Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

LUẬN VĂN: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ vào việc đổi mới phương pháp lãnh đạo và phong cách công tác của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Hưng Yên hiện nay doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (782.89 KB, 106 trang )







LUẬN VĂN:

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ
vào việc đổi mới phương pháp lãnh đạo và
phong cách công tác của đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp cơ sở ở tỉnh Hưng Yên hiện nay








mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm vừa qua, thế giới đã xảy ra biết bao nhiêu những biến
động to lớn trên rất nhiều phương diện, nhưng công cuộc đổi mới ở Việt Nam vẫn
giành được những thành tựu quan trọng, được bạn bè thế giới khâm phục. Trong xu
thế toàn cầu hoá hiện nay, sự nghiệp đổi mới của nước ta đang đứng trước những
thời cơ và cả thách thức mới, đòi hỏi chúng ta phải tỉnh táo, phán đoán, xử lý kịp
thời mới có thể giữ vững ổn định chính trị và tiếp tục phát triển kinh tế. Để đáp ứng
và giải quyết được những yêu cầu, nhiệm vụ đó, điều đầu tiên và cấp thiết nhất đối
với Đảng ta là phải có được một đội ngũ cán bộ vừa “hồng” vừa “chuyên” từ Trung


ương đến cơ sở. Bởi vì như Lênin người thầy của giai cấp vô sản đã từng nói:
“Trong lịch sử chưa hề có giai cấp nào giành được quyền thống trị, nếu nó không
đào tạo được trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiên
phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào”[34, tr.473]. Chủ tịch Hồ Chí
Minh cũng đã khẳng định: Cán bộ là gốc của mọi công việc, công việc có thành
công hoặc thất bại cũng do đội ngũ cán bộ tốt hay kém, có cán bộ tốt việc gì cũng
xong. Vì thế hơn lúc nào hết, chúng ta phải trở lại nghiên cứu một cách thấu đáo tư
tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ để vận dụng sáng tạo vào thực tiễn cách mạng hiện
nay, đặc biệt là phương pháp lãnh đạo và phong cách công tác của người cán bộ. Đó
cũng là quan điểm chỉ đạo của Đảng ta trong giai đoạn cách mạng mới thời kỳ
“công nghiệp hoá, hiện đại hoá”:
Cán bộ là khâu quyết định sự thành hay bại của cách mạng, gắn
liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu then chốt
trong công tác xây dựng Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã dày
công đào tạo, huấn luyện, xây dựng được đội ngũ cán bộ tận tuỵ, kiên
cường, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ qua các giai đoạn cách mạng [14,
tr.113].



Hiện nay, do những tác động ngày càng mạnh mẽ của mặt trái kinh tế thị
trường dẫn đến hậu quả là “một bộ phận không nhỏ” cán bộ, đảng viên bị tha hoá về
phong cách, lối sống, làm mất niềm tin trong nhân dân. Mặt khác, một bộ phận cán
bộ, đảng viên vẫn còn mắc bệnh: độc đoán, chuyên quyền, phong cách làm việc
thiếu khoa học, thiếu dân chủ. Chính vì vậy, vấn đề đổi mới phương pháp lãnh đạo
và phong cách công tác của cán bộ được đặt lên hàng đầu trong công tác xây dựng
Đảng nói riêng và trong hệ thống chính trị nói chung. Vấn đề này còn đặc biệt có ý
nghĩa đối với đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp sơ sở ở tỉnh Hưng Yên – một tỉnh mới tái
lập - địa phương nơi tôi đang công tác, bởi ở đây vấn đề cán bộ không chỉ chứa
những đặc điểm chung mà còn nhiều yếu tố bức xúc,đòi hỏi cần có những phương

hướng, những giải pháp nhằm nâng cao một bước năng lực của cán bộ chủ chốt cấp
cơ sở, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Bởi bên cạnh những mặt đã
làm được, đội ngũ cán bộ ở Hưng Yên, nhất là đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở
vẫn còn nhiều bất cập về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, năng lực lãnh đạo, quản
lý làm ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng và hiệu quả công việc.
Với mong muốn được góp phần làm sáng tỏ thêm những quan điểm, tư
tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về cán bộ, từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm
nâng cao chất lượng, năng lực của đội ngũ cán bộ nói chung và đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp cơ sở ở Hưng Yên nói riêng, tôi chọn đề tài: “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh về cán bộ vào việc đổi mới phương pháp lãnh đạo và phong cách công tác
của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Hưng Yên hiện nay” làm đề tài
nghiên cứu cho luận văn tốt nghiệp Thạc sỹ chuyên ngành Hồ Chí Minh học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tư tưởng Hồ Chí minh về cán bộ và công tác cán bộ là vấn đề quan trọng,
thu hút được sự quan tâm của rất nhiều nhà nghiên cứu trong nước. Đã có nhiều
công trình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ dưới
nhiều góc độ khác nhau. Có những công trình đi vào nghiên cứu toàn bộ nội dung tư
tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ, có công trình chỉ đi vào khía cạnh nhỏ
trong công tác cán bộ. Các công trình nghiên cứu của các tác giả được công bố dưới



dạng chuyên đề, luận văn thạc sỹ, các bài đăng trên các sách, báo, tạp chí, kỷ yếu
hội thảo khoa học. Đó là nguồn tư liệu quý báu giúp tôi kế thừa trong quá trình
nghiên cứu, hoàn thiện đề tài của mình. Ví dụ như công trình: Phương pháp và
phong cách Hồ Chí Minh của GS. Đặng Xuân Kỳ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1997; Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ của PGS.TS Bùi Đình
Phong, Nxb Lao động, Hà Nội, 2002; Đạo đức, phong cách, lề lối làm việc của cán
bộ, công chức theo tư tưởng Hồ Chí Minh của Ban Tổ chức cán bộ Chính phủ, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998; Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ, chuyên đề khoa

học cấp nhà nước KX.02, chủ nhiệm đề tài: GS Đặng Xuân Kỳ; Tư tưởng nhân văn Hồ
Chí Minh với việc giáo dục đảng viên hiện nay, Kỷ yếu đề tài khoa học cấp bộ, chủ
nhiệm đề tài: TS. Hoàng Trang, 2002; Tập kỷ yếu hội thảo khoa học: Tư tưởng Hồ Chí
Minh về cán bộ và công tác cán bộ do Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh tổ
chức gồm hàng trăm bài nghiên cứu, đề cập nhiều khía cạnh trong công tác xây
dựng đội ngũ cán bộ theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Ngoài ra, còn một số luận văn thạc sỹ, nhiều bài báo của các nhà nghiên cứu
đăng trên các tạp chí khoa học theo tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác
cán bộ như: Thực hiện tốt lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh về: “cần, kiệm, liêm,
chính”; chống tham ô, lãng phí và quan liêu của tác giả Trần Đình Quảng, Tạp chí
Lao động và Công đoàn, số 289, 2003; Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về phương
pháp lãnh đạo và việc xây dựng, rèn luyện phương pháp, phong cách công tác của
cán bộ chính trị trong quân đội ta hiện nay của tác giả Bùi Thế Đăng, Tạp chí khoa
giáo số 5, 2005; Xây dựng đội ngũ cán bộ công chức quản lý nhà nước về kinh tế
cấp tỉnh trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở tỉnh Thanh Hoá, Luận văn
Thạc sỹ khoa học kinh tế, tác giả Cẩm Bá Tiến, 2002; Tư tưởng Hồ Chí Minh về
công tác cán bộ với việc nâng cao năng lực lãnh đạo của đội ngũ cán bộ chủ chốt
cấp cơ sở ở Thanh Hoá hiện nay, Luận văn thạc sỹ của tác giả Bùi Khắc Hằng,
2004
Các công trình nghiên cứu trên đã đi sâu phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về
cán bộ và công tác cán bộ dưới nhiều góc độ khác nhau như vấn đề rèn luyện đạo



đức, năng lực của cán bộ, một số nội dung quan trọng của tư tưởng Hồ Chí Minh về
công tác đào tạo, huấn luyện cán bộ song có thể nói chưa có nhà khoa học nào đi
sâu nghiên cứu, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ vào việc đổi mới
phương pháp lãnh đạo và phong cách công tác của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ
sở ở nước ta hiện nay một cách có hệ thống. Vì vậy, trên cơ sở kế thừa có chọn lọc
các kết quả nghiên cứu đã được công bố, tôi hy vọng sẽ góp phần làm sáng tỏ thêm

tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và vận dụng vào thực tiễn trên địa bàn tỉnh Hưng
Yên.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở làm rõ một số nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về
cán bộ, luận văn vận dụng để đánh giá thực trạng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở
ở Hưng Yên, từ đó đề ra phương hướng, giải pháp nhằm đổi mới phương pháp lãnh
đạo và phong cách công tác của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Hưng Yên
hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt tới mục đích nghiên cứu trên, đề tài có nhiệm vụ làm rõ:
- Phân tích một số nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ;
- Đánh giá thực trạng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở trên địa bàn tỉnh Hưng
Yên hiện nay, trọng tâm là phương pháp lãnh đạo và phong cách công tác;
- Đề xuất phương hướng và giải pháp đổi mới phương pháp lãnh đạo và
phong cách công tác của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở Hưng Yên theo tư
tưởng Hồ Chí Minh;
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ
- Phạm vi nghiên cứu:
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ là vấn đề lớn. Trong phạm vi luận văn này,
tôi chỉ nghiên cứu một số nội dung chủ yếu trong tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ:
Vị trí cán bộ; tiêu chuẩn cán bộ; phương pháp lãnh đạo và phong cách công tác của



cán bộ từ đó làm cơ sở lý luận cho việc đánh giá thực trạng và đề ra phương
hướng, giải pháp nhằm đổi mới phương pháp lãnh đạo và phong cách công tác của
đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Hưng Yên trong sự nghiệp đổi mới đất
nước hiện nay.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh , các văn
kiện của Đảng và Nhà nước.
- Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp lôgic lịch sử biện chứng, phương
pháp thống kê, phương pháp điều tra xã hội học, phân tích tổng hợp
6. Đóng góp mới về khoa học của đề tài
- Góp phần làm rõ thêm tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ
- Trên cơ sở đánh giá thực trạng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở Hưng
Yên, đưa ra một số kiến nghị về phương hướng và giải pháp nhằm đổi mới phương
pháp lãnh đạo và phong cách công tác của đội ngũ cán bộ nói chung và đội ngũ cán
bộ chủ chốt cấp cơ sở ở Hưng Yên nói riêng.
7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
- Đề tài có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ cho công tác nghiên cứu,
giảng dạy, học tập và tuyên truyền tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Cung cấp những luận chứng về cơ sở khoa học và thực tiễn cho lãnh đạo
tỉnh Hưng Yên làm cơ sở để tham mưu cho lãnh đạo tiến hành đổi mới phương
pháp lãnh đạo và phong cách công tác của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở địa
phương.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phần phụ lục,
luận văn được kết cấu làm 3 chương, 11 tiết.
Chương 1
Một số nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ




1.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về vị trí và vai trò của cán bộ trong sự
nghiệp cách mạng
1.1.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về cán bộ

Cán bộ là một danh xưng rất đẹp, đầy niềm tự hào và vinh dự trong nhân dân
ta. Nói đến cán bộ là nói đến một lớp người mới, sẵn sàng chịu đựng mọi gian khổ,
hy sinh cho cách mạng, gắn bó mật thiết với nhân dân, gần gũi với dân chúng. Cán
bộ có nhiều cách hiểu với phạm vi rộng hẹp và ở từng nước khác nhau. ở nước ta
cán bộ được sử dụng phổ biến từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Nói đến
định nghĩa cán bộ là gì? người ta thường nhắc tới hai phía cạnh: Người cán bộ có
chức vụ ở cơ quan nhà nước hoặc trong một tổ chức nào đó.
Trong đời sống xã hội, theo cách hiểu thông thường, cán bộ được coi là tất cả
những người thoát ly, làm việc trong các cơ quan đảng, nhà nước, đoàn thể, quân
đội, được hưởng lương.
Trong Từ điển Tiếng Việt, xuất bản năm 1993, khái niệm cán bộ được định
nghĩa là:
Người làm công tác có nghiệp vụ chuyên môn trong cơ quan nhà nước (như
cán bộ nhà nước, cán bộ khoa học, cán bộ chính trị)
Người làm công tác có chức vụ trong một cơ quan, một tổ chức, phân biệt
với người thường không có chức vụ.
Trong suốt cuộc đời làm cách mạng của mình, Hồ chí Minh rất coi trọng vấn
đề cán bộ và công tác cán bộ. Người coi vấn đề cán bộ là một trong những vấn đề
then chốt quyết định đến sự thành bại của cách mạng. Hồ Chí Minh khẳng định:
“Cán bộ là gốc của mọi công việc”, và “Cán bộ là cái dây chuyền của bộ máy. Nếu
dây chuyền không tốt, không chạy thì động cơ dù tốt, dù chạy toàn bộ máy cũng tê
liệt. Cán bộ là người đem chính sách của chính phủ, của Đoàn thể thi hành trong
nhân dân, nếu cán bộ dở thì chính sách hay cũng không thể thực hiện được”. [45, tr.
54]. Do đó, Người yêu cầu mỗi cán bộ phải luôn tự rèn luyện, phải luôn giữ được tư
cách của người cán bộ cách mạng. Trước hết, theo Hồ Chí Minh người cán bộ cách
mạng phải là người luôn giữ chủ nghĩa cho vững, ít ham muốn về vật chất, ngày



đêm nghĩ đến sự nghiệp cách mạng, sẵn sàng hi sinh tất cả vì sự nghiệp giải phóng

dân tộc và nhân loại. Đó là những con người biết phân biệt giữa “thiện” và “ác”,
“chính” và “tà”, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu những người cán bộ khi đã tự nguyện đi
làm “công bộc của dân thì trước hết phải thực hiện nghiêm túc bốn đức cách mạng “cần,
kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”, một lòng vì nước, vì dân.
1.1.2. Vị trí, vai trò của cán bộ
Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành hay bại của cách mạng, gắn liền với
vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây
dựng Đảng.
Trong đội ngũ cán bộ đông đảo, cán bộ lãnh đạo (cán bộ chủ chốt) lại là nòng
cốt của đội ngũ ấy. Đó là những người tham gia một tập thể lãnh đạo của tổ chức
Đảng, cơ quan chính quyền, hành chính, sự nghiệp, đoàn thể hay tổ chức quản lý
kinh doanh…từ cấp trung ương đến cấp cơ sở. Trong sự nghiệp đổi mới, Đảng ta
khẳng định, nhiệm vụ xây dựng kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt.
Để thực hiện tốt được những nhiệm vụ chiến lược quan trọng đó, Đảng xác định
phải đổi mới công tác cán bộ, đặc biệt là đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt, coi đó là
là khâu đột phá. Trong Báo cáo chính trị của Đảng tại Đại hội toàn quốc lần thứ VI
nêu rõ: “Đổi mới cán bộ lãnh đạo các cấp là mắt xích quan trọng nhất mà Đảng ta
phải nắm chắc để thúc đẩy những cuộc cải cách có ý nghĩa cách mạng” [10, tr.126].
Trên cơ sở nắm vững những nguyên tắc của Chủ nghĩa Mác Lênin, trong quá
trình lãnh đạo cách mạng, Hồ Chí Minh chỉ ra rằng giai cấp vô sản và chính đảng
của mình muốn giành được quyền lãnh đạo, giữ vững được chính quyền thì phải
đào tạo được một đội ngũ cán bộ trung thành, đáp ứng được nhiệm vụ cách mạng.
Cán bộ đích thực phải là những cán bộ cách mạng chuyên nghiệp, là rường cột của
đất nước. Đội ngũ cán bộ và vai trò lãnh đạo của Đảng có mối quan hệ biện chứng.
Đảng lãnh đạo công tác cán bộ và đội ngũ cán bộ vững mạnh làm cho Đảng vững
mạnh, tạo được uy tín trong quá trình lãnh đạo của Đảng. Hồ Chí Minh rất tâm đắc
với quan điểm của V.I. Lênin: “Không một phong trào cách mạng nào vững chắc




được nếu không có một tổ chức ổn định và duy trì được tính liên tục gồm những
người lãnh đạo” [34, tr.158].
Theo Lênin không có một đội ngũ cán bộ đông đảo về số lượng, đặc biệt đảm
bảo về chất lượng thì không thể nói tới quyền lãnh đạo. Lênin cho rằng: “Người
cộng sản lãnh đạo chỉ có một cách duy nhất để chứng minh quyền lãnh đạo của
mình, đó là tìm cho mình được nhiều, ngày càng nhiều những người phụ tá…, biết
giúp đỡ họ làm việc, biết đề bạt họ, biết giới thiệu và chú ý đến kinh nghiệm của
họ” [37, tr.407].
Khi bàn về vai trò của cán bộ trong sự nghiệp cách mạng, Hồ Chí Minh luôn
đặt cán bộ trong tổng hoà các mối quan hệ đa chiều. Hồ Chí Minh xác định: “Cán
bộ là những người đem chính sách của đảng, của chính phủ giải thích cho dân
chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời, đem tình hình dân chúng báo cáo cho đảng,
cho chính phủ hiểu rõ để đặt chính sách cho đúng. Vì vậy cán bộ là gốc của mọi
công việc” [45, tr.269] . Trong quá trình tổ chức thực hiện, cán bộ phải nắm bắt tâm
tư, nguyện vọng của nhân dân, thu nhận được những kinh nghiệm thực tiễn để phản
ánh với đảng và nhà nước, hoàn thiện đường lối, chính sách ngày càng phù hợp với
đòi hỏi khách quan của cuộc sống. Tuy nhiên, để có đủ trình độ năng lực, có thể đáp
ứng được yêu cầu nhiệm vụ, Đảng phải coi trọng công tác giáo dục, huấn luyện, đào
tạo cán bộ. Người nói: huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng.
Hồ Chí Minh cho rằng: “Cán bộ là tiền vốn của đoàn thể. Có vốn thì mới làm
ra lãi. Bất cứ chính sách công tác gì nếu có cán bộ tốt thì thành công, tức là có lãi.
Không có cán bộ tốt thì hỏng việc, tức là lỗ vốn” [46, tr.46].
Theo Hồ Chí Minh, cán bộ có vị trí, vai trò hết sức quan trọng trong sự
nghiệp cách mạng, bởi vì chủ trương chính sách của nhà nước có đúng, cán bộ làm
sai, cán bộ yếu kém thì cũng không có hiệu quả. Hồ Chí Minh đã đi xa hơn, sâu hơn
chỉ ra cội rễ của vấn đề một cách vừa cụ thể, vừa có tính tổng quát: Khi đã có chính
sách đúng thì sự thành công hay thất bại của chính sách đó là do nơi cách tổ chức
công việc, nơi lựa chọn cán bộ và nơi kiểm tra. Nếu ba điều ấy sơ sài thì chính sách
dù đúng mấy cũng vô ích. Đồng thời, Hồ Chí Minh khẳng định vai trò của người




cán bộ trong xã hội mới không phải là “ông quan cách mạng”, càng không phải là
người có “quyền sinh, quyền sát” như vua chúa thời phong kiến, mà chỉ là người đại
diện, người đại biểu của nhân dân, có trách nhiệm thi hành nhiệm vụ của nhân dân
giao phó. Vai trò hết sức quan trọng của cán bộ đối với sự nghiệp cách mạng còn
thể hiện ở chỗ: nếu thiếu họ thì không có cách mạng, mục tiêu đề ra không thể hoàn
thành, cán bộ có vai trò quyết định đối với công việc “Muôn việc thành công hoặc
thất bại đều do cán bộ tốt hay kém” [45, tr.240].
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, mỗi đảng viên của đảng đều có thể xem
là cán bộ. Người vẫn thường dùng khái niệm: “cán bộ, đảng viên” để chỉ đội ngũ
cán bộ nói chung, có khi họ không nắm chức vụ gì, nhưng vẫn có vai trò lãnh đạo vì
họ là một thành viên của Đảng, mà Đảng có trách nhiệm lãnh đạo chính quyền và
toàn thể nhân dân thực hiện sức mạnh của mình. Tuy nhiên, Hồ Chí Minh đặc biệt
quan tâm đến vai trò của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, nhất là đội ngũ lãnh đạo chủ chốt
ở cơ sở. Bởi vì đội ngũ này là những người gần dân nhất, cách mạng có thành công
hay không phụ thuộc rất lớn vào đội ngũ cán bộ này. Người viết: “Cấp xã là người
gần gũi nhân dân nhất, là nền tảng của hành chính. Cấp xã làm được việc thì mọi
công việc đều xong xuôi” [45, tr. 371]. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, cán bộ các
cấp đều có vị trí quan trọng và có liên hệ chặt chẽ với nhau trong tổ chức của Đảng.
Nêú cán bộ lãnh đạo ở cấp Trung ương là những cán bộ cấp chiến lược có trách
nhiệm hoạch định, hoặc gắn với việc hoạch định chủ trương, đường lối chính sách
của Đảng, thì cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở lại có trách nhiệm lãnh đạo xây dựng tổ
chức đảng và hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh, trực tiếp lãnh đạo các tầng lớp
nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng.
1.2. Tiêu chuẩn của người cán bộ cách mạng
Xuất phát từ vai trò hết sức quan trọng của người cán bộ trong sự nghiệp
cách mạng, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ những tiêu chuẩn của người cán bộ cách mạng,
phải tự giác rèn luyện về mọi mặt, không ngừng nâng cao phẩm chất, năng lực, để
xứng đáng: “Vừa là người lãnh đạo vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân”.

Người đề ra tiêu chuẩn của đội ngũ cán bộ không phải từ ý muốn chủ quan của bản



thân, mà do yêu cầu khách quan của sự nghiệp cách mạng. Muốn sự nghiệp cách
mạng thành công, đất nước được độc lập, nhân dân được tự do, hạnh phúc để đồng
bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành đòi hỏi những người cán
bộ phải vừa có “đức” vừa có “tài” vừa “hồng” vừa “chuyên” sẵn sàng hy sinh vì
độc lập tự do của tổ quốc, ở mọi lúc mọi nơi luôn đặt lợi ích của đảng, của dân tộc,
của nhân dân lên trên hết, trước hết.
Theo Hồ Chí Minh, những tiêu chuẩn căn bản của người cán bộ cách mạng
là:
1.2.1. Đạo đức cách mạng là gốc của người cán bộ
Theo Hồ Chí Minh đã là người cán bộ cách mạng thì phải có đạo đức cách
mạng. Giữ được đạo đức cách mạng mới có thể trở thành người cán bộ cách mạng
chân chính. Bởi vì: Mọi việc thành công hay thất bại, chủ yếu là do cán bộ có thấm
nhuần đạo đức cách mạng hay không, Người cho rằng: Người đảng viên, người cán
bộ tốt, muốn trở nên người cách mạng chân chính, không có gì là khó cả. Điều đó
hoàn toàn do lòng mình mà ra. Lòng mình chỉ biết vì Đảng, vì Tổ quốc, vì đồng bào
thì mình sẽ tiến đến chỗ chí công, vô tư. Mình đã chí công, vô tư thì khuyết điễm sẽ
ngày càng ít, mà những tính tốt như sau ngày càng thêm.
Đồng thời người nhắn mạnh: Người cách mạng thì phải có đạo đức cách
mạng làm nền tảng, mới hoàn thành nhiệm vụ cách mạng. Người coi đạo đức của
người cách mạng như gốc của cây, ngọn nguồn của suối của sông; “Cũng như sông
thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có
gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi
mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân” [45, tr.252 - 253].
Hồ Chí Minh cho rằng:
Làm cách mạng là để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới, là một sự
nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một

cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh
được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng



làm nền tảng mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang [49,
tr.283].
Ngay từ những năm đầu chuẩn bị cho sự ra đời của Đảng cộng sản, trong tác
phẩm Đường cách mệnh, Người đã chỉ rõ tư cách của người cách mạng trong các
mối quan hệ: đối với mình, đối với người và đối với việc.
Từ giữa những năm 20 của thế kỉ XX cho đến khi qua đời (2/9/1969), Hồ Chí
Minh đã nhiều lần nhấn mạnh đến các tiêu chí, phẩm chất đạo đức của người cán bộ Đảng
viên. Trong tư duy lý luận và trong hoạt động thực tiễn, Hồ Chí Minh nhiều lần đề cập đến
những phẩm chất cơ bản của người cán bộ, đảng viên:
Một là, trung với nước, trung với Đảng, hiếu với dân
Trung, hiếu là những khái niệm đã có trong tư tưởng đạo đức truyền thống
Nho giáo phương Đông nói chung và Việt Nam nói riêng. Tuy nhiên mệnh đề này
đã được Hồ Chí Minh sử dụng và đưa vào đó nội dung mới. Nếu như trước kia,
trung quân là trung thành với vua, vì vua là Thiên tử gánh vác mệnh Trời trông coi
vận nước, nước là nước của vua, thì nay phạm trù đó đã được mang nội hàm mới:
Trung với Đảng, trung với nước. Còn hiếu trước đây chỉ thu hẹp trong phạm vi gia
đình, là con cái phải hiếu thảo với cha mẹ, nay nội dung đó đã được mở rộng, ý
nghĩa lớn lao hơn nhiều, không chỉ bó hẹp trong phạm vi gia đình mà với toàn dân
tộc.
Như vậy, tư tưởng trung với nước, hiếu với dân của Hồ Chí Minh không
những kế thừa giá trị của chủ nghĩa yêu nước truyền thống của dân tộc, mà còn vượt
qua những hạn chế truyền thống đó. Trung với nước là trung thành với sự nghiệp
dựng nước và giữ nước. Nước ở đây là nước của dân, còn dân lại là chủ nhân của
đất nước. Hiếu với dân là thương dân, là phục vụ hết lòng để được dân tin yêu, quý
mến. Hiếu với dân trong đó có cha mẹ mình, phải biết phấn đấu hi sinh, đem lại độc

lập tự do, dân chủ, hạnh phúc cho dân, sống cuộc sống của dân, nói tiếng nói của
dân. Hiếu với dân là mỗi cán bộ, Đảng viên phải biết tin vào dân, dựa và dân, gần
gũi, giúp đỡ dân, lo cho cuộc sống của dân ngày càng tốt hơn. Người nhấn mạnh:
“Việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh”



[44, tr.47]. Chính quyền phải có trách nhiệm lo cho dân: Làm cho dân có ăn, làm
cho dân có mặc, làm cho dân có chỗ ở, làm cho dân có học hành.
Hiếu với dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh là dù mỗi cán bộ dù ở bất cứ cương
vị gì, giữ trọng trách gì cũng phải xuất phát từ dân, thực hành dân chủ, “Làm sao
cho dân biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình, dám nói,
dám làm” [52,tr.223].
Hồ Chí Minh dạy rằng, Đảng và Chính phủ trước hết là người lãnh đạo, và là
công bộc của nhân dân chứ không phải là “ quan cách mạng”, không phải để “đè
đầu cưỡi cổ nhân dân”.
Trung với nước, hiếu với dân, suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do của tổ
quốc, vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua,
kẻ thù nào cũng đánh thắng. Câu nói đó của người vừa là lời kêu gọi hành động, vừa là
định hướng chính trị, đạo đức cho mỗi người Việt Nam không phải chỉ trong cuộc đấu
tranh cách mạng trước mắt, mà còn lâu dài về sau.
Đối với cán bộ, đảng viên, Hồ Chí Minh đã nói “điều chủ chốt nhất” của đạo
đức cách mạng là “quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng”, là
“tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân”, là “ trung với nước, hiếu với dân”,
hơn nữa là “ tận trung, tận hiếu” thì mới xứng đáng vừa là người lãnh đạo, vừa là
người đầy tớ thực trung thành của nhân dân.
Hai là, gần dân, quan hệ mật thiết với nhân dân, yêu thương con người
Hồ Chí Minh được thế giới tôn vinh là danh nhân văn hoá, trước hết bởi tư
tưởng nhân văn cao cả của Người. Đối với cán bộ, một trong những yêu cầu hàng
đầu mà Người đặt ra là tinh thần hy sinh, phục vụ nhân dân, tin tưởng và yêu mến

nhân dân, quan hệ mật thiết với nhân dân, yêu thương đồng bào, yêu nhân loại. Đối với
Hồ Chí Minh, tình yêu thương con người trước hết được dành cho những người cùng
khổ, những người lao động bị áp bức, bóc lột: từ người phu đường đến người bạn tù
trong ngục tối và cả em bé đang nằm trong nôi.
Hồ Chí Minh yêu thương dân tộc, yêu thương con người và đó là điểm xuất
phát để Người ra đi tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc, giải phóng nhân loại



khỏi áp bức bất công. Người nói: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc,
là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng
bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành” [44, tr.161]. Tình yêu
thương bao la và sâu sắc này mang lại sức mạnh cho Hồ Chí Minh, cho những
người cách mạng vượt qua muôn trùng thử thách, khó khăn trên đường cách mạng.
Với Hồ Chí Minh, yêu thương con người không phải chỉ tồn tại như một đạo
lý mà phải được thể hiện sinh động trong hoạt động hàng ngày giữa người với
người. Điều đó đòi hỏi mọi người phải luôn luôn, chặt chẽ, nghiêm khắc với bản
thân mình, rộng rãi, độ lượng với người khác, phải biết cách nâng con người lên
chứ không phải là hạ thấp, càng không phải là vùi dập con người.
Tình yêu thương con người theo Hồ Chí Minh còn được thể hiện ở sự bao
dung đối với những người có sai lầm, khuyết điểm, nhưng đã nhận rõ sai lầm,
khuyết điểm và đang cố gắng sửa chữa. Chính tình yêu thương đó đã đánh thức
những gì tốt đẹp nhất mà Hồ Chí Minh tin tưởng rằng trong mỗi người đều có , tuy
nhiều, ít có khác nhau. Với sự khoan dung và lòng bác ái, Hồ Chí Minh đã cảm
phục được không chỉ nhân dân tiến bộ yêu chuộng hoà bình trên thế giới, mà còn
làm cho ngay chính kẻ thù cũng kính phục nể sợ. Nhà báo Pháp Ôlivơ Thôndơ đã
nói: Đối với một số người, Cụ Hồ Chí Minh là một kẻ thù quen biết lâu năm nhưng
đáng kính phục, là địch thủ được kính trọng nhất trong cuộc chiến tranh thuộc địa
Pháp.
Yêu thương con người còn được thể hiện bằng lẽ sống: sống có tình, có nghĩa,

Hồ Chí Minh trước lúc đi xa còn dặn lại cán bộ, đảng viên phải có tình đồng chí,
yêu thương lẫn nhau. Tình yêu thương được thể hiện trên nguyên tắc phê bình và tự
phê bình một cách chân thành, nghiêm túc, giữa những người có cùng lý tưởng,
cùng phấn đấu cho một sự nghiệp. Nó hoàn toàn xa lạ với thái độ dĩ hoà vi quý, bao
che khuyết điểm cho nhau. Nó càng xa lạ với thái độ yêu nên tốt, ghét nên xấu, bè
cánh, là nguy cơ đưa đến những tổn thất cho Đảng, cho cách mạng. Hồ Chí Minh
nói:



Nhân dân ta từ lâu đã sống với nhau có tình có nghĩa như thế. Từ
khi có Đảng ta lãnh đạo và giáo dục, tình nghĩa ấy càng cao đẹp hơn, trở
thành tình nghĩa đồng bào đồng chí, tình nghĩa năm châu bốn biển một
nhà. Biết chủ nghĩa Mác - Lênin là phải sống với nhau có tình có nghĩa.
Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống không có tình có nghĩa, thì sao gọi là
hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin. [ 52, tr. 554]
Ba là, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư
Đây là phẩm chất đạo đức gắn liền với hoạt động hàng ngày của mỗi người.
vì vậy, Hồ Chí Minh đã đề cập đến phẩm chất này nhiều nhất, thường xuyên nhất,
từ “Đường cách mệnh” cho đến bản “Di chúc” cuối cùng.
Hồ Chí Minh đã sử dụng những khái niệm, cần, kiệm, liêm, chính, chí công
vô tư của đạo đức phương Đông và đạo đức truyền thống Việt Nam. Người đã giữ
lại những gì tốt đẹp nhất của quá khứ, lọc bỏ những gì không còn phù hợp và đưa
vào những nội dung mới, với mục tiêu vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất
đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Mỗi chữ: cần, kiệm, liêm, chính, chí công
vô tư đã được Hồ Chí Minh giải thích rất rõ, rất cụ thể và dễ hiểu đối với mọi
người.
Theo Hồ Chí Minh: Cần tức là lao động cần cù, siêng năng; lao động có kế
hoạch, sáng tạo, có năng suất cao; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không
lười biếng, không ỷ lại, không dựa dẫm. Phải thấy rõ: Lao động là nghĩa vụ thiêng

liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của chúng ta.
Cần tức là: “Siêng năng, chăm chỉ, cố gắng dẻo dai…” [45,tr.632]. Nghĩa là
cần thì việc gì, dù khó khăn đến mấy cũng làm được…
Cần là luôn luôn cố gắng, luôn luôn chăm chỉ, cả năm cả đời” [45, tr.633].
Lười biếng là kẻ địch của chữ cần và cũng là kẻ địch của dân tộc.
Kiệm tức là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của của
dân, của nước, của bản thân mình; phải tiết kiệm từ cái to cho đến cái nhỏ, nhiều cái
nhỏ cộng lại thành cái to; “không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi” [45,
tr.636] , không phô trương, hình thức, không liên hoan, chè chén lu bù. Cần và kiệm



phải đi đôi với nhau như hai chân của người. Hồ Chí Minh còn ví cần mà không
kiệm như thùng không đáy, “Kiệm tức là không lãng phí thời giờ, của cải nhân
dân”.
Liêm tức là luôn luôn tôn trọng, giữ gìn của công và của cải của nhân dân,
không xâm phạm một đồng xu, một hạt thóc của nhà nước, của nhân dân. Phải
“trong sạch, không tham lam”. “ Không tham địa vị. Không tham tiền tài. Không
tham sung sướng. Không ham người tâng bốc mình. Vì vậy mà quang minh chính
đại, không bao giờ hủ hoá. Chỉ có một thứ ham là ham học, ham làm, ham tiến bộ”
[45, tr.252].
Hồ Chí Minh đã chỉ ta những hành vi trái với chữ liêm như:
“Cậy quyền thế mà đục khoét dân, ăn của đút, hoặc trộm của công
làm của tư”
“Dìm người giỏi để giữ địa vị và danh tiếng của mình là đạo vị (đạo
là trộm).
Gặp việc phải, mà sợ khó nhọc, nguy hiểm, không dám làm, là
tham vật uý lao.
Gặp giặc mà rút ra không dám đánh là tham sinh uý tử” [45, tr.640
- 641].

Hồ Chí Minh khẳng định một dân tộc biết cần, kiệm, liêm là một dân tộc
giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, là một dân tộc văn minh tiến bộ.
Chính: “ Nghĩa là không tà, nghĩa là thẳng thắn, đứng đắn” [45, tr.643].
Đối với mình không tự cao, tự đại, luôn chịu khó học tập, cầu tiến bộ, luôn tự
kiểm điểm để phát triển điều hay, sửa đổi điều dở của bản thân mình.
Đối với người: không nịnh hót người trên, không xem khinh người dưới, luôn giữ
thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết, thật thà, không dối trá, lừa lọc.
Đối với việc: Để việc công lên trên, lên trước việc tư, việc nhà. Đã phụ trách
việc gì thì quyết làm cho được, cho đến nơi, đến chốn, không sợ khó khăn, nguy
hiểm, việc thiện thì dù nhỏ mấy cũng làm, việc ác thì dù nhỏ mấy cũng tránh. Mỗi
ngày cố làm một việc có lợi cho nước, cho dân.



Theo Hồ Chí Minh, cần, kiệm, liêm là gốc rễ của chính, Hồ Chí Minh còn ví
hình ảnh như một cây cần phải có gốc, rễ, cần phải có cành, lá, hoa quả mới hoàn
toàn. Con người cũng phải hoàn toàn như vậy, đối với người cán bộ cách mạng thì
không thể thiếu bốn đức ấy. Bởi người cán bộ phải làm gương trước, tức là làm cái
cho người ta soi sáng để sửa, do vậy cán bộ cách mạng phải chính trước mới giúp
được người thành chính.
Mình không chính mà muốn người khác chính là điều không thể. Mỗi cán bộ,
đảng viên cần, kiệm, liêm, chính là vô cùng cần thiết. Bởi vì: “Cán bộ các cơ quan,
các đoàn thể, cấp cao thì quyền to, cấp thấp thì quyền nhỏ. Dù to hay nhỏ, có quyền
mà thiếu lương tâm là có dịp đục khoét, có dịp ăn của đút” [45, tr.641].
Chí công vô tư: Người nói “đem lòng chí công vô tư mà đối với người, với
việc”, “khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ thì
mình nên đi sau”, “phải lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”.
Đối lập với chí công vô tư là dĩ công vi tư, đó là điều mà đạo đức mới đòi hỏi
phải chống lại.
Chí công vô tư về thực chất là nối tiếp cần, kiệm, liêm, chính; cần, kiệm,

liêm chính sẽ dẫn đến chí công vô tư; ngược lại đã chí công, vô tư một lòng vì
nước, vì dân, vì Đảng thì nhất định sẽ thực hiện cần, kiệm, liêm, chính và có nhiều
tính tốt khác. Theo Hồ Chí Minh đã chí công vô tư thì khuyết điểm ngày càng ít mà
những tính tốt ngày càng thêm.
Bồi dưỡng phẩm chất cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư sẽ làm cho con
người vững vàng trước mọi thử thách: “giàu sang không thể quyến rũ, nghèo khó
không thể chuyển lay, uy vũ không thể khuất phục”, và có thể: “trợn mắt coi khinh
ngàn lực sỹ, cúi đầu làm ngựa đám nhi đồng”.
Bốn là, có tinh thần quốc tế trong sáng
Người cán bộ cách mạng phải nêu cao tinh thần quốc tế vô sản thuỷ chung
trong sáng. Đó là tinh thần đoàn kết quốc tế vô sản mà Hồ Chí Minh đã nêu lên
bằng mệnh đề “Bốn phương vô sản đều là anh em” . Nhà văn Liên Xô E. Cabêlép,
trong cuốn “Đồng chí Hồ Chí Minh” đã viết: Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng như các



chiến sĩ xuất sắc khác đấu tranh cho sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản, đã chứng
minh cho chân lý bất di bất dịch sau đây: người nào yêu Tổ quốc mình tha thiết thì
cũng không khi nào phản bội lại các lý tưởng của tình đoàn kết quốc tế và ngược
lại, chỉ những người theo chủ nghĩa quốc tế một cách kiên định thì mới là người yêu
nước chân chính, mới đem lại lợi ích to lớn cho Tổ quốc mình, nhân dân mình. Đó
là đánh giá của bạn bè anh em về Người, có thể xem như là sự khái quát chung về
tinh thần thuỷ chung trong sáng và tư tưởng suốt đời đấu tranh vì mục tiêu giải
phóng nhân loại của người cộng sản quốc tế Hồ Chí Minh.
1.2.2. Người cán bộ cách mạng phải có tài năng để tổ chức thực hiện chủ
trương, đường lối của Đảng
Đạo đức được xác định là yêu cầu đầu tiên, quan trọng nhất, là gốc của người
cán bộ cách mạng, nhưng Hồ Chí Minh cũng không bao giờ xem nhẹ tài năng.
Người yêu cầu người cán bộ phải vừa có đức, vừa có tài. Người luôn nhấn mạnh
đến năng lực lãnh đạo và thực hành công việc của người cán bộ. Theo Hồ Chí

Minh, cán bộ tốt nhất thiết phải là người có đủ phẩm chất và năng lực, mà những
phẩm chất và năng lực đó phải được biểu hiện bằng những việc làm cụ thể, hoàn
thành tốt nhiệm vụ được giao. Hồ Chí Minh không viết riêng một bài nào dành cho
tiêu chuẩn tài năng của người cán bộ, song tất cả các bài viết liên quan đến cán bộ
của người đều toát lên các yêu cầu tiêu chuẩn, tài năng, năng lực của cán bộ.
Quý trọng người hiền tài: “Chiêu hiền đãi sĩ” được thể hiện rất rõ trong tư
tưởng Hồ Chí Minh. Ngay từ khi chuẩn bị giành chính quyền và nhất là trong những
ngày đầu cách mạng còn non trẻ, Hồ Chí Minh đã có bài viết nổi tiếng để tập hợp
người tài cho cách mạng Việt Nam là nhân tài và kiến quốc và tìm người tài đức:
“Nước nhà cần phải kiến thiết. Kiến thiết cần phải có nhân tài.
Trong số hai mươi triệu đồng bào chắc không thiếu người có tài, có
đức”.… “nay muốn sửa đổi điều đó, trọng dụng những kẻ hiền năng, các
địa phương phải lập tức điều tra nơi nào có người tài đức, có thể làm
được những việc ích nước lợi dân, thì phải báo cáo ngay cho Chính phủ
biết.



Báo cáo phải nói rõ: tên, tuổi, nghề nghiệp, tài năng, nguyện vọng
và chỗ ở của người đó.
Hạn trong một tháng, các cơ quan địa phương phải báo cáo ngay
cho đủ” [44, tr.451].
Tài năng không bỗng dưng mà có, Hồ Chí Minh yêu cầu mỗi cán bộ cách
mạng phải luôn chăm lo, rèn luyện, thực hiện lời dạy của Lênin là: “Học, học nữa,
học mãi !”, và chính Người là tấm gương sáng về tinh thần tự rèn luyện nâng cao
trình độ, không ngừng học tập để đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ cách mạng.
Tài luôn đi đôi với đức. Đức và tài có mối quan hệ biện chứng với nhau. Hồ
Chí Minh luôn kết hợp chặt chẽ hai yêu cầu này khi đánh giá, giáo dục, sử dụng cán
bộ. Hồ Chí Minh giải thích một cách đúng đắn rằng: đạo đức và tài năng là hai mặt
không thể tách rời trong mỗi người cán bộ cách mạng. Người luôn coi trọng tiêu chí

đạo đức, lấy đức làm gốc, làm nền tảng của người cách mạng. Nhưng người không
bao giờ xem nhẹ tài năng. Cán bộ có tài mới làm được việc. Theo người: “cán bộ có
đức, không có tài như ông Bụt ngồi trong chùa, không giúp ích gì được ai” [48,
tr.184]
Người yêu cầu cán bộ cách mạng phải vừa “hồng” vừa “chuyên”, trong Di
chúc trước lúc đi xa, Người đã để lại những lời căn dặn tâm huyết của mình đối với
thế hệ trẻ “Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ
thành những người thừa kế xây dựng xã hội chủ nghĩa vừa “hồng” vừa “chuyên”.
Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và cần thiết”
[52, tr.498].
Người cán bộ có tài là người có trình độ năng lực, giỏi về chuyên môn
nghiệp vụ, giàu về kinh nghiệm, có nhiều sáng kiến. Muốn trở thành người có tài,
Hồ Chí Minh yêu cầu người cán bộ cách mạng không những phải thường xuyên
nâng cao trình độ mà phải biết tự rèn luyện, học hỏi đúc kết từ thực tiễn hoạt động
cách mạng. Người nói: “sáng kiến không phải cái gì kỳ lạ. Nó chỉ là kết quả của sự
nghiên cứu, suy nghĩ trong những hoàn cảnh, trong những điều kiện rất tầm thường,
rất phổ thông, rất thiết thực” [45, tr.244].



Những quan điểm của Hồ Chí Minh về đạo đức, tài năng của người cán bộ
cách mạng cho đến tận hôm nay vẫn còn nguyên giá trị và sức sống trong thực tiễn.
Nó càng có ý nghĩa trong sự nghiệp đổi mới mà trước hết là đổi mới công tác tổ
chức cán bộ trong giai đoạn hiện nay.
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, đạo đức của người cán bộ cách mạng là
đạo đức hành động chứ không phải là điều mong muốn, là lời nói suông. Do đó, đức
phải gắn liền với tài. Nếu có đức mà không có tài thì cũng vô dụng. Song có tài mà
không có đức thì lại nguy hiểm, vì nó có thể làm điều xấu và gây ra cái ác một cách
có tính toán. Đức là nhân tố làm cho tài năng trở lên hữu ích đối với con người và
xã hội. Theo Hồ Chí Minh không thể tách rời cũng không thể tuyệt đối hoá mặt này

mà phủ nhận hay xem nhẹ mặt kia và ngược lại giữa hai mặt đức và tài.
1.3 Phương pháp lãnh đạo và phong cách công tác của người cán bộ
cách mạng
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta và Chủ tịch Hồ
Chí Minh thường xuyên quan tâm đến việc xây dựng và sửa đổi cách lãnh đạo, cũng
như lối làm việc của tổ chức Đảng và của cán bộ, đảng viên.
Phương pháp lãnh đạo và phong cách công tác hay nói theo cách mà Hồ Chí
Minh thường dùng chính là cách lãnh đạo và tác phong làm việc. Những khái niệm
cách lãnh đạo, lề lối làm việc từ khi bước vào đổi mới, dần dần được thay bằng
khái niệm phương thức lãnh đạo và phong cách công tác, nhưng về nội dung, bản
chất quan niệm của Hồ Chí Minh không có gì thay đổi. Chính vì thế, tại Đại hội VI
của Đảng, đã xác định bốn mặt cần đổi mới: tư duy, tổ chức, cán bộ, phong cách
lãnh đạo và phong cách công tác. Phải đổi mới đồng bộ cả bốn mặt này, trong đó
phong cách lãnh đạo và phong cách công tác là một mặt có ý nghĩa quan trọng, trực
tiếp liên quan đến việc đưa đường lối đổi mới vào cuộc sống.
Đến Đại hội VII của Đảng, khái niệm phong cách lãnh đạo và công tác được
thay bằng khái niệm phương thức lãnh đạo và phong cách công tác. Tại sao như
vậy? Chính là để phân biệt rõ phương thức lãnh đạo là thuộc về các cấp uỷ Đảng
(từ Ban chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đến các cấp uỷ đảng ở các



ngành, các địa phương và cơ sở), còn phong cách công tác là thuộc về từng cán bộ,
đảng viên. Như vậy có thể đi đến thống nhất về khái niệm: dù cách gọi có thể khác
nhau, nhưng nội hàm của khái niệm phương pháp lãnh đạo hay phương thức lãnh
đạo chỉ là một.
Có thể hiểu phương thức lãnh đạo của Đảng là những cách thức, hình thức,
biện pháp gắn liền với những quan điểm và nguyên tắc xác định, được các tổ chức
Đảng, các cấp uỷ Đảng lựa chọn và sử dụng để tác động vào những đối tượng mà
Đảng lãnh đạo, với tính chất chỉ đường, hướng dẫn cho những đối tượng đó thực

hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng. Phong cách công tác (vẫn thường
gọi là tác phong) là lề lối làm việc, cung cách, cách thức, phong thái của một cán
bộ, đảng viên, thể hiện trong hoạt động thực tiễn thực hiện nhiệm vụ được giao.
Như vậy, phương pháp lãnh đạo (hay phương thức lãnh đạo) và phong cách
công tác là những bộ phận của phương pháp cách mạng. Từ lâu Đảng ta đã tổng kết:
Muốn lãnh đạo cách mạng giành thắng lợi, Đảng không phải chỉ đề ra được đường
lối cách mạng đúng đắn, mà còn phải tìm ra được phương pháp cách mạng thích
hợp. Trong phương pháp cách mạng thì phương thức lãnh đạo là nội dung chủ yếu
nhất. Thực tế đã chứng minh cùng một đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn
của Đảng, nhưng có nơi làm tốt, có nơi làm không tốt, điều này phụ thuộc chủ yếu
vào phương thức lãnh đạo đúng hay sai, thích hợp hay không thích hợp của các cấp
uỷ đảng.
Phương thức lãnh đạo không phải “nhất thành bất biến”, mà phải thay đổi
cùng với sự thay đổi của nhiệm vụ cách mạng, của đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, của đối tượng mà
Đảng lãnh đạo. Trong việc đổi mới phương thức lãnh đạo, những kinh nghiệm tốt,
những bài học hay của thời kỳ trước phải được kế thừa, phát triển trong thời kỳ sau;
những gì sai phải loại bỏ, những gì không còn phù hợp phải vượt qua. Từ đó có thể
thấy, phương thức lãnh đạo là một trong những lĩnh vực đòi hỏi chủ thể lãnh đạo
phải năng động và có nhiều sáng tạo nhất.



Là một lãnh tụ của Đảng, hơn ai hết, Hồ Chí Minh sớm thấy rõ ý nghĩa và
tầm quan trọng của việc chấn chỉnh, xây dựng phương thức lãnh đạo của các cấp uỷ
Đảng và lề lối làm việc của cán bộ, đảng viên. Do đó, ngay trong thời kỳ kháng
chiến chống Pháp đang gay go ác liệt, năm 1947, Người đã viết tác phẩm Sửa đổi
lối làm việc. Bởi vì Người hiểu rằng, để đưa cách mạng đến thắng lợi, trước hết
Đảng phải hoạch định đường lối đúng. Nghị quyết của Đảng là nhân tố có ý nghĩa
quyết định hàng đầu. Nhưng điều có ý nghĩa nhất là phải làm cho nghị quyết, đường

lối, chính sách của Đảng thấm sâu vào tâm lý quốc dân, đi vào cuộc sống, biến nghị
quyết của Đảng thành hành động của quần chúng, tạo ra các đột phá trong các lĩnh
vực cách mạng. Muốn cho công việc thành công phải có cán bộ tốt, có năng lực và
điều quan trọng là phải có phương pháp lãnh đạo đúng, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ
rõ những chức năng cơ bản của hoạt động lãnh đạo là xác định đường lối, tổ chức
lựa chọn và bố trí cán bộ; vận động, tuyên truyền, tổ chức cho quần chúng thực hiện
và kiểm soát việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng… Để làm tốt những
chức năng trên, người chỉ ra phương pháp lãnh đạo đúng phải tuân thủ ba khâu lớn:
Lãnh đạo đúng nghĩa là:
1. Phải quyết định mọi vấn đề một cách cho đúng. Mà muốn thế
thì nhất định phải so sánh kinh nghiệm của dân chúng vì dân chúng
chính là những người chịu đựng cái kết quả của sự lãnh đạo của ta.
2. Phải tổ chức thi hành cho đúng. Mà muốn vậy, không có dân
chúng giúp sức thì không xong.
3. Phải tổ chức kiểm soát, mà muốn kiểm soát đúng thì cũng phải
có quần chúng giúp mới được [45, tr.285 - 286].
Trước hết phải quyết định mọi vấn đề cho đúng mà muốn quyết định mọi vấn
đề cho đúng thì “bất cứ việc to, việc nhỏ, chúng ta phải xét rõ và làm cho hợp trình
độ văn hoá, thói quen sinh hoạt, trình độ giác ngộ, kinh nghiệm đấu tranh, lòng ham
muốn, tình hình thiết thực của quần chúng. Do đó mà tính cách làm việc, cách tổ
chức… Nếu không vậy, nếu cứ làm theo ý muốn, theo tư tưởng, theo chủ quan của mình
rồi đem cột vào cho quần chúng thì khác nào “khoét chân cho vừa giầy”… “ai cũng đóng



giầy theo chân, không ai đóng chân theo giầy”. Điều đó đòi hỏi muốn có nghị quyết
đúng, người lãnh đạo phải sâu sát, lắng nghe ý kiến của cơ sở, của quần chúng, chú trọng
nghiên cứu những sáng tạo của địa phương, đơn vị… hết sức tránh việc tuỳ tiện, phiến
diện, chủ quan trong việc định ra những chủ trương lãnh đạo: “vì vậy muốn giải quyết
vấn đề cho đúng, ắt phải họp kinh nghiệm cả hai bên lại” [45, tr.286].

Sau khi có nghị quyết, thì việc tổ chức thi hành cho đúng là khâu có ý nghĩa
quyết định. Việc đó lại phụ thuộc ở việc lựa chọn, bố trí cán bộ phù hợp với yêu
cầu, nội dung, tính chất của nhiệm vụ, của công việc.
Trong việc bố trí, giao nhiệm vụ cho cán bộ, Hồ Chí Minh căn dặn khi giao
công tác cho cán bộ, cần phải chỉ rõ ràng, sắp đặt đầy đủ, vạch rõ những điểm chính
và những khó khăn có thể xảy ra, những vấn đề quyết định rồi thả cho họ làm,
khuyên họ cứ cả gan mà làm. Việc gì cấp trên cũng nhúng vào, cán bộ sẽ như một
cái máy, việc gì cũng chờ mệnh lệnh, sinh ra ỷ lại, mất hết sáng kiến. Và Người
cũng dạy rằng, trước khi giao công tác cũng phải bàn kỹ với cán bộ. Nếu họ gánh
vác không nổi, chớ miễn cưỡng trao việc đó cho họ, khi đã trao cho họ phải hoàn
toàn tin họ. Không nên sớm ra lệnh này, trưa ra lệnh khác. Nếu không tin cán bộ, sợ
họ làm không được, rồi việc gì mình cũng nhúng vào, kết quả thành chứng bao
biện, công việc vẫn không xong, cán bộ thì vơ vẩn cả ngày, buồn rầu, nản chí. Ví
vậy, Bác chỉ rõ: “Phải đào tạo một mớ cán bộ phụ trách, có gan làm việc, ham làm
việc. Có thế Đảng mới thành công. Nếu đào tạo một mớ cán bộ nhát gan, dễ bảo
“đập đi, hò đứng”, không dám phụ trách. Như thế là một việc thất bại cho Đảng”
[45, tr. 281].
Người kịch liệt phê phán tệ quan liêu, mệnh lệnh, xa rời quần chúng, người
cho rằng những người mắc bệnh này thích ngồi bàn giấy hơn là đi xuống cơ sở để
hiểu đúng thực tế. Thích dùng mệnh lệnh hành chính hơn là kiên nhẫn giáo dục
quần chúng một cách có lý, có tình. Do đó mà đường lối, chính sách đúng đắn của
Đảng không thấu đến quần chúng, thi hành lệch lạc, hỏng công việc, lại mất lòng
người. Người lên án hiện tượng lạm dụng chức quyền, đem bà con, bạn hữu đặt vào
chức nọ, chức kia. Người coi chủ nghĩa cá nhân là thứ “giặc nội xâm trong lòng. Do



chủ nghĩa cá nhân mà đẻ ra những tư tưởng sai lệch khác: công thần, kiêu ngạo, kèn
cựa, địa vị, tham ô, lãng phí, quan liêu… Cho nên chủ nghĩa cá nhân là “kẻ thù
nguy hiểm, nó không mang gươm, mang súng, nó nằm ngay trong tổ chức để làm

hỏng việc của chúng ta”. Người yêu cầu phải chống giặc này như giặc ngoại xâm vì
chủ nghĩa cá nhân, tham ô, lãng phí làm tha hoá mất bao nhiêu cán bộ, đảng viên.
Nhiều đồng chí vào sinh, ra tử trong chiến tranh vẫn vững vàng vượt qua thì ngày
nay trong hoà bình đã bị kẻ thù này đánh gục. Đây là một vấn đề có ý nghĩa sâu sắc
trong cuộc đấu tranh chống mọi biểu hiện tiêu cực trong đội ngũ cán bộ, đảng viên,
xây dựng đội ngũ cán bộ trong sạch, thực hiện thắng lợi đường lối, nghị quyết của
Đảng trong thời kỳ mới.
Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, phương pháp lãnh đạo là phải gắn với công tác
kiểm tra. Điều này Đảng ta cũng xác định rõ: Lãnh đạo mà không kiểm tra coi như
không có lãnh đạo. Muốn kiểm tra có hiệu quả phải coi trọng hai vấn đề: “Một là,
việc kiểm soát phải có hệ thống, phải thường làm. Hai là, người đi kiểm soát phải là
những người rất có uy tín” [45, tr.287]. Công tác kiểm tra phải tiến hành ở mọi cấp,
từ trung ương đến cơ sở, phải có một hệ thống cơ quan chuyên trách, việc kiểm tra
phải tiến hành thường xuyên và người được chọn làm cán bộ kiểm tra phải có phẩm
chất, năng lực tốt và có uy tín. Đồng thời phải “khéo” kiểm tra theo hai cách:
Một là từ trên xuống: “tức là người lãnh đạo kiểm soát kết quả
những công việc của cán bộ mình.
Một cách nữa là từ dưới lên. Tức là quần chúng là cán bộ kiểm soát sự sai
lầm của người lãnh đạo và bày tỏ cái cách sữa chữa sự sai lầm đó. Cách này là
cách tốt nhất để kiểm soát các nhân viên” [45, tr.288].
Tổng kết kinh nghiệm, tổng kết thực tiễn cũng là vấn đề cực kỳ quan trọng
của phương pháp lãnh đạo để bổ sung, hoàn chỉnh và phát triển đường lối, nghị
quyết đã đề ra. Muốn tổng kết thực tiễn có kết quả tốt, yêu cầu người lãnh đạo phải
liên hệ mật thiết với quần chúng, với thực tiễn, không mắc bệnh quan liêu, bàn giấy
và với thái độ khiêm tốn, cầu thị, học hỏi nhân dân, học hỏi quần chúng. Tổng kết
thực tiễn có hai cấp độ: Thứ nhất là để rút kinh nghiệm và phổ biến kinh nghiệm



hay cho mọi nơi cùng làm, thứ hai là tổng kết thực tiễn để bổ sung, hoàn chỉnh

đường lối, chính sách. Người chỉ rõ:
Gom góp ý kiến và kinh nghiệm trong sự chỉ đạo từng bộ phận,
đem làm ý kiến chung. Rồi lại đem ý kiến chung đó để thí nghiệm trong
các bộ phận. Rồi lại đem kinh nghiệm chung và mới, đúc thành chỉ thị
mới. Cứ như thế mãi. Biết làm như vậy mới thật là biết lãnh đạo [45,
tr.291].
Phương pháp lãnh đạo đúng là liên hợp lãnh đạo với quần chúng. Theo Hồ
Chí Minh, người lãnh đạo phải tìm cho được trong đội ngũ cán bộ một số người
hăng hái, trung kiên cho sự lãnh đạo. Nhóm trung kiên này phải có mối liên hệ mật
thiết với quần chúng, công việc mới thành. Người lãnh đạo phải dùng những người
hăng hái trong quần chúng làm trung kiên cho sự lãnh đạo bởi vì: “Bất kỳ nơi nào
có quần chúng, thì nhất định có ba hạng người: hạng hăng hái, hạng vừa vừa và
hạng kém. Mà trong ba hạng đó, hạng vừa vừa, hạng ở giữa nhiều hơn hết, hạng
hăng hái và hạng kém đều ít hơn”[45, tr.289].
Từ đó dùng nhóm hăng hái trong quần chúng làm trung kiên mà nâng cao
hạng vừa và hạng kém lên.
Lõi cốt của vấn đề trong lãnh đạo: “ắt phải từ trong quần chúng mà ra, trở lại
nơi quần chúng” [45, tr.290]. Nghĩa là, gom góp các ý kiến lẻ tẻ của quần chúng rồi
phân tích, tìm hiểu, sắp đặt những ý kiến đó thành hệ thống. Rồi đem nó tuyên
truyền giải thích cho quần chúng và làm cho nó trở thành ý kiến của quần chúng, làm
cho quần chúng hiểu và thực hành ý kiến đó, trong lúc quần chúng thực hành ý kiến, ta
xem xét lại coi ý kiến đó có đúng hay không. Rồi lại tập trung ý kiến của quần chúng,
phát triển những ưu điểm, sửa chữa những khuyết điểm, tuyên truyền, giải thích, làm
cho quần chúng giữ vững và thực hành. Theo Hồ Chí Minh, đó là cách lãnh đạo cực kỳ
tốt. Cách lãnh đạo đúng còn là học hỏi quần chúng nhưng không được theo đuôi quần
chúng.

×