LUẬN VĂN:
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp ở huyện Hoà Vang thành phố Đà Nẵng
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thực hiện Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 5 khóa VII về tiếp
tục đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội trên cơ sở chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp, nông thôn toàn diện là vấn đề rất quan trọng ở huyện Hoà Vang, thành phố Đà
Nẵng. Thời gian qua nông nghiệp, nông thôn phát triển khá nhanh, với những thành tựu
trong các lĩnh vực như chọn tạo giống, kỹ thuật canh tác, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, con
vật nuôi, đã tạo ra khối lượng sản phẩm, hàng hoá đáng kể góp phần thúc đẩy tăng trưởng
nền kinh tế của huyện.
Tuy nhiên, nông nghiệp huyện Hoà Vang phát triển vẫn còn manh mún, quy mô sản
xuất nhỏ, phương thức và công cụ sản xuất lạc hậu, kỹ thuật áp dụng không đồng đều dẫn
đến năng suất thấp, giá thành cao, chất lượng sản phẩm không ổn định. Hơn nữa, sản phẩm
lại chưa được chế biến dẫn đến khả năng cạnh tranh kém.
Để thúc đẩy nông nghiệp huyện Hoà Vang phát triển nhanh cần đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp trên địa bàn huyện là hết sức cần thiết. Vì vậy đề tài
“Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp ở huyện Hoà Vang - thành phố Đà Nẵng”
được tác giả lựa chọn làm đề tài nghiên cứu luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Nghiên cứu về nông nghiệp, nông thôn cũng đã có nhiều tác giả quan tâm, chẳng
hạn như:
- PGS, TS Nguyễn Sinh Cúc (1991), Thực trạng nông nghiệp, nông thôn và nông
dân Việt Nam, Nxb Thống kê, Hà Nội.
- GS,TS Đào Thế Tuấn (1986), Chiến lược phát triển nông nghiệp, Nxb Nông
nghiệp.
- PGS,TS Nguyễn Điền, Trần Đức, Trần Huy Năng (1993), Kinh tế trang trại gia
đình trên thế giới và châu á, Nxb Thống kê, Hà Nội.
- PGS,TS Chu Hữu Quý (1996), Phát triển toàn diện kinh tế - xã hội nông thôn,
nông nghiệp Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- PGS,TS Lê Đình Thắng, TS Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Tiệm (1994), Dịch vụ
nông nghiệp đồng bằng sông Hồng, Nxb nông nghiệp, Hà Nội.
- R.Barker, C.P.Timmer (1991), ảnh hưởng của chính sách nông nghiệp: kinh
nghiệm các nước châu á và Đông Âu - những gợi ý đối với Việt Nam, Uỷ ban kế hoạch nhà
nước, Hà Nội.
- G.A, Kuznetxov (1975), Địa lý quy hoạch các vùng sản xuất nông nghiệp, Nxb
Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội.
Ngoài ra còn có một số học viên làm luận văn tốt nghiệp về đề tài nông nghiệp,
nông thôn dưới các góc độ khác nhau, nhưng chưa có luận văn nào viết về vấn đề: “Công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp ở huyện Hoà Vang - thành phố Đà Nẵng“
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Mục đích: Góp phần hệ thống hoá những cơ sở lý luận và thực tiễn về công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, trên cơ sở đó vận dụng vào nghiên cứu vấn đề công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nông nghiệp ở huyện Hoà Vang, thành phố Đà Nẵng, góp phần thực hiện
nghị quyết Đại hội Đảng bộ Huyện lần thứ XIV về đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá nông nghiệp, nông thôn huyện Hoà Vang theo hướng phát triển nông nghiệp, gắn với
nâng cao hàm lượng khoa học - công nghệ trong giá trị, chất lượng sản phẩm hàng hoá, với
đời sống nông dân của huyện..
Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn: Dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng và Nhà nước, quan điểm của
Đảng Bộ huyện Hoà Vang về công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp để phân tích,
đánh giá thực trạng công nghiệp hoá nông nghiệp huyện Hoà Vang ở thành phố Đà Nẵng.
Từ đó đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp ở huyện Hoà Vang, thành phố Đà Nẵng.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu vấn đề công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp
huyện Hoà Vang ở thành phố Đà Nẵng, trong khoảng thời gian từ 2001 đến 2006.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng nhiều phương pháp để nghiên cứu, như: phương pháp duy vật
biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, kết hợp với phương pháp hệ thống,
điều tra, thống kê, phân tích, so sánh…,
6. Đóng góp của luận văn
- Hệ thống hoá cơ sở lý luận và thực tiễn về công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp.
- Phân tích và đánh giá thực trạng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp huyện
Hoà Vang ở thành phố Đà Nằng.
- Đề xuất các phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá nông nghiệp ở huyện Hoà Vang - thành phố Đà Nẵng trong giai đoạn tới.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu về đẩy nhanh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp ở các tỉnh có địa bàn tương đồng như huyện Hoà
Vang - thành phố Đà Nẵng và làm tư liệu giảng dạy và nghiên cứu môn kinh tế chính trị.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu
thành 3 chương, 6 tiết.
Chương 1
CƠ Sở lý luận Về công nghiệp hoá, hiện đại hoá
nông nghiệp
1.1. Quan niệm về công nghiệp hoá, hiện đại hoá nói chung và công nghiệp hoá,
hiện đại hoá nông nghiệp nói riêng
1.1.1. Quan niệm về công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Từ khi phương thức sản xuất TBCN chiến thắng phương thức sản xuất phong
kiến vào giữa thế kỷ XVIII nhờ cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất đến nay,
trên thế giới đã diễn ra hai loại công nghiệp hóa: TBCN và XHCN. Các loại công
nghiệp hóa này, xét về mặt phát triển lực lượng sản xuất, (khoa học kỹ thuật và công
nghệ) là giống nhau. Song, chúng có sự khác nhau về mục đích, phương thức tiến
hành, định hướng và hoàn thiện các mặt của quan hệ sản xuất đang thống trị. Ngoài ra,
công nghiệp hoá diễn ra ở các nước khác nhau, vào những thời điểm lịch sử khác
nhau, trong những điều kiện kinh tế - xã hội khác nhau cũng có nội dung đặc thù riêng
biệt.
Tuy nhiên, theo nghĩa chung, khái quát nhất, công nghiệp hoá là quá trình biến một
nước có nền kinh tế lạc hậu thành nước công nghiệp hiện đại với trình độ công nghệ, kỹ
thuật tiên tiến, có năng suất lao động cao trong các ngành kinh tế quốc dân. Hiện đại hoá là
quá trình tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ công nghệ ngày càng tiên tiến, hiện đại.
Trong điều kiện bùng nổ của cách mạng khoa học - công nghệ và sự phát triển nhanh
chóng của quá trình toàn cầu hóa, Đảng ta đã đưa ra khái niệm:
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện
các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội từ sử
dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động
cùng với công nghệ, phương tiện, phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự
phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo ra năng suất lao
động xã hội cao [13, tr. 65].
Như vậy, vấn đề có ý nghĩa quyết định của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là sự
thay đổi kỹ thuật thủ công bằng kỹ thuật máy móc trên qui mô toàn bộ nền kinh tế, là
chuyển nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu thành nền kinh tế công nghiệp hiện đại; đồng
thời biết tranh thủ ứng dụng những thành tựu của của cách mạng khoa học - công nghệ
để đẩy mạnh phân công lại lao động, nâng cao năng suất lao động của xã hội. Thực chất
của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là sự phát triển công nghệ, là quá trình chuyển từ nền
kinh tế có trình độ sản xuất lạc hậu lên nền kinh tế có trình độ sản xuất tiên tiến hiện
đại.
Với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ và xu thế toàn cầu hoá kinh tế,
hiện nay trên thế giới một số nước đã và đang phát triển nền kinh tế tri thức, thì quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam còn phải gắn với phát triển kinh trí thức
để rút ngắn quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Vì vậy, Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần X của Đảng đã xác định Việt Nam cần: "Tranh thủ các cơ hội thuận lợi do
bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng lợi thế của nước ta để rút ngắn quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với phát triển
kinh tế trí thức, coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và công nghiệp
hoá, hiện đại hoá" [17, tr.87].
Như vậy, tuỳ theo từng giai đoạn lịch sử mà sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá ở từng nước có những con đường khác nhau cho phù hợp. Song cũng phảỉ thấy rằng
hiện nay khoa học - công nghệ đang phát triển như vũ bão, các nước đi sau cần phải có
nhiều giải pháp để giải quyết vấn đề công nghiệp hoá, hiện đại hoá cho nước mình một
cách phù hợp, có thể có những công nghệ tiên tiến nhất mới được phát minh, nhưng
cũng có thể có những công nghệ đã được các nước tiên tiến đã sử dụng nhưng đối với
những nước đi sau thì sử dụng có hiệu quả kinh tế cao hơn và có điều kiện chuyển giao.
1.1.2. Vai trò của nông nghiệp đối với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Nông nghiệp có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đât nước, cũng như nâng cao đời sống của nhân dân. Vai trò của nông
nghiệp thể hiện ở chỗ:
Một là, nông nghiệp là ngành cung cấp lương thực, thực phẩm nhu cầu cơ bản cho
con người. Xã hội càng phát triển nhu cầu của con người càng tăng lên và phát triển đa
dạng, như C. Mác đã khẳng định: con người trước hết ăn rồi sau đó mới nói đến hoạt
động khác, mà nông nghiệp là ngành cung cấp tư liệu sinh hoạt cho con người, như vậy
vai trò của nông nghiệp đặc biệt quan trọng trong việc nâng cao mức sống cho dân cư,
đảm bảo ổn định chính trị - xã hội của một quốc gia, dân tộc hay một địa phương. Ông
cha ta thường nói: phi nông bất ổn.
Hai là, nông nghiệp cũng là thị trường lớn để tiêu thụ sản phẩm hàng hoá không
những của nông nghiệp mà cho cả ngành công nghiệp và dịch vụ.
Đối với các nước đang phát triển như chúng ta thì nông nghiệp chiếm tỷ lệ cao
trong cơ cấu tổng sản phẩm quốc nội và cư dân, đời sống dân cư nông thôn được nâng
cao, cơ cấu kinh tế nông thôn phát triển càng đa dạng và tốc độ tăng trưởng cao thị
nông nghiệp, nông thôn sẽ trở thành thị trường tiêu thụ rộng lớn và ổn định của nền
kinh tế quốc dân. Đương thời Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã nhận định rằng “nông thôn
giàu có sẽ mua nhiều hàng hoá của công nghiệp sản xuất ra. Đồng thời, sẽ cung cáp đủ
lương thực, nguyên liệu cho công nghiệp và thành thị. Như thế là nông thôn giàu có sẽ
giúp cho công nghiệp phát triển. Công nghiệp phát triển lại thúc đẩy nông nghiệp phát
triển mạnh hơn nữa” [22, tr.91] và Người cho rằng nông nghiệp là nền tảng của nền
kinh tế.
Như vậy, cho dù trong quá khứ, hiện tại hay tương lai sản phẩm nông nghiệp vẫn
đóng vai trò cực kỳ quan trọng đối với sự tồn tại của xã hội loài người. Sự tiến bộ của
khoa học - công nghệ chỉ làm thay đổi hình thức sản xuất nông nghiệp để đưa năng suất
lao động nâng cao, chất lượng sản phẩm tốt hơn để đáp ứng nhu cầu của xã hội ngày
càng cao và tốt hơn.
Ba là, nông nghiệp có vai trò quan trong trong phát triển các ngành kinh tế của đất
nước, trước hết là ngành công nghiệp.
Nông nghiệp cũng là ngành cung cấp nguyên liệu cho ngành công nghiệp, tiểu thủ
công nghiệp tạo thêm việc làm cho xã hội, trong công nghiệp chủ yếu công nghiệp chế
biến và sản xuất hàng tiêu dùng, qua đó có thể tạo ra số việc làm sau nông nghiệp nhiều
hơn hoặc tương đương với số việc làm của chính khâu sản xuất ra nó; hơn nữa thông
qua công nghiệp chế biến nâng cao giá trị sản phẩm nông nghiệp và đa dạng hơn về sản
phẩm, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường trong và ngoài nước. Điều này đòi
hỏi phải có giải pháp tốt hơn về mối quan hệ giữa phát triẻn ngành nông nghiệp và
ngành công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp chế biến cả về qui trình kỷ thuật, qui mô
sản xuất và quan hệ lợi ích. J.Stalin đã khẳng định: không thể phát triển được công
nghiệp nếu trong nước không có nguyên liệu, không có lương thực cung cấp cho công
nhân, nếu không có một nền nông nghiệp phát triển ít nhiều đến mức có thể làm thị
trường chủ yếu cho công nghiệp và Ông chỉ rõ muốn phát triển công nghiệp phải có ba
điều kiện: một là, phải có thị trường trong nước mà thị trường trong nước lại chủ yếu là
nông dân; hai là, nông nghiệp phải đảm bảo nguồn nguyên liệu tương đối phát đạt, ba là
phải làm cho nông dân có thể dự trữ một số lượng cần thiết về nông sản để cung cấp
cho công nghiệp, cung cấp cho công nhân. J.Stalin đã nhắc lại lời Lênin nói: muốn xây
dựng công nghiệp thì cần phải bắt đầu từ nông nghiệp [21, tr.171]
Bốn là, nông nghiệp là ngành cung cấp một khối lượng hàng hoá lớn cho xuất khẩu
dưới dạng thô hoặc qua chế biến. Đối với các nước đang phát triển nông sản xuất khẩu
là chủ yếu để tạo ra tích luỹ cho tái sản xuất và phát triển nền kinh tế và xã hội.
Năm là, nông nghiệp là khu vực cung cấp lao động phục vụ cho công nghiệp và
các lĩnh vực hoạt động xã hội khác; đây là xu hướng có tính qui luật trong phân công lại
lao động xã hội từ nông nghiệp sang các lĩnh vực khác phụ thuộc vào nhiều nhân tố:
trước hết năng suất lao động nông nghiệp không ngừng tăng lên, công nghiệp và dịch
vụ trong thành thị ngày càng mở mang, chất lượng lao động ở nông thôn phải được
nâng cao;
Sáu là, nông nghiệp có một vai trò đặc biệt quan trọng nữa là bảo vệ tài nguyên
thiên nhiên và môi trường sinh thái. Quá trình phát triển nông nghiệp gắn liền với sử
dụng đất đai, nguồn nước và các loại hoá chất,..; đồng thời việc trồng và bảo vệ
rừng, luân canh cây trồng, phủu xanh đất trống đồi núi trọc, đều có ảnh hưởng đến
môi trường. Phải thấy rằng, việc bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên, môi trường
sinh thái còn là điều kiện để quá trình tái sản xuất nông nghiệp diến ra bình thường
và
có
hiệu quả.
Có thể nói, nông nghiệp có vai trò rất quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế,
xã hội, chính trị của mỗi quốc gia. Trên thực tế, chúng ta thấy nhiều nước trên thế giới
và khu vực Châu á gần Việt Nam đã có những bài học kinh nghiệm trong việc xác định
vai trò nông nghiệp qua các giai đoạn phát triển. Có thể tóm tắt thành công của nhiều
nước đang phát triển là: Thời kỳ đầu coi trọng phát triển khu vực nông nghiệp, tăng đầu
tư giải phóng năng lực sản xuất cho nông dân. Sau vai ba thập kỷ, khi chuyển sang giai
đoạn công nghiệp hoá, mặc dù tỷ trọng giá trị sản phẩm khu vực nông nghiệp trong cơ
cấu kinh tế giảm xuống, nhưng phục vụ phát triển nông nghiệp vẫn là định hướng quan
trọng nhằm phát triển công nghiệp và dịch vụ như Thái Lan, Trung Quốc, Inđônêxia,..
Trong tương lai, tỷ trọng nông nghiệp trong nền kinh tế sẽ ngày càng thu nhỏ, nhưng nó
vẫn là lực lượng chủ yếu quyết định sự ổn định của nền kinh tế - xã hội và là yếu tố
quan trọng để đảm bảo môi sinh, cân bằng sinh thái.
Hiện nay, nước ta đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá,
nhưng vấn đề nông nghiệp, nông thôn, nông dân vẫn có tầm chiến lược quan trọng. Vì
vậy, đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X Đảng ta đã nhận định - Việt nam bước
vào giai đoạn mới - giai đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức một trong những nội dung cần phải triển khai để thực hiện quá trình này là đẩy mạnh
CNH,HĐH nông nghiệp và nông thôn, giải quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông
thôn và nông dân [17, tr. 88].
1.1.3. Quan niệm về công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là quá trình tạo lập cơ sở
vật chất kỹ thuật và cơ cấu kinh tế hợp lý để phát triển sản xuất nông nghiệp, chuyển
dịch cơ cấu kinh tế - xã hội nông thôn theo hướng gắn nông nghiệp với công nghiệp,
dịch vụ nhờ đó cho phép phát huy có hiệu quả mọi lợi thế của nền nông nghiệp nhiệt
đới trong mở rộng giao lưu hội nhập quốc tế. Quá trình này bao gồm các nội dung sau:
- Đẩy mạnh xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật dựa trên những thành tựu của
cách mạng khoa học công nghệ, nhất là công nghệ sinh học, công nghệ chế biến và bảo
quản nông phẩm hàng hóa nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn
theo hướng tạo ra khối lượng nông phẩm hàng hóa lớn và có giá trị xuất khẩu cao.
- Đẩy mạnh xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - kỹ thuật và kinh tế - xã hội cho
việc phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá (điện,
đường, trường, trạm... và các dịch vụ "đầu vào", "đầu ra" của sản xuất nông phẩm hàng
hóa).
- Thực hiện phân công mới lao động xã hội trong nông nghiệp, nông thôn trên
cơ sở phát triển các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, các làng nghề truyền thống và
dịch vụ theo phương châm "tiểu công nghiệp hiện đại, thủ công nghiệp tinh xảo", từng
bước xác lập cơ cấu kinh tế nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ ngay trên địa bàn.
Thực hiện chiến lược "li nông bất li hương" nhằm giải quyết việc làm cho nông dân.
- Thúc đẩy phát triển nền nông nghiệp sinh thái trong khu vực nông nghiệp và
tạo nên bộ mặt nông thôn mới theo diện mạo của công nghiệp và đô thị [19, tr. 100-102]
Nghị quyết Ban chấp hành trung ương 7, khóa VII đã chỉ rõ:
…Trong những năm trước mắt, khả năng vốn còn có hạn, nhu cầu công
ăn việc làm rất bức bách, đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn, tình hình
kinh tế - xã hội chưa thật ổn định vững chắc. Vì vậy, cần tập trung, nỗ lực đẩy
mạnh công nghiệp hóa nông nghiệp và nông thôn, ra sức phát triển các ngành
công nghiệp chế biến nông - lâm - thủy sản, công nghiệp hàng tiêu dùng và
hàng xuất khẩu, các ngành du lịch, dịch vụ... cả ở thành thị và nông thôn [13,
tr.7].
Sở dĩ CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là cấp thiết và là nội dung trọng yếu
của CNH, HĐH nền kinh tế trong những năm trước mắt là vì:
Thứ nhất, nước ta có khoảng 80% dân số sống ở nông thôn và làm nông nghiệp,
do đó muốn ổn định tình hình kinh tế, chính trị xã hội của đất nước để tiến hành công
nghiệp hoá, hiện đại hoá thì trước hết phải ổn định tình hình kinh tế chính trị xã hội ở
nông thôn. Vấn đề nông dân, nông nghiệp, nông thôn là vấn đề có vị trí chiến lược trong
sự nghiệp đổi mới đất nước theo định hướng XHCN;
Thứ hai, nông nghiệp, nông thôn, nông dân có vai trò và tác dụng tích cực trong
việc đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước;
Thứ ba, kinh nghiệm thế giới và thực tiễn nước ta cho thấy đẩy mạnh phát triển
nông nghiệp, nông thôn... là giải pháp cơ bản để chuyển nền kinh tế nông nghiệp lạc
hậu thành nền kinh tế công - nông nghiệp - dịch vụ tiên tiến hiện đại.
Thứ tư, là do thực trạng kinh tế nông nghiệp, nông thôn nước ta còn nhiều mặt
yếu kém gây trở ngại cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế trong suốt thời kỳ
quá độ, do đó công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn là nội dung trọng
yếu hiện nay.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp, nông thôn Đảng ta đã nhấn mạnh vấn đề đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001 - 2010. Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban
chấp hành trung ương khoá IX đã đưa ra quan niệm về công nghiệp hoá, hiện đại hoá
nông nghiệp như sau:
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp là quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá lớn, gắn với công nghiệp chế biến và
thị trường, thực hiện cơ khí hoá, điện khí hoá, thuỷ lợi hoá, ứng dụng các thành tựu
khoa học, công nghệ, trước hết là công nghệ sinh học, đưa thiết bị, kỹ thuật và công
nghệ hiện đại vào các khâu sản xuất nông nghiệp nhằm nâng cao năng suất, chất lượng
hiệu quả, sức cạnh tranh của nông sản hàng hoá trên thị trường [16, tr.93].
1.2. Các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các
quan điểm của Đảng ta về công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp
1.2.1. Các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về
công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp
Trong suốt quá trình lãnh đạo sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước theo con
đường XHCN, lý luận Mác - Lê nin về công nghiệp hoá được Đảng ta vận dụng sáng
tạo và luôn khẳng định công nghiệp hoá là nhiệm vụ trọng tâm của thời kỳ quá độ.
Cùng với sự nghiệp đổi mới của đất nước, quan điểm về công nghiệp hoá cũng ngày
càng đổi mới và hoàn thiện, phù hợp với qui luật khách quan, điều kiện cụ thể của nước
ta và bối cảnh chung của thế giới.
Công nghiệp hoá là quá trình phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp, đã diễn
ra từ lâu trong lịch sữ xã hội cùng với cuộc cách mạng công nghiệp trong nền sản xuất
tư bản chủ nghĩa. Trong quá trình nghỉên cứu của mình, mặc dù Mác và Ăng-ghen
không viết một chuyên luận nào về công nghiệp hoá, nhưng trong các công trình nghiên
cứu của mình các Ông cũng đã đề cập đến cách mạng công nghiệp trong nền sản xuất tư
bản như: trong đại công nghiệp, điểm xuất phát của cuộc cách mạng trong phương thức
sản xuất là tư liệu lao động, trước hết là máy công cụ. Máy móc thúc đẩy phân công lao
động xã hội, giảm lao động cơ bắp và làm cho việc nâng cao trình độ học vấn trở thành
bắt buộc đối với người lao động. Mác dự đoán: theo đà phát triển của đại công nghiệp,
việc tạo ra của cải thật sự trở nên ít phụ thuộc vào thời gian lao động và số lượng lao
động đã chi phí mà chúng phụ thuộc vào trình độ chung của khoa học và của tiến bộ kỹ
thuật, hay là phụ thuộc vào việc ứng dụng khoa học ấy vào sản xuất.
Việc cách mạng trong phương thức sản xuất ở lĩnh vực công nghiệp gây ra cuộc
cách mạng trong các lĩnh vực khác làm biến đổi cơ cấu ngành kinh tế và cơ cấu lao
động. Cách mạng công nghiệp khi Mác - Ăng-ghen nghiên cứu đã diễn ra bắt đầu từ
công nghiệp nhẹ, rồi lan sang nông nghiệp, giao thông vận tải… và cuối cùng xâm nhập
vào công nghiệp nặng. Sự biến đổi cơ cấu ngành diễn ra không ngừng kéo theo sự biến
đổi cơ cấu lao động xã hội, đòi hỏi phải chuyển đổi lao động từ nông nghiệp sang công
nghiệp và các ngành dịch vụ, làm cho lao động nông nghiệp giảm cả tương đối và tuyệt
đối.
Công nghiệp hoá đã làm chuyển biến mạnh mẽ trong lĩnh vực nông nghiệp và Mác
đã dự đoán công nghiệp hoá sẽ làm chuyển dịch lao động trong nông nghiệp sang các
lĩnh
vực
công
nghiệp
và
dịch
vụ.
Theo
Các Mác:
Đối với lĩnh vực nông nghiệp, tác động của công nghiệp hoá có tính chất
cách mạng hơn bất cứ nơi nào khác, hiểu theo nghĩa là công nghiệp lớn làm cho
không còn nông dân nữa, tức là còn cái thành trì của xã hội cũ nữa, và thay thế
nông dân bằng người làm thuê. Do đó mà ở nông thôn, những nhu cầu cải biến
xã hội và cuộc đấu tranh giai cấp, được nâng lên ngang với trình độ ở thành thị”
và “chỉ có nền công nghiệp lớn sử dụng máy móc, mới tạo cho nền kinh doanh
nông nghiệp tư bản chủ nghĩa” [22, tr. 84].
V.I.Lênin cũng phân tích sự tác động của công nghiệp tới lĩnh vực nông nghiệp,
công nghiệp sẽ làm cho công cụ lao động ngày càng tiến bộ hơn, dẫn đến năng suất lao
động trong nông nghiệp tăng khi đó đòi hỏi phải phát triển công nghiệp chế biến, công
nghiệp chế tạo máy móc phục vụ nông nghiệp và kéo theo nó là những ngành công
nghiệp khác cũng phát triển. Theo Lênin:
Ngoài máy móc ra, sự cần thiết phải cày bừa ruộng đất tốt hơn nữa sẽ đưa đến chỗ
thay thế những công cụ thô sơ trước đây, bằng những công cụ cải tiến hơn, và thay thế
gỗ bằng sắt, bằng thép. Sự thay đổi đó tất nhiên sẽ đưa đến chỗ phải xây dựng tại chỗ
những nhà máy chế tạo ra những công cụ đó, vì công nghiệp thủ công không thể làm ra
được những công cụ tốt như thế’ và “nhờ có sự phát triển của công nghiệp chế biến
bằng máy móc và công nghiệp khác cho nên yêu cầu về khoáng sản cũng ngày một tăng
thêm [21, tr.89].
V.I.Lênin còn nhấn mạnh rằng:
Công nghiệp là chìa khoá để cải tạo nền nông nghiệp lạc hậu và phân tán
trên cơ sở tập thể hoá… Do đó, nhiệm vụ là phải cung cấp cho nông nghiệp
đến mức tối đa những công cụ và tư liệu sản xuất cần thiết để xúc tiến và đẩy
mạnh cải tạo nông nghiệp trên cơ sở kỹ thuật mới” và việc cải tạo một nền
nông nghiệp bị chia nhỏ, phân tán là một việc làm hết sức khó khăn cần phải
đi dần từng bước nhưng liên tục và kiên quyết bền bỉ, làm cho nông nghiệp
chuyển qua một cơ sở kỹ thuật mới, cơ sở của nền đại sản xuất, đưa nông
nghiệp lên ngang tầm trình độ công nghiệp xã hội chủ nghĩa. Nếu làm được
việc đó thì thắng lợi cuối cùng của chủ nghĩa xã hội mới được đảm bảo [21,
tr.157, 158, 159].
Lênin còn chỉ ra rằng, Chủ nghĩa xã hội chỉ có thể thắng khi xây dựng được một
nền sản xuất hiện đại trên cơ sở vật chất- kỹ thuật tiên tiến, có năng suất lao động cao
hơn hẳn chủ nghĩa tư bản. Đối với nước có kinh tế lạc hậu, lại bị chiến tranh tàn phá
như nước Nga lúc đó thì công nghiệp hoá là bước đi quan trọng để xây dựng cơ sở vật
chất cho chủ nghĩa xã hội, trong đó điện khí hoá là bước quan trọng nhất. Người luôn
coi trọng ngành sản xuất có công nghệ hiện đại và đào tạo cán bộ công nhân có trình độ
cao, nên trong thời kỳ khó khăn sau chiến tranh, vẫn giành chi phí hàng triệu rúp để cử
người ra nước ngoài học tập.
J.Stalin đã tiếp nối quan điểm của Lênin về vấn đề công nghiệp hoá nông nghiệp,
Ông cho rằng muốn đưa nông dân thoát khỏi cảnh nghèo đói thì chỉ có con đường là
phải giúp đỡ nông dân chuyển từ nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu lên một cơ sở kỹ thuật
mới, cơ sở kỹ thuật của nền sản xuất lớn, hiện đại. Để làm được việc đó thì phải đẩy
nhanh tốc độ phát triển của công nghiệp [21, tr.162].
Không chỉ tác động trực tiếp đến nông nghiệp, công nghiệp phát triển còn thúc đẩy
các quá trình kinh tế khác, gián tiếp mở mang phát triển nông nghiệp, đưa nông nghiệp
hội nhập kinhtế thế giới. Cách mạng công nghiệp tạo điều kiện mở rộng thị trường trong
nước, làm lưu thông hàng hoá vượt ra khỏi biên giới quốc gia, tham gia vào phân công
lao động thế giới và thị trường thế giới.
Nhờ sản xuất bằng máy móc, việc khai thác tài nguyên, nguyên liệu, vận tải…
được cơ khí hoá, làm cho của cải được sản xuất ra với khối lượng lớn và thuận lợi trong
lưu thông, tạo ra thị trường rộng mở trên thế giới, điều đó tất yếu dẫn đến quốc tế hoá
đời sống kinh tế và là xu hướng toàn cầu hoá.
Chủ tịch Hồ Chí Minh của chúng ta rất quan tâm đến vấn đề công nghiệp hoá
nông nghiệp, Người cho rằng, đối với một đất nước đi lên từ nông nghiệp là chủ yếu
thì trước hết phải phát triển nông nghiệp, phải công nghiệp hoá nông nghiệp. Người
cho rằng đời sống của nông dân chỉ có thể thật dồi dào khi chúng dùng máy móc để
sản xuất một cách thật rộng rãi và muốn đưa máy móc vào sản xuất nông nghiệp thì
phải khoanh vùng sản xuất nông nghiệp. Trong văn kiện quan trọng và nổi tiếng mang
tên Ba mươi năm hoạt động của Đảng, Bác nhấn mạnh: Phải cải tạo và phát triển nông
nghiệp để tạo điều kiện cho việc công nghiệp hoá nước nhà. Phải có một nền nông
nghiệp phát triển thì công nghiệp mới có thể phát triển mạnh. Nông nghiệp phát triển
tốt thì công nghiệp sẽ phát triển nhanh. Bác đã ví bằng một câu rất dễ hiểu như: "công
nghiệp và nông nghiệp là hai chân của nền kinh tế… công nghiệp phát triển thì nông
nghiệp mới phát triển...” [23, tr. 545].
Nói tới vấn đề công nghiệp hoá nông nghiệp Chủ tịch Hồ Chí Minh còn đề cập tới
kinh tế gia đình và nghề phụ của người nông dân. Nghề phụ ở đây có thể hiểu là các
ngành nghề tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn, nông dân có thể tăng thêm thu nhập cho
mình từ các ngành nghề này. Người luôn nhắc nhở cần phải phát triển kinh tế phụ gia
đình xã viên, phải vừa chú ý tới việc trang bị kỹ thuật mới, vừa phải biết tận dụng cải
tiến công nghệ hiện có và sử dụng những công cụ cải tiến. Người nhận định: muốn cơ
giới hoá nông nghiệp cũng còn phải mất 15, 20 năm chứ không làm ngay một lúc được.
Cho nên phải cải tiến nông cụ hiện có, phải làm những loại máy mới giản đơn, thợ mộc
cũng dùng được, nông dân cũng làm được. Khoa học kỹ thuật phải từ sản xuất mà ra và
phải trở lại phục vụ sản xuất, phục vụ quần chúng, nhằm nâng cao năng suất lao động
và không ngững cải thiện đời sống nhân dân. Tư tưởng này đã được thực tiễn chứng
minh trong những năm trước đổi mới và đã chứng tỏ công nghiệp hoá, hiện đại hoá
nông nghiệp khi đã được điều chỉnh cho phù hợp thì nền kinh tế sẽ phát triển, nước ta
từ chỗ luôn phải nhập khẩu gạo, nay sản xuất gạo ở nước ta không những đủ gạo ăn
mà nước ta đã xuất khẩu gạo đứng vào hàng thứ 2 trên thế giới.
Vận dụng quan điểm của Chủ nghĩa Mác- Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về
công nghiệp hoá, hiện đại hoá vào nước ta, rút kinh nghiệm từ bài học không thành
công của việc rập khuôn máy móc mô hình ưu tiên phát triển công nghiệp nặng, Đảng ta
đã đổi mới và từng bước hoàn thiện quan điểm về công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước. Đó là kết quả của quá trình đổi mới tư duy lý luận, đổi mới cơ chế quản lý từ tập
trung bao cấp sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
1.2.2. Các quan điểm của Đảng ta về công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp
Từ Đại hội Đảng toàn quôc lần thứ III, Công nghiệp hoá đã được Đảng ta xác định
là nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt thời kỳ quá độ. Nông nghiệp và kinh tế nông thôn có
vị trí và vai trò quan trọng trong quá trình công nghiệp hoá đất nước.
Tại các Đại hội III,IV, Đảng ta xác định nội dung của công nghiệp hoá nước ta là
ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, trên cơ sở phát triển nông nghiệp
và công nghiệp nhẹ.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V Đảng ta xác định phát triển nông nghiệp là nội
dung của công nghiệp hoá trong chặng đường đầu tiên:
Cần tập trung sức phát triển mạnh nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt
trân hàng đầu, đưa nông nghiệp một bước lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, ra
sức đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng và tiếp tục xây dựng một số ngành công
nghiệp nặng quan trọng; kết hợp nông nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng và
công nghiệp nặng trong một cơ cấu công - nông nghiệp hợp lý. Đó là những
nội dung chính của công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong chặng đường
trước mắt [9, tr. 62-63].
Đại hội VI vẫn tiếp tục triển khai tư tưởng của Đảng tại đại hội V.
Đại hội VII, Đảng ta đã nhận thức được rằng do chính nhu cầu phát triển của nông
nghiệp, nông thôn mà phải tiến hành công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn. Tư tưởng
này được đưa ra tại Hội nghị trung ương 5, khoá VII. Văn kiện hội nghị trung ương 5,
khoá VII đã viết "Cùng với sự chuyển dịch nội bộ nông nghiệp như trên, phải có chính
sách và chương trình, biện pháp xúc tiến quá trình công nghiệp hoá nông thôn, nhằm
triệt để giải phóng sức sản xuất, tạo thêm việc làm, thúc đẩy phân công lao động theo
hướng ai giỏi việc gì làm việc nấy [12, tr. 12].
Đồng thời Đảng cũng chỉ rõ: “phải sớm phát triển công nghiệp nông thôn, đặc biệt
là công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản …. cần phát triển công nghiệp nông thôn
một cách toàn diện, từ công nghiệp hàng tiêu dùng đến công nghiệp vật liệu xây dựng,
công nghiệp cơ khí chế tạo và sửa chữa với qui mô vừa và nhỏ" [12, tr. 13]
Tại hội nghị trung ương 7, khoá VII, "điểm mới lần này là gắn công nghiệp hoá
với hiện đại hoá, với việc áp dụng rộng rãi những thành tựu của khoa học và công nghệ
tiên tiến của thời đại" [13, tr. 5].
Công nghiệp hoá nông nghiệp và nông thôn cũng được gắn với hiện đại hoá. Hơn
thế nữa, do những điều kiện đặc thù phát triển kinh tế xã hội nước ta thời kỳ đó Đảng ta
đã xác định cần đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn.
Văn kiện Hội nghị trung ương 7, khoá VII đã nêu:
Trong những năm trước mắt, khả năng vốn còn có hạn, nhu cầu công ăn
việc làm rất bức bách, đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn, tình hình kinh
tế xã hội chưa thật ổn định vững chắc. Vì vậy, cần tập trung nỗ lực đẩy mạnh
công nghiệp hoá nông nghiệp và nông thôn…từng bước hiện đại hoá các
ngành nghề tiểu thủ công truyền thống có thị trường tiêu thụ lớn trong và
ngoài
nước [13, tr.7].
Đại hội VIII, tiếp tục tư tưởng Đại hội VII - đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước, đặc biệt coi trọng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông
thôn.
Đại hội IX tiếp tục chỉ đạo đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, coi
công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn là nhiệm vụ quan trọng hàng
đầu. Nhưng việc triển khai quá trình này vẫn còn chậm, dẫn đến năng suất, chất lượng
sản phẩm nông nghiệp vẫn chưa cao, đời sống nông dân vẫn chưa ổn định đặc biệt là
nông dân ở các vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Do đó tại Hội nghị Trung
ương 5 khoá IX từ những thực tiễn, Đảng ta đã rút ra bài học và có những điểm nhấn
trong chủ trương, đường lối về công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nói chung và
công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nói riêng, đó là cần đẩy nhanh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001-2010 và nhấn mạnh cần:
Tăng cường sự chỉ đạo và huy động các nguồn lực cần thiết để đẩy
nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn. Tiếp tục phát
triển và đưa nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp lên một trình độ mới
bằng ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, nhất là công nghệ sinh học.
Đẩy mạnh thuỷ lợi hoá, cơ giới hoá. điện khí hoá; quy hoạch và sử dụng đất
hợp lý; đổi mới cơ cấu cây trồng vật nuôi, tăng giá trị thu được trên đơn vị
diện tích; giải quyết tốt vấn đề tiêu thụ nông sản hàng hoá… cải thiện đời
sống nông dân và dân cư ở nông thôn [15, tr. 93].
Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã kế thừa tư tưởng
công nghiệp hoá hiện đại hoá từ các Đại hội trước và khẳng định tiếp tục phát huy
sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, huy động và sử dụng
tốt mọi nguồn lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Về công nghiệp hoá,
hiện đại hoá nước ta, trước hết phải xác định đặc thù nước ta thực hiện công nghiệp
hoá, hiện đại hoá trong xu thế hội nhâp và toàn cầu hoá, nên bên cạnh những thuận
lợi còn rất nhiều khó khăn, thách thức. Vì vậy cần phải “Tranh thủ cơ hội thuận lợi
do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng lợi thế của nước ta để rút ngắn quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng XHCN gắn với phát triển
kinh tế tri thức, coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và công
nghiệp hoá, hiện đại hoá” [17, tr.87] và trước hết tập trung đầu tư nhiều hơn nữa cho
công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nhất là qui hoạch kinh kế vùng, ngành
và thông tin dự báo thị trường.
Như vậy, có thể thấy rằng, trong quá trình hoạch định đường lối phát triển kinh tế,
công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp luôn luôn được đặt trong quan hệ với quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta như:
Từ chỗ xác định nông nghiệp là cơ sở để tiến hành công nghiệp hoá đến chỗ xác
định nông nghiệp là nội dung của công nghiệp hoá.
Tiếp theo là đến xác định công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn
là nội dung chính để phát triển kinh tế -xã hội nông thôn và phải được coi là nhiệm vụ
quan trọng hàng đầu.
Từ chỗ đẩy mạnh đến chỗ cần phải đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
nông nghiệp, nông thôn.
Đó là biện chứng của quá trình nhận thức của Đảng về phát triển nông nghiệp,
nông thôn trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nhằm thúc đẩy phát
triển kinh tế - xã hội nông thôn nước ta, mà mỗi bước thực hiện đều làm cho kinh tế - xã
hội nông thôn ngày càng phát triển và đóng vai trò ngày càng to lớn hơn vào sự phát
triển kinh tế - xã hội đất nước.
Như vậy, rõ ràng là phải xuất phát từ nhu cầu nội tại của phát triển nông nghiệp,
nông thôn mà gắn công nghiệp hoá, hiện đại hoá vào trong quá trình phát triển này để
nâng cao năng suất lao động, tạo việc làm, từng bước cải thiện và nâng cao đời sống của
nông dân mới đảm bảo được sự ổn định kinh tế, chính trị, xã hội bền vững.
Có thể khẳng định rằng quá trình nhận thức của Đảng ta về phát triển nông nghiệp,
nông thôn trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã chứng tỏ Đảng ta ngày càng
chú ý tới đặc điểm quá trình xây dựng CNXH từ một nước nông nghiệp. Đẩy nhanh quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn hiện nay là khơi dậy tiềm
năng của đất nước, chuẩn bị các tiền đề để hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả.
Chương 2
Thực trạng công nghiệp hoá, hiện đại hoá
nông nghiệp ở huyện Hoà Vang, thành phố Đà Nẵng
2.1 Những nhân tố tác động tới quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá
nông nghiệp ở huyện hoà vang
2.1.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của huyện Hoà Vang
Hoà Vang là một huyện ngoaị thành, bao bọc thành một vòng cung rộng lớn vè
phía tây nội thị thành phố Đà Nẵng:
- Phía Đông giáp với 2 quận Cẩm Lệ và quận Ngũ Hành Sơn;
- Phía Nam giáp với 2 huyện Điện Bàn, Đại Lộc của tỉnh Quảng Nam;
- Phía Tây giáp với huyện Đông Giang (Quảng Nam);
- Phía Bắc giáp với quận Liên Chiểu và huyện Phú Lộc của tỉnh Thừa Thiên Huế.
Từ 15/8/2005, thực hiện Nghị định 102/2005/NĐ-CP của Chính phủ về tách 3 xã
Hoà Thọ, Hoà Phát, Hoà Xuân về để thành lập quận Cẩm Lệ, huyện Hoà Vang còn lại
11 xã. Tổng diện tích tự nhiên là 70.734,82 ha chiếm hơn 53% so với toàn thành phố,
theo điều tra dân số 31/12/2005 Hoà Vang có 107.980 nhân khẩu chiếm 15,7% so với
thành phố, mật độ dân số 152 người/Km2, khu vực đông nhất là Hoà Phước, Hoà Châu
1412 người/Km2, thấp nhất là Hoà Bắc 10 người/Km2.
Trong giai đoạn tới, tốc độ tăng dân số của huyện tăng gắn liền với sự phát triển
kinh tế - xã hội của huyện và sự lan toả của khu vực nội thành. Trên địa bàn huyện sẽ
hình thành cụm công nghiệp nhỏ ở Hoà Khương với 500 ha, Thuỷ Tú Hoà Liên với hơn
400 ha và các cụm kinh tế, khu trung tâm hành chính mới của huyện. Từ đó khả năng
tăng dân số cơ học sẽ chiếm tỷ lệ lớn, đồng thời thu hút nhiều lao động và bố trí dân cư
từ các quận nội thành vào địa bàn huyện.
Trên địa bàn huyện Hoà Vang có các quốc lộ 1A, 14B, đường sắt thống nhất,
đường tránh Nam Hải Vân, tương lai có đường cao tốc Dung Quốc - Liên Chiểu, nhánh
rẽ đường Hồ Chí Minh đi qua, từ đó tạo điều kiện rất thuận lợi cho sự khai thác tiềm
năng phát triển kinh tế và giao lưu với các vùng xung quanh huyện và thành phố Đà
Nẵng.
Về địa hình, Hoà Vang có địa hình rộng trên cả ba vùng miền núi, trung du và
đồng bằng, đặc điểm này ảnh hưởng rất lớn tới sự phát triển của tất cả các ngành kinh tế
và xã hội của huyện, có nhiều tiềm năng và thế mạnh cho sự tăng trưởng kinh tế, đồng
thời cũng đặt ra nhiều thách thức cho huyện phải vượt qua.
- Vùng núi và núi cao phân bổ hầu hết ở các xã phía Tây Bắc, trong đó có 4 xã miền
núi là Hoà Bắc, Hoà Ninh, Hoà Phú và Hoà Liên với diện tích 56.476,8 ha, bằng 79,84%
tổng diện tích tự nhiên toàn huyện, đa số đồi núi có độ cao từ 400m đến 500 m, cao nhất là
đỉnh núi Bà Nà (1487m). Đất đai có nguồn gốc chủ yếu đá biến chất, đất đỏ vàng… ở đây
tạp trung nhiều rừng đầu nguồn, có ý nghĩa bảo vệ môi trường sinh thái của huyện và thành
phố.
- Vùng trung du phân bổ tiếp giáp giữa vùng núi và đồng bằng với diện tích
11.171 ha chiếm 15,79%, hầu hết là đồi núi thấp xen kẽ với những cánh đồng nhỏ hẹp,
bao gồm các xã Hoà Phong, Hoà Khương, Hoà Nhơn và Hoà Sơn. ở đây phần lớn đất bị
xói mòn, bên cạnh đó có một số diện tích được bồi đắp bởi lớp phù sa mới và phù sa
ven suối bồi tụ hằng năm.
- Vùng đồng bằng hẹp, tương đối bằng phẳng, độ cao trung bình từ 2 đến dưới
10m, đất chủ yếu được bồi dắp bởi phù sa ven sông mang lại hằng năm do lũ lụt ngập
lớn, gồm các xã Hoà Phước, Hoà Châu và Hoà Tiến, có tổng diện tích tự nhiên 3087.2
ha, chiếm tỷ lệ 4,36%, nhưng dân số lại tập trung chiếm 33 % của toàn Huyện.
Về khí hậu, Hoà Vang nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới điển hình, có một mùa
mưa và một mùa khô, thỉnh thoảng có đợt rét mùa đông nhưng không rét đậm và kéo
dài. Nhiệt độ trung bình hàng năm là 25,6 0C, độ ẩm tương đối trung bình là 82%, lượng
mưa trung bình 1870mm.
Hướng gió thịnh hành xuất hiện từ tháng 11 đến tháng 2 là gió mùa Đông Bắc,
hướng gió chính từ tháng 5 đến tháng 7 là gió mùa Đông Nam và Tây Nam.
Chế độ ánh sáng, mưa ẩm phong phú tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển nông
nghiệp, trồng rừng. Tuy nhiên, do địa hình dốc, lượng mưa thường tập trung vào tháng
10 và 11 nên lũ lụt thường xuất hiện trong thời gian này hàng năm, gây ngập úng các
vùng thấp.
Lũ quét lịch sử chưa từng thấy đã xuất hiện năm 1999 tại các điểm Hoà Phú, Hoà
Ninh, Hoà Phong, Hoà Bắc và Hoà Liên ngay trong thời gian mưa lớn, lũ lên rất nhanh
nhưng rút lại rất chậm, mực nước trên báo động cấp 3 duy trì trong nhiều ngày. Ngoài
ra trên địa bàn huyện còn chịu ảnh hưởng của bão, bình quân hàng năm từ 1 đến 2 cơn
bão. đặt biệt cơn bão số 6 năm 2006 vừa qua là cơn bão lịch sử từ trước đến nay mà
nhân dân Hoà Vang chịu nhiều thất thoát, làm sập nhà và tốc mái hơn 90% nhà dân và
các công trình, cơ quan, trường học. Tổng thiệt hại ước tính 702 tỷ đồng. Về kinh tế có
gia đình và xã phải mất vài ba năm mới khôi phục lại được.
Về nguồn nước, Hoà Vang có 3 con sông chính là: Sông Cu Đê, Sông Yên (là
nhánh của sông Thu Bồn), Sông Tuý Loan (nhánh của sông A.Vương), sông Bầu Sấu,
Sông Vĩnh Điện, Sông Quá Giáng và nhiều ao hồ. Phần lớn nguồn nước và chất lượng
nước các sông đáp ứng được nhu cầu kinh tế và sinh hoạt của nhân dân trong huyện.
Tuy nhiên, vào tháng 5 và 6 của nùa khô các sông này bị nhiểm mặn do thuỷ
triều có nơi đến 5% như tại vị trí (5Km) sông Cu Đê.
Về nước ngầm, qua khảo sát và điều tra của Đoàn địa chất 501 thuộc Liên Đoàn
địa chất thuỷ văn Miền Nam, mạch nước ngầm ở Hoà Vang có trữ lượng lớn, mực nước
ngầm cao. Trong tương lai có thể sử dụng nguồn nước ngầm phục vụ sản xuất nông
nghiệp và các ngành kinh tế khác.
Trên địa bàn huyện, tại Đồng Nghệ (Hoà Khương) có nguồn nước khoáng nóng
rất lớn, nhưng chưa được khai thác với qui mô công nghiệp.
Về tài nguyên đất: Huyện Hoà Vang với nhiều loại đất như đã thống kê trong
bảng mà quan trọng nhất là nhóm đất phù sa thích hợp với thâm canh lúa trồng rau và
hoa quả ở vùng đồng bằng, nhóm đất đỏ vàng vùng đồi núi thích hợp cho cây công
nghiệp dài ngày, cây đặc sản và chăn nuôi đai gia súc và kết cấu đất vững chắc thuận lợi
cho bố trí các công trình hạ tầng kỷ thuật và các khu công nghiệp.
Trong tổng quĩ đất tự nhiên, đất sử dụng vào nông nghiệp chiếm 84,38%, đất phi
nông nghiệp 8,89%, đất chưa sử dụng 6,73% có khả năng sử dụng vào nông nghiệp,
nuôi trồng thuỷ sản vẫn còn tương đối lớn cần khai thác trong thời gian đến. Đặt biệt
Hoà Vang là địa bàn diện tích đất rừng lớn, có khả năng phát triển kinh tế trang trại và
mô hình VACR.
Vốn diện tích đất rừng 53.306,05 ha và c hủ yếu nằm về phía Tây và Tây Bắc
Hoà Vang, ngoài phát triển kinh tế, rừng Hoà Vang có vai trò rất quan trọng trong
việc phòng hộ, chống lũ lụt và bảo vệ môi trường sinh thái cho huyện và thành phố
Đà Nẵng. Đồng thời, còn làm phong phú đa dạng hệ sinh thái và tài nguyên động
thực vật, có ý nghĩa phục vụ cho nghiên cứu khoa học và phát triển du lịch, nhất là
khu vực Bà Nà - Núi Chúa.
Vùng núi và trung du có hệ sinh thái đa dạng, thuộc vùng khí hậu nhiết đới gió
mùa, các điều kiện tự nhiên đã hình thành và phát triển một thảm thực vất phong phú,
có nhiều lớp thực vật và phát triển theo tầng. Song do ảnh hưởng của chiến tranh và sự
tàn phá của con người làm cho thảm thực vật đần dần bị huỷ diệt, hiện nay trong vùng
này đang trong giai đoạn phục hồi, nhưng vẫn chưa phủ xanh hết.
Nói chung rừng và thảm thực vật có vai trò rất quan trọng trong bảo vệ môi
trường, hạn chế mức độ rửa trôi bạc màu do tốc độ lũ hàng năm tàn phá. Do vậy Hoà
Vang rất chú trọng đến bảo vệ rừng và thảm thực vật để hạn chế suy thoái môi trường
đất.
Bảng 2.1: Hiện trạng sử dụng đất tính đến tháng 10 năm 2006 (*)
Hiện trạng
TT
Hạng mục
*
Diện tích tự nhiên
1
Đất nông nghiệp
Ghi chú
Diện tích(ha)
% so với TN
70.734,8
100
59.684,06
84,38
6203,43
10,4
Trong đó:
Đất sản xuất nông nghiệp
Đất Lâm nghiệp
53.306,05
89.31
102,09
0,17
72,49
0,12
6290,18
8,89
Đất ở
2569,13
40,84
Đất chuyên dùng
1500,61
23,86
37,72
0,60
487,27
7,75
Đất sông suối, mặt nước
1695,45
26,95
Đất chưa sử dụng
4760,58
6,73
771,83
16,2
Đất đồi núi chưa sử dụng
3731,83
78.39
Núi đá không có rừng cây
256,92
5,40
Đất nuôi trồng thuỷ sản
Đất nông nghiệp khác
2
Đất phi nông nghệp
Trong đó:
Đất tín ngưỡng, tôn giáo
Đất nghĩa trang, nghĩa địa
3
Trong đó:
Đất bằng chưa sử dụng
Nguồn: Báo cáo của UBND huyện về tổng kết 5 năm (2001-2005) và phát triển
nông nghiệp huyện Hoà Vang.
Bảng 2.2: Hiện trạng sử dụng đất nông nghiệp
TT
Loại đất
Đất nông nghiệp
Diện tích
Tỷ lệ
(ha)
(%)
59.684,06
100
1
Đất sản xuất nông nghiệp
6203,43
10,40
1.1 Đất trồng cây hàng năm
5300,03
85,44
Đất sản xuất cây lúa
3762,59
71
Đất trồng cây hàng năm còn lại
1537,44
29
903,40
14,56
Đất Lâm nghiệp
53.306.05
89,31
2.1 Đất rừng kinh tế
29.794,93
55,89
2.2 Đất rừng phòng hộ
12.658,72
23,75
10.852,7
20,36
102,09
0,17
72,49
0,12
Trong đó:
1.2 Đất trồng cây lâu năm
2
2.3 Rừng đặc dụng
3
Đất nuôi trồng thuỷ sản
4
Đất nông nghiệp khác
Nguồn: Báo cáo của UBND huyện về tổng kết 5 năm (2001-2005) và phát triển
nông nghiệp huyện Hoà Vang.
Về khoáng sản, hiện tại chỉ mới phát hiện một số tài nguyên khoáng sản sau: đá
ốp lát, đá Graníc ởt Hoà Nhơn, Hoà Ninh và Hoà Sơn, mỏ cát, sạn xây dựng ở dọc sông
Tuý Loan, Quá Giáng trữ lượng hàng năm từ 300.000 m3 đến 500.000m3, Một ít quặng
Volfram ở Hoà Ninh, Thiết ở Đồng Nghệ Hoà Khương, cát thuỷ tinh ở Hoà Liên, đá
Felspat ở Hoà Khương, và Hoà Ninh với trữ lượng hàng triệu khối. Hầu hết các xã đồng
bằng và trung du đều có đất sét, đất côlanh trữ lượng lớn làm nguyên liệu sản xuất gạch
ngói, đồ gốm.
Tài nguyên du lịch: Hoà Vang có rất nhiều điều kiện thuận lợi cho các loại
hình phát triển du lịch đa dạng: du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng khu vực Bà Nà- Núi