Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

LUẬN văn thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự ở tỉnh thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (944.15 KB, 110 trang )

LUẬN VĂN:

Thực hiện pháp luật về thi hành án
dân sự ở tỉnh Thanh Hóa


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Thực hiện pháp luật là một hiện tượng xã hội mang tính pháp lý. Hiện tượng này trong
điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đang trở thành hiện tượng ngày càng
phổ biến. Điều đó đã được Hiến pháp năm 1992 của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
quy định: "Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội
chủ nghĩa. Các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và
mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành hiến pháp và pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và
chống các tội phạm, các vi phạm hiến pháp và pháp luật. Mọi hành động xâm phạm lợi ích của
nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và công dân đều bị xử lý theo pháp luật" (Điều
12). Trong khoa học pháp lý chuyên ngành lý luận chung về nhà nước và pháp luật từ lâu đã coi
hiện tượng thực hiện pháp luật là một trong những đối tượng nghiên cứu của mình.
Thực hiện pháp luật nói chung đã trở thành một phạm trù pháp lý cơ bản. Những vấn
đề thực hiện pháp luật dường như đã được giải quyết như: khái niệm thực hiện pháp luật,
các dạng thực hiện pháp luật, khái niệm áp dụng pháp luật và quy trình các bước áp dụng
pháp luật. Song thực hiện pháp luật nói chung cần được cụ thể hoá ở từng lĩnh vực khác
nhau của đời sống pháp luật trong điều kiện đổi mới ở nước ta. Thực hiện pháp luật về thi
hành án dân sự là một trong những lĩnh vực cụ thể. Hay nói một cách khác thực hiện pháp
luật về thi hành án dân sự là một lĩnh vực thực hiện pháp luật. Nó có khái niệm, đặc điểm
riêng biệt cần được định nghĩa, bổ sung, cụ thể hoá lý luận chung và soi rọi vào thực tiễn
thực hiện pháp luật. Từ đó, đối chiếu đánh giá thực tiễn thi hành án dân sự. Làm cơ sở để
đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác thi hành án dân sự.
Trong tổ chức bộ máy nhà nước ta, thi hành án dân sự là lĩnh vực hoạt động được
chú trọng và là một nhiệm vụ của ngành Tư pháp. Pháp luật về thi hành án dân sự đã hình


thành như: Hiến pháp, Bộ luật hình sự, Bộ luật dân sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, Bộ luật Tố
tụng dân sự..., đặc biệt là Pháp lệnh Thi hành án dân sự sửa đổi năm 2004; Chỉ thị số
20/2001/CT-TTg ngày 11 tháng 9 năm 2001 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường và


nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự. Những văn bản này đã tạo cơ sở pháp lý cho
việc đổi mới về tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự; xác định rõ hơn địa vị
pháp lý của các chủ thể pháp luật đối với việc thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự.
Trên cơ sở đó, nhận thức của các chủ thể về thực hiện pháp luật thi hành án dân sự được
nâng lên. Nhiều bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Toà án (quyết định dân sự
trong bản án hình sự; bản án, quyết định dân sự, hành chính) đã được các cơ quan thi hành
án dân sự kịp thời đưa ra thi hành theo quy định của pháp luật đạt kết quả tương đối cao.
Điều này, đã đảm bảo tính hiệu lực của các bản án, quyết định của tòa án, bảo đảm lợi ích
của Nhà nước, quyền lợi ích hợp pháp của các tổ chức và công dân; thể hiện tính nghiêm
minh của các bản án, quyết định của tòa án nhân danh Nhà nước, tạo lòng tin của nhân dân
đối với Đảng với Nhà nước, góp phần đảm bảo an ninh trật tự xã hội, giữ gìn kỷ cương,
phép nước, thực hiện dân chủ, công bằng xã hội, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Thanh Hóa là một tỉnh đất rộng, người đông, số lượng án bàn giao và thụ lý hàng
năm tương đối lớn. Trong những năm qua, công tác thi hành án dân sự ở Thanh Hóa đã đạt
được những kết quả đáng ghi nhận; nhiều vụ việc phức tạp, tồn đọng lâu năm đã được tổ
chức thi hành dứt điểm; một số án lớn, tính chất phức tạp, ảnh hưởng lớn về kinh tế, trật tự
an toàn xã hội cũng đã được chính quyền các cấp quan tâm chỉ đạo. Kết quả đạt được nói
trên phản ánh sự cố gắng, nỗ lực của toàn ngành tư pháp nói chung, cũng như đội ngũ cán
bộ thi hành án dân sự nói riêng, sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của các cấp ủy đảng, chính
quyền địa phương; sự phối hợp chặt chẽ của các ngành hữu quan trong việc thực hiện pháp
luật thi hành án dân sự.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, cũng như nhiều tỉnh trên cả nước,
thực trạng thực hiện pháp luật thi hành án dân sự ở Thanh Hóa vẫn còn nhiều bức xúc, bộc
lộ nhiều tồn tại, yếu kém, chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Lượng
án tồn đọng qua các năm còn lớn. Nhiều bản án, quyết định về dân sự đã có hiệu lực pháp

luật nhưng chưa được tổ chức thi hành. Tình trạng trên có nhiều nguyên nhân khác như:
pháp luật thi hành án dân sự hiện hành còn thiếu tính khả thi, nhiều điểm còn chưa rõ ràng,
bất cập; một số chấp hành viên, cán bộ thi hành án thiếu trách nhiệm, thiếu tận tụy trong
công việc khiến cho quần chúng nhân dân kêu ca phàn nàn; ở một số nơi cấp ủy, chính
quyền các cấp chưa nhận thức đầy đủ trách nhiệm của mình trong việc thực hiện tổ chức,


chỉ đạo thi hành án dân sự theo quy định của pháp luật; Ban chỉ đạo thi hành án dân sự hoạt
động còn hình thức, chưa hiệu quả; công tác phối hợp thi hành án của các cơ quan chức
năng theo qui định của pháp luật còn nhiều bất cập; nhận thức và tạo điều kiện của các tổ
chức, cá nhân về công tác thi hành án dân sự còn chưa đầy đủ. Thực tế đó, đòi hỏi nâng cao
việc thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự, đảm bảo cho các các quyết định và bản án
dân sự có hiệu lực pháp luật được thi hành trong thực tế ở Thanh Hoá trở nên cấp thiết.
Với những lý do trên tôi chọn đề tài: “Thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự ở
tỉnh Thanh Hóa” làm luận văn thạc sĩ Luật chuyên ngành Lý luận lịch sử nhà nước và pháp
luật.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Ở nước ta trong những năm gần đây, vấn đề thực hiện pháp luật đang được đặt ra
và là nhiệm vụ cấp bách của các cơ quan Đảng, Nhà nước, tổ chức xã hội và mọi công
dân. Thực hiện pháp luật đã được các học viện, các trường đại học nghiên cứu trong các
giáo trình như: Giáo trình Lý luận chung về nhà nước và pháp luật, Đại học Tổng hợp Hà
Nội, 1993; Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật, Đại học Luật Hà Nội, 2004; Tài liệu
học tập và nghiên cứu môn học lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh, Khoa Nhà nước và pháp luật, 2004; Lý luận chung về nhà nước và
pháp luật, Học viện Hành chính Quốc gia, 2001.
Nghiên cứu về thực hiện pháp luật trên một số lĩnh vực cụ thể có các đề tài: "Thực
hiện pháp luật hoà giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Bình Thuận hiện nay - thực trạng và giải
pháp", (Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2004) của tác
giả Lê Trung Quân; "Thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo ở tỉnh Bình Định hiện
nay", (Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2005) của tác

giả Võ Thành Long; "Thực hiện pháp luật đảm bảo nguyên tắc tranh tụng trong xét xử hình
sự sơ thẩm ở Việt Nam hiện nay", (Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện Chính trị Quốc gia
Hồ Chí Minh, 2005) của tác giả Nguyễn Tiến Long...
Nghiên cứu về thi hành án dân sự đã có một số đề tài: "Luận cứ khoa học của việc
đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án ở Việt Nam trong giai đoạn mới" đề tài nghiên
cứu khoa học cấp nhà nước do Bộ Tư pháp chủ trì; Cục Quản lý Thi hành án dân sự - Bộ Tư
pháp chủ trì thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ: "Mô hình quản lý thống nhất công


tác thi hành án"; tác giả Nguyễn Quang Thái có công trình: "Đổi mới tổ chức và hoạt động
thi hành án dân sự ở Việt Nam", (Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị Quốc gia
Hồ Chí Minh, 2003); Tác giả Nguyễn Công Long có công trình: "Các biện pháp cưỡng chế
thi hành án dân sự", (Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội); tác giả
Nguyễn Thanh Thủy có công trình: "Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự", (Luận văn
thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2001); Luận văn thạc sỹ luật học "Một số
vấn đề về tổ chức và thi hành án dân sự Việt Nam", của tác giả Trần Văn Quảng; tác giả Lê
Xuân Hồng có công trình: "Xã hội hóa một số nội dung thi hành án dân sự", (Luận văn thạc
sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2002); tác giả Lê Anh Tuấn có công trình: "Đổi
mới thủ tục thi hành án dân sự Việt Nam", (Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật
Hà Nội, 2004); tác giả Nguyễn Đức Nghĩa có công trình: "Cơ sở lý luận và thực tiễn khắc
phục án tồn đọng trong thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay", (Luận văn thạc sỹ Luật
học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2005); tác giả Hoàng Thế Anh có công trình
"Giám sát thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay" (Luận văn Thạc sỹ Luật học, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2005).
Những công trình nghiên cứu nói trên đã nghiên cứu những vấn đề chung của thực
hiện pháp luật; thực hiện pháp luật trên một số lĩnh vực của đời sống xã hội và những công
trình nghiên cứu về vấn đề mang tính tổng thể hoặc những khía cạnh, phạm vi cụ thể khác
nhau của thi hành án dân sự. Nhưng đến nay, chưa có công trình nghiên cứu nào dưới góc
độ lý luận và thực trạng thực hiện pháp luật, lý giải các nguyên nhân ảnh hưởng đến chất
lượng thực hiện pháp luật, đề ra các giải pháp đảm bảo thực hiện pháp luật thi hành án dân sự

nói chung và ở tỉnh Thanh Hóa nói riêng.
Trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc kết quả các công trình nghiên cứu, các bài viết, đồng
thời bằng kinh nghiệm thực tiễn và những hiểu biết của mình, tác giả trình bày trong luận
văn cơ sở lý luận, nội dung thực hiện pháp luật thi hành án dân sự, đánh giá thực tiễn thi
hành pháp luật trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa, đưa ra nhóm giải pháp đảm bảo hiệu lực các
văn bản pháp luật đã ban hành trong lĩnh vực thi hành án dân sự, đáp ứng vấn đề cấp bách
của thực tiễn công tác thi hành án dân sự ở địa phương mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn


Mục đích nghiên cứu của luận văn làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về thực hiện pháp
luật thi hành án dân sự, đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật thi hành án dân sự ở tỉnh Thanh
Hóa, chỉ ra nguyên nhân dẫn đến hạn chế trong tác này, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp
nhằm góp phần bảo đảm thực hiện pháp luật thi hành án dân sự ở tỉnh Thanh Hóa trong
thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để đạt được mục đích đã nêu trên, luận văn có một số nhiệm vụ sau:
- Phân tích cơ sở lý luận về thực hiện pháp luật thi hành án dân sự;
- Phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật thi hành án dân sự ở tỉnh Thanh
Hoá hiện nay;
- Xác định quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu qủa thực hiện pháp luật thi
hành án dân sự ở tỉnh Thanh Hoá trong thời gian tới.
4. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Thực hiện pháp luật là hiện tượng rất rộng được nghiên cứu ở nhiều lĩnh vực khác
nhau. Trong khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ, tác giả tập trung nghiên cứu thực hiện
pháp luật thi hành án dân sự ở tỉnh Thanh Hóa, thực trạng và giải pháp. Phạm vi nghiên cứu
được giới hạn dưới góc độ lý luận chung về nhà nước và pháp luật, thông qua thực tiễn và
số liệu của cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh và các cơ quan liên quan đến thi hành án dân sự
ở Thanh Hoá từ năm 2003 đến năm 2007.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận của luận văn
Luận văn được nghiên cứu dựa trên lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh về nhà nước và pháp luật; bám sát đường lối, chủ trương của Đảng về thực hiện
pháp luật, về công tác thi hành án dân sự và chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu của luận văn là phương pháp duy vật biện chứng của triết
học Mác - Lênin theo quan điểm phát triển, toàn diện, lịch sử, cụ thể. Ngoài ra luận văn còn
kết hợp các phương pháp như: lôgíc, phân tích, tổng hợp, thống kê, khảo sát thực tiễn.
6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn


Đây là công trình đầu tiên trong khoa học pháp lý Việt Nam ở cấp độ luận văn thạc sĩ
Luật, nghiên cứu về cơ sở lý luận và thực hiện pháp luật thi hành án dân sự ở tỉnh Thanh
Hóa. Có thể xem những nội dung sau đây là những đóng góp mới về khoa học của luận văn:
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về thực hiện pháp luật thi hành án dân sự ở Việt
Nam nói chung và Thanh Hóa nói riêng.
- Đánh giá đúng thực trạng thực hiện pháp luật thi hành án dân sự ở tỉnh Thanh Hóa,
trong đó làm rõ những kết quả đạt được, những hạn chế trong việc thực hiện pháp luật thi
hành án dân sự và nguyên nhân của chúng.
- Đưa ra một số quan điểm và đề xuất các giải pháp có tính khả thi cao nhằm đảm
bảo thực hiện pháp luật thi hành án dân sự ở tỉnh Thanh Hóa.
7. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Thông qua việc làm rõ thực trạng thực hiện pháp luật thi hành án dân sự tỉnh Thanh
Hoá - kết quả đã đạt được và những hạn chế, bất cập, luận văn góp phần làm sáng tỏ một số
vấn đề về thực hiện pháp luật, thực hiện pháp luật thi hành án dân sự, từ đó nâng cao nhận
thức của xã hội đối với việc thực hiện pháp luật thi hành án dân sự ở tỉnh Thanh Hoá.
Khẳng định, củng cố nhận thức về vị trí, vai trò và ý nghĩa của thực hiện pháp luật về
thi hành án dân sự trong việc phát huy tính tích cực, chủ động trong thực hiện pháp luật thi
hành án dân sự của các cơ quan bảo vệ pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của

các tổ chức và công dân đối với công tác thi hành án dân sự.
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm sáng tỏ thêm một số vấn đề lý luận
của việc thực hiện pháp luật thi hành án dân sự, do đó làm phong phú thêm lý luận chung về
Nhà nước và pháp luật. Luận văn có thể là tài liệu tham khảo cho cấp ủy và chính quyền của
tỉnh Thanh Hoá trong việc lãnh đạo, chỉ đạo công tác thi hành án dân sự. Luận văn cũng có
thể là tài liệu tham khảo của Sở Tư pháp, Thi hành án dân sự tỉnh trong việc nghiên cứu và
chỉ đạo các hoạt động về thi hành án dân sự. Đối với các cơ quan có liên quan đến thi hành
án dân sự, luận văn có thể là tài liệu tham khảo trong việc thực hiện trách nhiệm của mình
theo qui định của pháp luật, trong việc phối hợp phối hợp hoạt động thi hành án dân sự.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo; luận văn gồm 3 chương,
7 tiết.


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

1.1. KHÁI NIỆM PHÁP LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ VÀ QUAN HỆ PHÁP
LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
1.1.1. Khái niệm pháp luật thi hành án dân sự
Học thuyết Mác - Lênin về Nhà nước và pháp luật lần đầu tiên trong lịch sử đã lý giải
một cách đúng đắn, khoa học về bản chất của pháp luật và những mối quan hệ của nó với
các hiện tượng xã hội khác nhau trong xã hội có giai cấp, pháp luật chỉ phát sinh, tồn tại và
phát triển trong xã hội có giai cấp. Pháp luật:
Là hệ thống các quy tắc xử sự chung (quy phạm pháp luật) do nhà nước
ban hành hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị, được nhà nước bảo
đảm thức hiện, kể cả bằng biện pháp cưỡng chế, để điều chỉnh các quan hệ xã hội,
duy trì xã hội trong một trật tự có lợi cho giai cấp thống trị [32, tr.139].
Pháp luật xã hội chủ nghĩa là hệ thống các quy tắc xử sự chung (qui phạm pháp luật)

thể chế hoá đường lối chủ trương của Đảng, thể hiện ý chí của nhân dân, được Nhà nước
ban hành và bảo đảm thực hiện trên cơ sở giáo dục, thuyết phục, nhằm điều chỉnh các quan
hệ xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa [32, tr.143].
Pháp luật thi hành án dân sự là một bộ phận cấu thành của hệ thống pháp luật nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Để làm sáng tỏ khái niệm pháp luật thi hành án dân
sự, trước hết cần làm rõ một số khái niệm có liên quan đến khái niệm pháp luật thi hành án
dân sự như: khái niệm thi hành, khái niệm tư pháp, khái niệm thi hành án và khái niệm thi
hành án dân sự.
Theo Đại từ điển tiếng Việt, thi hành là "Thực hiện điều đã chính thức quyết định" [27,
tr.1559]. Theo từ điển Luật học thì thi hành án là "giai đoạn kết thúc trình tự tố tụng, là khâu
cuối cùng kết thúc một vụ án được xét xử nhằm làm cho phán quyết của toà án nhất định có
hiệu lực pháp luật" [57, tr.464].
Như vậy, thi hành án có thể được hiểu là thực hiện bản án, quyết định của Tòa án
trên thực tế. Bản án, quyết định của Tòa án được hiểu là là văn bản pháp lý của Tòa án nhân


danh Nhà nước tuyên tại phiên tòa, giải quyết về các vấn đề trong vụ án hình sự, dân sự, hôn
nhân và gia đình, lao động, kinh tế, hành chính. Việc thực hiện bản án, quyết định của Tòa
án có hiệu quả, một mặt bảo đảm thực hiện quyền tư pháp của Nhà nước, thể hiện sự tôn
trọng của xã hội và công dân đối với phán quyết của cơ quan nhân danh Nhà nước là Tòa
án, mặt khác nó là biện pháp hữu hiệu để khôi phục các quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà
nước, tổ chức và công dân bị xâm hại.
Khái niệm tư pháp hiểu theo nghĩa rộng, là một hệ thống các thiết chế, các tổ chức
bảo vệ pháp luật, duy trì, bảo đảm công lý, công bằng xã hội, trong đó hoạt động xét xử của
cơ quan nhà nước có thẩm quyền là Tòa án giữ vai trò, vị trí quan trọng, là khâu trung tâm.
Vì vậy, khi nói tới Tòa án là nói tới biểu tượng điển hình của việc tuân thủ Hiến pháp và
pháp luật, là nơi biểu hiện rực rỡ nhất bản chất của pháp luật.
Khái niệm tư pháp hiểu theo nghĩa hẹp, đó là hoạt động xét xử của Tòa án, thông qua
những thủ tục tố tụng nhất định, đối với những vụ việc vi phạm pháp luật, tranh chấp của
các chủ thể trong đời sống xã hội, nhằm bảo vệ pháp luật, duy trì, bảo đảm công lý, công

bằng xã hội. Vì vậy, toàn bộ các hoạt động điều tra, truy tố và các hoạt động bổ trợ tư pháp
(Giám định, Luật sư, Công chứng, Hộ tịch, Tư vấn pháp luật...) đều nhằm phục vụ cho quá
trình làm sáng tỏ chân lý, tìm ra sự thật của các vụ việc đã diễn ra trên thực tế, để trên cơ sở
đó, Tòa án đưa ra phán quyết theo qui định của pháp luật. Kết thúc giai đoạn xét xử, Tòa án
quyết định những vấn đề thuộc về nội dung vụ án, xác định trách nhiệm pháp lý và chế tài
thích hợp cho từng đối tượng cụ thể, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, cơ
quan, tổ chức và của công dân. Các bản án và quyết định xét xử của Tòa án không những
nhân danh Nhà nước mà còn thể hiện quyền lực tối cao của pháp quyền có hiệu lực thi hành,
chính vì vậy, Điều 136 của Hiến pháp 1992 đã nêu rõ: "Các bản án và quyết định của Tòa
án đã có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội,
các đơn vị vũ trang nhân dân tôn trọng, những người và đơn vị hữu quan phải nghiêm chỉnh
chấp hành". Tuy nhiên, các bản án và quyết định của Tòa án muốn trở thành hiện thực trong
cuộc sống thì phải thông qua hoạt động thi hành án.
Từ sự phân tích ở trên, có thể đưa ra khái niệm thi hành án như sau: thi hành án là
hoạt động tư pháp do cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền tiến hành theo trình tự, thủ tục
do pháp luật qui định để đưa bản án, quyết định của Tòa án hoặc các quyết định khác theo


qui định của pháp luật, được thực hiện trên thực tế, nhằm bảo đảm lợi ích của Nhà nước,
quyền, lợi ích hợp pháp của các công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ
nghĩa.
Dưới góc độ lý luận, thi hành án dân sự hiện nay còn có hai quan điểm khác nhau về
nghĩa hẹp và nghĩa rộng của khái niệm "dân sự"
Quan điểm thứ nhất cho rằng, khái niệm "dân sự" trong thi hành án dân sự được hiểu
là những bản án, quyết định liên quan đến quan hệ tài sản và nhân thân phi tài sản như bản
án, quyết định về giải quyết tranh chấp đối với các loại hợp đồng dân sự, hôn nhân và gia
đình và một số loại án khác có tính chất dân sự. Quan điểm thứ hai cho rằng, khái niệm
"dân sự" ở đây phải được hiểu theo nghĩa rộng, đó không chỉ bao gồm các bản án, quyết
định về giải quyết tranh chấp đối với các loại hợp đồng dân sự, hôn nhân và gia đình và một
số loại án khác có tính chất dân sự của Tòa án, mà còn bao gồm các bản án, quyết định khác

do pháp luật qui định.
Chúng tôi đồng tình với quan điểm này, bởi lẽ, theo quy định của pháp luật hiện
hành, nhiều vụ việc có tính chất khác nhau, được giải quyết theo các trình tự khác nhau
nhưng đến giai đoạn thi hành án đều được áp dụng theo trình tự, thủ tục thi hành án dân sự
như đã nêu.
Vì vậy, phạm vi của thi hành án dân sự phải được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm: bản
án, quyết định về dân sự, kinh tế, lao động, hôn nhân và gia đình; quyết định về tài sản trong
bản án, quyết định hình sự về bồi thường thiệt hại; quyết định về tài sản và quyền tài sản
trong bản án, quyết định hành chính; bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài,
quyết định của trọng tài nước ngoài được Tòa án Việt Nam công nhận và cho thi hành ở
Việt Nam. Điều này cũng hoàn toàn phù hợp với pháp luật của nhiều quốc gia trên thế giới:
việc tổ chức thi hành các bản án có nguồn gốc pháp luật về nội dung là luật tư (luật dân sự,
kinh doanh, thương mại, lao động), được thực hiện theo một thủ tục chung mà không có sự
tách bạch căn bản việc thi hành án dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh tế, thương mại hay lao
động.
Từ sự phân tích ở trên, có thể đưa ra khái niệm thi hành án dân sự như sau: Thi hành
án dân sự là hoạt động tư pháp do cơ quan thi hành án, chấp hành viên tiến hành theo trình
tự, thủ tục do pháp luật qui định để đưa bản án, quyết định dân sự của Tòa án hoặc các


quyết định khác theo qui định của pháp luật, được thực hiện trên thực tế, nhằm bảo đảm lợi
ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của các công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp
luật xã hội chủ nghĩa.
Để điều chỉnh hoạt động thi hành án dân sự, hay nói cách khác các quan hệ phát sinh
trong quá trình thi hành án dân sự cần có pháp luật điều chỉnh. Pháp luật thi hành án dân sự
được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm tổng thể các văn bản quy phạm pháp luật do các cơ
quan nhà nước có thầm quyền ban hành có chứa đựng các quy phạm pháp luật thi hành án
dân sự từ Hiến pháp 1992, Bộ luật Hình sự 1999, Bộ luật Dân sự 2005, Bộ luật Tố tụng hình
sự 2004, Bộ luật Tố tụng dân sự 2004, đến các văn bản pháp luật chuyên ngành về thi hành
án dân sự như Pháp lệnh Thi hành án dân sự 2004, Nghị định số 50/2005/NĐ-CP ngày 11/4

của Chính phủ về cơ quan quản lý thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án dân sự và cán bộ,
công chức làm công tác thi hành án dân sự, Thông tư 06/2007/TT-BTP của Bộ Tư pháp về
việc hướng dẫn thực hiện một số thủ tục hành chính trong hoạt động thi hành án dân sự...
đều được coi là pháp luật thi hành án dân sự.
Quá trình hình thành và phát triển của pháp luật thi hành án dân sự tuy còn những tồn
tại nhất định, nhưng pháp luật thi hành án dân sự đã chuyển hoá được vai trò lãnh đạo của
Đảng, hiệu lực của chính quyền, ý chí của nhân dân và đồng thuận của xã hội để tạo ra
những chuyển biến tích cực về thi hành án dân sự.
Hệ thống văn bản pháp luật về thi hành án dân sự, cùng với pháp luật nói chung đã
xây dựng được cơ chế quản lý thống nhất về thi hành án dân sự, hệ thống cơ quan quản lý
thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án dân sự độc lập với cơ quan xét xử để có điều kiện
tập trung cho việc thi hành các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật theo trình tự, thủ
tục thi hành án dân sự. Cơ quan thi hành án dân sự không chỉ được giao nhiệm vụ thi hành
bản án, quyết định của Toà án, mà còn thi hành quyết định của cơ quan, tổ chức khác, như
Trọng tài kinh tế Nhà nước các cấp, Trọng tài thương mại.
Hiện nay, Bộ luật Thi hành án dân sự đang được gấp rút soạn thảo để trình cơ quan
có thẩm quyền ban hành nhằm khắc phục những bất hợp lý, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc
còn tồn tại trong công tác thi hành án dân sự... Bộ luật Thi hành án dân sự xây dựng trên cơ
sở quán triệt quan điểm chỉ đạo điều chỉnh toàn diện các lĩnh vực về thi hành án, tạo cơ chế
bảo đảm nhiệm vụ quản lý nhà nước về thi hành án dân sự tập trung vào một đầu mối là Bộ


Tư pháp nhưng không tách rời sự quản lý, chỉ đạo của cấp uỷ đảng và chính quyền địa
phương, đồng thời xã hội hoá một phần công tác thi hành án là cơ sở pháp lý để tiếp tục
tăng cường, nâng cao hiệu quả hoạt động của công tác thi hành án nói riêng và ngành Tư
pháp nói chung.
Như vậy có thể rút ra khái niệm pháp luật thi hành án dân sự như sau: Pháp luật thi
hành án dân sự là hệ thống các quy tắc xử sự chung (qui phạm pháp luật) thể chế hoá
đường lối chủ trương của Đảng, thể hiện ý chí của nhân dân, do các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền ban hành và bảo đảm thực hiện trên cơ sở giáo dục, thuyết phục, nhằm điều

chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình thi hành án dân sự
1.1.2. Quan hệ pháp luật thi hành án dân sự
Thực hiện pháp luật thực chất là việc các chủ thể quan hệ pháp luật thực hiện các
quyền và nghĩa vụ pháp lý của mình, vì vậy nghiên cứu thực hiện pháp luật thi hành án dân
sự cần tiếp cận quan hệ pháp luật thi hành án dân sự. Khoa học pháp lý về nhà nước và pháp
luật đã khẳng định "quan hệ pháp luật là những quan hệ xã hội nảy sinh do sự tác động hữu
cơ giữa quy phạm pháp luật và sự kiện pháp lý tương ứng làm xuất hiện các quyền và nghĩa
vụ pháp lý của các chủ thể tham gia quan hệ đó" [32, tr.255]. Từ đó có thể hiểu Quan hệ
pháp luật thi hành án dân sự là những quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực thi hành án
dân sự do các quy phạm pháp luật thi hành án dân sự điều chỉnh trong đó các chủ thể có
quyền và nghĩa vụ đối với nhau và được Nhà nước bảo đảm thực hiện.
Ngoài những đặc điểm vốn có của một quan hệ pháp luật nói chung thì quan hệ pháp
luật thi hành án dân sự có các đặc điểm riêng sau đây:
Thứ nhất: Quan hệ pháp luật thi hành án dân sự là sự tiếp nối của quan hệ pháp luật tố
tụng dân sự. Khác với các quan hệ pháp luật dân sự thông thường quan hệ pháp luật thi hành án
dân sự phát sinh ngay tại thời điểm bản án, quyết định dân sự của Tòa án có hiệu lực pháp luật
hoặc những bản án, quyết định dân sự của Tòa án chưa có hiệu lực pháp luật nhưng được thi
hành ngay, ví dụ: bản án, quyết định về trả lại tài sản xã hội chủ nghĩa, phạt tiền, tịch thu tài sản,
quyết định về án phí; bản án quyết định về tiêu hủy tang vật và các quyết định khẩn cấp tạm
thời thì quan hệ pháp luật thi hành án hình thành ngay.
Sau khi giải quyết các tranh chấp dân sự, Tòa án ra bản án, quyết định công nhận các
quan hệ pháp lý, các sự kiện có ý nghĩa pháp lý hoặc buộc người phải thi hành án có nghĩa


vụ phải làm một việc hoặc không được làm một việc vì lợi ích của người được thi hành án.
Tuy nhiên, đối với từng loại bản án, quyết định, từng giai đoạn thi hành án có khác nhau;
đối với loại bản án, quyết định về trả lại tài sản xã hội chủ nghĩa, bản án, quyết định về phạt
tiền, bản án, quyết định về tịch thu tài sản, bản án quyết định về án phí, bản án quyết định
về tiêu hủy tang vật, các quyết định khẩn cấp tạm thời thì quan hệ pháp luật về thi hành án
hình thành ngay, cơ quan thi hành án dân sự, chấp hành viên phải chủ động ra quyết định thi

hành án, đôn đốc, chịu trách nhiệm đến cùng về kết quả thi hành án. Đối với loại bản án,
quyết định, chỉ hình thành quan hệ pháp luật thi hành án khi có đơn yêu cầu của người được
thi hành án sau khi đã thụ lý thi hành án. Trong quan hệ pháp luật thi hành án, có lúc chấp
hành viên chỉ giữ vai trò "chứng kiến", giải thích, hướng dẫn các bên (được thi hành án và
phải thi hành án) tự thi hành án. Nhưng khi người phải thi hành án bất chấp kỷ cương, pháp
luật, coi thường lợi ích của người được thi hành án, cố ý không thực hiện nghĩa vụ của
mình, thì cơ quan thi hành án, chấp hành viên áp dụng các biện pháp cưỡng chế bắt buộc
người phải thi hành án phải thực hiện nghĩa vụ tài sản vì quyền lợi hợp pháp của bên có
quyền.
Thứ hai: Quan hệ thi hành án dân sự không phải là một quá trình tự phát mà theo một
cơ chế chặt chẽ do pháp luật về thi hành án dân sự qui định.
Trong quan hệ thi hành án dân sự, Nhà nước sử dụng quyền lực công để đảm bảo thi
hành án, nhưng Nhà nước cũng không cho phép Cơ quan thi hành dân sự, chấp hành viên
lạm dụng quyền lực. Nhà nước quy định hệ thống văn bản pháp luật về thi hành án dân sự
một cách chi tiết, cụ thể, khoa học, chặt chẽ bao gồm các nguyên tắc, trình tự thủ tục trong
thi hành án dân sự nhằm tạo cơ sở pháp lý cho cơ quan thi hành án, chấp hành viên thực
hiện nhiệm vụ thực thi các bản án, quyết định của Tòa án trên thực tế. Trình tự, thủ tục thi
hành án dân sự không được qui định hoặc qui định không rõ ràng, không khoa học sẽ dẫn
đến việc áp dụng không đúng pháp luật, làm phức tạp quá trình thi hành án, gây tốn kém
kinh phí, không kịp thời hoặc không bảo đảm được lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự, dẫn đến khiếu kiện bức xúc, kéo dài. Mặt khác, do cơ quan thi hành
án là một bộ phận trong bộ máy nhà nước nên hoạt động thi hành án trong một quá trình thi
hành án đều phải tuân theo nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước nói chung
và điều đó chứng tỏ sự diễn biến và phát triển của hoạt động thi hành án dân sự luôn chịu sự


tác động, điều chỉnh trực tiếp của pháp luật về thi hành án dân sự và rộng hơn là của cả hệ
thống pháp luật.
Thứ ba: Quan hệ pháp luật thi hành án dân sự bảo đảm nguyên tắc hoà giải và
quyền tự định đoạt của bên được thi hành án dân sự

Pháp luật thi hành án dân sự công nhận sự thỏa thuận, tự nguyện của người được thi
hành án và của người phải thi hành án về việc chấp hành bản án, quyết định của Tòa án, nếu
sự thỏa thuận đó không vi phạm lợi ích của Nhà nước, của xã hội. Điều đó có nghĩa sau khi
tranh chấp đã được phân xử, các bên vẫn có quyền tiếp tục thể hiện ý chí của mình trong
quá trình thi hành án. Đây là điểm khác nhau cơ bản của thi hành án dân sự so với thi hành
hình sự, thi hành án hành chính.
Bên cạnh cơ chế thi hành án theo yêu cầu của người được thi hành án, pháp luật thi hành
án dân sự của nước ta còn quy định cơ chế chủ động thi hành án, không phụ thuộc vào ý chí của
người được thi hành án và người phải thi hành án. Quy định này xuất phát từ yêu cầu bảo vệ tài
sản xã hội chủ nghĩa, tính nghiêm minh và tính kịp thời của thi hành án dân sự trong việc bảo
đảm lợi ích của đương sự, bảo đảm hiệu quả hoạt động của Tòa án và cơ quan thi hành án.
Thứ tư: Cơ quan thi hành án dân sự, chấp hành viên là chủ thể đặc biệt trong quan hệ
pháp luật thi hành án dân sự.
Những phán quyết về dân sự của Tòa án nhân danh quyền lực nhà nước được chấp
hành viên bảo đảm thực thi trên thực tế, công lý xã hội được thực hiện nhưng không phải vì
lợi ích của chính bản thân mình, mà vì lợi ích mà pháp luật bảo vệ, vì bản án, quyết định của
Tòa án đã có hiệu lực pháp luật phải được các đương sự nghiêm chỉnh chấp hành, các cơ
quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân tôn
trọng. Để chấp hành viên có cơ sở pháp lý hoạt động, pháp luật qui định cho chấp hành viên
những quyền hạn nhất định, như trong trường hợp bản án, quyết định dân sự của Tòa án đã
có hiệu lực pháp luật, hai bên đương sự tự nguyện bàn bạc và thỏa thuận với nhau việc thực
hiện quyền và nghĩa vụ theo nội dung và quyết định của bản án, thì chấp hành viên đóng vai
trò là người "xác nhận" việc tự nguyện và thỏa thuận đó và làm các thủ tục theo qui định
của pháp luật thi hành án dân sự. Trường hợp một bên là chủ thể của quan hệ pháp luật thi
hành án dân sự cố ý không tôn trọng bản án, quyết định của Tòa án, không tự nguyện thực
hiện nghĩa vụ của mình mà có biểu hiện chây ỳ, coi thường pháp luật mặc dù đã được chấp


hành viên cơ quan thi hành án phân tích, giải thích, giáo dục, thì chấp hành viên phải áp
dụng biện pháp cưỡng chế, buộc người phải thi hành án phải thực hiện nghĩa vụ theo phán

quyết mà Tòa án đã tuyên. Trường hợp áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án không
những thể hiện quyền lực nhà nước, mà còn thể hiện bản chất dân chủ của chế độ xã hội chủ
nghĩa cũng như trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân.
Trong quan hệ pháp luật thi hành án dân sự luôn tồn tại ba chủ thể với địa vị pháp lý
khác nhau, đó là cơ quan thi hành án, chấp hành viên với người phải thi hành án và người
được thi hành án. Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, giữ gìn trật tự, kỷ cương
trong thi hành án dân sự là trách nhiệm của Nhà nước, không phải là việc riêng của công
dân. Cơ quan thi hành án, chấp hành viên tham gia quan hệ pháp luật về thi hành án dân sự
không phải vì lợi ích của chính mình, mà nhân danh cơ quan nhà nước, thực hiện quyền lực
nhà nước, thực hiện trên thực tế những phán quyết về dân sự của Tòa án, nhằm bảo đảm lợi
ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của các công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp
luật xã hội chủ nghĩa.
1.2. KHÁI NIỆM, HÌNH THỨC VÀ NỘI DUNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
1.2.1. Khái niệm thực hiện pháp luật thi hành án dân sự
Pháp luật là một công cụ quản lý xã hội sắc bén, song pháp luật chỉ có thể phát huy
được vai trò và những giá trị của mình trong việc duy trì trật tự và tạo điều kiện cho xã hội
phát triển khi nó được tôn trọng và thực hiện trong cuộc sống. Vì vậy, thực hiện pháp luật là
hoạt động không thể thiếu.
Xây dựng những quy phạm pháp luật nhà nước nhằm mục đích điều chỉnh các quan
hệ xã hội đáp ứng lợi ích của nhân dân và tiến bộ xã hội. Mục đích đó chỉ có thể đạt được
khi pháp luật được các chủ thể nghiêm chỉnh thực hiện trong đời sống xã hội. Pháp luật với
tầm quan trọng của nó không chỉ dừng lại bằng các đạo luật, vì đó chỉ là pháp luật ở trạng
thái "tĩnh", vấn đề quan trọng là "pháp luật phải trở thành chế độ pháp chế, được thực hiện
thông qua hoạt động của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và công dân; trở thành
phương thức quản lý xã hội, cho tổ chức đời sống xã hội" [61, tr.225].


Thực hiện pháp luật là một hiện tượng xã hội mang tính pháp lý. Quá trình hoạt động

thực hiện pháp luật được diễn ra đồng thời và tiếp nối với quá trình xây dựng và hoàn thiện
pháp luật của Nhà nước. Thực hiện pháp luật là trách nhiệm, nghĩa vụ của mọi tổ chức (kể
cả các cơ quan nhà nước) và mọi công dân Việt Nam và các tổ chức, công dân nước ngoài
làm việc, sinh sống trên đất Việt Nam. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật và có trách
nhiệm thực hiện pháp luật đúng với nguyên tắc do Hiến pháp quy định (Điều 12 Hiến pháp
năm 1992):
Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp
chế xã hội chủ nghĩa.
Các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang
nhân dân và mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành hiến pháp và pháp luật,
đấu tranh phòng ngừa và chống các tội phạm, các vi phạm hiến pháp và pháp luật
[41].
Mọi hành động xâm phạm lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập
thể và công dân đều bị xử lý theo pháp luật.
Hiện nay đang có nhiều cách định nghĩa mô tả về thực hiện pháp luật. Theo tài liệu
học tập và nghiên cứu môn Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật của Khoa Nhà nước và
Pháp luật thuộc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh nay là Viện Nhà nước - Pháp luật
thuộc Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh thì thực hiện pháp luật được
hiểu là “quá trình hoạt động có mục đích làm cho những qui định của pháp luật trở thành
hiện thực trong cuộc sống, tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động thực tế của các chủ thể pháp
luật” [32, tr.270].
Theo giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật của Khoa Luật của Trường
Đại học Tổng hợp Hà Nội “Thực hiện pháp luật là hiện tượng, quá trình có mục đích làm
cho những quy định của pháp luật trở thành hoạt động thực tế của các chủ thể pháp luật ”
[26, tr.369].
Theo giáo trình Lý luận Nhà nước và pháp luật của trường Đại học Luật Hà Nội
“Thực hiện pháp luật là một quá trình hoạt động có mục đích làm cho những quy định của
pháp luật đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp
luật ”[23, tr.463].



Theo giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật của Học viện Hành chính
Quốc gia “Thực hiện pháp luật là hoạt động, là quá trình làm cho những quy tắc của pháp
luật trở thành hoạt động thực tế của các chủ thể pháp luật” [33, tr.344].
Chúng ta thấy rằng, các định nghĩa trên đều có quan niệm tương đối đồng nhất về
những nội dung cơ bản, đó là: thực hiện pháp luật là hoạt động có mục đích nhằm thực hiện
những yêu cầu của pháp luật, thực hiện pháp luật là hoạt động thực tế, hợp pháp của các chủ
thể pháp luật làm cho những quy định của pháp luật trở thành hiện thực trong cuộc sống.
Tuy nhiên, cũng có sự khác nhau trong các định nghĩa trên. Có định nghĩa nêu thực hiện
pháp luật là một quá trình hoạt động, các định nghĩa khác lại chỉ nêu thực hiện pháp luật là
hiện tượng, quá trình.
Theo chúng tôi, hiện tượng, quá trình hay quá trình hoạt động đều là những phạm trù có
nội hàm riêng của nó nhưng có cùng mục đích là thực hiện những quy định của pháp luật, làm
cho những quy định ấy trở thành những hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật, đáp
ứng yêu cầu đặt ra của pháp luật trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội. Tuy nhiên, hoạt động
thực hiện pháp luật không chỉ là những hành vi đơn lẻ, độc lập, cắt khúc mà nó luôn luôn là một
quá trình. Vì vậy, về khái niệm thực hiện pháp luật chúng tôi đồng ý với nội dung cơ bản trong
các định nghĩa nêu trên và sắp xếp lại như sau:
Thực hiện pháp luật là quá trình hoạt động có mục đích làm cho các qui định của
pháp luật trở thành những hoạt động thực tế, hợp pháp của các chủ thể pháp luật và được
thực hiện trong thực tế cuộc sống.
Thực hiện pháp luật thi hành án dân sự là thực hiện pháp luật về một lĩnh vực trong
xã hội mà cụ thể, đó là thi hành án dân sự. Việc điều tra, hòa giải, xét xử vụ án là những giai
đoạn đầu của quá trình bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, trong đó mới chỉ
giải quyết nội dung vụ án, xác định được quyền và nghĩa vụ của các đương sự, còn phán
quyết của Tòa án có trở thành hiện thực hay không còn tùy thuộc vào quá trình thực thi nó
trong cuộc sống. Thông qua giai đoạn thi hành án, bản án, quyết định của Tòa án mới có
hiệu lực trên thực tế, công lý mới được thực hiện. Mặt khác, thi hành án còn là giai đoạn
kiểm nghiệm qua thực tiễn những phán quyết của Tòa án, phản ánh trung thực chất lượng và
hiệu quả của hoạt động xét xử. Từ việc thực hiện pháp luật thi hành án dân sự, cán bộ ngành



Tòa án có thể rút ra cho mình những bài học bổ ích, nâng cao chất lượng và hiệu quả công
tác xét xử.
Thi hành án dân sự là một khâu quyết định, tạo bước chuyển mạnh mẽ để đưa bản án,
quyết định của Tòa án hoặc các quyết định khác theo qui định của pháp luật, được thực hiện
trên thực tế. Thi hành án dân sự nhằm bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp
pháp của các công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa. Điều đó có ý
nghĩa lớn lao không chỉ là lợi ích của Nhà nước, của tập thể và quyền lợi hợp pháp của công
dân mà nó co9ng có ý nghĩa đối với sự ổn định phát triển kinh tế xã hội. Chính vì vậy Nghị
quyết lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX đã chỉ ra: “Tập trung thực hiện
tốt công tác thi hành án, nhất là thi hành án dân sự, khắc phục cơ bản tình trạng tồn đọng
kéo dài”. Những quan điểm, chủ trương của Đảng về thi hành án dân sự nêu trên đã được
thể chế hóa trong pháp luật và đi vào cuộc sống, được thực hiện trên thực tế phải làm tốt
công tác thực hiện pháp luật. Vì thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự là thực hiện pháp
luật trong một lĩnh vực cụ thể, lĩnh vực thi hành án dân sự cho nên khái niệm thực hiện pháp
luật về thi hành án dân sự cũng có đầy đủ các nội dung cơ bản của khái niệm thực hiện pháp
luật nói chung; đồng thời phải nêu được những phương hướng, mục tiêu cụ thể của thi hành
án dân sự theo đường lối, chủ trương của Đảng về thi hành án dân sự. Trên cơ sở đó, có thể
nêu khái niệm thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự như sau:
Thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự là quá trình hoạt động có mục đích làm
cho các qui phạm pháp luật về thi hành án dân sự trở thành những hoạt động thực tế, hợp
pháp của các chủ thể pháp luật và được thực hiện trong thực tế cuộc sống, trở thành những
hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật nhằm phát huy hiệu lực của các bản án,
quyết định của Toà án, đảm bảo các bản án, quyết định được tôn trọng và thi hành nghiêm
chỉnh.
1.2.2. Hình thức và nội dung thực hiện pháp luật thi hành án dân sự
1.2.2.1. Các hình thức thực hiện pháp luật thi hành án dân sự
Các qui phạm pháp luật rất phong phú, đồng thời chúng cũng xác định quyền, nghĩa
vụ thực hiện đối với các chủ thể khác nhau, vì thế hình thức thực hiện chúng cũng rất đa

dạng. Căn cứ vào tính chất của hoạt động thực hiện pháp luật, theo Tài liệu học tập và
nghiên cứu môn học Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật (Tập 1) của Khoa Nhà nước


và pháp luật thuộc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Giáo trình Lý luận chung về
Nhà nước và pháp luật của Khoa Luật của Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội và Giáo trình
Lý luận Nhà nước và pháp luật của trường Đại học Luật Hà Nội đều cho rằng có bốn hình
thức thực hiện pháp luật nhằm mục đích chuyển tải các qui phạm pháp luật vào cuộc sống
thực tiễn, đó là:
Tuân theo (tuân thủ) pháp luật (xử sự thụ động) là một hình thức thực hiện pháp luật,
trong đó các chủ thể pháp luật kiềm chế không tiến hành những hoạt động mà pháp luật
ngăn cấm. Những quy định pháp luật cấm trong luật hình sự, hành chính được thực hiện
dưới hình thức này.
Trong lĩnh vực thi hành án dân sự, hình thức thực hiện này cũng được sử dụng khá
phổ biến, đó là các qui định ngăn cấm chủ thể thi hành án dân sự không được làm. Ví dụ:
Điều 304, Bộ luật Hình sự 1999 quy định "Người nào cố ý không chấp hành bản án, quyết
định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật mặc dù đã bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế cần
thiết, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm".
Trong trường hợp nếu người phải thi hành án cố tình không chấp hành bản án là vi phạm
pháp luật thi hành án dân sự.
Thi hành (chấp hành) pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các
chủ thể pháp luật thực hiện nghĩa vụ pháp lý của mình bằng hành động tích cực. Những qui
phạm pháp luật bắt buộc (những quy định nghĩa vụ phải thực hiện những hành vi tích cực
nhất định) được thực hiện ở hình thức này. Ví dụ, khoản 1, Điều 14, Pháp lệnh Thi hành án
dân sự qui định về nhiệm vụ, quyền hạn của Chấp hành viên đó là "Thi hành đúng nội dung
bản án, quyết định của Toà án; áp dụng đúng các quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục
thi hành án, bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự".
Thi hành pháp luật thi hành án dân sự được thể hiện ở chỗ các chủ thể thi hành pháp
luật thi hành án dân sự thực hiện nghĩa vụ pháp lý của mình bằng hành động tích cực, đó có
thể là cơ quan thi hành án dân sự chủ động tổ chức thi hành án. Sau khi bản án, quyết định

có hiệu lực, cơ quan thi hành án sẽ căn cứ vào nội dung của bản án, quyết định (trường hợp
cơ quan thi hành án chủ động thi hành án), căn cứ vào đơn yêu cầu thi hành án và bản án,
quyết định (trường hợp thi hành án theo đơn yêu cầu của người được thi hành án, người
phải thi hành án) để thi hành án. Cơ quan thi hành án có trách nhiệm tổ chức thi hành đúng


nội dung của bản án, quyết định; người được thi hành án, người phải thi hành án, người có
quyền, nghĩa vụ liên quan đến việc thi hành án phải nghiêm chỉnh thi hành, các cơ quan nhà
nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, tổ
chức kinh tế, đơn vị vũ trang và cá nhân tôn trọng [59]. Chính vì vậy, ở đây thể hiện rất rõ tính
chấp hành trong hoạt động thi hành án dân sự. Đồng thời, chấp hành viên với tư cách là người
được Nhà nước trao quyền và chịu trách nhiệm chính, trong quá trình tổ chức thi hành án, chấp
hành viên căn cứ vào các quy định của pháp luật về thi hành án chủ động phối hợp với các cơ
quan hữu quan để giải quyết các vấn đề có liên quan đến thi hành án. Đặc biệt, trong nhiều
trường hợp chấp hành viên còn chịu trách nhiệm và điều hành cả các thành viên thuộc các cơ
quan, tổ chức khác có tham gia vào quá trình thi hành án. Ví dụ: làm Chủ tịch Hội đồng cưỡng
chế, Chủ tịch Hội đồng định giá tài sản, tiêu hủy tài sản...
Mặt khác, hầu hết các hoạt động thi hành án đều hướng đến việc thực hiện các nghĩa
vụ về tài sản, trực tiếp tác động đến tài sản của các đương sự. Theo quy định tại Điều 1 và
Điều 2 Pháp lệnh Thi hành án dân sự, thì cơ quan thi hành án chịu trách nhiệm tổ chức thi
hành các bản án, quyết định của Tòa án về dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh tế;
bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài, quyết định của Trọng tài nước ngoài được
Tòa án Việt Nam công nhận và cho thi hành tại Việt Nam; quyết định về dân sự, phạt tiền,
tịch thu tài sản, xử lý vật chứng, tài sản, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, án phí trong
bản án, quyết định của Tòa án về hình sự; quyết định về phần tài sản trong bản án, quyết
định về hành chính; quyết định tuyên bố phá sản, quyết định của Trọng tài thương mại Việt
Nam và bản án, quyết định khác do pháp luật quy định. Như vậy, có thể thấy mọi hoạt động
của cơ quan thi hành án đều nhằm tới việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ liên quan đến tài
sản theo nội dung quyết định của bản án, quyết định của Tòa án - kết quả của hoạt động tư
pháp. Trừ duy nhất một trường hợp là cơ quan thi hành án tổ chức thi hành nghĩa vụ liên

quan đến nhân thân đó là tổ chức cưỡng chế cấm hoặc buộc người phải thi hành án không
làm hoặc làm công việc nhất định. Người thi hành án tự nguyện thi hành án...
Sử dụng pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể pháp
luật thực hiện quyền chủ thể của mình (thực hiện những hành vi mà pháp luật cho phép).
Hình thức này khác với hình thức tuân thủ pháp luật và thi hành pháp luật ở chỗ chủ thể có
thể thực hiện hoặc không thực hiện quyền được pháp luật cho phép theo ý chí của mình, chứ


không bị ép buộc phải thực hiện. Ví dụ: Pháp luật qui định công dân có quyền khiếu nại và
tố cáo. Một công dân biết một người nào đó có hành vi vi phạm pháp luật, nhưng công dân
ấy có thể tố cáo (hoặc không tố cáo) với cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Như vậy công
dân đó đã sử dụng (hoặc không sử dụng) pháp luật (quyền được tố cáo).
Trong thi hành án dân sự, việc sử dụng pháp luật thi hành án dân sự thể hiện ở chỗ,
các chủ thể pháp luật thực hiện pháp luật thi hành án theo ý chí của mình trong việc thi hành
án, đó có thể là Cơ quan thi hành án chủ động quyết định thi hành án (án phí, lệ phí Tòa án,
trả lại tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án; hình phạt tiền; tịch thu tài sản, truy thu thuế, truy
thu tiền, tài sản thu lợi bất chính; xử lý vật chứng, tài sản đã thu giữ; thu hồi đất theo quyết
định của Tòa án; quyết định khẩn cấp tạm thời của Tòa án); người được thi hành án và
người phải thi hành yêu cầu co quan thi hành án thi hành án. Cơ quan thi hành án chỉ tổ
chức thi hành án trên cơ sở yêu cầu thi hành án của người được thi hành án và người phải
thi hành. Cơ quan thi hành án chỉ ra quyết định trong phạm vi yêu cầu của người được thi
hành án, người phải thi hành án. Đồng thời, người được thi hành án có quyền yêu cầu không
thi hành án, hoặc cho người phải thi hành án hoãn việc thi hành án; thỏa thuận với người
phải thi hành án về phương thức, địa điểm thi hành án.
Áp dụng pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó Nhà nước thông
qua các cơ quan nhà nước hoặc nhà chức trách có thẩm quyền tổ chức cho các chủ thể pháp
luật để tạo ra các quyết định làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt những quan hệ pháp luật
cụ thể. Trong trường hợp này các chủ thể thực hiện pháp luật thực hiện các qui định của
pháp luật có sự can thiệp của Nhà nước. Ví dụ: Nhà nước qui định cá nhân, tổ chức kinh
doanh những ngành, nghề mà theo qui định của pháp luật phải nộp thuế thì phải có nghĩa vụ

nộp thuế. Nếu cá nhân, tổ chức kinh doanh đó không thực hiện nghĩa vụ nộp thuế của mình,
thì Nhà nước thông qua các cơ quan nhà nước hoặc nhà chức trách có thẩm quyền sẽ áp
dụng pháp luật, ra quyết định cưỡng chế bắt buộc cá nhân, tổ chức đó phải thực hiện nghĩa
vụ nộp thuế của mình.
Trong áp dụng pháp luật thi hành án dân sự, tính chủ động trong hoạt động tác nghiệp
của chấp hành viên được đề cao. Chấp hành viên căn cứ vào các quy định của pháp luật về thi
hành án dân sự, căn cứ vào tình hình thực tế của vụ việc để lựa chọn các biện pháp thi hành phù
hợp. Ví dụ, vụ việc đơn giản, ý thức chấp hành pháp luật của người phải thi hành án tốt, thì


chấp hành viên lựa chọn biện pháp giáo dục, thuyết phục người phải thi hành án tự nguyện thi
hành các nghĩa vụ của mình theo đúng phán quyết của Tòa án hoặc của Trọng tài thương mại
(trường hợp người được thi hành án yêu cầu người phải thi hành án thi hành toàn bộ các nghĩa
vụ theo quyết định của bản án, quyết định của Tòa án). Ngược lại, nếu sau khi xác minh thấy
đương sự có điều kiện để thi hành án, nhưng xét thấy người phải thi hành án ý thức chấp hành
pháp luật không tốt, có biểu hiện tẩu tán tài sản, hoặc cố tình chây ỳ không tự nguyện thi hành
án, thì chấp hành viên lựa chọn, áp dụng một hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế được quy định
trong Pháp lệnh Thi hành án dân sự (khấu trừ tài khoản, trừ vào tiền, thu hồi giấy có giá của
người phải thi hành án; trừ vào thu nhập của người phải thi hành án; phong tỏa tài khoản, tài sản
của người phải thi hành án tại ngân hàng, tổ chức tín dụng, kho bạc; kê biên, xử lý tài sản của
người phải thi hành án kể cả tài sản của người phải thi hành án đang do người thứ ba giữ; buộc
giao nhà, chuyển quyền sử dụng đất hoặc giao vật, tài sản khác; cấm hoặc buộc người phải thi
hành án không làm hoặc làm công việc nhất định) để tổ chức thi hành dứt điểm bản án, quyết
định của Tòa án hoặc quyết định của Trọng tài thương mại.
Như vậy, thì thực hiện pháp luật được thực hiện thông qua bốn hình thức: tuân theo
pháp luật, thi hành pháp luật, sử dụng pháp luật và áp dụng pháp luật. Tuy nhiên, hình thức
áp dụng pháp luật có sự khác biệt với các hình thức tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật và
sử dụng pháp luật. Sự khác biệt này thể hiện ở chỗ, nếu như tuân thủ pháp luật, thi hành
pháp luật và sử dụng pháp luật là những hình thức mà mọi chủ thể thực hiện pháp luật đều
có thể thực hiện thì áp dụng pháp luật là hình thức luôn luôn có sự tham gia của Nhà nước,

thông qua các cơ quan nhà nước hoặc nhà chức trách có thẩm quyền.
1.2.2.2. Nội dung thực hiện pháp luật thi hành án dân sự
Thực hiện pháp luật thi hành án dân sự là hoạt động có mục đích nhằm thực hiện các
qui định của pháp luật thi hành án dân sự, đưa các qui phạm pháp luật này vào thực tiễn
cuộc sống, biến nó thành những hành vi xử sự thực tế góp phần phát huy tính tích cực, chủ
động trong thực hiện pháp luật thi hành án dân sự. Pháp luật thi hành án dân sự được thực
hiện trong đời sống xã hội thông qua các hình thức tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật, sử
dụng pháp luật và áp dụng pháp luật. Các qui phạm pháp luật thi hành án dân sự của nước ta
hiện nay được ghi nhận trong nhiều văn bản pháp luật (Hiến pháp 1992, Luật, Pháp lệnh,
Nghị quyết, Nghị định, Chỉ thị, Thông tư, Quyết định...) của các cơ quan nhà nước có thẩm


quyền, với nội dung rất rộng, liên quan đến tất cả các mặt của lĩnh vực thi hành án dân sự.
Tuy vậy có thể khái quát nội dung thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự bao gồm ba vấn
đề chủ yếu là: thực hiện các qui định của pháp luật về các tổ chức thi hành án dân sự; thực
hiện các qui định của pháp luật về quản lý nhà nước đối với công tác thi hành án dân sự và
thực hiện qui định của pháp luật về hoạt động thi hành án dân sự.
a) Thực hiện qui định của pháp luật về các tổ chức thi hành án dân sự
Thực hiện qui định của pháp luật về các tổ chức thi hành án dân sự là thực hiện các
qui định của pháp luật về hệ thống và tổ chức bộ máy các cơ quan thi hành án dân sự trong
toàn quốc. Tổ chức hệ thống thi hành án dân sự ở nước ta cho được hình thành từ Trung
ương đến địa phương, ở Bộ Tư pháp có Cục Quản lý thi hành án dân sự, ở cấp tỉnh có Thi
hành án dân sự tỉnh, bao gồm Trưởng Thi hành án tỉnh, các chấp hành viên thi hành án cấp
tỉnh, các cán bộ làm công tác thi hành án; ở cấp huyện có Thi hành án dân sự huyện, thị xã,
thành phố, bao gồm Trưởng thi hành án cấp huyện, chấp hành viên cấp huyện và các cán bộ
làm công tác thi hành án. Cơ quan thi hành án trong quân đội là Thi hành án quân khu và
tương đương. Các qui định của pháp luật về các tổ chức thi hành án dân sự là thực hiện các
qui định của pháp luật về tổ chức bộ máy các cơ quan thi hành án dân sự trong toàn quốc.
Các qui định về hệ thống và tổ chức bộ máy các cơ quan thi hành án dân sự được qui định tại
Điều 11, 12, 13, 15 Pháp lệnh Thi hành án dân sự 2004 và Nghị định 50/2005/NĐ-CP ngày 11

tháng 4 năm của Chính phủ về cơ quan quản lý thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án
dân sự và cán bộ, công chức làm công tác thi hành án dân sự.
b) Thực hiện các nội dung quản lý nhà nước về thi hành án dân sự
Thực hiện nội dung quản lý nhà nước về thi hành án dân sự là quá trình hoạt động
của các chủ thể (Chính phủ, Bộ Tư pháp, Uỷ ban nhân dân các cấp) trong việc thực hiện các
qui định của pháp luật về thi hành án dân sự bao gồm: ban hành các văn bản pháp quy,
hướng dẫn, chỉ đạo, kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm trong công tác thi hành án dân sự;
giải quyết khiếu nại, tố cáo về thi hành án dân sự; thực hiện chế độ khen thưởng, kỷ luật đối
với chấp hành viên, công chức làm công tác thi hành án dân sự; đào tạo, bồi dưỡng nghiệp
vụ cho Chấp hành viên, công chức làm công tác thi hành án dân sự; quản lý cơ sở vật chất kỹ thuật, kinh phí, phương tiện cần thiết cho công tác thi hành án dân sự; hợp tác quốc tế về


thi hành án dân sự. Những nội dung về quản lý nhà nước về thi hành án dân sự nói trên
được qui định tại Điều 57, 58,59,60,61,62 của Pháp lệnh Thi hành án dân sự 2004.
c) Thực hiện các qui định của pháp luật đối với hoạt động thi hành án dân sự
Thực hiện các qui định của pháp luật về hoạt động thi hành án dân sự là quá trình
hoạt động của các chủ thể pháp luật thi hành án dân sự trong việc thực hiện các qui định,
các yêu cầu của pháp luật về tổ chức thi hành án và các hoạt động thi hành án khác theo qui
định của pháp luật thi hành án dân sự. Nội dung hoạt động thi hành án dân sự đã được xác
định trong Pháp lệnh Thi hành án dân sự bao gồm những qui định chung về nhiệm vụ, quyền
hạn của chấp hành viên, thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự, các cơ quan khác như: Toà án,
Viện kiểm sát, công án, ngân hàng, kho bạc, tín dụng trong việc phối hợp thi hành án. Ngoài ra,
các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội
- nghề nghiệp, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn
của mình và cá nhân có trách nhiệm thực hiện đầy đủ yêu cầu của chấp hành viên trong việc thi
hành án được qui định tại khoản 1, Điều 8 Pháp lệnh Thi hành án dân sự 2004.
1.3. VAI TRÒ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
Trong đời sống xã hội có rất nhiều lĩnh vực khác nhau, đòi hỏi Nhà nước phải xây dựng
và ban hành nhiều văn bản pháp luật để đáp ứng yêu cầu điều chỉnh các quan hệ xã hội đó.
Thực tiễn cho thấy có rất nhiều văn bản pháp luật phát huy tác dụng tốt, đem lại hiệu quả thiết

thực trong công tác quản lý, nhưng vẫn còn không ít văn bản pháp luật chưa phát huy được hiệu
lực thi hành, không mang lại hiệu quả như mong muốn. Mặt tồn tại đó có nhiều nguyên nhân,
trong đó có nguyên nhân là do chưa tổ chức tốt việc thực hiện pháp luật. Khi giữa hoạt động
xây dựng pháp luật và thực hiện pháp luật có một khoảng cách lớn, tức là pháp luật được ban
hành với khối lượng lớn mà ít đi vào cuộc sống, thì sẽ dẫn đến tình trạng pháp luật bị coi
thường, không hiệu quả [61, tr.226]. Vì vậy, thực hiện pháp luật có vai trò to lớn trong việc
chuyển văn bản pháp luật của Nhà nước được thực thi trong đời sống thực tiễn.
Để nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật thì phải có phương thức thực hiện tốt các
hoạt động về pháp luật từ khâu xây dựng pháp luật, phổ biến, giáo dục pháp luật, thực hiện
pháp luật, kiểm tra, xử lý những hành vi vi phạm pháp luật nhằm bảo vệ pháp luật. Để pháp
luật phát huy hiệu lực, đạt hiệu quả trong quá trình điều chỉnh các quan hệ xã hội, thì Nhà
nước ngoài việc tạo lập môi trường chính trị - xã hội thuận lợi, nâng cao trình độ pháp lý


cho cán bộ và nhân dân, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, đòi hỏi phải xác lập cơ
chế thực hiện pháp luật một cách có hiệu quả.
Như vậy có thể khẳng định rằng, thực hiện pháp luật có vị trí và tầm quan trọng
đặc biệt trong toàn bộ các hoạt động về pháp luật. Thực hiện pháp luật là hoạt động đưa
pháp luật vào cuộc sống, biến những qui phạm pháp luật thành những hành vi, xử sự
thực tế, hợp pháp của cá nhân, tập thể trong thực tiễn xã hội. Nếu không có tổ chức tốt
việc thực hiện pháp luật thì ý chí của Nhà nước sẽ không đi vào đời sống thực tiễn, pháp
luật sẽ không phát huy được hiệu lực, sẽ không đạt hiệu quả trong điều chỉnh các quan
hệ xã hội.
Vị trí, vai trò của thực hiện pháp luật không chỉ thể hiện trong toàn bộ các hoạt động
về pháp luật (xây dựng pháp luật, thực hiện pháp luật, bảo vệ pháp luật) mà nó còn là “một
mặt quan trọng của nền pháp chế ” [23, tr.515]. Kết quả của việc tổ chức thực hiện pháp luật
là một trong những tiêu chuẩn để xác định tính chất của nền pháp chế xã hội chủ nghĩa. Bởi
vì pháp chế là một phạm trù thể hiện những yêu cầu và sự đòi hỏi đối với các chủ thể pháp
luật phải tôn trọng và triệt để thực hiện pháp luật trong đời sống xã hội. Sự thực hiện pháp
luật là trung tâm của pháp chế.

Xét trong mối quan hệ giữa pháp luật và thực hiện pháp luật, Lênin cho rằng dù pháp
luật có tốt đến đâu thì đó cũng chỉ là khả năng quản lý, khả năng đấu tranh. Để biến khả
năng đó thành hiện thực cuộc sống nhất thiết phải biết sử dụng khả năng đó như là phương
tiện tổ chức quần chúng thì mới thắng được trật tự xã hội cũ cũng như mọi biểu hiện vô
chính phủ. Pháp luật Xô - viết rất tốt vì những pháp luật này đã đem lại cho mọi người cái
khả năng đấu tranh chống bệnh quan liêu và lề mề... Thế nhưng có ai sử dụng khả năng đó
không? Hầu như không có một ai ! Không những nông dân, chính cả một số rất lớn đảng
viên cộng sản cũng không biết dùng pháp luật Xô - viết để đấu tranh chống bệnh lề mề và
bệnh quan liêu... [37, tr.214].
Thật vậy, nếu như không có sự tôn trọng và thực hiện pháp luật một cách nghiêm
chỉnh, triệt để, chính xác của các chủ thể pháp luật thì sẽ không có pháp chế xã hội chủ
nghĩa.
Trong sự nghiệp đổi mới đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh
đạo, việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì


×