trình mới ta thấy, đây cũng là
một hình thức phổ biến của phân môn Kể chuyện lớp 2 (chương trình Tiểu học
mới). Hình thức này không có yếu tố tranh ảnh phụ trợ. Song mỗi đoạn truyện
thường có 3-4 câu gợi ý ngắn, mỗi câu gợi ý chứa đựng nội dung tổng hợp của
đoạn truyện. Những câu gợi ý đó gợi lại trí nhớ, trí tưởng tượng của học sinh
một cách dễ dàng. Lệnh của hình thức kể chuyện bằng hội thoại, giao tiếp
thường là: “Dựa vào các gợi ý sau kể lại từng đoạn của câu chuyện mới học”.
Sau khi phát lệnh, giáo viên ghi gợi ý của từng đoạn lên bảng và cho học sinh
nhìn vào gợi ý đó để các em có thể kể lại. Tuy nhiên, để cho hình thức này phát
huy hiệu quả rèn kĩ năng nói cho học sinh thì giáo viên không nên ghi những gợi
ý đó lên bảng ngay, mà cần đưa ra câu hỏi cho học sinh trả lời. Những câu hỏi
này phải đảm bảo tính logic của truyện.

Như vậy, ở hình thức này, sách giáo khoa có những dạng bài tập cụ thể sau:
- Dạng 1: Sách giáo khoa đưa ra gợi ý hoặc dàn ý tương đối cụ thể để
hướng dẫn học sinh kể lại câu chuyện.Ví dụ: bài “Chim sơn ca và bông cúc
trắng” (Tiếng Việt 2- tuần 21).
Có một số bài thay dạng bài tập này bằng dạng bài tập “Dựa vào tóm tắt
sau kể lại câu chuyện”. Ví dụ: Người làm đồ chơi (Tiếng Việt 2 - tuần 34).
- Dạng 2: Nêu những nhân vật trong câu chuyện, kể lại sự xuất hiện của
nhân vật, nhắc lại lời nhân vật. Ví dụ truyện “Người thầy cũ” (Tiếng Việt 2 - tập
1), “Bạn của Nai nhỏ” (Tiếng Việt 2 - tập 1)...
- Dạng 3: Tóm tắt nội dung của từng đoạn bằng một câu và đặt tên cho
từng đoạn truyện. Ví dụ truyện “Một trí khôn hơn trăm trí khôn” (Tiếng Việt 2 tuần 22).
* Trong sách giáo viên:
Thứ nhất: Dạng bài tập nhắc lại lời nhân vật trong truyện.
Ví dụ truyện “Bạn của Nai nhỏ” (Tiếng Việt 2 - tập 1), yêu cầu: nhắc lại
lời của Nai bố khi Nai nhỏ kể về bạn, sách giáo viên đã hướng dẫn như sau:
- Giáo viên cho học sinh nhìn lại tranh, nhớ và nhắc lại lời của Nai cha
với Nai nhỏ (Có thể gợi ý: Nghe Nai nhỏ kể lại hành động hích đổ hòn đá to của
bạn, cha Nai nói thế nào? Nghe Nai nhỏ kể chuyện người bạn đã nhanh trí kéo
Sáng kiến kinh nghiệm Vũ Thị Cúc

8


mình chạy trốn khỏi con thú dữ, cha Nai đã nói gì? Nghe xong chuyện bạn mình
húc ngã lão Sói để cứu Dê non, cha Nai đã mừng rỡ nói với con như thế nào?...)
- Vài học sinh nhắc lại những lời của Nai bố nói với con theo yêu cầu nói
trên; giáo viên nhận xét, uốn nắn(nếu cần).
Chú ý: Học sinh chỉ cần nhắc lại đúng ý cơ bản của lời nhân vật (Nai nhỏ,
Nai bố), không nhất thiết phải nêu nguyên các câu văn trong sách giáo khoa.
Như vậy, ở dạng bài tập này, sách giáo viên đã hướng dẫn khá cụ thể, chi

tiết tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên khi tiến hành tiết dạy kể chuyện. Giáo
viên không mất nhiều thời gian cho việc chuẩn bị giáo án. Chính vì vậy giáo
viên cần phải dành nhiều thời gian để rèn kĩ năng nói cho học sinh, giúp các em
nói tốt hơn, tự tin hơn. Đặc biệt, giáo viên nên tránh việc sa đà vào hỏi đáp làm
mất nhiều thời gian của tiết dạy; cần chú trọng gọi đối tượng học sinh trung
bình, học sinh yếu để giúp các em rèn kỹ năng nói trước lớp.
Thứ hai: Dạng bài kể lại sự xuất hiện của nhân vật.
Ví dụ truyện Người thầy cũ (Tiếng Việt 2 - tập 1) yêu cầu: Câu chuyện
gồm có mấy nhân vật? Kể lại sự xuất hiện của nhân vật chính (chú bộ đội) ở
đoạn 1, sách giáo viên đã hướng dẫn như sau:
Dạy theo quy trình đã hướng dẫn. Chú ý:
- Ý nghĩ của Dũng.
- Các nhân vật trong câu chuyện: Dũng, chú bộ đội tên là Khánh (bố của
Dũng) và là thầy giáo.
- Mở đầu câu chuyện: sự xuất hiện của nhân vật chính-chú bộ đội. Những
chi tiết chính cần kể:
+ Địa điểm diễn ra câu chuyện: trường của Dũng.
+ Thời gian diễn ra câu chuyện: giờ ra chơi.
+ Nhân vật: chú bộ đội.
+ Lí do xuất hiện của nhân vật: đến thăm thầy giáo cũ, cũng chính là thầy
giáo của con mình (Dũng).
- Kết thúc câu chuyện:
+ Bố của Dũng chào thầy giáo, ra rể.
Như vậy, cũng giống như dạng bài tập trên, ở dạng bài tập này, sách giáo
viên cũng hướng dẫn khá kĩ. Chắc chắn khi giáo viên gợi ý như trên, học sinh sẽ
kể được truyện. Tuy nhiên, giáo viên cần chú trọng rèn cho học sinh kỹ năng kể
trôi chảy, tự tin, tránh kể chuyện theo lối hỏi gì đáp nấy.
Thứ ba: Dạng bài tập dựa vào gợi ý, kể laị từng đoạn câu chuyện.
Ví dụ truyện “Chim sơn ca và bông cúc trắng” (lớp 2 – tập 2), sách giáo
viên yêu cầu: Dựa vào các gợi ý dưới đây, kể lại từng đoạn câu chuyện trên bằng

lời của em. Để thực hiện yêu cầu này, sách giáo viên đã hướng dẫn như sau:
Trước khi kể từng đoạn, giáo viên cho học sinh đọc thầm toàn bộ dàn ý
câu chuyện trong sách giáo khoa, trả lời:
- Truyện có mấy đoạn? Nội dung chính của từng đoạn?
Truyện có 4 đoạn:
+ Đoạn 1: Cuộc sống tự do, sung sướng của Sơn Ca và Cúc.
+ Đoạn 2: Sơn Ca bị cầm tù.
+ Đoạn 3: Trong tù.
Sáng kiến kinh nghiệm Vũ Thị Cúc

9


+ Đoạn 4: Sự hối hận muộn màng.
- Giáo viên viết nội dung từng đoạn lên bảng.
Ở dạng bài tập này, giáo viên có thể cho học sinh khá giỏi nêu các đoạn
trong truyện và nội dung chính của từng đoạn. Sau khi học sinh trả lời được,
giáo viên treo bảng phụ có ghi ý chính từng đoạn truyện và yêu cầu học sinh kể
lại nội dung từng đoạn. Cần chú trọng uốn nắn cách kể, giọng kể và cách minh
họa lời kể bằng hành động cho học sinh để câu chuyện thêm phần hấp dẫn.
4.4. Rèn luyện kĩ năng nói qua hình thức kể chuyện phân vai:
Đây là hình thức thu hút được đông đảo học sinh tham gia. Không chỉ các em
tham gia đóng vai có thể hiện tính cách của nhân vật mà các em ngồi dưới theo dõi,
cổ vũ hết sức nhiệt tình. Chính sự hứng thú của học sinh là điều kiện tốt để giáo viên
rèn luyện kĩ năng nói, giao tiếp cho các em trong giờ kể chuyện.
Ví dụ: Khi phân vai dựng lại câu chuyện “Quả tim khỉ” (Lớp 2 - tập 2),
giáo viên gọi 3 em: Một em đóng vai người dẫn chuyện, một em đóng vai Khỉ,
và một em đóng vai Cá sấu. Giáo viên hướng dẫn: Giọng người dẫn chuyện
chậm rãi, nhẹ nhàng; giọng Khỉ ân cần lúc hỏi han Cá Sấu và bình thản khi biết
âm mưu của Cá Sấu; giọng Cá Sấu buồn một cách giả dối, đặc biệt là con mắt

của Cá Sấu thỉnh thoảng lại liếc sang Khỉ để dò thái độ. Sau khi hướng dẫn
xong, có thể giáo viên làm mẫu cho học sinh xem sau đó mới gọi học sinh kể.
Đặc biệt, khi học sinh kể chuyện, giáo viên cần chú ý gọi các học sinh
khác nhận xét, rút kinh nghiệm và góp ý cho lời kể hoặc góp ý cử chỉ phụ họa
cho lời kể của bạn. Từ việc nhận xét, góp ý này học sinh sẽ rút được kinh
nghiệm để những lần sau kể hay hơn.
Như vậy, những dạng bài tập kể chuyện với hình thức phong phú đã thu
hút, lôi cuốn các em trong giờ kể chuyện, làm cho các em như sống lại với
những nhân vật trong truyện. Với niềm say mê của học sinh cũng như sự dạy dỗ
tận tình của giáo viên và phương pháp dạy học phù hợp thì giờ kể chuyện sẽ là
một môi trường tốt để rèn luyện kĩ năng giao tiếp, kĩ năng nói cho học sinh.
* Tóm lại:
Việc vận dụng một số biện pháp rèn kỹ năng nói trong giờ kể chyện cho
học sinh lớp 2 là rất cần thiết. Thông qua một số biện pháp này đã kèn được các
kĩ năng nói, viết, giúp học sinh ứng xử tự tin đồng thời kích thích khả năng ứng
xử, khả năng sử dụng ngôn ngữ của học sinh và góp phần rèn luyện tư duy linh
hoạt, tác phong ứng xử nhanh nhẹn, tháo vát, tự tin cho học sinh. Tuy nhiên,
việc vận dụng một số biện pháp rèn kỹ năng nói phải luôn sáng tạo bởi vì lứa
tuổi học sinh tiểu học luôn ham thích những cái mới lạ...
5. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm:
5.1. Kết quả đạt được:
Trong thời gian áp dụng một số biện pháp rèn kỹ năng nói trong giờ Kể
chyện cho học sinh lớp 2 vào thực tế giảng dạy môn kể chuyện ở lớp 2C nói
riêng, ở trường Tiểu học Sông Đốc 2 nói chung, tôi nhận thấy không khí trong
những giờ học trở nên sôi nổi hơn, học sinh tích cực thi đua học tập, các em
chuyển từ thụ động sang chủ động chiếm lĩnh kiến thức, thích thú với những
hình thức học tập mới lạ. Điều đáng mừng hơn nữa là các học sinh trong lớp có
kỹ năng nói ngày càng tốt hơn, các em tự tin hơn khi được gọi lên kể chuyện
Sáng kiến kinh nghiệm Vũ Thị Cúc


10


trước lớp. Khi kể chuyện, các em sáng tạo hơn trong việc sử dụng ngôn ngữ,
biết làm các cử chỉ phụ họa để lời kể sinh động, hấp dẫn người nghe…
Cuối năm học, kết quả học tập của học sinh lớp 2C tiến bộ rõ rệt. Ở mỗi
tiết kể chuyện, các em đã biết kể lại câu chuyện ở các mức độ: Kể bằng lời trong
văn bản, kể bằng lời của mình, kể bằng lời của nhân vật trong câu chuyện. Hầu
hết các em đều kể rất tốt, lưu loát, biết thay đổi giọng kể phù hợp với nội dung
câu chuyện, bước đầu biết sử dụng điệu bộ, cử chỉ để hỗ trợ cho lời kể. Khi kể,
các em biết thay thế, thêm bớt các từ ngữ làm cho câu chuyện sinh động hơn.
Hầu hết học sinh đã biết trước được nội dung của câu chuyện nên có rất nhiều
thời gian để rèn kĩ năng nói cho học sinh. Đặc biệt khi dùng dàn ý hoặc câu hỏi,
rất ít em phải nhìn vào dàn ý đó để kể lại.
Kết quả học tập cả năm của lớp có sự tiến bộ vượt trội, cụ thể như sau:
Thời
điểm
Đầu
năm
Cuối
HK1
Cuối
HK2

Tổng
số

Tốt
Số
Tỉ lệ

lượng
%

Khá
Số
Tỉ lệ
lượng
%

TBình
Số
Tỉ lệ
lượng
%

Yếu
Số
Tỉ lệ
lượng
%

32

2

6%

5

15%


13

41%

12

38%

32

5

15%

9

28.1%

15

47%

3

9%

32

7


21.8%

13

41%

12

37.2%

0

5.2. Phạm vi áp dụng của sáng kiến kinh nghiệm:
Với cách làm của tôi đã nêu ở trên, sáng kiến kinh nghiệm này có thể áp
dụng được cho tất cả các lớp trong dạy giờ Kể chuyện ở bậc Tiểu học và có thể
áp dụng vào các môn học khác tùy vào nội dung môn học và việc sử dụng của
giáo viên.
6. Nguyên nhân thành công và tồn tại:
6.1. Nguyên nhân thành công:
- Các tiết dạy phân môn Kể chuyện đã được học sinh yêu thích và mong
đợi được học. Kiến thức được các em tiếp thu một cách chủ động, tích cực thông
qua biện pháp rèn kỹ năng nói.
- Bản thân tôi có nhiều kinh nghiệm hơn trong việc lựa chọn các phương
pháp và biện pháp sao cho phù hợp, đảm bảo rèn đúng mục tiêu bài dạy cho học
sinh. Từ đó tư duy học sinh sáng tạo hơn và được nâng lên từng bước.
- Việc sử dụng một số biện pháp rèn kỹ năng nói trong giờ Kể chuyện, đã
tạo ra một môi trường học tập tích cực và chủ động hơn cho học sinh. Các em
mạnh dạn tham gia các hoạt động. Từ đó hình thành được kĩ năng giao tiếp, kỹ
năng sử dụng từ ngữ. Sự say mê học tập của các em là nguồn động viên thúc đẩy

tôi phải luôn vận dụng sáng tạo các phương pháp rèn kỹ năng nói cho học sinh
vào mỗi tiết học, đồng thời luôn giúp tôi tự tin hơn trong quá trình giảng dạy.
6.2 Tồn tại:
Sáng kiến kinh nghiệm Vũ Thị Cúc

11


Trong hoạt động học tập trên lớp, đôi lúc vẫn còn môt số học sinh chưa
nhiệt tình học tập do nhiều nguyên nhân; các em học còn mang tính đối phó qua
loa, còn một vài trường hợp chưa chú tâm nghe bạn kể, chưa chú trọng việc rèn
luyện kỹ năng kể cho bản thân… Những tồn tại này tôi đang tiếp tục tìm biện
pháp khắc phục.
PHẦN III
KẾT THÚC VẤN ĐỀ
1. Bài học kinh nghiệm:
1.1. Với bản thân:
- Với phương châm lấy học sinh làm trung tâm, giáo viên là người chỉ đạo,
hướng dẫn, còn học sinh là người thực hiện công việc, tôi nghĩ trong giờ dạy, giáo
viên nên tạo ra trong lớp học một không khí sôi nổi, thoải mái để tạo tâm thế cho học
sinh tiếp thu kiến thức.
- Trong giờ kể chuyện học sinh phải được phát huy tối đa khả năng nói
của mình. Giáo viên nên dùng các hình thức động viên, khuyến khích các em,
đặc biệt là đối với những em rụt rè, chưa tự tin. Ngoài ra, để hình thành kỹ năng
kể chuyện cho học sinh còn phụ thuộc vào phương pháp, hình thức tổ chức giờ
dạy của giáo viên. Dạy phân môn Kể chuyện, giáo viên phải đưa ra và lựa chọn
những phương pháp, hình thức tổ chức phù hợp cho việc rèn luyện kĩ năng nói
của học sinh như:
+ Về phương pháp: Phương pháp kể chuyện bằng tranh, phương pháp
đàm thoại, phương pháp nhập vai, phân vai…

+ Về hình thức tổ chức: Hình thức lớp - bài, hình thức học theo nhóm...
trong đó hình thức học theo nhóm là chủ yếu. Hình thức học này giúp học sinh
bình tĩnh, tự tin hơn và mạnh dạn nói ra ý kiến của mình. Ở đây, học sinh được
tham gia nói nhiều hơn, khả năng dùng ngôn ngữ được rèn luyện tốt hơn.
- Có thể nói rằng: Hoạt động giao tiếp là hoạt động có ý nghĩa sống còn
đối với xã hội. Giao tiếp đối với học sinh tiểu học là vô cùng cần thiết. Việc rèn
kĩ năng nói trong giờ kể chuyện cũng vậy, nó giúp các em khi tiếp xúc với bạn
bè, với thầy cô, với người thân một cách tự nhiên hơn, thân mật hơn và tự tin
hơn rất nhiều.
1.2. Đối với tổ chuyên môn:
Khi sinh hoạt tổ chuyên môn, tôi đã đưa những kinh nghiệm này ra để
các tổ viên trong tổ cùng tham khảo và trao đổi, học hỏi để không ngừng nâng
cao chất lượng học tập của học sinh trong lớp mình. Những kinh nghiệm này
cần được áp dụng thường xuyên, liên tục để học sinh có thói quen và nền nếp
học tập, giúp tiết dạy của giáo viên nhẹ nhàng thoải mái, sinh động mà hiệu quả
lại cao.
2. Kết luận:
Giáo dục Tiểu học chính là hình thành ở người học sinh những cơ sở ban
đầu rất cơ bản và bền vững giúp cho sự phát triển toàn diện nhân cách con người
Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kì mới, là nền tảng cho các bậc học sau
này của học sinh. Đây là nhiệm vụ cao cả không của riêng ai mà của toàn Đảng,
toàn dân, đặc biệt là nhiệm vụ của đội ngũ giáo viên. Muốn đạt được kết quả nêu
trên đòi hỏi người giáo viên phải luôn tự học, sáng tạo, không ngừng đổi mới,
Sáng kiến kinh nghiệm Vũ Thị Cúc

12


biết sử dụng các phương pháp dạy học sao cho phù hợp với từng đối tượng học
sinh. Đặc biệt là phải tận tâm, tận tụy với nghề nghiệp mà mình đã chọn.

Việc vận dụng một số biện pháp rèn kỹ năng nói cho học sinh trong giờ
Kể chuyện ở lớp 2 là một hoạt động cần thiết của mỗi giáo viên chúng ta. Làm
tốt công việc này sẽ tạo ra bầu không khí sôi nổi trong những giờ học, học sinh
chuyển từ thụ động sang chủ động chiếm lĩnh kiến thức, thích thú với những
hình thức học tập mới lạ. Các em sáng tạo hơn trong việc sử dụng ngôn ngữ khi
kể chuyện và biết ứng dụng các kỹ năng đã được rèn dũa trong các tiết Kể
chuyện vào học tập các môn học khác và vào cuộc sống.
Trên đây là một số kinh nghiệm mà bản thân tôi đã rút ra được trong quá
trình dạy phân môn Kể chuyện ở lớp 2. Trong quá trình viết sáng kiến chắc chắn
còn những khiếm khuyết, tôi rất mong được sự góp ý của Hội đồng khoa học
nhà trường và đồng nghiệp để sáng kiến của tôi sát thực tế hơn và áp dụng hiệu
quả hơn.
Tôi xin chân thành cám ơn!
Sông Đốc, ngày 2 tháng 10 năm
2010
Người viết sáng kiến

Vũ Thị Cúc

Sáng kiến kinh nghiệm Vũ Thị Cúc

13



×