Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

LUẬN văn vận dụng tư tưởng hồ chí minh về văn hoá vào việc giữ gìn và phát huy di sản văn hoá của dân tộc êđê ở đắk lắk

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (749.34 KB, 99 trang )

LUẬN VĂN:
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về văn
hoá vào việc giữ gìn và phát huy di sản
văn hoá của dân tộc Êđê ở Đắk Lắk
trong giai đoạn hiện nay


Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà tư tưởng, nhà lý luận thiên tài của cách mạng Việt
Nam. Toàn bộ di sản tư tưởng của Người là một kho báu văn hoá của dân tộc, hàm chứa
nhiều lĩnh vực rộng lớn và phong phú, đặc sắc và sáng tạo. Trong toàn bộ hệ thống tư
tưởng của Người thì tư tưởng về văn hoá chiếm một vị trí quan trọng.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá là một hệ thống các quan điểm lý luận mang tính
khoa học và cách mạng về văn hoá và xây dựng nền văn hoá Việt Nam. Nó chắt lọc, tổng
hợp và kết tinh những giá trị văn hoá phương Đông và phương Tây, truyền thống và hiện
đại, dân tộc và quốc tế, trong đó cốt lõi là sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với tinh
hoa và bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam.
Khi phân tích mối quan hệ biện chứng giữa văn hoá và cơ sở hạ tầng, văn hoá với
kinh tế - chính trị, Hồ Chí Minh đã khẳng định: Văn hoá là một kiến trúc thượng tầng,
những cơ sở hạ tầng của xã hội có kiến thiết rồi, văn hoá mới kiến thiết được và có đủ điều
kiện để phát triển, có thực mới vực được đạo, xã hội thế nào thì văn hoá thế ấy. Nhưng mặt
khác, đến lượt mình, văn hoá là động lực của sự phát triển xã hội và "văn hoá phải soi
đường cho quốc dân đi".
Đối với nước ta hiện nay, phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, là nhiệm vụ
quan trọng hàng đầu của toàn Đảng, toàn dân, song đó phải là sự phát triển bền vững, hài
hoà giữa kinh tế và văn hoá. Vì vậy, chúng ta không chỉ xây dựng nền kinh tế mới mà còn
phải xây dựng nền văn hoá “tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc".
Đắk Lắk là một trong những cao nguyên giàu đẹp, sông suối hùng vĩ với nhiều danh
lam thắng cảnh nổi tiếng và nhiều khu rừng nguyên sinh độc đáo, là một tỉnh miền núi nằm
giữa các cao nguyên miền Tây Trung Bộ, mang trong mình nhiều bản sắc văn hoá độc đáo,


tinh tế, để rồi hình thành nên ba dòng văn hoá giàu bản sắc dân tộc:
- Văn hoá bản địa của các dân tộc Trường sơn - Tây Nguyên
- Văn hoá các dân tộc thiểu số phía Bắc
- Văn hoá các dân tộc Việt Nam mang đủ sắc thái ba miền: Bắc - Trung - Nam.


Cả ba dòng văn hoá ấy tiêu biểu cho nền văn hoá Việt Nam hiện đang có mặt và
ngày càng phát triển, giao thoa, đan xen, bồi đắp cho nhau, tạo nên nét đặc sắc của văn hoá
Đắk Lắk phong phú, đa dạng, đậm đà bản sắc dân tộc. Trong sự đa dạng, phong phú ấy,
phải kể đến văn hoá của hai dân tộc bản địa: Ê đê và M'nông. Đây là hai dân tộc cư trú trên
cao nguyên Đắk Lắk từ bao đời nay. Với bản lĩnh kiên cường, bất khuất gắn với canh tác
nương rẫy, sống nhờ rừng là chính, đồng bào Êđê, M'nông đã tạo nên một dòng văn hoá
độc đáo, giàu bản sắc. Nó biểu hiện cho khí phách, khát vọng và sức sống kỳ diệu của hai
dân tộc Êđê và M'nông trên cao nguyên Đắk Lắk.
Tuy vậy, trong những năm qua, do ảnh hưởng của mặt trái cơ chế thị trường, do ảnh
hưởng của văn hoá phương Tây, sự lợi dụng dân tộc và tôn giáo của các thế lực thù địch
nhằm phá hoại nền văn hoá các dân tộc bản địa Đăk lăk nên đã nảy sinh lối sống hướng
ngoại, lối sống thực dụng, phủ nhận văn hoá dân tộc... đã làm cho văn hoá các dân tộc bản
địa Đắk Lắk đang đứng trước những thử thách nghiệt ngã và có nguy cơ bị mai một dần.
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài: "Vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh về văn hoá vào việc giữ gìn và phát huy di sản văn hoá của dân tộc Êđê ở Đắk
Lắk trong giai đoạn hiện nay" làm đề tài luận văn thạc sĩ, chuyên ngành Hồ Chí Minh
học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá là một đề tài có sức hấp dẫn lớn đối với nhiều
nhà nghiên cứu dưới các góc độ khác nhau. Hiện nay, việc giữ gìn và phát huy văn hoá
truyền thống của các dân tộc thiểu số là vấn đề cấp thiết, đã và đang thu hút sự quan tâm
chú ý của nhiều nhà khoa học trên các lĩnh vực khác nhau…
Đến nay, đã có một số công trình nghiên cứu được công bố về chủ đề này:
Một là, những công trình nghiên cứu của nhiều tác giả về "Tư tưởng văn hoá Hồ Chí

Minh", trong đó hầu hết các tác giả đề cập tới các quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về văn
hoá, chức năng, vai trò của văn hoá, sự kế thừa, phát huy các giá trị truyền thống, sự thống
nhất trong đa dạng của văn hoá như:
- Đỗ Huy: “Tư tưởng văn hoá Hồ Chí Minh” Nxb CTQG, Hà Nội, 1997.


- Đinh Xuân Lâm - Bùi Đình Phong: “Hồ Chí Minh - Văn hoá và đổi mới” Nxb lao
động, Hà Nội, 1998.
- Đào Phan: “Hồ Chí Minh - danh nhân văn hoá", Nxb VHTT, Hà Nội 2000.
- Đỗ Huy: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng và phát triển nền văn hoá mới ở
Việt Nam", Nxb KHXH, Hà Nội, 2000.
- Bùi Đình Phong: “Đỉnh cao tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá" Nxb Lao động, Hà
Nội, 2001.
- Phan Minh Hạc: “Tư tưởng Hồ Chí Minh - phương pháp luận nghiên cứu con
người", Nxb KHXH, Hà Nội, 2003.
- Song Thành: “Hồ Chí Minh - nhà tư tưởng lỗi lạc" Nxb LLCT, Hà Nội 2005.
- Đỗ Thị Minh Thuý, "Tư tưởng Hồ Chí Minh với vấn đề văn hoá trong phát triển",
Nxb VHTT và Viện văn hoá, Hà Nội, 2006.
- Đinh Xuân Lâm - Bùi Đình Phong: “Văn hoá và triết lý phát triển trong tư tưởng
Hồ Chí Minh", Nxb CTQG, Hà Nội, 2008.
Hai là, các công trình nghiên cứu, giới thiệu và tuyên truyền quan điểm chỉ đạo của
Đảng về văn hoá thông qua việc trình bày và phân tích những tư tưởng cơ bản của Đảng
Cộng sản Việt nam về bản chất, nội dung, vai trò của văn hoá trong sự phát triển xã hội, về
xây dựng và phát triển văn hoá cũng như việc góp phần tăng cường hơn nữa vai trò lãnh
đạo của Đảng trên lĩnh vực văn hoá hiện nay, điển hình là các tác phẩm như:
- Học viện chính trị - hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh - khoa văn hoá Xã hội chủ
nghĩa “Văn hoá dân tộc trong quá trình mở cửa ở nước ta hiện nay", Nxb CTQG, Hà Nội,
1996.
- Nguyễn Phú Trọng “Vì một nền văn hoá Việt nam dân tộc, hiện đại", Nxb VHTT,
Hà Nội, 2002.

- Đỗ Thị Minh Thuý “Xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt nam tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc - thành tựu và kinh nghiệm", Viện văn hoá, NxbVHTT, Hà Nội, 2004.
- Hoàng Thị Hạnh “Góp phần tìm hiểu tư tưởng cơ bản của Đảng Cộng Sản Việt
Nam về vai trò của Văn hoá trong sự phát triển xã hội", Nxb CTQG, Hà Nội, 2005.


Ba là, các công trình nghiên cứu khoa học của các tập thể, cá nhân về vấn đề văn
hoá của các dân tộc thiểu số nói chung và ở Tây nguyên (Đắk Lắk) nói riêng. Nổi bật là
các tác phẩm của các tác giả:
- Ngô Đức Thịnh “Văn hoá dân gian Êđê", Nxb VHTT Đắk Lắk, 1995.
- Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Phân viện Đà Nẵng “Giữ gìn và phát
huy giá trị Văn hoá Tây nguyên", Nxb CTQG, Hà Nội, 1996
- Chu Thái Sơn “Hoa văn cổ truyền Đắk Lắk”, NxbKHXH, Hà Nội, 2000.
- Hồ Bá Thâm “Bản sắc văn hoá dân tộc", Nxb VHTT, Hà Nội, 2003
- Trương Bi: “Vận dụng luật tục Êđê vào việc xây dựng gia đình, buôn, thôn văn
hoá", Sở Văn hoá Thông tin Đắk Lắk, 2003.
- Trần Văn Bính “Văn hoá các dân tộc Tây nguyên; thực trạng và những vấn đề đặt
ra" NxbCTQG, Hà Nội, 2004.
- Ngô Đức Thịnh “Những mảng màu văn hoá Tây Nguyên", Nxb Trẻ, Hà Nội, 2007.
Các tác phẩm trên đã phân tích một cách tương đối, toàn diện, khách quan thực
trạng đời sống văn hoá các dân tộc thiểu số vùng Tây Nguyên trong công cuộc đổi mới,
đồng thời dự báo xu hướng, đề xuất các giải pháp cơ bản mang tính cấp bách nhằm tiếp tục
phát triển đời sống văn hoá các dân tộc Tây Nguyên dưới tác động của quá trình thực hiện
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã chủ nghĩa.
Bốn là, một số luận văn nghiên cứu về đề tài văn hoá hoặc quan điểm chỉ đạo của
Đảng ta về xây dựng và phát triển văn hoá như:
- Vũ Thị Kim Nga “Tìm hiểu đường lối của Đảng về xây dựng nền văn hoá tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc", Luận văn thạc sĩ lịch sử, Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh, 1998.
- Bùi Thị Kim Chi “Những quan điểm cơ bản về văn hoá của Đảng trong thời kỳ

đổi mới", Luận văn thạc sỹ văn hoá học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2006.
- Nguyễn Thị Thu Hiền “Vận dụng quan điểm Hồ Chí Minh về tính dân tộc của văn
hoá nghệ thuật vào xây dựng nền văn hoá nghệ thuật đậm đà bản sắc dân tộc ở nước ta
hiện nay", Luận văn thạc sĩ khoa học chính trị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh,
2008.


Nhìn chung, những công trình nghiên cứu trên đã tập hợp được nhiều tư liệu và trình bày
một cách có hệ thống các quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về văn hoá và các chủ trương,
đường lối chính sách của Đảng ta về việc xây dựng, giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc,
đánh giá thực trạng đời sống văn hoá của các dân tộc thiểu số vùng Tây Nguyên,…Tuy nhiên,
chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu việc “vận dụng tư tưởng của Hồ Chí Minh về văn hoá
vào việc giữ gìn và phát huy những di sản văn hoá của dân tộc Ê Đê ở Đắk Lắk trong giai đoạn
hiện nay" như là một công trình nghiên cứu có tính hệ thống và chuyên biệt.
Trên cơ sở kế thừa kết quả nghiên cứu của những người đi trước, luận văn sẽ tiếp tục đi
sâu phân tích để góp phần làm rõ hơn nữa vấn đề như đã nêu trên.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
- Làm sáng tỏ quan điểm: “Giữ gìn và phát triển văn hoá dân tộc gắn liền với việc
tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại của Hồ Chí Minh''.
- Từ thực trạng đời sống văn hoá của dân tộc Ê Đê ở Đắk Lắk hiện nay, luận văn đề
xuất một số giải pháp nhằm góp phần vào việc giữ gìn và phát huy di sản văn hoá của dân
tộc Ê Đê ở Đắk Lắk trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn cần tập trung giải quyết các nhiệm vụ chủ
yếu sau:
- Trình bày một cách có hệ thống một số nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí
Minh về văn hoá. Đặc biệt trong đó luận văn tập trung chủ yếu vào quan diểm của Hồ Chí
Minh về giữ gìn và phát huy văn hoá dân tộc gắn liền với việc tiếp thu tinh hoa văn hoá
nhân loại.

- Phân tích, đánh giá thực trạng di sản văn hoá của dân tộc Êđê ở Đắk Lắk trong
giai đoạn hiện nay.
- Đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm góp phần giữ gìn và phát huy di sản văn
hoá dân tộc Ê Đê trong giai đoạn từ 2010 đến 2015.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn


4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá trong đó chủ yếu tập trung vào quan điểm của
Hồ Chí Minh về giữ gìn và phát triển văn hoá dân tộc gắn liền với việc tiếp thu tinh hoa
văn hoá nhân loại.
- Đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và địa phương về công tác
giữ gìn, phát huy di sản văn hoá dân tộc trong giai đoạn hiện nay.
- Thực trạng văn hoá dân tộc Ê Đê ở Đắk Lắk trong giai đoạn hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá có phạm vi rất rộng, trong luận văn này, tác giả
chủ yếu tập trung nghiên cứu quan điểm của Hồ Chí Minh về “giữ gìn và phát triển văn
hoá dân tộc gắn liền với việc tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại".
- Giữ gìn và phát huy di sản văn hoá dân tộc Ê Đê ở Đăk lăk trong thời gian 1998 2015.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng,chính sách của Nhà nước trong việc bảo tồn và
phát huy di sản văn hoá của các dân tộc thiểu số ở Đắk Lắk hiện nay.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu
là: Kết hợp phương pháp lịch sử với lôgíc, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương
pháp so sánh và hệ thống…
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Luận văn nghiên cứu và trình bày một cách có hệ thống những quan điểm của Hồ

Chí Minh về văn hoá.
- Luận văn cung cấp thêm luận cứ khoa học của Đảng bộ, chính quyền, các đoàn thể
tỉnh Đắk Lắk trong việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá nhằm thực hiện có
hiệu quả việc giữ gìn và phát huy di sản văn hoá của dân tộc Ê đê ở Đắk Lắk trong giai
đoạn hiện nay.


7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
* Về mặt lý luận: Luận văn góp phần làm sáng tỏ quan điểm của Hồ Chí Minh về: “giữ
gìn và phát triển văn hoá dân tộc gắn liền với việc tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại”, những
chủ trương, giải pháp của Đảng bộ tỉnh Đăk lăk trong việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về
văn hoá vào việc giữ gìn và phát huy di sản văn hoá của dân tộc Ê Đê ở Đắk Lắk trong giai
đoạn hiện nay.
* Về thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham
khảo trong học tập, nghiên cứu và giảng dạy ở trường Cao đẳng sư phạm Đắk Lắk và phục
vụ cho công tác tuyên truyền, vận động xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở của địa
phương.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn
gồm 2 chương, 7 tiết.
Chương 1
TƯ Tưởng Hồ Chí MINH Về VĂN Hoá

1.1. Một Số Khái Niệm
1.1.1. Văn hoá
Trong tiếng Việt, văn hoá là một danh từ có nội dung hàm ngữ nghĩa khá phong phú
và phức tạp. Người ta có thể hiểu văn hoá như là một hoạt động sáng tạo của con người,
nhưng cũng có thể hiểu văn hoá như là lối sống, thái độ ứng xử, lại cũng có thể hiểu văn
hoá như là trình độ văn hoá, học vấn mà mỗi công nhân viên chức vẫn ghi trong lý lịch của
mình.

Ngược dòng lịch sử, ở Phương Tây, thuật ngữ văn hoá xuất hiện sớm trong đời sống
ngôn ngữ. Nhà ngôn ngữ học người Đức W.Wundt cho rằng: Văn hoá là một từ có từ căn
gốc La tinh: Colere, sau đó trở thành Cultura nghĩa là cày cấy, gieo trồng. Từ nét nghĩa
này về sau dẫn đến nghĩa rộng hơn là sự hoàn thiện, vun trồng tinh thần, trí tuệ. Thế kỷ thứ
I trước công nguyên, Cicéron, nhà hùng biện thời La Mã từng có câu nói nổi tiếng: Triết
học là văn hoá (sự vun trồng) tinh thần (Filosofia cultura animi est).


ở Trung Quốc, từ văn hoá đã xuất hiện rất sớm trong đời sống ngôn ngữ ở thời Tây
Hán (thế kỷ II trước công nguyên), văn hoá được hiểu với nghĩa là cách thức giáo hoá con
người. Trong bài “Chỉ vũ” sách “Thuyết uyển”, Lưu Hướng đã viết: “Thánh nhân cai trị
thiên hạ, trước dùng văn đức sau mới dùng vũ lực. Phàm dùng vũ lực đều để đối phó kẻ
bất phục tùng, dùng văn hoá không thay đổi được thì sau đó sẽ chinh phạt” [22, tr.13-14].
Như vậy, trong cách nghĩ của Lưu Hướng, văn hoá được hiểu như một cách giáo
hoá đối lập với vũ lực, văn hoá gần nghĩa với giáo hoá.
Mặc dù có mặt sớm trong đời sống ngôn ngữ phươngTây cũng như phương Đông,
nhưng phải đến thế kỷ XVIII, từ văn hoá mới được đưa vào khoa học, sử dụng như thuật
ngữ khoa học. Năm 1774, từ văn hoá mới được xuất hiện trong thư tịch và ghi vào từ điển
năm 1783 ở Đức. Người đầu tiên sử dụng từ văn hoá trong khoa học là Pufendorf, người
Đức. Ông cho rằng văn hoá là toàn bộ những gì được tạo ra do hoạt động xã hội, nghĩa là
văn hoá đối lập với trạng thái tự nhiên. Từ đó đến nay, khái niệm văn hoá đã được nhiều
người đề cập: Năm 1952, trong công trình Văn hoá: Tổng luận phê phán các quan niệm và
định nghĩa (Culture: acritical review of concepts and defintions) hai nhà khoa học Mỹ là
A.L.kroeber và A.C.Kluckhohn đã thống kê và phân tích tới 164 định nghĩa về văn hoá,
trong đó có 7 định nghĩa ra đời từ năm 1871 đến năm 1919 và 157 định nghĩa ra đời từ
năm 1920 đến năm 1950. năm 1967, nhà văn hoá học người Pháp Abra ham Moles lại cho
biết có đến 250 định nghĩa. Năm 2000, trong công trình nghiên cứu “Một cách tiếp cận
văn hoá”, phó giáo sư Phan Ngọc cho biết: “Một nhà dân tộc học Mỹ đã dẫn ngót 400 định
nghĩa về văn hoá khác nhau” [45, tr.22]
Năm 1970, cách hiểu phổ biến là coi văn hoá bao gồm tất cả những gì làm cho dân

tộc này khác với dân tộc khác, từ những sản phẩm tinh vi hiện đại nhất đến tín ngưỡng,
phong tục, tập quán, lối sống và lao động.
Năm 1982, tại Mêhicô, Hội nghị thế giới về chính sách văn hoá vì sự phát triển đã
thông qua tuyên bố ngày 6 tháng 8, còn gọi là Tuyên bố Mêhicô về chính sách văn hoá,
Hội nghị đã thống nhất định nghĩa về văn hoá như sau:
Trong ý nghĩa rộng nhất, văn hoá hôm nay có thể coi là tổng thể những nét
riêng biệt, tinh thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm quyết định tính cách của một


xã hội hay của một nhóm người trong xã hội. Văn hoá bao gồm nghệ thuật và
văn chương, những lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ
thống các giá trị, những tập tục và những tín ngưỡng. Văn hoá đem lại cho con
người khả năng suy xét về bản thân. Chính văn hoá làm cho chúng ta trở thành
những sinh vật đặc biệt nhân bản, có lý tính, có óc phê phán và dấn thân một
cách đạo lý.
Chính nhờ văn hoá mà chúng ta xét đoán được những giá trị và thực thi
những sự lựa chọn.
Chính nhờ văn hoá mà con người tự thể hiện, tự ý thức được bản thân, tự
biết mình, là một phương án chưa hoàn thành đặt ra để xem xét những thành tựu
của bản thân, tìm tòi không biết mệt những ý nghĩa mới mẻ và sáng tạo nên
những công trình vượt trội lên bản thân [79, tr.23-24].
Như vậy, theo quan niệm của UNESCO, văn hoá không phải là một lĩnh vực riêng
biệt mà là tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra.
Văn hoá là chìa khoá của sự phát triển, là một tổng thể rộng lớn thể hiện trên nhiều mặt
hoạt động, trong đó vấn đề con người được đặt lên hàng đầu.
Trong suốt cuộc đời hoạt động khoa học và cách mạng, các nhà kinh điển mác xít
chưa đưa ra một định nghĩa cụ thể về văn hoá. Song xuất phát từ chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử để xem xét vấn đề văn hoá, đồng thời bằng trí tuệ thiên
tài cùng với sự kế thừa tinh hoa văn hoá nhân loại, C. Mác, Ph. Ăngghen, V. I. Lênin đã
xây dựng nên học thuyết tiên tiến, khoa học của thời đại. Trong quá trình nghiên cứu sự

vận động, phát triển của lịch sử, của con người, các ông cũng đồng thời chỉ rõ bản chất,
nguồn gốc và vai trò của văn hoá.
Theo C.Mác và Ph. Ăngghen, văn hoá có cội nguồn từ lao động. Lao động không
những giúp con người tồn tại trong quá trình cải tạo tự nhiên, mà còn giúp cải tạo chính
con người với tư cách là sản phẩm của văn hoá. Lao động của con người có ý thức, có mục
đích hoàn toàn khác với hoạt động bản năng của động vật. Động vật trực tiếp đồng nhất
với hoạt động sống của mình. Nó không phân biệt nó với hoạt động sống của nó, bởi lẽ
động vật sinh ra đã hoạt động đúng như loài của mình. Các hình thức, phương thức và


chương trình hoạt động của chúng được di truyền theo dòng máu, theo cơ chế sinh học nên
đã có sẵn trong cơ thể khi chúng mới ra đời. Đối với con người, vấn đề lại hoàn toàn khác.
Nếu không được tiếp xúc với người xung quanh, với cái gọi là “thiên nhiên thứ hai” thì “
mọi đứa trẻ chẳng bao giờ thành người”.
Nhờ có cơ chế di truyền xã hội ấy mà một người có thể trở thành một thực thể phổ
biến và tự do - một thực thể biết nhào nặn thế giới theo mọi kích cỡ và theo quy luật của
cái đẹp và việc xây dựng theo các quy luật của cái đẹp chính là năng lực bản chất đặc thù
chỉ có ở con người, gắn với mọi hoạt động của con người. Bởi vậy, cũng có thể nói sự thể
hiện, phát huy những năng lực bản chất người - đó chính là văn hoá.
Theo C.Mác và Ph. Ăngghen, trình độ văn hoá phụ thuộc vào trình độ làm chủ tự
nhiên, làm chủ xã hội của con người. Các ông khẳng định: “ Đối với con người, bản chất
con người trở thành giới tự nhiên đến mức nào, hoặc tự nhiên đã trở thành bản chất của
con người đến mức nào. Do đó, căn cứ vào quan hệ đó có thể xét đoán về trình độ văn hoá
chung của con người”. Như vậy, văn hoá là sự thể hiện mối quan hệ giữa con người với tự
nhiên, con người với xã hội và con người với con người. Con người đã tạo ra nền văn hoá
của mình và nền văn hoá lại trở thành môi trường phát triển con người. Văn hoá gắn liền
với con người và quá trình phát triển của xã hội loài người, do đó, nó là một phạm trù lịch
sử. ở bất cứ một giai đoạn phát triển nào con người cũng đều có văn hoá. Suy cho cùng,
cái gọi là lịch sử của toàn thế giới chỉ là sự sáng tạo của con người kinh qua lao động của
con người là sự sáng tạo của bản thân mình, quá trình phát sinh của mình, sản xuất ra

những tư liệu sinh hoạt của mình, như thế con người đã gián tiếp sản xuất ra chính đời
sống vật chất của mình. Đó cũng là bản chất của văn hoá.
Từ những quan niệm mang tính khoa học và lịch sử cụ thể về văn hoá, C.Mác và
Ph.Ăngghen luôn coi trọng và đánh giá cao vai trò của văn hoá đối với sự phát triển của xã
hội. Hai ông cho rằng, văn hoá là một bộ phận của xã hội được nảy sinh trên cơ sở kinh tế,
do cơ sở kinh tế quyết định nhưng văn hoá cũng là nền tảng tinh thần của xã hội, nên có
tính độc lập tương đối. Văn hoá tiến bộ là công cụ hữu hiện có tác dụng thức tỉnh giai cấp
công nhân và nhân dân lao động đứng lên đấu tranh xoá bỏ mọi áp bức bóc lột của chủ
nghĩa tư bản, xây dựng chế độ xã hội mới xã hội chủ nghĩa.


Trên cơ sở kế thừa, nghiên cứu một cách khoa học và toàn diện học thuyết của
C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I. Lênin đã phát triển một cách sáng tạo, phù hợp với những
điều kiện lịch sử mới, tất cả những bộ phận cấu thành của chủ nghĩa Mác, trong đó có cả
những vấn đề về văn hoá. V.I. Lênin xác định xây dựng nền văn hoá mới là một bộ phận
quan trọng hàng đầu trong quá trình xây dựng xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng
cộng sản. Theo V.I. Lênin, hoàn thành cuộc cách mạng văn hoá có nghĩa là đã xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội. Điều này cho thấy, văn hoá có sức mạnh to lớn, là điều kiện
cần và đủ để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Mục tiêu mà chủ
nghĩa xã hội hướng tới cũng chính là văn hoá, bởi đó là quá trình giải phóng con người
khỏi mọi áp bức bất công, khỏi sự tha hoá, tạo điều kiện cho con người phát huy mọi năng
lực sáng tạo, để sự phát triển tự do của mỗi con người là điều kiện cho sự phát triển tự do
của tất cả mọi người. Sự nghiệp cao cả ấy chính là bản chất văn hoá - tất cả cho con người,
vì con người, lấy con người làm trung tâm của mọi sự phát triển.
Như vậy, xuất phát từ những quan điểm lịch sử cụ thể, từ hoạt động thực tiễn của
con người, chủ nghĩa Mác - Lênin đã cho chúng ta cái nhìn tổng thể về bản chất của văn
hoá, vai trò to lớn của văn hoá đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. Văn hoá nhân loại nói
chung, chủ nghĩa Mác - Lênin nói riêng đóng vai trò quan trọng tạo bước nhảy vọt trong tư
duy, hành động của con người và các dân tộc bị áp bức đến vương quốc của con người phát
triển toàn diện và tự do.

Là người học trò xuất sắc và đầy sáng tạo của các nhà sáng lập chủ nghĩa MácLênin, trên cơ sở của sự kế thừa sâu sắc truyền thống văn hoá dân tộc, chắt lọc tinh hoa
văn hoá nhân loại, qua thực tiễn hoạt động cách mạng phong phú và sinh động, từ thế giới
quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, ngay từ những năm 40 của thế kỷ
XX, Hồ Chí Minh đã đưa ra định nghĩa với tầm khái quát về văn hoá:
Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát
minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật,
những công cụ cho sinh hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ
những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá. Văn hoá là sự tổng hợp của mọi phương
thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng


những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn [33, tr.431]. Định nghĩa về văn hóa của
Hồ Chí Minh đã đề cập trên đây đã bao quát nhiều lĩnh vực: tư tưởng, đạo đức, lối sống,
chính trị, tri thức, thẩm mỹ, thể chất,… Nó có mặt trong toàn bộ các lĩnh vực của đời sống
xã hội. Gốc của văn hoá là toàn bộ những hoạt động sáng tạo và phát minh của con người
trong thực tiễn. Văn hoá hoàn toàn không phải là sản phẩm thụ động của “thượng đế” ban
cho, mà là kết quả của quá trình lao động sản xuất có tính chủ động, có mục đích của từng
người, từng dân tộc cụ thể nhằm đáp ứng những nhu cầu sinh tồn. Cái bản chất, cái cốt lõi
của văn hoá theo quan niệm của Hồ Chí Minh chính là đạo đức, là nhân cách của con
người, là chủ nghĩa nhân văn. Văn hoá xuất phát từ con người và trở về với con người, trả
lại những giá trị đích thực cho con người để làm người. Cùng với việc chỉ rõ hội hàm của
văn hoá, Hồ Chí Minh đã phân tích mối quan hệ biện chứng giữa văn hoá với kinh tế,
chính trị và xã hội. Trong đó, văn hoá là một kiến trúc thượng tầng của xã hội, những cơ sở
hạ tầng của xã hội là kinh tế có kiến thiết rồi thì văn hoá mới đủ điều kiện để phát triển.
Khi dân tộc bị áp bức thì văn hoá cũng không có điều kiện để phát triển. Nhưng mặt khác,
văn hoá giữ vai trò động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội, văn hoá phải soi đường cho
quốc dân đi. Văn hoá tiến bộ có vai trò giáo dục con người, góp phần vào sự nghiệp giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng triệt để con người, đưa con người đến với
những giá trị về chân- thiện- mỹ.
Theo quan niệm của Đảng ta, văn hoá giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong toàn bộ

sự nghiệp cách mạng. Văn hoá có tác dụng nâng cao dân trí, đoàn kết và tập hợp lực lượng
cho cách mạng. Đảng ta khẳng định: “Mặt trận văn hoá là một trong ba mặt trận (kinh tế,
chính trị, văn hoá), ở đó người cộng sản phải hoạt động và “có lãnh đạo được phong trào
văn hoá, Đảng mới ảnh hưởng được dư luận, việc tuyên truyền của Đảng mới có hiệu quả”
[17, tr.317]. Nhờ những chủ trương đúng đắn đó, Đảng ta đã tập hợp được đông đảo tầng
lớp nhân dân, nhất là tuyệt đại bộ phận trí thức của dân tộc tham gia cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp xâm lược và sự nghiệp kiến quốc sau này.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của văn hoá đối với sự nghiệp cách mạng và sự nghiệp
phát triển của xã hội, trong suốt chặng đường dài của sự nghiệp giải phóng dân tộc từ 1930
đến 1975 và thời kỳ trước đổi mới, hầu như trong các văn bản, nghị quyết của Đảng ta đều


đề cập đến vấn đề văn hoá và những biện pháp cụ thể nhằm tiến hành cách mạng trên lĩnh
vực văn hoá.
Trong thời kỳ tiến hành xây dựng nền văn hoá có nội dung xã hội chủ nghĩa và tính
chất dân tộc từ năm 1960 đến trước đổi mới năm 1986, nước ta đã đạt được nhiều thành
tựu quan trọng, nhưng đồng thời cũng gặp không ít những khó khăn, bất cập khi triển khai
thực hiện. Điều này vừa do chiến tranh, vừa do duy ý chí không tuân thủ các quy luật
khách quan, sự chỉ đạo văn hoá chưa ngang tầm với những biến đổi to lớn nảy sinh trong
đời sống. Đây chính là những yêu cầu khách quan để Đảng ta đề ra chủ trương đổi mới
toàn diện đất nước tại Đại hội VI (1986), trong đó có lĩnh vực văn hoá.
Kiên định con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, trước những
biến động của tình hình thế giới và trong nước, Đại hội VII (1991) của Đảng đã nêu lên
sáu đặc trưng về xã hội xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng, trong đó nhấn mạnh
đến tính chất của nền văn hoá “tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Tính chất của nền văn
hoá tiếp tục được làm rõ hơn trong nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung
ương khoá VIII, đó là: “Nền văn hoá mà chúng ta xây dựng là nền văn hoá tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc” [16, tr.55]. Gần đây, tại Hội nghị Trung ương 10 khoá IX, Đảng đã ra
kết luận về tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII về xây
dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong những

năm tới.
Nghiên cứu về văn hoá, các nhà văn hoá Việt Nam cũng đưa ra nhiều định nghĩa
khác nhau: Văn hoá là tổng hoà các giá trị vật chất và tinh thần theo tính chân - thiện - mỹ,
do hoạt động của con người sáng tạo ra, thông qua các phương thức sinh tồn của đời sống
xã hội, và ngày càng phát triển. Văn hoá là sự phát triển, tiến bộ và phát triển, tiến bộ là
văn hoá.
Như vậy, nói đến văn hoá là nói đến con người. Lịch sử văn hoá là lịch sử của con
người và loài người: con người tạo ra văn hoá và văn hoá làm cho con người trở thành
Người. Điều đó có nghĩa là tất cả những gì liên quan đến con người, đến mọi cách thức tồn
tại của con người đều mang trong nó cái gọi là văn hoá. Có thể nói, văn hoá là sự phát triển
lực lượng vật chất và tinh thần, là sự thể hiện những lực lượng đó trong lĩnh vực sản xuất


vật chất và lĩnh vực sản xuất tinh thần của con người. Từ đó, văn hoá được chia làm hai
lĩnh vực cơ bản: Văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần. Tuy nhiên, sự phân chia này chỉ có
tính chất tương đối, bởi cái gọi là “văn hoá vật chất” về thực chất cũng chỉ là sự “ vật chất
hoá” các giá trị tinh thần và các giá trị tinh thần không phải bao giờ cũng tồn tại một cách
thuần tuý tinh thần, mà thường được “vật thể hoá” trong các dạng tồn tại vật chất. Ngoài
ra, còn các giá trị tinh thần tồn tại dưới dạng phi vật thể, nhưng vẫn mang tính tồn tại vật
chất khách quan như văn hoá trong các lĩnh vực đạo đức, giao tiếp, ứng xử, lối sống,
phong tục tập quán…
Từ những định nghĩa văn hoá như đã trình bày ở trên, chúng ta có thể đi đến một
định nghĩa về văn hoá như sau:
Văn hoá là một hệ thống các giá trị vật chất và tinh thần được sáng tạo, tích luỹ
trong lịch sử nhờ quá trình hoạt động thực tiễn của con người trong mỗi cộng đồng xã hội
nhất định. Các giá trị này được cộng đồng chấp nhận, vận hành trong đời sống xã hội và
liên tiếp truyền lại cho thế hệ sau. Văn hoá thể hiện trình độ phát triển và những đặc tính
riêng của mỗi dân tộc.
Tuy nhiên, văn hoá không phải là “ cái chung trừu tượng” giống nhau ở mọi xã hội,
mọi cộng đồng - dân tộc. Nếu mỗi cộng đồng - dân tộc có đời sống xã hội riêng biệt, đặc

thù, một lịch sử hình thành và một hiện thực con người không đồng nhất với các cộng
đồng khác, thì tất nhiên văn hoá mang tính riêng biệt, đặc thù của mỗi dân tộc. Một dân tộc
tồn tại là tồn tại cùng với nền văn hoá do chính mình tạo ra. Văn hoá in dấu ấn mọi mặt
của đời sống xã hội thuộc một dân tộc nhất định, của một cộng đồng riêng biệt, chúng ta
gọi là “ bản sắc dân tộc của văn hoá” hay “bản sắc văn hoá dân tộc”.
1.1.2. Bản sắc văn hoá dân tộc
“Bản sắc” là một từ Hán - Việt. “Bản” nguyên nghĩa là cái gốc, “sắc” là màu sắc,
sắc đẹp; bản sắc là màu gốc, sắc thái gốc; bản sắc văn hoá là sắc thái gốc của một nền văn
hoá. Tương đồng với cách dùng identité (thẻ căn cước) của tiếng Pháp và nhiều ngôn ngữ
châu Âu trong cấu trúc indetitté culturelle- thẻ căn cước văn hoá để chỉ cái riêng độc đáo
của mỗi nền văn hoá, dấu ấn được ghi lại từ cội nguồn văn hoá dân tộc.


Như vậy, có thể hiểu bản sắc văn hoá dân tộc là bản sắc thái gốc, là tấm chứng
minh thư, thẻ căn cước- những đường nét, màu sắc riêng biệt không thể trộn lẫn của một
nền văn hoá. Bản sắc dân tộc làm nên cái cốt lõi vững chắc giúp cho nền văn hoá vừa giàu
cá tính vừa đủ bản lĩnh để không ngừng tích tụ, biến đổi, phát triển, sáng tạo thêm những
giá trị mới, tìm kiếm những hình thức biểu hiện mới mà vẫn giữ được tính nhất quán so
với bản thân mình trong quá trình phát triển.
Với cách hiểu như trên, bản sắc văn hoá dân tộc được hình thành dần dần cùng với
quá trình hình thành và phát triển của dân tộc, chịu sự qui định của hoàn cảnh lịch sử, điều
kiện địa lý, phương thức sản xuất… Một dân tộc càng có chiều sâu cội nguồn, bề dày lịch
sử và ý thức cao về bản thân mình càng có cơ hội bộc lộ cái tính riêng độc đáo của mình
trong các sáng tạo văn hoá. Bản sắc văn hoá như mạch ngầm thẩm thấu vào mọi giá trị văn
hoá, xuyên qua thời gian, làm nên mối liên hệ thiêng liêng, bền vững giữa các thế hệ, các
giai đoạn phát triển của một nền văn hoá.
Một dân tộc nếu như đánh mất bản sắc văn hoá, thì thực chất dân tộc ấy đã đánh
mất chính mình. Một nền văn hoá có tính dân tộc, là nền văn hoá mang đầy đủ bản sắc của
dân tộc. Chính vì vậy, việc giữ gìn và phát huy các giá trị văn hoá tạo nên bản sắc văn hoá
của dân tộc là vấn đề có ý nghĩa hết sức lớn lao đối với sự tồn vong của mỗi dân tộc.

Bản sắc văn hoá dân tộc được biểu hiện trong tất cả các lĩnh vực đời sống văn hoá,
trong ý thức “thuộc về” một dân tộc, một cội nguồn nhất định; trong cách cảm nhận, cách
nghĩ, cách tư duy; trong lối sống và phương thức ứng xử, trong thị hiếu và lý tưởng; trong
cách dựng nước và giữ nước, trong việc lựa chọn cách thức sáng tạo văn hoá… Cụ thể
hơn, ta có thể thấy bản sắc dân tộc của mỗi nền văn hoá bộc lộ trong các giá trị văn hoá vật
chất - tinh thần, văn hoá vật thể - phi vật thể, thấm đượm trong cả hình thức và nội dung
của các giá trị văn hoá đó. Chẳng hạn, người ta có thể nhận biết được nét đặc sắc riêng
trong bộ trang phục của phụ nữ Việt Nam qua tà áo dài, hay chiếc áo Kimônô của phụ nữ
Nhật Bản, bộ váy áo lễ hội truyền thống của các cô gái Nga… Món nem đặc sản Việt
Nam, rượu Sôma ấn Độ, lễ hội dân gian với những sinh hoạt văn hoá độc đáo của mỗi
vùng miền, mỗi dân tộc. Hoặc cũng có thể nói đến điệu múa Lăm Vông duyên dáng của
người Lào, những điệu nhảy mạnh mẽ đầy hứng khởi của người Kô dắc, chất suy tư triết


học sâu lắng trong vũ điệu Chăm pa… Bản sắc văn hoá dân tộc không chỉ biểu hiện trong
những giá trị văn hoá lớn có giá trị cao, tiêu biểu cho tinh thần dân tộc mà còn bộc lộ sâu
sắc trong những “sắc thái” văn hoá riêng biệt, độc đáo, làm nên sức hấp dẫn riêng của mỗi
nền văn hoá. Chẳng hạn, mái nhà Rông Tây Nguyên, nghệ thuật rối nước của đồng bằng
Bắc Bộ, cây đàn bầu, đàn đá huyền diệu…Sau nữa, phải nói đến hệ giá trị chuẩn mực kết
tinh trong tầng sâu văn hoá tinh thần truyền thống của mỗi dân tộc, làm nên cái cốt lõi
vững chắc, bản lĩnh riêng của mỗi nền văn hoá.
Bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam là tổng thể những giá trị bền vững do cộng đồng
các dân tộc Việt Nam sáng tạo trong quá trình dựng nước và giữ nước. Trải qua hàng ngàn
năm lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam đã tạo dựng được một
nền văn hoá đa dạng, thống nhất, có bản sắc riêng. Nền văn hoá này trải qua bao biến thiên
của lịch sử, luôn tự ý thức được về bản thân mình, không ngừng dung hoà, đổi mới, tự
cường. Nhờ vậy, trước những thử thách nghiệt ngã nhất của lịch sử bị áp đặt, cưỡng bức
văn hoá, đất nước bị xoá tên… Song văn hoá dân tộc vẫn tồn tại và phát triển. Trong vị thế
bị lệ thuộc, người Việt cổ đã tự tìm cho mình một ứng xử văn hoá thông minh: không co
mình lại, không chối từ văn hoá và cũng không cam chịu bị đồng hoá. Văn hoá Đông Sơn

đã tạo cho con người Việt Nam thời ấy một bản lĩnh vững vàng đủ sức giữ gìn cái cốt cách
của mình và tiếp nhận những cái hay, cái tốt, cái mình còn nghèo, còn thiếu… Lặng lẽ bồi
tụ thêm, làm phong phú văn hoá dân tộc. Vượt thoát ra khỏi ngàn năm Bắc thuộc, văn hoá
Đại Việt lại nở hoa rực rỡ hơn trên tất cả các phương diện: ngôn ngữ, chữ viết, văn chương
- nghệ thuật, lịch sử, tư tưởng triết học, luật pháp… Nền văn hoá ấy đã tỏ rõ sức mạnh của
nó trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, mở ra một kỷ nguyên
mới cho dân tộc Việt Nam cũng như nền văn hoá Việt Nam.
Bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam còn được thể hiện ở lòng nhân ái, khoan dung,
cần cù sáng tạo trong lao động, coi trọng tình nghĩa, đạo đức trong cuộc sống… Trong
những nhân tố góp phần tạo nên bản sắc văn hoá Việt Nam, lòng yêu nước không chỉ là cơ
sở để xem xét, đánh giá hành vi của mỗi người, không chỉ là truyền thống tốt đẹp nổi trội,
mà đã thực sự trở thành “một thứ của quý”, thành sức mạnh, có vai trò to lớn trong quá
trình dựng nước và giữ nước, trong kháng chiến và kiến quốc. Từ diễn đàn Đại hội Đảng


toàn quốc lần thứ II (1951), Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Dân ta có một lòng nồng nàn
yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi tổ quốc bị xâm
lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó
lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”
[36, tr.171]. Thực tiễn cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta càng củng
cố thêm nhận định của Hồ Chí Minh: Đồng bào ta ngày nay, từ cụ già tóc bạc đến các cháu
nhi đồng trẻ thơ, từ kiều bào ở nước ngoài đến các đồng bào ở vùng tạm chiếm, từ miền
ngược đến miền xuôi, từ những chiến sĩ ngoài mặt trận đến những người ở hậu phương…
đều giống nhau nơi lòng nồng nàn yêu nước.
Theo Hồ Chí Minh, việc bảo vệ, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc là rất cần thiết,
nhưng quan trọng hơn là vận dụng và phát triển những bản sắc ấy vào cuộc sống. Đó là
cách tốt nhất để bảo vệ bản sắc văn hoá dân tộc.
Trong thời đại hiện nay, việc giữ và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc không chỉ có
ý nghĩa thuần tuý văn hoá, mà còn có ý nghĩa đối với sự phát triển kinh tế và xã hội của
các quốc gia. Tổng kết thực tiễn mấy thập kỷ qua cho chúng ta thấy, nguồn gốc của sự

phát triển bền vững không chỉ là vốn, kỹ thuật, tài nguyên thiên nhiên… mà còn là tiềm
năng sáng tạo của nguồn lực con người. Tiềm năng sáng tạo này lại nằm trong văn hoá,
nghĩa là trong sự hiểu biết, trong tâm hồn, đạo lý, lối sống của mỗi cá nhân và cộng đồng.
Trong sự nghiệp xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện
nay, việc phát huy các giá trị yêu nước, ý thức cộng đồng, lòng nhân ái, khoan dung,
truyền thống cần cù, sáng tạo trong lao động sản xuất, trong học tập… sẽ có ý nghĩa vô
cùng to lớn. Bởi vì, đó không chỉ là sức mạnh của trí tuệ, tình cảm mà còn là lòng tự hào
dân tộc, là đạo đức và lý tưởng mà dân tộc đã lựa chọn. Xây dựng đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa trong xu thế toàn cầu hoá, tất yếu chúng ta phải hội nhập để phát
triển. Việc tôn trọng truyền thống tốt đẹp của dân tộc, bản sắc văn hoá sẽ tạo ra khả năng
tự điều chỉnh, tự lựa chọn hướng phát triển cho phù hợp với xu thế chung mà vẫn giữ được
bản sắc văn hoá dân tộc, không tụt hậu, không chệch hướng.
Trong chiến lược xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản
sắc dân tộc, Đảng ta chỉ rõ:


Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa của
cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn năm
đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý trí tự cường
dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kế cá nhân - gia đình - làng xã
- Tổ quốc, lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý, đức tính cần cù,
sáng tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống…
Bản sắc văn hoá dân tộc còn đậm nét trong cả hình thức biểu hiện mang tính dân
tộc độc đáo [16, tr.56].
Sự đặc sắc trong văn hoá dân tộc Việt Nam là một nền văn hoá vừa đa dạng, vừa
thống nhất, là sự đan xen, tiếp xúc, biến đổi, bổ xung lẫn nhau của văn hoá các tộc người.
Sự cố kết cộng đồng của 54 dân tộc anh em cùng chung sống trong một lãnh thổ, chung
một ngôn ngữ phổ thông. Quá trình dựng nước và giữ nước đã hun đúc nên ý thức cộng
đồng; cùng chung một cái nôi sinh thành, cùng một dòng văn hoá chủ đạo. Các dân tộc
Việt Nam có chung khát vọng là muốn cùng sinh sống, cùng chung một ý thức dân tộc, ý

thức người Việt Nam. Tuy nhiên, mỗi một vùng văn hoá nước ta, do điều kiện tự nhiên,
phương thức canh tác, sự giao lưu văn hoá, tâm lý cộng đồng, nguồn gốc lịch sử mà có
những sắc thái văn hoá riêng thể hiện ở tiếng nói, chữ viết, phong tục, tập quán, lối sống,
lối ứng xử trong các sinh hoạt xã hội và trong giao tiếp văn hoá. ở đây thể hiện tính thống
nhất và đa dạng phong phú, không loại trừ nhau mà bổ sung cho nhau. Trong quá trình
giao lưu văn hoá, những yếu tố đặc trưng cốt lõi của mỗi dân tộc vẫn được giữ lại, duy trì
và phát huy làm nên sắc thái độc đáo không trộn lẫn với các dân tộc khác. Như vậy, hoà
hợp dân tộc không làm mất đi tính riêng biệt của bản sắc văn hoá tộc người cùng với sự
tiến bộ của cả cộng đồng dân tộc. Có thể nói, nền văn hoá Việt Nam là một nền văn hoá
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc chỉ có thể được xây dựng trên cơ sở biết giữ gìn và phát
huy bản sắc văn hoá của 54 dân tộc trong cộng đồng dân tộc Việt Nam, dựa trên một nền
tảng chung, tất cả các bản sắc riêng đều được tôn trọng, đều được bổ sung và làm giàu lẫn
nhau để tạo nên tính thống nhất trong sự đa dạng của nền văn hoá Việt Nam hiện đại.
1.1.3. Di sản văn hoá


Di sản văn hoá (cultural heritage) là toàn bộ những sản phẩm, những giá trị vật chất
và tinh thần của dân tộc đã sáng tạo, để lại, lưu giữ và trao truyền nhiều thế hệ.
Luật Di sản văn hoá được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
khoá X, kì họp thứ 9 thông qua đã khẳng định: Di sản văn hoá Việt Nam là tài sản quý giá
của cộng đồng các dân tộc Việt Nam và là một bộ phận của di sản văn hoá nhân loại, có
vai trò to lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của nhân dân ta. Nghị quyết Hội nghị
lần thứ năm ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII, đã xác định 10 nhiệm vụ về xây
dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đậm bản sắc dân tộc, trong đó
nhiệm vụ thứ 4 là bảo tồn và phát huy các di sản văn hoá. Nghị quyết chỉ rõ:
Di sản văn hoá là tài sản vô giá, gắn kết cộng đồng dân tộc là cốt lõi của
bản sắc dân tộc, cơ sở để sáng tạo những giá trị mới và giao lưu văn hoá. Hết
sức coi trọng bảo tồn, kế thừa, phát huy những giá trị văn hoá truyền thống (bác
học và dân gian), văn hoá cách mạng, bao gồm cả văn hoá vật thể và phi vật thể.
Nghiên cứu và giáo dục sâu rộng những đạo lý dân tộc tốt đẹp do cha ông

để lại [16, tr.63].
Dựa theo phân loại của UNESCO, Luật Di sản văn hoá của nước ta chia di sản văn hoá
thành 2 loại: Di sản văn hoá phi vật thể và di sản văn hoá vật thể.
Di sản văn hoá phi vật thể: Là sản phẩm tinh thần có giá trị lịch sử, văn hoá, khoa
học, được lưu truyền bằng miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức lưu giữ, lưu
truyền khác, bao gồm tiếng nói, chữ viết, tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, ngữ văn
truyền miệng, diễn xướng dân gian, lối sống, nếp sống, lễ hội, bí quyết về nghề thủ công
truyền thống, tri thức về y dược học cổ truyền, về văn hoá ẩm thực, về trang phục truyền
thống dân tộc và những tri thức khác…
Di sản văn hoá vật thể: Là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn hoá, khoa học,
bao gồm di tích lịch sử - văn hoá, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia.
Sự phân biệt giữa di sản văn hoá phi vật thể và di sản văn hoá vật thể cũng chỉ là sự
phân biệt mang tính tương đối trong nhận thức của con người. Bởi vì, không thể có một di
sản văn hoá vật thể nào lại không hàm chứa trong mình những tri thức, kinh nghiệm, tinh
thần và dấu ấn của chủ nhân sáng tạo, đồng thời, cũng không một di sản văn hoá phi vật


thể nào lại không được chứa đựng và biểu hiện thông qua một cái vỏ vật chất cao cấp nhất,
đặc biệt nhất chính là con người. Cả hai loại di sản này sẽ biến mất nếu không có các cá
nhân và cộng đồng lưu giữ bảo quản và phát triển.
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, sự chung lưng đấu cật ngay từ buổi đầu dựng
nước và giữ nước đã tạo thành sự đoàn kết, thống nhất cao độ của cộng đồng dân tộc Việt
Nam. Trong quá trình tồn tại, giao lưu và phát triển, mỗi dân tộc đều giữ những đặc trưng
văn hoá riêng tạo thành một nền văn hoá Việt Nam thống nhất và đa dạng. ở nước ta có
nhiều dòng ngôn ngữ, trong mỗi dòng lại có những nhóm khác nhau. Văn hoá, sản xuất,
kiến trúc, xây dựng… giữa các dân tộc cũng có nhiều nét khác nhau. Văn hoá ăn, mặc,
phong tục, tập quán, lối sống… của các dân tộc hết sức đa dạng. Đặc biệt, các dân tộc
thiểu số ở nước ta có một kho tàng văn hoá dân gian, bao gồm các làn điệu dân ca, các
điệu múa, các bản trường ca... có giá trị nghệ thuật lớn. Đó là các bản dân ca Mường, dân
ca Mông, “Sóng trụ xôn xao” (tiễn dặn người yêu) của người Thái, Trường ca “Đăm san”

của Tây Nguyên, kho tàng tục ngữ Tày- Nùng, điệu hát lượn của người Tày, hát sli của
người Nùng, múa cồng chiêng của các dân tộc Tây Nguyên, múa xoè của người Thái, múa
ô của người Mông, múa trống của người Chăm, người Khmer… Bản sắc văn hoá của mỗi
dân tộc nước ta đã giúp nền văn hoá Việt Nam trở nên rực rỡ sắc màu. Chính điều này đã
tạo ra một di sản văn hoá vật chất và tinh thần vô cùng phong phú của cộng đồng các dân
tộc Việt Nam. Ngoài những di tích lịch sử cách mạng, những danh lam thắng cảnh, những
đền, chùa, miếu, tháp… là tài sản, vốn liếng quý giá của quốc gia, dân tộc và của nhân
loại, chúng ta còn có một kho tàng di sản văn hoá tinh thần đồ sộ, mang sắc thái riêng của
từng dân tộc anh em, tạo nên một bức tranh độc đáo, hài hoà của dân tộc Việt Nam.
Có thể khẳng định rằng, di sản văn hoá Việt Nam là sự kết tinh của các mối quan hệ
tổng hoà và tương tác giữa môi trường - con người - văn hoá, là sự vượt lên trên những thử
thách khắc nghiệt trong cuộc đấu tranh với thiên tai địch hoạ bằng sự kiên trì, lòng dũng
cảm, trí thông minh và khát vọng vươn tới tầm cao của nhân loại, là tấm lòng nhân ái, bao
dung, sự dung hợp giữa việc bảo tồn bản sắc riêng của mình với sự thích ứng và tiếp thu
những giá trị của các nền văn hoá Đông, Tây.


Ngay từ buổi đầu xây dựng nền văn hoá mới, Đảng và Nhà nước đã quan tâm đến
các vấn đề bảo tồn và phát huy di sản văn hoá dân tộc, coi đó là một trong những nguồn
lực nội sinh quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội. Bởi vì, cùng với giá
trị văn hoá, di sản văn hoá còn hàm chứa giá trị kinh tế. Thông qua tác động của con
người, vốn tiềm ẩn trong các di sản được xuất lộ và phát huy tác dụng. Chẳng hạn, với các
di tích lịch sử, văn hoá, nhờ được bảo tồn, tôn tạo trong một qui hoạch tổng thể, gắn kết
giữa di sản văn hoá và du lịch, mà trở thành hàng hoá, thậm chí là hàng hoá có giá trị kinh
tế đặc biệt:
Nguồn lợi kinh tế thu được hàng năm qua hoạt động văn hoá- du lịch tại
các di sản văn hoá và thiên nhiên thế giới như Cố đô Huế, Vịnh Hạ Long, Đô thị
cổ Hội An… đạt mức hàng trăm tỷ đồng… Tương tự như thế, các làn điệu dân ca,
khi được vật thể hoá nhờ các băng hình, đĩa nhạc, các bí quyết nghề nghiệp và bàn
tay khéo léo của thợ thủ công Việt Nam được thể hiện và phát huy trong việc sản

xuất các mặt hàng thủ công- mỹ nghệ phục vụ cho nhu cầu trong nước và xuất
khẩu,… sẽ trở thành hàng hoá có hiệu quả kinh tế [9, tr.112].
Như vậy, có thể khẳng định, giá trị văn hoá và kinh tế luôn là thuộc tính, là bản chất
của di sản văn hoá. Thông qua và bằng chính hoạt động thực tiễn của con người, mà các
giá trị ấy được bộc lộ, trở thành nguồn lực đặc biệt - nguồn lực phi vật thể của sự phát triển
kinh tế- xã hội đất nước.
Sự ra đời của Nghị quyết Hội nghị Trung ương năm khoá VIII và Đại hội lần thứ
IX, Đại hội lần thứ X của Đảng về vấn đề giữ gìn và phát huy di sản văn hoá dân tộc đã
nâng tầm nhận thức của toàn xã hội đối với di sản văn hoá. Trong nền văn hoá của dân tộc,
di sản văn hoá có vai trò to lớn đối với sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Đó là:
- Vai trò gắn kết cộng đồng dân tộc
- Là cốt lõi của bản sắc dân tộc
- Là cơ sở để sáng tạo những giá trị mới
- Di sản văn hoá còn góp phần vào sự giao lưu văn hoá
-

Di sản văn hoá là yếu tố có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ môi trường sống

của con người. Các di sản văn hoá, các cảnh quan thiên nhiên thức tỉnh ý thức bảo vệ môi


trường, trước hết là bảo vệ chính các di sản đó. Tạo ra môi trường tự nhiên và môi trường
trong sạch, lành mạnh.
Di sản văn hoá Việt Nam là sự thể hiện sinh động sức sống của dân tộc Việt Nam. Nó có
vai trò nhất định trong việc phát triển trí tuệ, tài năng con người góp phần quan trọng vào việc
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Di sản văn hoá là tinh hoa quá khứ của mỗi dân tộc mà
chúng ta cần phải giữ gìn và phát huy để góp phần tạo ra bức tranh văn hoá đầy màu sắc của
nhân loại trong thế kỷ XXI.
1.2. QUAN Điểm CƠ Bản Của Hồ Chí MINH Về VĂN Hoá
Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc

trên nhiều lĩnh vực rộng lớn: lối sống, tri thức, thẩm mỹ, thể chất, tính chất, chức năng,
nhiệm vụ, vai trò của văn hoá… Luận văn không đi sâu nghiên cứu toàn bộ các nội dung
trong tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá, mà chỉ tập trung trình bày một số quan điểm cơ
bản trong đó chú trọng nhất là quan điểm của Người về “giữ gìn và phát triển văn hoá dân
tộc gắn liền với việc tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại”.
1.2.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về giữ gìn và phát triển văn hoá dân tộc
gắn liền với tiếp thu văn hoá nhân loại
Hồ Chí Minh không chỉ là biểu tượng kết tinh cao đẹp của bản sắc văn hoá Việt
Nam, Người còn là điển hình của sự tích hợp những tinh hoa văn hoá phương Đông,
phương Tây, sự kết hợp giữa dân tộc và nhân loại. Những tinh hoa đó được Người tiếp thu
trên nền tảng truyền thống văn hoá, đạo đức Việt Nam, được soi sáng bằng hệ tư tưởng
chủ nghĩa Mác - Lênin - tinh hoa trí tuệ loài người - với những lý luận cách mạng tiên tiến,
với phương pháp tư duy khoa học, soi sáng cho con đường đi tới tương lai tốt đẹp, vươn
tới sự tiến bộ, đã hình thành nên những luận điểm của Người về việc xây dựng một nền
văn hoá mới cho dân tộc Việt Nam trong thế kỷ XX đầy biến động.
Hồ Chí Minh là hiện thân sinh động của sự kết hợp hài hoà những giá trị văn hoá
truyền thống của dân tộc với tinh hoa văn hoá của nhân loại, giữa dân tộc và quốc tế, giữa
quá khứ với hiện tại và tương lai.
1.2.1.1. Hồ Chí Minh với văn hoá dân tộc


Việt Nam là dân tộc có nền văn hiến lâu đời, cùng với điều kiện địa lý, môi trường
sinh thái, trải qua hàng nghìn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước, cộng đồng các dân
tộc Việt Nam đã tạo lập cho mình một di sản văn hoá vô cùng phong phú, đa dạng, vững
bền trên các phương diện tư duy, tâm lý, lối sống, cách ứng xử… Trong những di sản đó,
nổi bật lên những giá trị bền vững và trường tồn, tiêu biểu cho bản lĩnh, bản sắc, sức sống
và phẩm giá của dân tộc.
Trong quá trình sinh tồn và phát triển, dân tộc ta đã trải qua bao thử thách hiểm
nghèo của thiên tai và địch hoạ. Dân tộc Việt Nam đã trải qua những thời kỳ mất nước với
mưu đồ đồng hoá kéo dài hàng chục, hàng trăm năm, thậm chí kéo dài trên 10 thế kỷ. Vậy

mà dân tộc vẫn tồn tại và phát triển, biết tiếp nhận và dung hợp những thành tựu văn hoá bên
ngoài mà vẫn giữ được văn hoá của mình, vẫn tạo lập nên những thời kỳ văn hoá phát triển
rực rỡ như: thời kỳ văn minh Sông Hồng, văn minh Đại Việt…Thực tế đã chứng tỏ sức sống
bền bỉ của dân tộc, tính ưu việt của những giá trị truyền thống Việt Nam.
Trong các giá trị truyền thống đó, nổi lên hàng đầu và cũng là “điều cốt lõi nhất của
bản sắc văn hoá Việt Nam chính là lòng yêu nước, là ý thức dân tộc, ý chí tự lực tự cường,
truyền thống vì đại nghĩa dân tộc…đã được thể hiện qua các áng hùng văn kim cổ của ông
cha ta, từ tuyên ngôn khởi nghĩa của Hai Bà Trưng đến “Nam Quốc Sơn Hà Nam Đế Cư”
của Lý Thường Kiệt, "Hịch Tướng Sĩ” của Trần Hưng Đạo, “Cáo Bình Ngô" của Nguyễn
Trãi đến “Tuyên Ngôn Độc Lập “của Hồ Chí Minh.
Bên cạnh truyền thống yêu nước, dân tộc ta còn có các truyền thống quý báu khác
như: truyền thống lao động cần cù, sáng tạo, hiếu học, trọng nghĩa khí, tinh thần nhân ái
khoan dung, lối sống thanh cao giản dị…
Tuy nhiên, nền văn hoá Việt Nam được xây dựng trên nền văn minh nông nghiệp
lâu đời còn mang nhiều thiếu hụt, hạn chế: tính cục bộ địa phương, tác phong tuỳ tiện,
thiếu ý thức tổ chức kỷ luật, lối làm ăn nhỏ, lại thêm những di hại của văn hoá thực dân
còn rất nặng nề, trình độ khoa học còn thấp kém, nhiều phong tục tập quán còn lạc hậu
chưa được khắc phục. Do đó việc học tập, tiếp thu những tri thức mới, những kinh nghiệm
mới để làm chủ khoa học kỹ thuật, để sánh cùng với trình độ văn minh nhân loại là rất cần
thiết, đối với nước ta trong quá trình tiến hành xây dựng nền văn hoá mới của dân tộc.


Hồ Chí Minh là “kiến trúc sư” đồng thời là “người thợ cả” trong sự nghiệp xây
dựng nền văn hoá mới Việt Nam. Người đã góp phần làm giàu thêm cho văn hoá Việt
Nam và văn hoá nhân loại nói chung bằng nhiều giá trị văn hoá mang phong cách đặc sắc
Hồ Chí Minh. Người luôn có ý thức rõ ràng về các giá trị văn hoá dân tộc. Người cho rằng,
văn hoá là tinh hoa của dân tộc, văn hoá phải góp phần khẳng định vị thế của dân tộc.
Ngay từ khi mới hoạt động ở Pháp và còn chưa được tiếp cận với chủ nghĩa Mác Lênin, Hồ Chí Minh đã kịch liệt lên án chính sách ngu dân,vạch trần tâm địa xấu xa, bỉ ổi
của chủ nghĩa thực dân đối với các dân tộc thuộc địa. Người viết: “Chúng tôi thiết tưởng
rằng, những người Pháp thông minh và chân thực biết tỏ tính ưu việt tự nhiên của mình ở

bất cứ nơi nào mình sống thì không cần phải sống giữa những người bản xứ vĩnh viễn bị
khoá mồm bịt miệng và bị xỏ mũi mới có thể giữ được tính ưu việt đó” [31, tr.4]. Để thay
thế văn hoá nô dịch của chủ nghĩa thực dân bằng một nền văn hoá cách mạng, ngay sau
khi giành được độc lập, tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hoà (3/9/1945) Hồ Chí Minh đã đề nghị cần phải mở ngay một chiến dịch chống
“giặc dốt”. Người coi dốt nát cũng là một thứ giặc, xem những thói quen và tập tục lạc hậu
cũng là một loại kẻ thù. Người nói: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu” [34, tr.8]. Tại Đại
hội toàn quốc lần thứ II của Đảng Cộng sản Việt Nam (1951), Hồ Chí Minh đã chỉ rõ
những mục tiêu cơ bản của cách mạng Việt Nam cần phải đạt được trong lĩnh vực văn hoá
đó là: “Phải triệt để tẩy trừ mọi di tích thuộc địa và ảnh hưởng nô dịch của văn hoá đế
quốc, đồng thời phát triển những truyền thống tốt đẹp của văn hoá dân tộc và hấp thụ
những cái mới của văn hoá tiến bộ trên thế giới, để xây dựng một nền văn hoá Việt Nam
có tính chất dân tộc, khoa học và đại chúng” [36, tr.173].
Hồ Chí Minh luôn đề cao các truyền thống quý báu của dân tộc đồng thời Người
còn đòi hỏi chúng ta phải biết giữ gìn vốn văn hoá quý báu của dân tộc, khôi phục những
yếu tố văn hoá tích cực trong kho tàng văn hoá dân tộc một cách có chọn lọc, gạt bỏ dần
những yếu tố tiêu cực không thích hợp trong đời sống văn hoá của nhân dân.
Hồ Chí Minh cũng rất quan tâm đến những di sản văn hoá tinh thần của nhân dân,
đối với Người, những làn điệu dân ca, những áng thơ cổ là một phần không thể thiếu trong
đời sống tinh thần của Người. Nói chuyện với nghệ sĩ Đinh Thìn, Người tâm sự: âm nhạc


×