Tải bản đầy đủ (.pdf) (66 trang)

Luận văn một số BIỆN PHÁP đẩy MẠNH HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU ở LẠNG sơn GIAI đoạn 2000 – 2005

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (538.71 KB, 66 trang )

Luận văn
MỘT SỐ BIỆN PHÁP ĐẨY
MẠNH HOẠT ĐỘNG XUẤT
NHẬP KHẨU Ở LẠNG SƠN
GIAI ĐOẠN 2000 – 2005

1


LỜI NÓI ĐẦU
Sau hơn mười năm đổi mới nền kinh tế, nước ta đã có những bước
chuyển biến rõ dệt. Nền kinh tế thị trường với đặc trưng là một nền kinh
tế mở đã thu hút được sự chú ý hợp tác kinh doanh của nhiều nước trên
thế giới. Nền kinh tế thoát khỏi khủng hoảng bước đầu đi vào ổn định, sự
tăng trưởng liên tục, hàng hoá tràn ngập thị trường với nhiều loại và giá
cả ổn định phục vụ người tiêu dùng. Đó là một định hướng đúng và cũng
là một thành tựu của Đảng và Nhà nước ta.
Đổi mới nền kinh tế cùng với sự quan tâm của Nhà nước tạo ra hàng
loạt các cơ hội sản xuất, kinh doanh, hợp tác trao đổi làm ăn giữa các
doanh nghiệp trong và ngoài nước. Hoạt động xuất nhập khẩu từ đó mà
phát triển làm cầu nối các loại hàng hoá giữa các nước thâm nhập lẫn
nhau, phát huy lợi thế riêng của mỗi nước, rút ngắn khoảng cách và tăng
cường giao lưu, là hoạt động đem lại nhiều ngoại tệ cho đất nước. Các
doanh nghiệp ở nước ta tham gia hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu,
ngoài các đặc điểm riêng của mình về mặt hàng hoặc lĩnh vực thì đều phải
cạnh tranh công bằng, khốc liệt trên thị trường để đứng vững và xuất khẩu
cũng nhằm mục đích tạo lợi ích cho quốc gia và cho sự phát triển của
doanh nghiệp mình.
Bằng những kiến thức được tích luỹ trong quá trình học tập trường
Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội, trong thời gian thực tập tại Sở thương
mại và du lịch Lạng Sơn được sự giúp đỡ của các cô chú phòng kinh tế


tổng hợp và các phòng ban khác cùng với sự mong muốn bản thân là
nâng cao sự hiểu biết thực tiễn cũng như góp phần nâng cao hiệu quả ở
trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của sở thương mại và du lịch.
Em xin mạnh dạn đi sâu nghiên cứu đề tài: “MỘT SỐ BIỆN PHÁP ĐẨY
MẠNH HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU Ở LẠNG SƠN GIAI ĐOẠN 2000 –
2005”.

2


Nội dung của đề tài này gồm ba phần chính:
ChươngI:
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG, XUẤT NHẬP KHẨU
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH

Chương II:
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU HIỆN NAY Ở
LẠNG SƠN

Chương III:
GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP
KHẨU Ở LẠNG SƠN

3


CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH
I. HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ ĐỐI VỚI SỰ

PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở CÁC ĐỊA PHƯƠNG CÁC TỈNH, THÀNH PHỐ

1. Hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá
Trong lịch sử phát triển kinh tế các nước hoạt động trao đổi hàng
hoá ngày càng đa dạng. Cùng với sự phát triển xã hội ngày càng văn minh
thì hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động kinh doanh xuất nhập
khẩu nói riêng ngày càng phát triển mạnh mẽ. Từ trao đổi giữa các nước
nhằm mục đích tiêu dùng cá nhân của các sản phẩm thiết yếu sau đó trao
đổi để kiếm lợi.
Hình thái này ngày càng phát triển và trở thành một lĩnh vực không
thể thiếu được trong sự phát triển cảu kinh tế đất nước. Hoạt động kinh
doanh xuất nhập khẩu nó vượt ra biến giới các nước và gắn liền với các
đồng tiền quốc tế khác nhau. Nó diễn ra bất cứ nơi nào và quốc gia nào
trên thế giới do vậy nó cũng rất phức tạp. Thông qua trao đổi xuất nhập
khẩu các nước có thể phát huy lợi thế so sánh của mình. Nó cho biết nước
mình nên sản xuất mặt hàng gì và không nên sản xuất mặt hàng gì để khai
thác triệt để lợi thế riêng của mình.
Hiểu theo nghĩa chung nhất thì hoạt động xuất nhập khẩu là hoạt
động trao đổi hàng hoá và dịch vụ giữa các quốc gia. Kinh doanh là hoạt
động thực hiện một hoặc một số công đoạn từ sản xuất đến tiêu thụ sản
phẩm hay thực hiện một số dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích lợi
nhuận. Vì vậy hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu là việc bỏ vốn vào
thực hiện các hoạt động trao đổi hàng hoá, dịch vụ giữa các quốc gia
nhằm mục đích thu được lợi nhuận. Đây chính là mối quan hệ xã hội nó
phản ánh sự không thể tách rời các quốc gia. Cùng với tiến bộ khoa học
kỹ thuật, chuyên môn hoá ngày càng tăng, cùng với sự đòi hỏi về chất
lượng sản phẩm và dịch vụ của khách hàng ngày càng đa dạng và phong
4



phú thì sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia ngày càng tăng.
Một thực tế cho thấy nhu cầu con người không ngừng tăng lên và
nguồn lực quốc gia là có hạn. Do đó trao đổi mua bán quốc tế là biện pháp
tốt nhất và có hiệu quả. Quan hệ quốc tế này nó ảnh hưởng tới sự phát
triển kinh tế của mỗi quốc gia. Để tận dụng có hiệu quả nguồn lực của
mình vào phát triển kinh tế đất nước.
2. Quan điểm về hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu.
Hiệu quả là thước đo phản ánh mức độ sử dụng các nguồn lực.
Trong cơ chế thị trường sự tồn tại của nhiều thành phần và mối quan hệ
kinh tế thì hiệu quả là vấn để sống còn của nó phản ánh trình độ tổ chức
cúa sở thương mạikinh tế quản lý của doanh nghiệp. Cho đến nay qua các
hình thái xã hội có quan hệ sản xuất khác nhau cho nên quan điểm về hiệu
quả kinh doanh cũng như hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu có nhiều
khác nhau. Hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu là một hình thái của
hoạt động kinh doanh. Do đó quan điểm về hiệu quả cũng được hiểu theo
một cách tương đồng.
Trong xã hội tư bản với chế độ tư nhân về tư liệu sản xuất thì quyền
lợi về kinh tế và chính trị đều nằm trong tay các nhà tư bản. Chính vì vậy
phấn đấu tăng năng suất lao động, tăng hiệu quả kinh doanh tức là tăng lợi
nhuận cho các nhà tư bản. Cũng giống như một số chỉ tiêu chất lượng
tổng hợp phản ánh trình độ lợi dụng các yếu tố trong quá trình sản xuất,
đồng thời là một phạm trù kinh tế gắn liền nền sản xuất hàng hoá. sản
xuất hàng hoá có phát triển hay không là nhờ hiệu quả cao hay thấp. Biểu
hiện hiệu quả là lợi ích mà thước đo cơ bản là tiền. Hiểu được phần nào
quan điểm này cho nên Adam Smith cho rằng “Hiệu quả kinh tế là kết quả
đạt được trong hoạt động kinh tế” và ông cũng cho rằng “Hiệu quả kinh
doanh là doanh nghiệp tiêu thụ được hàng hoá”. Ở đây hiệu quả được
đồng nghĩa với chỉ tiêu phản ánh kết quả kinh doanh. Quan điểm này khó
giải thích kết quả kinh doanh. Nếu cùng một kết quả mà hai mức chi phí
khác nhau thì quan điểm này cho chúng ta có cùng một hiệu quả.

Quan điểm thứ hai cho rằng: “Hiệu quả kinh doanh là quan hệ tỷ lệ
5


giữa phần tăng thêm của kết quả và phần tăng thêm của chi phí”. Quan
điểm này đã biểu hiện được mối quan hệ so sánh tương đối giữa kết quả
đạt được và chi phí bảo ra. Tức là nếu gọi H là hiệu quả tương đối, B
phần tăng thêm về kết quả kinh doanh, C phần tăng thêm về chi phí thì:
H = (B:C).100. Theo quan điểm này hiệu quả kinh doanh chỉ được
xét đến phần kết quả bổ sung.
Quan điểm thứ ba cho rằng: “Hiệu quả kinh doanh được đo bằng
hiệu số giữa kết quả và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó”. Quan điểm
này nó đã gắn được hiệu quả với toàn bộ chi phí, coi hiệu quả kinh doanh
là phản ánh trình độ sử dụng chi phí, phản ánh tiết kiệm.
Tuy nhiên, theo chủ nghĩa duy vật biện chứng của Mác - Lênin thì
các sự vật, hiện tượng không ở trạng thái tình mà luôn biến đổi, vận động.
Vì vậy, xem xét hiệu quả không nằm ngoài quy luật này. Do đó hiệu quả
sản xuất kinh doanh vừa là phạm trù cụ thể vừa là một phạm trù trìu
tượng, cụ thể ở chỗ trong công tác quản lý thì phải định thành các con số
để tính toán, so sánh. Trừu tượng ở chỗ nó được định tính thành mức độ
quan trọng hoặc vai trò của nó trong lĩnh vực kinh doanh. Cho nên quan
điểm thứ tư cho rằng hiệu quả kinh doanh nó bám sát mục tiêu của nền
sản xuất xã hội chủ nghĩa là không ngừng nâng cao đời sống vật chất tinh
thần của nhân dân lao động.
Có rất nhiều các quan điểm nữa những tất cả chưa có sự thống nhất
trong quan niệm nhưng họ đều cho rằng phạm trù hiệu quả kinh doanh
phản ánh mặt chất lượng của hoạt động kinh doanh, phản ánh trình độ lợi
dụng các nguồn lực để đạt được mục tiêu cuối cùng. Tuy nhiên cần có
một khái niệm tương đối đầy đủ để phản ánh hiệu quả sản xuất kinh
doanh đó là: “Hiệu quả sản xuất kinh doanh là phạm trù kinh tế biểu hiện

tập trung của sự phát triển kinh tế theo chiều sâu, phản ánh trình độ khác
sử dụng các nguồn lực trong quá trình tái sản xuất nhằm thực hiện mục
tiêu kinh doanh. Nó là thước đo ngày càng trở nên quan trọng của sự tăng
trưởng kinh tế và là chỗ dựa cơ bản để đánh giá việc thực hiện mục tiêu
kinh tế của doanh nghiệp trong từng thời kỳ”.
6


Doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu là doanh nghiệp trao đổi
buôn bán hàng hoá vượt qua ngoài biên giới đất nước. Hoạt động kinh
doanh xuất nhập khẩu là hình thái của hoạt động sản xuất kinh doanh nói
chung và nó xoay quanh hoạt động kinh doanh, nó được mở rộng về
không gian trao đổi hàng hoá và chủng loại hàng hoá. Do vậy, bản chất
của hoạt động xuất nhập khẩu là bản chất của hoạt động kinh doanh.
Trong thực tế, hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu trong các doanh
nghiệp xuất nhập khẩu đạt được trong các trường hợp sau (hiệu quả ở đây
hiểu đơn thuần là lợi nhuận): Kết quả tăng (kim ngạch, bán buôn, bán lẻ)
nhưng chi phí giảm và kết quả tăng chi phí tăng nhưng tốc độ tăng của kết
quả cao hơn tốc độ tăng của chi phí. Hiệu quả tăng đồng nghĩa với tích
luỹ và mở rộng sản xuất kinh doanh, cho nên tăng hiệu quả là mục tiêu
sống còn của doanh nghiệp.
3. Bản chất và phân loại hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu.
Hiệu quả sản xuất kinh doanh là nâng cao năng suất lao động và tiết
kiệm lao động xã hội. Các nguồn lực bị hạn chế và khan hiếm chính là
nguyên nhân dẫn đến phải tiết kiệm, sử dụng triệt để và có hiệu quả. Để
đạt được mục tiêu trong kinh doanh phải phát huy điều kiện nội tại, hiệu
năng các yếu tố sản xuất tiết kiệm mọi chi phí. Nâng cao hiệu quả chính là
phải đạt kết quả tối đa với chi phí nhỏ nhất.
3.1. Hiệu quả kinh doanh cá biệt và hiệu quả kinh tế xã hội.
Những doanh nghiệp hoạt động thường chạy theo hiệu quả cá biệt,

Nhà nước với các công cụ buộc các doanh nghiệp phải tuân theo và phải
phục vụ các lợi ích chung của toàn xã hội như phát triển sản xuất, đổi mới
cơ cấu kinh tế , tích luỹ ngoại tệ, tăng thu ngân sách có lợi ích cá biệt của
doanh nghiệp đó là lợi nhuận. Tuy nhiên có thể có những doanh nghiệp
không đảm bảo hiệu quả cá biệt nhưng nền kinh tế quốc dân vẫn thu được
hiệu quả. Tình hình này doanh nghiệp chỉ có thể chấp nhận được trong
ngắn hạn và trong thời điểm nhất định do những nguyên nhân khách quan
mang lại.Vì vậy trong kinh doanh xuất nhập khẩu doanh nghiệp phải quan
tâm đến cả hai loại hiệu quả, kết hợp các lợi ích, và không ngừng nâng
7


cao hiệu quả kinh doanh.
3.2. Hiệu quả tuyệt đối và hiệu quả tương đối.
Hiệu quả tuyệt đối là hiệu quả được tính toán cho từng phương án
cụ thể sau khi đã trừ đi chi phí để thu được kết quả đó. Hiệu quả tương
đối được xác định bằng cách so sánh các hiệu quả tuyệt đối của các
phương án khác nhau. Mục đích của việc tính toán là so sánh mức độ hiệu
quả các phương án khi thực hiện cùng một nhiệm vụ để từ đó chọn một
cách thực hiện có hiệu quả nhất. Trong thực tế để thực hiện một phương
án mà rất nhiều các phương án khác nhau so sánh đánh giá là một trong
những công tác rất quan trọng, vai trò này thuộc về các nhà quản lý để từ
đó tạo ra hiệu quả cao nhất cho doanh nghiệp.
3.3. Hiệu quả chi phí bộ phận và hiệu quả chi phí tổng hợp.
Hoạt động xuất nhập khẩu gắn liền với các điều kiện cụ thể như tài
chính, trình độ kỹ thuật, nguồn nhân lực... Do vậy, hình thành chi phí mỗi
doanh nghiệp là khác nhau. Nhưng thị trường chỉ chấp nhận chi phí trung
bình xã hội cần thiết. Trong công tác quản lý đánh giá hiệu quả xuất nhập
khẩu không chỉ đánh giá hiệu quả chi phí tổng hợp mà còn đánh giá hiệu
quả của từng loại chi phí để tăng hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.

Quan tâm đến chi phí cá biệt để từ đó có các biện pháp giảm những chi
phí cá biệt không hiệu quả tạo cơ sở hoàn thiện một biện pháp tổng hợp,
đồng bộ tạo tiền đề để thu được hiệu quả cao nhất.
II. NỘI DUNG VÀ HÌNH THỨC HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU Ở CÁC TỈNH

1. Các hình thức nhập khẩu.
1.1. Xuất nhập khẩu trực tiếp.
Hoạt động xuất nhập khẩu trực tiếp còn gọi là hoạt động xuất nhập
khẩu tự doanh là việc doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá
do doanh nghiệp mình sản xuất hay thu gom được cho khách hàng nước
ngoài và ngược lại. Hoạt động xuất nhập khẩu diễn ra sau khi doanh
nghiệp nghiên cứu kỹ thị trường, tính toán đầy đủ các chi phí và đảm bảo
tuân theo chính sách Nhà nước và luật pháp quốc tế.
8


Đặc điểm: Doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp phải tự bỏ vốn, tự
chịu mọi chi phí, chịu mọi trách nhiệm và chịu rủi ro trong kinh doanh.
1.2. Xuất nhập khẩu uỷ thác.
Là hình thức xuất nhập khẩu trong đó đơn vị tham gia xuất nhập
khẩu đóng vai trò trung gian cho một đơn vị kinh doanh khác tiến hành
đàm phán ký kết hợp đồng bán hàng hoá với đối tác bên ngoài. Xuất nhập
khẩu uỷ thác hình thành giữa một doanh nghiệp trong nước có nhu cầu
tham gia xuất nhập khẩu hàng hoá nhưng lại không có chức năng tham gia
vào hoạt động xuất nhập khẩu trực tiếp và phải nhờ đến một doanh nghiệp
có chức năng xuất nhập khẩu được doanh nghiệp có nhu cầu uỷ quyền.
Doanh nghiệp xuất nhập khẩu trung gian này phải làm thủ tục và được
hưởng hoa hồng.
Đặc điểm: Doanh nghiệp nhận uỷ quyền không phải bỏ vốn, không
phải xin hạn ngạch... mà chỉ đứng ra khiếu nại nếu có tranh chấp xảy ra.

1.3. Xuất nhập khẩu hàng đổi hàng.
Là hình thức xuất khẩu gắn liền với nhập khẩu, người mua đồng
thời cũng là người bán.
Đặc điểm: Hình thức xuất nhập khẩu này doanh nghiệp có thể thu
lãi từ hai hoạt động nhập và xuất hàng hoá. Tránh được rủi ro biến động
đồng ngoại tệ. Trong hình thức xuất nhập khẩu hàng đổi hàng khối lượng,
giá trị nên tương đương nhau thì có lợi cho doanh nghiệp khi tham gia vận
chuyển, hình thức xuất nhập khẩu này được nhà nước khuyến khích.
1.4. Xuất nhập khẩu liên doanh.
Là một hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá trên cơ sở liên kết một
cách tự nguyện giữa các doanh nghiệp (ít nhất là một doanh nghiệp có
chức năng xuất nhập khẩu) nhằm phối hợp khả năng sản xuất -> xuất nhập
khẩu trên cơ sở các bên cùng chịu rủi ro và chia sẻ lợi nhuận.
Đặc điểm: Doanh nghiệp hoạt động xuất nhập khẩu chỉ đóng góp
một phần nhất định. Chi phí, thuế, trách nhiệm được phân theo tỷ lệ đóng
góp thoả thuận.
9


Còn có rất nhiều hình thức xuất nhập khẩu khác như gia công uỷ
thức, giao dịch tái xuất... nhưng trên đây là các hình thức cơ bản nhất và
phổ biến trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu.
2. Hoạt động xuất nhập khẩu trong cơ chế thị trường.
Xuất nhập khẩu là một hoạt động tạo lợi nhuận cho doanh nghiệp,
nâng cao đời sống cho người lao động, phát huy lợi thế so sánh, phát triển
tăng trưởng của quốc gia. Chính vì thế hoạt động này rất phức tạp. Để
thực hiện tốt phải có sự chuẩn bị về quy chế, quản lý, tổ chức tốt thì mới
thu được hiệu quả lâu dài. Hoạt động kinh doanh cũng như hoạt động xuất
nhập khẩu nó gắn liền với rủi ro, nếu không có sự nghiên cứu một cách kỹ
lưỡng. Do vậy trong hoạt động xuất nhập khẩu phải được tiến hành theo

các bước, các khâu và xem xét một cách kỹ lưỡng nhưng phải theo kịp
biến động và nhu cầu của thị trường trên cơ sở tuân thủ pháp luật và thông
lệ quốc tế và Nhà nước. Do đó phải nắm rõ nội dung của hoạt động xuất
nhập khẩu đó là.
2.1. Nghiên cứu và tiếp cận thị trường.
Nghiên cứu thị trường là dùng tổng hợp các biện pháp kỹ thuật
nghiên cứu như điều tra, tham dò, thu thập... Sau đó phân tích trên cơ sở
đầy đủ thông tin và từ đó đưa ra quyết định trước khi thâm nhập thị
trường. Vấn đề ở đây là phải nhận biết sản phẩm xuất nhập khẩu phải phù
hợp với thị trường, số lượng, phẩm chất, mẫu mã... Từ đó rút ra khả năng
của mình cung ứng mặt hàng đó. Phải nhận biết được rằng chu kỳ sống
của sản phẩm ở giai đoạn nào (thường trải qua 4 giai đoạn: Triển khai ->
tăng trưởng -> bão hoà -> suy thoái). Mỗi giai đoạn có một đặc điểm
riêng mà doanh nghiệp phải biết khai thác có hiệu quả. Sản xuất cũng
như xuất nhập khẩu có rất nhiều đối thủ cạnh tranh trong cùng lĩnh vực do
đó doanh nghiệp phải quan tâm đến đối thủ thù đó để ra biện pháp thời
điểm xuất nhập khẩu sao cho phù hợp nhất. Ngoài ra vấn đề tỷ giá hối
đoái cũng rất quan trọng. Trong hoạt động xuất nhập khẩu nó gắn liền với
10


các đồng ngoại tệ mạnh, sự biến động của các đồng tiền nó ảnh hưởng rất
lớn. Do đó dự báo nắm do xu hướng biến động là vấn đề cần quan tâm.
Trong các cuộc nghiên cứu cần quan tâm các nội dung như nghiên cứu về
nội dung hàng hoá, nghiên cứu về giá cả hàng hoá, thị trường hàng hoá ...
Trên cơ sở này doanh nghiệp có các bước đi tiếp theo.
2.2. Lựa chọn đối tác và lập phương án kinh doanh.
Sau khi nghiên cứu thị trường ta phải lựa chọn đối tác là lập phương
án kinh doanh. Khi lựa chọn bạn hàng phải nắm đủ các thông tin như tình
hình sản xuất kinh doanh, vốn, cơ sở vật chất, khả năng, uy tín, quan hệ

trong kinh doanh... Có bạn hàng tin cậy là điều kiện để thực hiện tốt các
hoạt động thương mại quốc tế. Sau khi lựa chọn đối tác ta phải lập
phương án kinh doanh như giá cả, thời điểm, các biện pháp thực hiện,
thuận lợi, khó khăn...
2.3. Tìm hiểu nguồn hàng.
Phải tìm hiểu khả năng cung cấp hàng hoá của các đơn vị. Phải chú
ý các nhân tố như thời vụ, thiên tai, các nhân tố có tính chu kỳ... Vì các
nhân tố này có thể ảnh hưởng đến giá cả và sản lượng.
2.4. Đàm phán ký kết hợp đồng.
Có rất nhiều hình thức đàm phán xuất nhập khẩu như fax, thư tín
thương mại điện tử, gặp trực tiếp, qua điện thoại. Các bên tự thoả thuận
và đưa ra hình thức thuận tiện nhất. Nhưng theo hình thức nào cũng cần
tiến hành theo các bước quy định. Sau đàm phán thành công hai bên tiến
hành ký kết hợp đồng.
2.5. Tổ chức thực hiện hợp đồng.
Đây là công việc phức tạp do đó các bên phải luôn luôn tuân thủ và
tôn trọng nhau cùng như luật pháp. nếu là bên xuất khẩu thì phải xin giấy
phép xuất khẩu, chuẩn bị hàng, kiểm tra hàng, thuê tàu lưu cước, lập
chứng từ, giải quyết khúc mắc...
2.6. Thanh toán và đánh giá hiệu quả hợp đồng.
Sau khi thanh toán, kết thúc hợp đồng, nếu không xảy ra tranh chấp
thì kết thúc hợp đồng và rút ra kinh nghiệm cho các hoạt động tiếp theo.
11


III. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG VÀ CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ
HOẠT ĐỘNG KINH DOANH XUẤT NHẬP KHẨU.

1. Nhân tố chủ quan.
1.1. Lao động.

Trong hoạt động sản xuất cũng như trong hoạt động kinh doanh.
Nhân tố lao động nó ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả cũng như kết quả
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Lao động ở đây là cả yếu tố
chuyên môn, ý thức trách nhiệm, tinh thần lao động... Chuyên môn hoá
lao động cũng là vấn đề cần quan tâm sử dụng đúng người đúng việc sao
cho phù hợp và phát huy tối đa người lao động trong công việc kinh
doanh đó là vấn đề không thể thiếu trong công tác tổ chức nhân sự. Nâng
cao trình độ chuyên môn lao động là việc làm cần thiết và liên tục, do đặc
thù là hoạt động kinh doanh đơn thuần nên người lao động phải nhanh
nhạy, quyết đoán, mạo hiểm. Từ việc kinh doanh, bán hàng, chào hàng,
nghiên cứu thị trường ... đòi hỏi người lao động phải có năng lực và say
mê trong công việc.
1.2. Trình độ quản lý lãnh đạo sử dụng vốn.
Đây là yếu tố thường xuyên, quan trọng nó có ý nghĩa rất lớn đến
phát huy tối đa hiệu quả trong kinh doanh. Người lãnh đạo phải quản lý
phải tổ chức phân công và hợp tác lao động hợp lý giữa các bộ phận, cá
nhân. Hoạch định sử dụng vốn làm cơ sở cho việc huy động khai thác tối
đa mọi nguồn lực sẵn có, bảo toàn và phát triển vốn của các doanh nghiệp
xuất nhập khẩu từ đó có các biện pháp giảm chi phí không cần thiết.
Người lãnh đạo phải sắp xếp, đúng người, đúng việc, san sẻ quyền lợi
trách nhiệm, khuyến khích tinh thần sáng tạo của mọi người.
Sử dụng khai thác các nguồn vốn, triển khai mọi nguồn lực sẵn có
có để tổ chức lưu chuyển vốn, nghiên cứu sự biến động các đồng ngoại tệ
mạnh... Các doanh nghiệp có nhiều vốn sẽ có ưu thế về cạnh tranh nhưng
sử dụng một cách có hiệu quả, hạn chế ít nhất đồng vốn nhàn rỗi, phát huy
12


hiệu quả trong kinh doanh, đó mới là vấn đề cốt lõi trong sử dụng vốn.
1.3. Cơ sở vật chất kỹ thuật.

Cơ sở vật chất là nền tảng quan trọng các hoạt động kinh doanh. Nó
có thể đem lại sức mạnh trong kinh doanh. Từ nhà kho bến bãi, phương
tiện vận chuyển, thiết bị văn phòng... Nhất là hệ thống này được bố trí
hợp lý, thuận tiện. Nó là một cái lợi vô hình, lợi thế kinh doanh. Cơ sở vật
chất kỹ thuật tạo ra cho bên đối tác một sự tin tưởng, tạo ra ưu thế cạnh
tranh với các đối thủ.
Còn có rất nhiều yếu tố khác dịch vụ mua bán hàng, yếu tố quản trị,
nhiên liệu hàng hoá... đó cũng là các yếu tố rất quan trọng, phát huy các
mặt tích cực hạn chế và giảm tiêu cực do các yếu tổ chủ quan mang lại để
phát huy tối đa hiệu quả kinh doanh đòi hỏi phải có một quá trình và bộ
máy tổ chức tốt.
2. Các nhân tố khách quan.
Đó là các nhân tố tác động đến hiệu quả của Công ty nhưng là các
yếu tố bên ngoài ảnh hưởng đến mọi hoạt động của Công ty.
2.1. Các đối thủ cạnh tranh
Trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu cũng như các hoạt
động kinh doanh khác trong nền kinh tế thị trường đều phải cạnh tranh.
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh luôn luôn xuất hiện các đối thủ cạnh
tranh. Mặt khác các đối thủ cạnh tranh luôn luôn thay đổi các chiến lược
kinh doanh bằng nhiều biện pháp khác nhau. Luôn đổi mới và thích ứng
được sự cạnh tranh mới là yếu tố cần thiết. Phải luôn luôn đề ra các biện
pháp thích ứng và luôn có các biện pháp phương hướng đi trước đối thủ
là một việc làm luôn được quan tâm.
2.2. Các ngành có liên quan.
Các ngành có liên quan cũng như trong lĩnh vực kinh doanh cũng
đều có tác động rất lớn đều hoạt động xuất nhập khẩu. Hoạt động xuất
nhập khẩu nó liên quan đến các ngành khác như ngân hàng, thông tin,
13



vận tải, xây dựng... hệ thống ngân hàng tốt giúp cho hoạt động giao dịch
tiền tệ được thuận tiện, hệ thống thông tin liên lạc là yếu tố giúp các bên
trao đổi, liên lạc, đàm phán, giao dịch một cách thuận tiện hơn. Các ngành
xây dựng, vận tải, kho tàng... nó là vấn đề bổ sung nhưng rất cần thiết.
2.3. Nhân tố về tính thời vụ, chu kỳ, thời tiết của sản xuất kinh
doanh.
Các hàng hoá, các nguyên liệu, việc sản xuất kinh doanh đôi khi bị
ảnh hưởng với yếu tố thời vụ, kể cả nhu cầu của khách hàng. Vì vậy kết
quả kinh doanh có hiệu quả hay không là do doanh nghiệp có bắt được
tính thời vụ và có phương án kinh doanh thích hợp hay không. Ví dụ như
hàng mây tre đan xuất khẩu thì yếu tố nguyên liệu phải có thời vụ, thu
xong lại phải phơi khô và nhu cầu tăng lên vào mùa hè và các nước có khí
hậu nhiệt đới, khí hậu nóng.
2.4. Nhân tố giá cả.
Hầu hết các doanh nghiệp tham gia kinh doanh đều phải chất nhận
giá thị trường. Giá cả thị trường biến động không theo ý muốn của các
doanh nghiệp. Do đó giá cả là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến kết quả
kinh doanh của doanh nghiệp. Giá cả thông thường ảnh hưởng bao gồm
giá mua và giá bán. Giá mua hàng hoá hoặc sản xuất hàng hoá để xuất
khẩu, giá mua thấp doanh nghiệp dễ tìm kiếm thị trường, dễ tiêu thụ hàng
hoá, có lợi với các đối thủ cạnh tranh, giảm chi chí đầu vào. Giá bán ảnh
hưởng đến trực tiếp của doanh nghiệp. Giá bán là giá của thị trường. Do
vậy doanh nghiệp không điều chỉnh được giá bán, mà phải có các chiến
lược bán hàng hợp lý mà thôi.
2.5. Chính sách tài chính tiền tệ của Nhà nước.
Đây là một hệ thống các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động kinh
doanh, hiệu quả kinh doanh. Sự hỗ trợ của Nhà nước là rất lớn đôi khi nó
kìm hãm hoặc thúc đẩy kể cả một ngành.
- Chính sách về thuế: Thuế là một nguồn thu chủ yếu của Nhà nước
nhưng nó lại là một chi phí đối với một doanh nghiệp. Do đó chính sách

này có tác dụng trực tiếp đến kết quả lợi nhuận của Công ty. Các chính
14


sách giảm thuế, tăng thuế, miễn thuế là các chính sách nhạy cảm đối với
các doanh nghiệp.
- Chính sách về lãi suất tín dụng: Trong hoạt động kinh doanh
doanh nghiệp thiếu vốn thường phải vay tiền tại các ngân hàng, và lãi suất
ngân hàng Nhà nước có thể can thiệp trực tiếp. Nhà nước có thể khuyến
khích hoặc kìm hãm đầu tư thông qua chính sách tín dụng, lãi suất... Các
chính sách này ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của Công ty.
- Chính sách về tỷ giá, bù giá, trợ giá: Tỷ giá ngoại tệ phản ánh mối
quan hệ tương quan về sức mua. Khi có biến động mạnh Nhà nước có thể
thả nổi hoặc can thiệp để ổn định tỷ giá thông qua các ngân hàng bằng
cách bán hoặc mua ngoại tệ.
Nhà nước cũng có thể bù giá, trợ giá cho các mặt hàng để duy trì ổn
định sản xuất kinh doanh, như trợ giá mặt hàng cà phê hiện nay, thu mua
lúa cho nông dân đồng bằng sông Cửu Long. Hình thức trợ giá này ảnh
hưởng rất lớn đến tình hình sản xuất cũng như tình hình xuất khẩu.
2.6. Các chính sách khác của Nhà nước
Trong hoạt động xuất nhập khẩu nó còn liên quan đến các chính
sách thuộc về đường lối chính trị nó ảnh hưởng đến. Nước ta từ khi mở
cửa với các nước bên ngoài tạo ra hàng loạt cơ hội cho các nhà đầu tư,
cho hoạt động xuất nhập khẩu. Trong quan hệ quốc tế Nhà nước có thể
ký hiệp định tránh đánh thuế hai lần... Các chính sách này có ảnh hưởng
rất lớn đến hoạt động xuất nhập khẩu, tạo ra hàng loạt cơ hội cho các hoạt
động xuất nhập khẩu .
2.7. Nhân tố pháp luật.
Bất cứ một hoạt động nào một cá nhân, tập thể, hay một tổ chức nào
đều phải hoạt động theo khuôn khổ pháp luật. Hoạt động xuất nhập khẩu

cũng vậy cũng phải tuân theo luật pháp của Nhà nước, tuân theo quy định
và luật pháp quốc tế. Các quy định luật lệ này lại có thể thay đổi theo thời
gian. Do vậy các tác động rất lớn đến hoạt động xuất nhập khẩu, hoạt
động xuất nhập khẩu phải tuân thủ đầy đủ các quy định không được phạm
luật, luôn tìm hiểu luật pháp, tạo ra một nguyên tắc làm việc , đảm bảo
15


việc hoạt động theo luật một cách tốt nhất, đó cũng là cách phát huy hiệu
quả hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu.
3. Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh xuất
nhập khẩu.
Khi xem xét hiệu quả hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của mỗi
doanh nghiệp cần phải dựa vào một hệ thống chỉ tiêu, các doanh nghiệp
phải coi các tiêu chuẩn là mục tiêu phấn đấu. Chi phí sản xuất xã hội cho
một đơn vị kết quả từ hoạt động xuất nhập khẩu phải nhỏ nhất, phải có ý
nghĩa về kinh tế, chính trị và xã hội và phải kết hợp hài hoà giữa lợi ích
của doanh nghiệp, lợi ích xã hội, lợi ích kinh tế quốc dân.

CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU HIỆN NAY Ở
LẠNG SƠN
I. ĐẶC ĐIỂM PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI Ở LẠNG SƠN CÓ ẢNH HƯỞNG
ĐẾN HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU

1. Đặc điểm kinh tế xã hội
Lạng Sơn là tỉnh miền núi biên giới phía Bắc, có các tuyến giao
thông quan trọng như quốc lộ 1A, 1B, 4A, 4B, 31, 279 và đường sắt liên
16



vận quốc tế Việt - Trung; có đường biên giới với Trung Quốc dài 253km,
gồm 1 cửa khẩu quốc tế, 2 cửa khẩu quốc gia, 7 cặp chợ biên giới. Toàn
tỉnh có 11 huyện, thị xã với 226 xã, phường, thị trấn; có 135 xã vùng cao,
trong đó có 80 xã đặc biệt khó khăn; có 20 xã và 1 trị trấn biên giới. Dân
số năm 1999 là 71,7 vạn người với 7 dân tộc sinh sống, trong đó có dân
tộc Nimg chiếm 43.8%, dân tộc Tày chiếm 35,2%, dân tộc Kinh chiếm
15,2%, dân tộc Dao chiếm 3,5%, còn lại là các dân tộc Hoa, H' Mông, Sán
Chảy.
Tổng diện tích đất tự nhiên là 818,725 ha, trên 70% đất là đồi núi
cao, chia cắt bởi các sông, suối nên địa hình rất phức tạp. Đất nông
nghiệp đang sử dụng là 95,473 ha, đất lúa nước là 36,643 ha, đất trồng
cây công nghiệp ngắn ngày là 13,112 ha. Tổng diện tích đất lâm nghiệp là
633,729 ha, trong đó đất có rừng là 263,403 ha, trong đó: rừng tự nhiên là
181,077 ha, rừng trồng là 79,326 ha.
Trong những năm qua, nền kinh tế của Lạng Sơn từng bước có
chuyển biến rõ rệt về tốc độ tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu. Tính
riêng giai đoạn 1997 - 2001, tổng sản phẩm trong tỉnh (GDP) tăng bình
quân hàng năm là 9,36%. Thu nhập bình quân đầu người năm 2001 là 4,2
triệu đồng, gấp 1,96 lần năm 1996. Tỷ trọng trong lâm nghiệp chiếm
51,07%, công nghiệp - xây dựng chiếm 12,53%, thương mại - dịch vụ
chiếm 36,04%.
Hoạt động thương mại, du lịch, dịch vụ có chuyển biến tích cực,
nhất là trong lĩnh vực kinh tế cửa khẩu, xuất nhập khẩu và du lịch.
Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu qua địa bàn 5 năm đạt 1.959 triệu
USD tăng bình quân hàng năm 20,82%. Tổng mức lưu chuyển hàng hoá
bán lẻ 4.023 tỷ đồng, tăng bình quân 16%/năm. Du lịch đón được 780
ngàn lượt khách, trong đó: 269 ngàn lượt khách quốc tế. Doanh thu thu
được từ du lịch 329 là tỷ đồng tăng bình quân 10%/năm. Tổng thu ngân
sách trên địa bàn 5 năm tăng bình quân 11,35%. Riêng năm 2001 thu

được 928 tỷ đồng tăng 91,23% so với năm 1999.
Đối với khu vực kinh tế cửa khẩu; khi có nghị quyết của Chính phủ
và Quyết định 748/TTg của Thủ tướng Chính phủ cho phép áp dụng thí
điểm một số cơ chế chính sách tại một số khu vực cửa khẩu biên giới
Lạng Sơn đã tạo động lực mới thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội tại các
17


khu vực kinh tế cửa khẩu, tạo điều kiện để tăng cường hơn nữa mối quan
hệ giao lưu kinh tế qua biên giới, tiến tới xây dựng vành đai kinh tế - xã
hội biên giới vững mạnh, đóng góp tích cực vào việc thúc đẩy tốc độ tăng
trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế Lạng Sơn. Chính phủ đã
tổng kết và chủ trương chính thức hoá cho thực hiện chính sách ưu đãi
phát triển kinh tế khu vực cửa khẩu biên giới. Đây là một chủ trương
chiến lược vừa phù hợp với đòi hỏi phát triển kinh tế đất nước, đồng thời
cũng phù hợp với xu thế giao lưu kinh tế và tiến trình hội nhập trong khu
vực và nguyện vọng của nhân dân các dân tộc tỉnh biên giới.
Triển khai thực hiện Quyết định 748/TTg của Thủ tướng chính phủ,
trong hơn 3 năm (1999, 2000 và 2001), kết cấu hạ tầng của các khu vực
cửa khẩu Hữu Nghị, Đồng Đăng, Tân Thanh và một số xã biên giới được
tập trung đầu tư xây dựng mạnh. Đã có 57 dự án được triển khai với số
lượng hoàn thành trên 160 tỷ đồng, có 12 công trình hoàn toàn đưa vào sử
dụng. Đã làm thay đổi bộ mặt của các khu vực cửa khẩu, tạo điều kiện mở
rộng hoạt động thương mại, du lịch, dịch vụ, hợp tác đầu tư và đang trở
thành vùng kinh tế động lực thúc đẩy các vùng khác cùng phát triển.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu và kết quả đạt được, kiể, điểm
một cách sâu sắc trên các mặt cũng còn nhiều vấn đề phải quan tâm trăn
trở: Tốc độc phát triển và kết quả đã đạt được chưa xứng với tiềm năng và
lợi thế của địa phương, hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp nhà
nước cũng như các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác trên địa

bàn tỉnh chưa có tính ổn định, vững chắc và tính chiến lược lâu dài, còn
phục thuộc nhiều yếu tố bên ngoài. Cơ chế chính sách khuyến khích đầu
tư về phát triển kinh tế nói chung, lĩnh vực thương mại và du lịch dịch vụ
nói riêng còn nhiều yếu kém, nhiều hộ gia đình có vốn tới hàng chục tỷ
đồng chưa mạnh dạn đầu tư mà chủ yếu gửi tích kiệm ở các địa phương
khác hoặc mua sắm tài sản, bất động sản; chính sách khuyến khích hàng
xuất khẩu của địa phương chưa rõ ràng cụ thể về cây gì, con gì, ở vùng
nào... công tác xúc tiến thương mại, phát triển mở rộng thị trường còn
yếu, công tác tổ chức quản lý kinh doanh, quản lý tài chính, phát triển
việc làm ở các doanh nghiệp còn nhiều bất cập, chậm thích ứng với cơ chế
thị trường.
Các cơ chế chính sách ưu đãi kêu gọi đầu tư vào phát triển kinh tế
18


cửa khẩu chưa hấp dẫn, các thủ tục về hành chính còn khá phiền hà như
các thủ tục cấp đất, cho thuê đất, đền bù giải phóng mặt bằng. Kể cả trong
lĩnh vực xuất nhập cảnh của khách du lịch ra vào Việt Nam; sự phối hợp
giữa các lực lượng quản lý ở khu vực biên giới nói chung, các cửa khẩu
nói riêng có nơi có lúc thiếu đồng bộ, chồng chéo gây phiền hà cho xuất
nhập khẩu hàng hoá và khách xuất nhập cảnh qua lại.
Hoạt động xuất nhập khẩu và du lịch của khu vực kinh tế quốc
doanh và ngoài quốc doanh tuy có lợi thế nhưng chưa phát huy hết khả
năng và lợi thế của mình, chưa đạt được kết quả tương xứng với khả năng
và lợi thế của địa phương. Tuy nhiên trong những năm qua chúng ta chưa
quan tâm đùng mức tới lĩnh vực này, chưa có những chính sách khuyến
khích cụ thể, những giải pháp tích hợp thúc đẩy phát triển xuất nhập khẩu
qua các cửa khẩu biên giới. Cần tổng kết đánh giá, rút ra bài học kinh
nghiệm, đề ra mục tiêu và giải pháp cho phát triển giai đoạn 2001 - 2005.
Thực hiện nhiệm vụ kế hoạch năm 2001 có những thuận lợi cơ bản

là nền kinh tế của cả nước cũng như của tỉnh Lạng Sơn tiếp tục có sự phát
triển theo hướng tích cực; các vùng kinh tế trọng điểm trên địa bàn tỉnh
đang được hình thành và từng bước phát huy vai trò động lực; các cơ chế
chính sách của Chính phủ cũng như ở địa phương được hoàn chỉnh sửa
đổi bổ sung kịp thời tạo ra môi trường kinh doanh, đầu tư thuận lợi, công
tác chỉ đạo điều hành và sự phối hợp giữa các ngành, địa phương cụ thể
đồng bộ đó cũng là những nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển.
Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn phải đối mặt với những khó khăn thách
thức như sức cạnh tranh và hiệu quả kinh doanh của hệ thống doanh
nghiệp ở địa phương (cả trong và ngoài quốc doanh) còn nhiều bất cập,
những biến động bất lợi của thị trường trong và ngoài nước ảnh hưởng tới
hoạt động xuất nhập khẩu; những tồn tại yếu kém trong quản lý điều hành
của một số cơ quan đơn vị quản lý nhà nước cũng làm hạn chế khả năng
phát triển kinh tế - xã hội nói chung.
Dưới sự quan tâm lãnh đạo chỉ đạo của Tỉnh uỷ, UBND tỉnh và Bộ
Thương mại, cùng với các ngành kinh tế khác, thương mại - du lịch và
dịch vụ Lạng Sơn vẫn đạt mức tăng trưởng khá so với năm 2000, vẫn giữ
vững vị thế là một ngành kinh tế mũi nhọn trong chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội của tỉnh những năm vừa qua.
19


Về quan điểm chỉ đạo phát triển của ngành thương mại và dịch vụ là
tích cực chủ động tham mưu đề suất với cấp Uỷ và chính quyền địa
phương về các cơ chế chính sách, biện pháp chỉ đạo điều hành, tạo hành
lang pháp lý và môi trường thuận lợi cho hoạt động thương mại du lịch dịch vụ thuộc các thành phần kinh tế phát triển mạnh theo cơ chế thị
trường: kinh doanh có hiệu quả, đúng pháp luật nhưng không tách rời các
nhiệm vụ chính trị phục vụ đắc lực có hiệu quả các mục tiêu phát triển
kinh tế - xã hội ở địa phương.
Kết quả thực hiện nhiệm vụ kế hoạch 2001.

2. Về xuất nhập khẩu.
- Tỉnh Lạng Sơn là một thị trường trung chuyển hàng hoá lớn và
thuận lợi cho các doanh nghiệp trong cả nước kinh doanh xuất nhập khẩu
với thị trường Trung Quốc. Năm 2001 có trên 300 doanh nghiệp và tổ
chức kinh tế kinh doanh xuất nhập khẩu qua địa bàn Lạng Sơn với thị
trường Trung Quốc, kim ngạch ngoại thương đạt 647,1 triệu USD, giảm
8,6% so với năm 2000; Trong đó xuất khẩu: 410,2 triệu USD, giảm 17,5%
so với năm 2000; nhập khẩu: 206,1 triệu USD, tăng 3% so với năm 2000
và 30,8 triệu USD của các hoạt động ngoại thương khác như tạm nhập tái
xuất, tạm xuất tái nhập, hàng quá cảnh, viện trợ...
- Kết quả thực hiện các doanh nghiệp trong ngành thương mại và
dịch vụ:
Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 112,96 triệu USD, chiếm tỷ
trọng hơn 18% so với tổng kim ngạch xuất nhập khẩu qua địa bàn, tăng
4,2% so với năm 2000; trong đó xuất khẩu: 92,843 triệu USD, tăng 22,3%
so với năm 2000; nhập khẩu: 20,117 USD, giảm 38,1% so với năm 2000.
Công ty xuất nhập khẩu: Kim ngạch đạt 17,52 triệu USD, bằng
58,4% kế hoạch và giảm 43,8% so với năm 2000.
Công ty Thương mại tổng hợp: Thực hiện: 50,94 triệu USD, bằng
221,5% kế hoạch và tăng 109,7% so với năm 2000, chủ yếu tăng kim
ngạch xuất khẩu (tăng 70,7%).
Công ty Vật tư tổng hợp: Thực hiện 1,63 triệu USD, bằng 32,6 kế
hoạch và tăng 10,1% so với năm 2000.
Công ty sản xuất và kinh doanh hàng xuất nhập khẩu: Thực hiện
20


8,732 triệu USD tăng 130,4% so với năm 2000, chủ yếu kim ngạch xuất
khẩu (tăng 436,7%).
Công ty kinh doanh xuất nhập khẩu và dịch vụ thương mại: Thực

hiện 13,381 triệu USD, giảm 56,4% so với năm 2000.
Công ty thương mại và sản xuất dầu thực vật: Thực hiện 2,19 triệu
USD, chủ yếu kim xuất khẩu (2,056 triệu USD).
Công ty Chợ: Thực hiện 2,165 triệu USD, chủ yếu kim xuất khẩu
(2,129 triệu USD).
Hoạt động xuất nhập khẩu năm 2001 có những thuận lợi cơ bản là
từ tháng 4/2001, Chính phủ ban hành quy chế điều hành xuất nhập khẩu
hàng hoá một cách cụ thể cho cả giai đoạn 2001 - 2005. Lần đầu tiên
chúng ta có một cơ chế điều hành ổn định và dài hạn, giúp cho các doanh
nghiệp, tổ chức kinh tế có định hướng chiến lược về hoạt động xuất nhập
khẩu trong một thời gian dài chứ không bị điều chỉnh thay đổi từng năm
như trước đây. Bên cạnh đó kết quả của việc thực hiện cả cách thủ tục
hành chính trong lĩnh vực hải quan đã tạo sự thông thoáng cho doanh
nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu.
Về hàng hoá xuất nhập khẩu, Nhà nước tiếp tục thực hiện chính
sách khuyến khích đối với hàng hoá xuất khẩu, hầu hết thuế suất bằng
không, bãi bỏ việc phê duyệt và phân bổ hạn ngạch một số mặt hàng, tiếp
tục thực hiện cơ chế thoái thu thuế giá trị gia tăng cho người sản xuất
hàng xuất khẩu.
Về phía địa phương, Sở Thương mại và Du lịch phối hợp với các
ngành tham mưu đề xuất với tỉnh bãi bỏ việc cấp giấy phép xuất nhập
khẩu tiểu ngạch, bãi bỏ việc thu lệ phí chuyển khẩu, sắp xếp chấn chỉnh
lại công tác kiểm tra kiểm soát của các lực lượng chức năng trên địa bàn,
tạo hành lang thông thoáng cho lưu thông hàng hoá và hoạt động xuất
nhập khẩu qua địa bàn phát triển mạnh hơn.
II. PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG XUẤT NHẬP KHẨU HIỆN NAY Ở LẠNG SƠN

1. Thực trạng xuất nhập khẩu hiện nay
Trong 5 năm qua, tiếp tục thực hiện chính sách mở cửa và đổi mới
nền kinh tế của Đảng và Nhà nước. Đặc biệt từ khi chính phủ cho phép

thực hiện các chính sách ưu đãi phát triển các khu kinh tế cửa khẩu. Lạng
21


Sơn đã nhanh chóng tiếp cận và triển khai thực hiện, thành lập Ban chỉ
đạo và giao nhiệm vụ cụ thể cho từng cấp, từng ngành có liên quan tổ
chức thực hiện một cách đồng bộ các chính sách ưu đãi về đầu tư, các
chính sách về tài chính, các chính sách về xuất nhập cảnh. Khẩn trương
lập các dự án đầu tư cơ sở hạ tầng trong khu vực, cụ thể hoá các cơ chế
chính sách về ưu đãi đầu tư, thu hút các doanh nghiệp mở rộng các hoạt
động kinh doanh thương mại. Xuất nhập khẩu, tạm nhập tái xuất, tạm xuất
tái nhập, kho ngoại quan, chợ cửa khẩu, cửa hàng kinh doanh hàng miễn
thuế, cửa hàng giới thiệu sản phẩm, các dịch vụ vận chuyển hàng hoá, kho
tàng bảo quản, khách sạn, nhà hàng, khu vui chơi giải trí, bưu chính viễn
thông, ngân hàng, bảo hiểm, quản lý đô thị, môi trường, giữ gìn an ninh
trật tự, an toàn xã hội... đã thu hút hơn 300 doanh nghiệp trong cả nước
thường xuyên tham gia buôn bán, đầu tư ở khu vực kinh tế cửa khẩu, thu
hút hàng trăm hộ thương nhân Trung Quốc thuê quầy hàng bán hàng tại
chợ cửa khẩu Tân Thanh, làm cho các hoạt động thương mại - dịch vụ ở
khu vực cửa khẩu thêm sôi động và có hiệu quả kinh tế thiết thực.
Trao đổi hàng hoá qua biên giới đường bộ với Trung Quốc chiếm vị
trí hết sức quan trọng trong quan hệ thương mại giữa Lạng Sơn - Việt
Nam và Quảng Tây - Trung Quốc.
Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu 5 năm qua địa bàn đạt: 1.959 triệu
USD chiếm đến hơn 60% kim ngạch xuất nhập khẩu qua cửa khẩu đường
bộ các tỉnh biên giới phía Bắc.
Trong đó:
- Xuất khẩu: 1.252 triệu USD
- Nhập khẩu: 717 triệu USD.
Các doanh nghiệp Lạng Sơn thực hiện được trong 5 năm 747 triệu

USD.
Trong đó:
- Các doanh nghiệp nhà nước: 395 triệu USD
- Các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác: 350 triệu
USD
Xuất nhập khẩu tiểu ngạch cũng chiếm vị trí quan trọng, trong 5
năm thực hiện được 375 triệu USD, chiếm 18,8% kim ngạch xuất nhập
khẩu hai chiều giữa Lạng Sơn và Quảng Tây.
22


Các thành phần kinh tế khác trên địa bàn có tổng kim ngạch xuất
nhập khẩu 5 năm 350 triệu USD, chủ yếu do các doanh nghiệp tư nhân,
các công ty TNHH và một số chi nhánh đóng trên địa bàn.
+ Cơ cấu hàng xuất khẩu, gồm các nhóm hàng:
- Hàng nông lâm sản: dầu dừa công nghiệp, cà phê, cao su, rau hoa
quả, hạt điều.
- Hàng thủy hải sản: cá (ướp đá, muối, khô), mực, tôm...
- Khoáng sản: than, quặng kim loại các loại.
- Hàng công nghệ phẩm: xà phòng, chất tẩy rửa, mỹ phẩm, hàng dệt
may, giày dép, điện tử, thủ công mỹ nêh, bánh kẹo các loại...
+ Cơ cấu hàng nhập khẩu, gồm các mặt hàng:

23


24


25



×