Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

LUẬN văn tiền lương của đội ngũ giảng viên đại học ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (721.99 KB, 76 trang )

LUẬN VĂN:

Tiền lương của đội ngũ giảng viên đại
học ở nước ta hiện nay


Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chính sách tiền lương và thu nhập là một bộ phận quan trọng trong hệ thống chính
sách kinh tế - xã hội của đất nước và có liên quan chặt chẽ đến động lực phát triển và tăng
trưởng kinh tế, nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý của nhà nước, khai thác các khả năng
tiềm tàng của mỗi người lao động.
Trong những năm gần đây, Đảng ta coi “phát triển giáo dục đào tạo và khoa học
công nghệ là quốc sách hàng đầu”. Để thể hiện giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu thì
vấn đề đặt ra là phải đảm bảo những điều kiện vật chất cần thiết để phát triển về số lượng
và nâng cao chất lượng dạy - học của cả thầy và trò, trong đó giáo dục đào tạo bậc đại học
là nơi chủ yếu cung cấp nguồn nhân lực tri thức cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước. Để mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng đào tạo ở bậc đại học, những
năm qua nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách, một mặt tăng cường đầu tư từ ngân
sách nhà nước cho giáo dục đào tạo, mặt khác thể hiện xã hội hoá giáo dục đào tạo nhằm
huy động các nguồn lực trong và ngoài nước để phát triển giáo dục đào tạo. Bên cạnh một
số kết quả đạt được như quy mô đào tạo tăng lên, cơ sở vật chất phục vụ giảng dạy ở nhiều
trường được trang bị tốt hơn…Song cũng xuất hiện những vấn đề phức tạp, tác động
không tốt đến chất lượng đào tạo. Một trong những nguyên nhân cơ bản của tình hình đó là
đội ngũ cán bộ giảng dạy ở các trường Đại học chưa thực sự toàn tâm toàn ý thực hiện
nâng cao chất lượng dạy - học, họ chỉ quan tâm đến tăng số lượng giờ giảng để tăng thu
nhập. Tình trạng đó là do chế độ tiền lương đối với đội ngũ giáo viên ở các trường đại học
chưa đảm bảo tái sản xuất sức lao động để họ hoàn thành tốt cả ba nhiệm vụ: Giảng dạy,
học tập bồi dưỡng và nghiên cứu khoa học để nâng cao chất lượng giảng dạy.
Để tạo thêm thu nhập cho đội ngũ giảng viên, các trường đã mở nhiều loại lớp, giáo
viên tập trung vào thực hiện nhiệm vụ giảng dạy trong trường và giảng dạy ở các trường


khác, không còn thời gian để học tập bồi dưỡng và nghiên cứu khoa học. Điều này đã ảnh
hưởng nghiêm trọng tới chất lượng giảng dạy. Trước tình hình đó, là một giảng viên ở
trường đại học tôi chọn “Tiền lương của đội ngũ giảng viên đại học ở nước ta hiện nay”
làm đề tài luận văn thạc sĩ chuyên ngành Kinh tế chính trị.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài


Thực hiện đường lối đổi mới kinh tế, cuộc cải cách tiền lương năm 1993, đã có
những thay đổi cơ bản về tiền lương từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị
trường.Tuy vậy, trong quá trình thực hiện đã nảy sinh nhiều vấn đề phải tiếp tục giải quyết.
Để tiếp tục cải cách chính sách tiền lương năm 1993, từ năm 2001 trở đi đã có nhiều đề án
do các cơ quan ở cấp Trung ương tiến hành như sau
- Bộ nội vụ xây dựng 3 đề án:
* Đề án cải cách tiền lương chức vụ dân cử trong các cơ quan nhà nước.
* Đề án cải cách chế độ đối với xã phường.
* Đề án cải cách tiền lương của công chức, viên chức hành chính sự nghiệp.
- Bộ lao động xã hội xây dựng 5 đề án:
* Đề án tiền lương tối thiểu.
* Đề án quan hệ tiền lương.
* Đề án cải cách tiền lương khu vực sản xuất kinh doanh.
* Đề án cải cách bảo hiểm xã hội
* Đề án cải cách chế độ trợ cấp người có công.
- Ban Chấp hành TW và Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam xây dựng Đề án cải
cách tiền lương cán bộ bầu cử của Đảng, Đoàn thể.
- Bộ Tài chính và Bộ Công an xây dựng Đề án cải cách tiền lương thuộc quân đội và
công an.
- Bộ Tài chính và Bộ Kế hoạch đầu tư xây dựng Đề án tạo nguồn cho cải cách tiền
lương và trợ cấp xã hội.
- Ban Cán sự Đảng Chính phủ, Đề án cải cách chính sách tiền lương, bảo hiểm xã
hội và trợ cấp ưu đãi người có công.

Những đề án trên là cơ sở để Chính phủ ban hành nghị định số 204/2004/NĐ.CP
ngày14 tháng 12 năm 2004 về chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức và
lực lượng vũ trang.
Trong khoảng thời gian này, ngoài các đề án do các cơ quan nhà nước nghiên cứu,
còn có một số công trình đã công bố sau đây:


. Trần Hoàng Hà: Lý luận của Các Mác về tiền công và ý nghĩa của nó đối với việc
cải cách tiền lương ở nước ta, Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh, 2004.
. Bùi Thị Xuyến: Vận dụng lý luận hàng hoá sức lao động của Các Mác vào thực
tiễn KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Luận án tiến sĩ kinh tế chính trị, Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2002.
. Trần Thu Hương (2004): Tiền lương tối thiểu: Thực trạng và giải pháp, Lao động
và xã hội số 247, tr.29- 31.
. Trần Thu Hương: Hoàn thiện cơ chế quản lý tiền lương và thu nhập đối với người
lao động trong các doanh nghiệp nhà nước. Luận án tiến kinh tế và tổ chức lao động, Đại
học Kinh tế quốc dân, 2003.
Tuy đã có nhiều công trình nghiên cứu, nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu về
vấn đề tiền lương của đội ngũ giảng viên ở các trường đại học dưới góc độ kinh tế chính
trị.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu:
Làm rõ một số luận điểm cơ bản về tiền lương trong nền kinh tế thị trường và đặc
điểm giá trị sức lao động của đội ngũ giảng viên ở các trường đại học, để làm cơ sở cho
việc phân tích, đánh giá thực trạng tiền lương của đội ngũ giảng viên ở các trường đại học
trên địa bàn thành phố Hà Nội và đề xuất một số khuyến nghị về tiền lương cho đội ngũ
giảng viên.
* Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Phân tích các luận điểm cơ bản về tiền công để làm rõ các bộ phận cấu thành giá trị

sức lao động và phân tích đặc điểm kinh tế xã hội ở nước ta để xác định tiền lương của đội
ngũ giảng viên ở các trường đại học hiện nay.
- Phân tích thực trạng tiền lương của đội ngũ giảng viên ở các trường đại học trên
địa bàn thành phố Hà Nội trong những năm qua, chỉ rõ những thành công, những mặt hạn
chế của chính sách tiền lương đối với đội ngũ giảng viên đại học.


- Đề xuất một số khuyến nghị tiếp tục hoàn thiện chính sách tiền lương của đội ngũ
giảng viên ở các trường đại học, để họ chuyên tâm vào việc học tập, bồi dưỡng và nghiên
cứu khoa học nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài được thực hiện dưới góc độ khoa học kinh tế chính trị, cho nên đối tượng
nghiên cứu là các quan hệ kinh tế khách quan qui định tiền lương của đội ngũ giảng viên ở
các trường đại học.
* Giới hạn phạm vi nghiên cứu:
+ Về nội dung: Đội ngũ giảng viên đại học bao gồm: giảng viên, giảng viên chính,
giảng viên cao cấp. Phân tích thực trạng, luận văn giới hạn ở việc tìm hiểu tiền lương của
đội ngũ giảng viên ở một số trường đại học trên địa bàn thành phố Hà Nội.
+ Về thời gian: nghiên cứu tiền lương đội ngũ giảng viên đại học từ 1993 đến nay và
đề xuất giải pháp đến 2010.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận:
Luận văn dựa vào các nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin và những quan điểm của
Đảng và Nhà nước ta về vấn đề lao động, tiền lương và thu nhập áp dụng cho công chức,
viên chức nhà nước. Ngoài ra, luận văn còn dựa vào kết quả nghiên cứu của các nhà khoa
học về vấn đề tiền lương để làm cơ sở cho việc nghiên cứu.
* Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn đi từ nguyên lý lý luận về tiền lương để phân tích thực tiễn tiền lương của
đội ngũ giảng viên Đại học, qua đó đề xuất những kiến nghị. Trong quá trình thực hiện,

luận văn sử dụng các phương pháp cụ thể: kết hợp lý luận với thực tiễn, lôgic và lịch sử,
phương pháp thống kê, điều tra khảo sát, phân tích đánh giá để rút ra các kết luận cần thiết.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Luận văn làm rõ một số quan điểm lý luận về tiền lương trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa và các bộ phận cấu thành tiền lương của đội ngũ giảng viên
đại học ở nước ta hiện nay.


- Luận văn làm rõ thực trạng tiền lương của giảng viên đại học từ năm 1993 đến nay
và đề xuất một số giải pháp tiếp tục hoàn thiện chính sách tiền lương đối với đội ngũ giảng
viên Đại học trong giai đoạn hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu
làm 2 chương, 5 tiết.


Chương 1
Một số luận điểm cơ bản
về tiền lương và những đặc điểm tiền lương
của đội ngũ giảng viên đại học

1.1. Một số luận điểm cơ bản về tiền lương và đặc điểm của tiền lương trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
1.1.1. Một số quan điểm lý luận về tiền lương
Tiền lương là phạm trù kinh tế, xuất hiện khi sức lao động của một bộ phận dân cư
được một bộ phận dân cư khác trong xã hội sử dụng trên nguyên tắc tự nguyện. Đó là mối
quan hệ giữa người sử dụng sức lao động (người chủ) sẵn sàng chi trả tiền và người có sức
lao động tự nguyện cung cấp dịch vụ lao động(người lao động) để nhận một số tiền nhất
định.
Nghiên cứu về bản chất của “Tiền lương”, trong lịch sử đã có nhiều nhà kinh tế học

quan tâm lý giải các mối quan hệ cung - cầu về lao động và tìm kiếm các căn cứ để xác
định tiền lương, giải thích sự khác nhau về tiền lương giữa các loại lao động. Tương ứng với
mỗi giai đoạn phát triển của lịch sử, dựa trên các quy luật phát triển khách quan và biểu hiện
lợi ích của mỗi tầng lớp giai cấp nhất định mà các nhà kinh tế có các quan điểm khác nhau về
vấn đề này.
1.1.1.1 Quan điểm về tiền lương của các nhà kinh tế trước C.Mác
- Quan điểm cơ bản của Adam Smith về tiền lương:
Trong tác phẩm “của cải của các dân tộc”, A.Smith cho rằng, trong điều kiện chưa có
tư hữu đất đai và tích luỹ tư bản, người lao động làm việc bằng chính những tư liệu sản
xuất và ruộng đất của mình thì lẽ dĩ nhiên là người lao động đó phải nhận được sản phẩm
toàn vẹn của lao động của họ.Còn trong điều kiện của xã hội tư bản khi mà tư liệu sản xuất
tập trung vào tay một số nhà tư bản, người lao động đã trở thành người làm thuê cho chủ tư
bản, thì ở đây người lao động chỉ nhận được một số tiền từ phía chủ sau khi làm việc cho
chủ trong một thời gian nhất định. Số tiền này được gọi là tiền lương. Như vậy, tiền lương
của người lao động không phải là toàn bộ giá trị sản phẩm lao động của họ mà chỉ là một
bộ phận giá trị đó.A.Smith cho lượng tiền lương là giá trị những tư liệu sinh hoạt cần thiết


để nuôi sống người công nhân làm thuê và nuôi dưỡng giáo dục con cái họ để tiếp tục sau
đó lại thay thế họ trên thị trường lao động. Mức tiền lương hợp lý phải đạt từ mức độ tối
thiểu (giới hạn) trở lên. Ông cho rằng, tiền lương không được hạ thấp quá giới hạn đó, nếu
thấp quá giới hạn này sẽ là thảm hoạ cho sự tồn tại của các dân tộc.
A.Smith đã phân biệt sự khác nhau giữa lao động giản đơn và lao động phức tạp:
“Sức lao động bỏ ra trong 1 giờ lao động khó nhọc, có thể nhiều hơn sức lao động trong 2
giờ làm việc nhẹ nhàng, hoặc làm 1 giờ trong một nghề mà phải mất 10 năm học tập thì
phải tốn hơn làm 1 tháng trong một nghề bình thường” [33, tr.87]. Khi tính giá trị của lao
động (thực ra là giá trị của sức lao động), theo A.Smith cần phải chú ý tới đặc điểm của các
loại lao động: nếu một loại lao động căng thẳng, nặng nhọc hơn loại lao động khác tất
nhiên phải tính đến sự căng thẳng, nặng nhọc này [33, tr.107].
Đặc biệt, A.Smith đã chỉ ra các nhân tố ảnh hưởng đến tiền công, sự khác nhau về

tiền công đối với các công việc khác nhau. Theo ông, tiền công lao động biến động tuỳ
theo sự dễ dàng và rẻ tiền hoặc sự khó khăn và đắt tiền khi học việc. Ông cho rằng một
người được đào tạo với khá nhiều phí tổn để nắm vững được chuyên môn nghề nghiệp và
kỹ năng, kỹ xảo cần nhận được tiền lương cao hơn tiền lương của lao động bình thường để
bù đắp lại những phí tổn học tập [33, tr.181]. Sự khác nhau về tiền lương của các công việc
khác nhau còn tuỳ theo mức độ tin cậy nhiều hay ít vào người thợ. Theo A.Smith thì khi ta
giao tính mạng cho một bác sĩ, giao tài sản và đôi khi cuộc sống của chúng ta cho một luật
sư; sự tin cậy ấy không thể giao cho một ai khác,vì vậy tiền thù lao phải xứng đáng với vị
trí quan trọng trong xã hội mà sự tin cậy ấy tạo ra và cũng là để trả cho thời gian, công sức,
của cải vào việc học tập để có niềm tin cậy đó, giá trị lao động của họ phải được nâng cao
[33, tr.186].
Ngoài ra, sự khác nhau về tiền công của các công việc khác nhau còn tuỳ theo khả
năng thành đạt trong các công việc ấy. A.Smith cho rằng: nếu đi học nghề đóng giầy thì
chắc chắn sẽ làm được một đôi giầy nhưng nếu đi học luật thì trong 20 người mới có 1
người sẽ trở thành tài giỏi để có thể kiếm sống bằng nghề đó. Một nghề mà trong 20 người
chỉ có 1 người thành công, thì người thành công đó phải giành được tất cả những gì mà
đáng lẽ 20 người kia cũng phải đạt được [33, tr.187].


Như vậy, với việc phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến tiền lương, sự khác nhau về
tiền lương của các công việc khác nhau cho thấy quan điểm tiến bộ của A.Smith về tiền
lương. Đây cũng là cơ sở lý luận để nghiên cứu tiền lương của đội ngũ giảng viên Đại học
ở nước ta hiện nay, khi tính giá trị sức lao động cho các giảng viên đại học cần chú ý tới
công lao và tiền của mà họ phải bỏ ra để có chuyên môn, kỹ năng, kỹ xảo mới có thể làm
được giảng viên đứng trên bục giảng; tiền lương trả cho uy tín của người thầy giáo; tiền
lương trả cho sự thành đạt của công việc mà một giảng viên Đại học có được…
Tuy nhiên, quan điểm về tiền lương của A.Smith cũng có những hạn chế: ông thiếu
quan điểm lịch sử cụ thể về tiền lương; do chưa phân biệt được lao động với sức lao động
nên ông tin rằng tiền lương là tiền trả cho lao dộng.
- Quan điểm cơ bản về tiền lương của David Ricardo:

D.Ricardo coi tiền lương là giá cả của lao động và ông phân biệt hai loại “giá cả tự
nhiên” và “giá cả thị trường” của lao động.Theo Ricardo “giá cả tự nhiên” của lao động
bằng giá cả của tất cả các vật dụng hàng hoá dùng để duy trì cuộc sống của người công
nhân và gia đình anh ta. Giá cả này tăng khi giá cả lương thực và giá cả tư liệu sinh hoạt
khác tăng. Còn “giá cả thị trường’’của lao động là do giá cả tự nhiên của lao động quyết
định và phụ thuộc vào quan hệ cung cầu của lao động, lao động đắt khi nó ít và ngược lại.
Ricardo cho rằng sự vận động lên xuống của tiền lương là do hai nguyên nhân: 1. Giá
cả tự nhiên của lao động thay đổi; 2.Quan hệ cung cầu về lao động thay đổi. Theo ông, tiền
lương của công nhân lúc nào cũng chỉ nên ở mức thấp vừa đủ sống, vì tiền lương cao
người công nhân sẽ có khuynh hướng sinh đẻ nhiều và nếu đời sống sung túc thì tỉ lệ chết
cũng giảm xuống tới mức tối thiểu. Do đó số công nhân cần làm việc sẽ gia tăng trong khi
sức cầu về lao động tương đối không thay đổi và điều này sẽ làm cho tiền lương trở lại
mức tối thiểu.
Như vậy, cả A.Smith và D.Ricardo đều cho rằng tiền lương là giá cả của lao động. Vì
cả hai ông chưa phân biệt được lao động và sức lao động.
1.1.1.2. Những luận điểm cơ bản của C.Mác về tiền công trong nền kinh tế thị
trường tư bản
Từ những năm 40 của thế kỷ XIX C.Mác đã đi đến kết luận là các phạm trù kinh tế,
phản ánh đặc tính của phương thức sản xuất cần phải được phân tích như các phạm trù lịch


sử. Chính vì lẽ đó mà C.Mác đã nghiên cứu xem phạm trù tiền công của công nhân với tư
cách là nguồn thu nhập chủ yếu trong những điều kiện đặc thù của phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa.
Nghiên cứu tiền công trong CNTB, C.Mác chưa nghiên cứu tiền công(tiền lương) của
công chức,viên chức làm việc trong các tổ chức của bộ máy nhà nước tư sản vì tiền lương thu nhập của đội ngũ này là do kết quả của phân phối lại mà có. C.Mác chỉ tập trung
nghiên cứu tiền công(tiền lương) của công nhân làm thuê cho các nhà tư bản trong các
ngành sản xuất vật chất (và một số ngành dịch vụ như thương nghiệp, ngân hàng...) để làm
rõ quan hệ đặc trưng bản chất nhất của quan hệ sản xuất TBCN là quan hệ giữa tư bản và
lao động làm thuê, nhằm chỉ rõ nguồn gốc và bản chất của giá trị thặng dư, nguồn gốc đem

lại sự giàu có của các nhà tư bản trong xã hội tư bản.
Mặc dù C.Mác không nghiên cứu đầy đủ tiền lương của khu vực dịch vụ, song những
luận điểm cơ bản của C.Mác về tiền công đã cho ta những cơ sở lý luận và phương pháp
luận để tìm hiểu tiền lương của khu vực này. Dưới đây xin tóm lược những luận điểm cơ
bản của C.Mác về tiền công (tiền lương).
Một là, bản chất của tiền lương.
Về mặt biểu hiện bên ngoài, tiền công của người công nhân là số tiền mà nhà tư bản
trả cho người công nhân sau một thời gian lao động nhất định, hay sau khi hoàn tất một
công việc nhất định. Do đó, người ta đã lầm tưởng tiền công là tiền trả cho người lao động
khi làm xong công việc, số tiền đó ngang bằng với số lượng lao động mà người lao động
đã bỏ ra, hay nói cách khác tiền công là giá cả của lao động. Để làm rõ bản chất của tiền
công, C.Mác đã chứng minh thực tế, cái mà nhà tư bản mua là mua sức lao động - khả
năng lao động của công nhân. Sức lao động là đối tượng mua bán giữa nhà tư bản với công
nhân làm thuê. Sức lao động của công nhân cũng là hàng hoá như tất cả các hàng hoá khác.
Sức lao động được trao đổi với các hàng hoá khác theo một tỷ lệ nhất định. Tiền công chỉ
là một cái tên riêng của giá cả sức lao động. Nhưng C.Mác đã nhấn mạnh, trong tiền công
vẫn còn ẩn chứa những quan hệ khác. Những quan hệ này chỉ được nhận thức sau khi phân
tích nội dung bản chất của lao động dưới chủ nghĩa tư bản.
Theo C.Mác, trong xã hội tư bản, lao động với tư cách là hoạt động của lao động
sống, là sự biểu hiện cuộc sống riêng của người công nhân lại không thuộc về người công


nhân. Đói với công nhân tiền công là mục đích, là sự thể hiện một lượng nhất định các
phương tiện sống. Nhưng để có được các phương tiện sống, người công nhân buộc phải
bán cái khả năng hoạt động sống của mình tức là sức lao động. Sức lao động trở thành
hàng hoá khi trong xã hội có hai điều kiện cơ bản sau:
Thứ nhất, người lao động phải được tự do.
C.Mác viết: "Muốn cho người chủ sức lao động ấy có thể đem bán được nó với tư
cách là hàng hoá, thì người đó phải có khả năng chi phối được sức lao động ấy, do đó,
người ấy phải là kẻ tự do sở hữu năng lực lao động của mình, thân thể của mình’’ [30,

tr.251].
Như vậy, điều kiện đầu tiên để sức lao động trở thành hàng hoá là người chủ sở hữu
sức lao động phải được tự do chi phối khả năng lao động của mình. Với tư cách là người sở
hữu sức lao động được tự do, anh ta có quyền bán hoặc không bán sức lao động của mình,
có quyền thỏa thuận giá cả với người mua, có quyền lựa chọn công việc mà mình thích,
thời gian cũng như điều kiện lao động khi ở trên thị trường.
Thứ hai, người lao động không có tư liệu sản xuất của mình để kết hợp với sức lao
động của bản thân ở mọi lúc mọi nơi.
Điều kiện căn bản thứ hai, cần thiết để người chủ tiền có thể tìm được sức
lao động với tư cách là một hàng hoá trên thị trường, là người chủ sức lao động
phải không còn khả năng bán những hàng hoá trong đó lao động của anh ta được
vật hoá, mà trái lại, anh ta buộc phải đem bán với tư cách là hàng hoá, chính
ngay cái sức lao động chỉ tồn tại trong cơ thể sống của anh ta thôi [30, tr.252253].
Nghiên cứu quan hệ giữa lao động làm thuê và tư bản, C.Mác chỉ rõ, trên thị trường
mua bán sức lao động đó là quan hệ bình đẳng thuận mua vừa bán giữa người chủ có tiền
với người chủ sức lao động. Nhưng khi đã thực hiện xong giao dịch mua bán sức lao động
thì quyền sử dụng sức lao động là thuộc về nhà tư bản. Quan hệ bình đẳng trên thị trường
bây giờ đã biến thành quan hệ lệ thuộc: người lao động tiến hành quá trình lao động dưới
sự chỉ huy, điều khiển của nhà tư bản để sản xuất ra giá trị thặng dư cho nhà tư bản.
Thực chất của tư bản là ở chỗ nhà tư bản ứng ra một lượng giá trị nhất định để mua
sức lao đông- khả năng lao động, nhưng khi bắt tay vào lao động thì lao động sống của


người công nhân không những bảo tồn lao động tích luỹ- lao động quá khứ cho nhà tư bản
mà còn làm tăng thêm giá trị của nó bằng cách người công nhân làm thuê nhường lại cho
nhà tư bản "sức sáng tạo",‘‘sức tái sản xuất’’của mình. C.Mác đặc biệt chú trọng đến
những khả năng của sức lao động trong quá trình sản xuất tạo ra một giá trị lớn hơn giá trị
của các tư liệu sinh hoạt cần thiết cho tái sản xuất của người công nhân. Tư bản phải có lao
động làm thuê, còn lao động làm thuê thì còn tư bản. Tư bản và lao động làm thuê quy định
lẫn nhau.

Tư bản trao đổi không phải trực tiếp lấy lao động, mà lấy thời gian lao động chứa
đựng trong sức lao động. Hành vi mua - bán sức lao động là ngang giá và hành vi sử dụng
sức lao động là không ngang giá. Nhà tư bản thu được giá trị thặng dư nhờ thuộc tính đặc
biệt của giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động là tạo ra và làm tăng giá trị. C.Mác đã
chỉ ra số tiền mà người công nhân được nhận chỉ là một phần sản phẩm trong giá trị mới do
công nhân sáng tạo ra, được coi là số tiền trả công nhất định đại biểu cho cái phần lao động
‘‘ cần thiết’’để duy trì và tái sản xuất sức lao động. Tiền trả công đó chính là tiền lương.
Nó không phải là giá cả của lao động mà là giá trị của sức lao động.
Hai là, mặt số lượng của tiền lương.
Sau khi làm rõ chất của tiền công dưới chủ nghĩa tư bản là giá cả của hàng hoá sức
lao đông, C.Mác chuyển sang nghiên cứu tính quy định về lượng của tiền công.
Giá trị của sức lao động cũng như các hàng hoá khác, được đo bằng thời gian lao
động xã hội cần thiết để sản xuất, và do đó để tái sản xuất sức lao động.Tái sản xuất sức
lao động là duy trì cuộc sống của người lao động. Muốn vậy, cần có một số tư liệu sinh
hoạt nhất định, nên thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra sức lao động được
quy thành thời gian lao động cần thiết để sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt ấy, hay nói
cách khác, giá trị của sức lao động là giá trị của những tư liệu sinh hoạt cần thiết để duy trì
cuộc sống của người có sức lao động ấy. Ông cho rằng: ‘"giá trị của sức lao động là giá trị
của những tư liệu sinh hoạt cần thiết để duy trì cuộc sống của người có sức lao động ấy’’
[30, tr.256]. Giá trị của những tư liệu sinh hoạt cần thiết đó không phải để duy trì cuộc
sống của mỗi người công nhân nói chung mà để duy trì cuộc sống của mỗi người công
nhân có sức lao động bỏ ra khác nhau. Do đó số lượng giá trị các tư liệu sinh hoạt cần thiết
đó cũng khác nhau phụ thuộc vào giá trị sức lao động của từng người lao động bỏ ra ‘‘Hao


phí càng nhiều thì việc bù đắp lại càng lớn" [30, tr.256]. C.Mác cũng chứng minh rằng đại
lượng giá trị sức lao động phụ thuộc cả những yếu tố như: ‘‘năng suất lao động, lượng độ
dài của thời gian lao động và cường độ lao động’’. Giá trị sức lao động bao gồm cả những
yếu tố vật chất và tinh thần, lịch sử. Vì vậy, để xác định tiền lương cần xác định các yếu tố
sau:

* Giá trị những tư liệu sinh hoạt để duy trì cuộc sống của bản thân người lao động.
Sức lao động chỉ được thực hiện bằng cách biểu hiện ra bên ngoài, tức trong lao động.
Trong quá trình lao động, người lao động phải hao phí sức lực thần kinh, bắp thịt của mình.
Do đó, ‘‘cần có lượng tư liệu sinh hoạt đủ để duy trì con người lao động với tư cách là như
vậy ở trong một trạng thái sinh hoạt bình thường"[30, tr.256]. Đó là những tư liệu sinh hoạt
thiết yếu, đáp ứng nhu cầu tồn tại cho người lao động như: ăn, ở, mặc, đi lại, đồ dùng cá
nhân, bảo vệ sức khoẻ, vui chơi giải trí, giao tiếp xã hội...
Nhưng sức lao động phải tồn tại trước khi đem bán, tức trước khi lao động. Vì vậy,
việc tiêu dùng các tư liệu sinh hoạt cũng diễn ra trước khi lao động, và giá trị các tư liệu
sinh hoạt này đã chuyển vào giá trị sức lao động rồi. Tiền công được trả sau khi lao động
đòi hỏi phải bao gồm chi phí cho các tư liệu sinh hoạt đã tiêu dùng từ trước. Thực tế, trong
quá trình lao động người công nhân có những khoảng thời gian nghỉ ngơi để hồi phục lại
sức lực thần kinh, bắp thịt của mình và tiêu dùng tư liệu sinh hoạt để duy trì sức lao động.
Sau khi lao động, người công nhân vẫn phải tiếp tục tiêu dùng tư liệu sinh hoạt. Như vậy,
việc tiêu dùng cá nhân của người lao động luôn diễn ra trước, trong và sau khi lao động,
ngay cả khi không lao động trong thời gian dài, người công nhân vẫn phải tiêu dùng tư liệu
sinh hoạt để tồn tại và duy trì sức lao động. Vấn đề đặt ra là có tính hết tất cả giá trị những
tư liệu sinh hoạt ấy vào giá trị sức lao động hay không.
Theo C.Mác, sức lao động chỉ đại biểu cho một lượng lao động xã hội trung bình
nhất định đã vật hoá, và nó đã giả định sự tồn tại của con người có sức lao động đó rồi.
Việc sản xuất ra sức lao động đó chỉ bao hàm việc duy trì cuộc sống của con người đó mà
thôi. Như vậy, chỉ những giá trị tư liệu sinh hoạt để duy trì cuộc sống của người công nhân
trong quá trình lao động và việc phục hồi sức lao động đó sau quá trình lao động là được
tính vào cấu thành giá trị sức lao động. Nếu hôm nay, người lao động đã hao phí sức lao
động trong 8 giờ, thì trong quá trình lao động và cuối ngày lao động, người công nhân phải


được nhận lại phần tư liệu sinh hoạt đủ để bù đắp sức lao động ít nhất là đủ phục vụ cho 8
giờ sản xuất của ngày hôm sau.
* Giá trị những tư liệu sinh hoạt cho những người sẽ thay thế.

"Giá trị sức lao động được quyết định không những bởi số thời gian lao động cần thiết để
nuôi sống cá nhân người công nhân lớn tuổi, mà còn được quyết định bởi số thời gian cần thiết
để nuôi sống gia đình anh ta nữa" [30, tr.257]. Người sở hữu sức lao động có thể chết đi bởi
anh ta chỉ là một thực thể sinh vật cũng có quá trình sinh ra, lớn lên và chết đi. Nhưng xã
hội luôn cần có sức lao động để tồn tại và phát triển, sản xuất sản phẩm hàng hoá luôn cần
có sức lao động để đáp ứng quá trình sản xuất, quá trình tạo ra sản phẩm thặng dư cho xã
hội cũng như việc chuyển hoá không ngừng của tiền thành tư bản, nên người bán sức lao
động luôn phải tồn tại "làm cho mình sống vĩnh cửu " và không ngừng xuất hiện trên thị
trường. Mác viết "Người sở hữu sức lao động có thể chết đi. Do đó muốn người ấy không
ngừng xuất hiện trên thị trường như việc chuyển hoá không ngừng của tiền thành tư bản
đòi hỏi, thì người bán sức lao động phải làm cho mình sống vĩnh cửu "giống như mỗi một
cá nhân đang sống đều làm cho mình trở nên vĩnh cửu bằng cách sinh con đẻ cái " [30,
tr.257]. Bằng cách sinh con đẻ cái và nuôi dưỡng nó, người công nhân đã tạo ra sức lao
động thay thế sức lao động của họ sau này.
Nhu cầu sinh đẻ, nuôi dạy con cái là nhu cầu tự nhiên của con người. Nhu cầu này
không chỉ để duy trì giống nòi như một số sinh vật khác mà còn là nhu cầu tái tạo sức lao
động mới cho xã hội, thay thế những sức lao động sẽ bị mất đi.Vì vậy, trong giá trị sức lao
động phải bao hàm cả giá trị những tư liệu sinh hoạt cho con cái của họ: "Tổng số những tư
liệu cần thiết cho việc sản xuất ra sức lao động bao gồm cả những tư liệu sinh hoạt cho
những người thay thế đó, tức là cho con cái của những lao động, khiến cho cái giống
những người chủ hàng hoá đặc biệt đó được duy trì vĩnh cửu ở trên thị trường hàng hoá"
[30, tr.257].
* Chi phí đào tạo người lao động.
Người lao động nào muốn "trở thành một sức lao động phát triển và đặc thù" [30,
tr.257] thì người đó phải có kiến thức, trình độ học vấn và những thói quen khéo léo trong
một ngành lao động nhất định. Điều này chỉ có được khi người lao động phải trải qua một
chương trình đào tạo nhất định với một chi phí cần thiết nào đó mà sức lao động bình


thường không cần đến. Mác viết: "Muốn cải tạo bản tính chung của con người để làm cho

nó có được kiến thức và những thói quen khéo léo trong một ngành lao động nhất định,
nghĩa là muốn cho nó trở thành một sức lao động đặc thù, thì cần phải có một trình độ học
vấn hay giáo dục nào đó" [30, tr.257]. Sản xuất ngày càng phát triển càng đòi hỏi người
công nhân có một trình độ nhất định về nghề nghiệp cũng như hiểu biết xã hội để đáp ứng
yêu cầu lao động của ngành. Người công nhân phải được đào tạo từ những kiến thức phổ
thông cho tới đào tạo nghề.
Tuỳ theo tính chất phức tạp của lao động mà sức lao phải được đào tạo để đáp ứng.
Trong cuộc cạnh tranh giữa những người sản xuất hàng hoá với nhau, ai có công nghệ tốt
hơn, hạ được giá trị cá biệt của sản phẩm dưới mức trung bình của xã hội sẽ thu được lợi
nhuận siêu ngạch và sẽ chiến thắng. Do vậy, nhà tư bản phải đầu tư máy móc hiện đại cho
năng suất cao và luôn tìm trên thị trường những sức lao động có trình độ phù hợp với yêu
cầu sản xuất của mình chứ không phải mua sức lao động nào cũng được. Nếu không tìm
thấy được sức lao động phù hợp, anh ta có thể tạm thời nhận những công nhân có trình độ
gần tương đương thì phải có chi phí đào tạo để họ thích ứng với công việc. Phần chi phí đó
cũng được tính vào giá trị sức lao động.
Chúng ta có thể hiểu chi phí đào tạo ở đây bao gồm cả chi phí học tập phổ thông, chi
phí đào tạo nghề(được đào tạo hoặc tự đào tạo), những kỹ năng, kỹ xảo, kinh nghiệm lao
động của người công nhân đã tích luỹ,"sự tái sản xuất ra giai cấp công nhân cũng còn bao
hàm cả sự lưu truyền và tích luỹ tài khéo léo từ thế hệ này sang thế hệ khác" [30, tr.810].
Những chi phí học tập, đào tạo và tái đào tạo này phải gia nhập vào tổng số những chi phí
để sản xuất và tái sản xuất sức lao động. Cho nên tiền công trả cho lao động phức tạp phải
cao hơn lao động giản đơn, vì lao động phức tạp là bội số của lao động giản đơn. Đó là
những chi phí làm tăng giá trị sức lao động, giúp cho người lao động có ưu thế trên thị
trường lao động.
Giá trị sức lao động gồm cả ba bộ phận chi phí trên, nhưng bản thân chi phí đó có
thể thay đổi. Ta thấy, giá trị sức lao động là do giá trị các tư liệu sinh hoạt cần thiết của
một người lao động trung bình quyết định. Khối lượng những tư liệu sinh hoạt ấy là không
thay đổi đối với mỗi thời kỳ nhất định của một xã hội nhất định (hình thức của tư liệu sinh
hoạt có thể thay đổi). Nhưng giá trị của những tư liệu sinh hoạt ấy có thể thay đổi do thói



quen, nhu cầu tự nhiên của người lao động sản xuất ra tư liệu sinh hoạt đó, do đặc điểm tự
nhiên, khí hậu, môi trường của nơi sử dụng tư liệu sinh hoạt và do trình độ lực lượng sản
xuất của mỗi nước, nên"việc quy định giá trị của sức lao động bao hàm một yếu tố lịch sử
và tinh thần" [30, tr.257]. Sức lao động là hàng hoá đặc biệt, giá trị hàng hoá sức lao động
khác với hàng hoá thông thường ở chỗ nó bao hàm cả yếu tố tinh thần và lịch sử. Điều đó
có nghĩa là ngoài những nhu cầu về vật chất, người công nhân còn có những nhu cầu về
tinh thần (giải trí, sách báo, đào tạo...) nhất là với những người lao động trí óc, sự căng
thẳng thần kinh sau một quá trình làm việc là rất lớn thì rất cần có thời gian nghỉ ngơi, giải
trí để có thể tái sản xuất sức lao động cho quá trình sản xuất tiếp theo. Nền sản xuất xã hội
càng phát triển thì nhu cầu về lao động phức tạp ngày càng tăng, và mức độ sử dụng năng
lực trí óc của người lao động cũng tăng lên, sự căng thẳng về tinh thần cũng ngày càng
tăng với sức ép rất lớn từ công việc. Tất cả những điều đó đều ảnh hưởng đến giá trị sức
lao động, dẫn đến sự khác biệt của giá trị sức lao động theo ngành và theo lĩnh vực của nền
kinh tế. Những nhu cầu về tinh thần của người lao động phụ thuộc vào hoàn cảnh lịch sử
của mỗi nước ở từng thời kỳ, phụ thuộc vào trình độ văn minh đã đạt được, vào điều kiện
lịch sử hình thành giai cấp công nhân.
Những bộ phận cấu thành giá trị sức lao động trên đây là cơ sở để xác định mức tiền
công cho từng loại lao động, cho nên giới hạn thấp nhất của tiền công lao động là phải đảm
bảo cuộc sống tối thiểu cho người lao động:
Giá trị của cái khối lượng hàng hoá mà hàng ngày thiếu nó thì kẻ mang
sức lao động, tức là con người, sẽ không thể khôi phục lại quá trình sống của
mình, tức là tạo thành giá trị của những tư liệu sinh hoạt không thể thiếu được về
mặt sinh lý. Nếu như giá cả của sức lao động rơi xuống dưới mức tối thiểu ấy,
thì nó sẽ rơi xuống thấp hơn giá trị của nó, và khi đó nó chỉ được duy trì và phát
triển dưới trạng thái lay lắt mà thôi [30, tr.259].
Việc hạ thấp tiền công dưới giá trị sức lao động có thể gây ra ảnh hưởng không tốt
tới việc duy trì giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động.
Tiền công- giá cả sức lao động phải căn cứ vào giá trị sức lao động. Trên thị trường
giá cả sức lao động còn phụ thuộc vào quan hệ cung- cầu về giá trị sử dụng sức lao động.

Khi cung nhỏ hơn cầu (thường đối với lao động lành nghề) thì giá cả sức lao động cao hơn


giá trị của nó. Ngược lại khi cung lớn hơn cầu (thương đối với lao động giản đơn) thì giá
cả của sức lao động thấp hơn giá trị của nó. Trong trường hợp này người mua thường tìm
cách hạ thấp tiền công. Vì vậy, ở nhiều nước Nhà nước phải can thiệp bằng cách ban hành
đạo luật về tiền công tối thiểu.
C.Mác cho rằng: mức tiền công tối thiểu bao gồm các phương tiện sinh sống đáp
ứng được những nhu cầu xã hội của người công nhân làm thuê.Tiền công tối thiểu không
hạn chế ở giá trị những phương tiện sinh sống cần thiết chỉ để thoả mãn các nhu cầu thuần
tuý thân xác mà bao gồm cả giá trị các tư liệu sinh hoạt để người lao động đáp ứng các nhu
cầu xã hội. Tiền công tối thiểu được coi như tiền công đảm bảo tái sản xuất ra người công
nhân, tái sản xuất ra sức lao động của anh ta ở mức tối thiểu và cần thiết cho nhà tư bản.
Nói cách khác, tiền công tối thiểu là tiền công đảm bảo tái sản xuất giản đơn sức lao động.
Từ quan điểm tiền công tối thiểu của C.Mác, có thể rút ra một số kết luận:
+ Tiền công tối thiểu tuỳ thuộc vào trình độ phát triển lực lượng sản xuất.
+ Tiền công tối thiểu chung trong nền kinh tế là tiền công đảm bảo tái sản xuất giản
đơn cho những sức lao động giản đơn.
+ Tuỳ thuộc vào đặc điểm và tính chất lao động trong các ngành nghề mà xác định
tiền công tối tiểu theo ngành.
+ Tăng tiền công lên trên mức tối thiểu là để tái sản xuất mở rộng sức lao động nhằm
đáp ứng yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất.
Ngoài các nhân tố ảnh hưởng như trên, hàng hoá sức lao động khi đem bán còn phụ
thuộc vào giá trị (hay sức mua của đồng tiền). Hàng hoá sức lao động khi mua bán trên thị
trường giả định theo đúng giá trị được thể hiện bằng một số tiền nhất định. Đó là số tiền
mà người mua chấp nhận trả cho người bán sức lao động và được ghi trong hợp đồng lao
động.
Tiền công tính thành tiền được C.Mác gọi đó là tiền công danh nghĩa. Khối lượng tư
liệu sinh hoạt mua được bằng tiền công đó gọi là tiền công thực tế. "Sự chênh lệch giữa giá
trị trao đổi của sức lao động và khối lượng tư liệu sinh hoạt mà giá trị đó chuyển thành, bây

giờ cũng thể hiện thành sự chênh lệch giữa tiền công danh nghĩa và tiền công thực tế " [30,
tr.766]. Xảy ra sự chệnh lệch giữa tiền công danh nghĩa và tiền công thực tế là do sức mua
của đồng tiền (hay giá trị của đồng tiền) thay đổi.Với một lượng tiền công danh nghĩa được


trả như nhau, nhưng tiền lương thực tế của những công nhân có thể khác nhau do ở nơi này
mua được nhiều khối lượng tư liệu sinh hoạt hơn ở nơi khác, hoặc ở thời điểm này mua
được nhiều hơn ở thời điểm khác.
Từ vấn đề nêu ra ở trên ta thấy: khi giá trị của tiền không đổi thì tiền công thực tế
(giá trị sức lao động) sẽ phụ thuộc vào giá trị các tư liệu sinh hoạt và vận động ngược chiều
với giá cả các tư liệu sinh hoạt. Theo nguyên lý, giá cả thị trường của hàng hoá tỷ lệ thuận
với giá trị thị trường của nó và tỷ lệ nghịch với giá trị hay sức mua của đồng tiền. Khi tiền
mất giá thì giá cả hàng hoá (bao gồm các tư liệu sinh hoạt) sẽ tăng lên. Nếu tiền công danh
nghĩa không được nâng lên tương ứng với mức mất giá của tiền thì tiền công thực tế sẽ hạ
xuống thấp hơn giá trị sức lao động. Bởi vậy, khi có lạm phát mà tiền công danh nghĩa bị
"đóng băng" hoặc được nâng lên không tương ứng với mức lạm phát thì mức sống của
người lao động hưởng lương sẽ bị giảm. Việc nghiên cứu, phân biệt tiền lương danh nghĩa
và tiền lương thực tế có ý nghĩa quan trọng đối với chính sách tiền lương nói chung và xác
định mức tiền lương tối thiểu cho từng giai đoạn tương ứng với những biến động của giá cả
thị trường đảm bảo cuộc sống thực tế của người lao động hưởng lương.
Ba là, hình thức tiền lương.
Trong lý luận về tiền công, C. Mác còn chỉ ra hai hình thức cơ bản của tiền công là:
tiền công theo thời gian và tiền công theo sản phẩm.
Tiền công tính theo thời gian là sự biểu hiện bằng tiền gía trị hàng ngày, hàng tuần...
của sức lao động. Quy luật chung của tiền công theo thời gian là:
Nếu một số lượng lao động hàng ngày hay hàng tuần,…đã cho sẵn thì tiền
công ngày hay tiền công tuần phụ thuộc vào giá cả sức lao động, bản thân giá cả
này lại biến đổi cùng với giá trị sức lao động hay cùng với những sự chênh lệch
của giá cả sức lao động so với giá trị của nó. Ngược lại, nếu giá cả lao động đã
cho sẵn, thì tiền công ngày hay tiền công tuần phụ thuộc vào số lượng lao động

hàng ngày hay hàng tuần [30, tr.769].
Khi tiền công ngày hay tuần tăng thì giá cả sức lao động có thể không thay đổi về
danh nghĩa, tuy vậy, nó vẫn có thể tụt xuống dưới mức bình thường của nó. Điều này xảy
ra khi giá cả của giờ lao động không thay đổi, nhưng ngày lao động bị kéo dài quá mức
bình thường của nó.Giá cả sức lao động thấp trong khoảng thời gian gọi là bình thường đã


bắt buộc người công nhân, nếu muốn kiếm được một số tiền công nói chung tương đối đầy
đủ, thì phải làm thêm ngoài giờ để được trả công cao hơn. Sự hạn chế ngày lao động bằng
pháp luật đã giúp bảo vệ bảo vệ quyền lợi người lao động.
Tiền công tính theo thời gian có quan hệ chặt chẽ với hình thức tiền công tính theo
sản phẩm. Tiền công tính theo sản phẩm là hình thức chuyển hoá của hình thức tiền công
tính theo thời gian; hình thức này càng làm cho người ta tin rằng "giá cả của lao động
không phải do phân số giữa giá trị hàng ngày của sức lao động và ngày lao động với một
số giờ nhất định quyết định mà là do năng lực công tác của người sản xuất quyết định" [30,
tr.777].
Trên thực tế, tiền công tính theo sản phẩm không trực tiếp biểu hiện một quan hệ giá
trị nào cả; trong hình thức này, người ta không đo giá trị của một đơn vị hàng hoá bằng
thời gian lao động nhập vào hàng hoá đó, mà trái lại, lao động do người công nhân tiêu phí
lại được đo bằng số lượng hàng hoá do anh ta đã sản xuất ra. "Trong tiền công tính theo
thời gian, lao động được trực tiếp đo bằng thời gian dài ngắn của nó; còn trong tiền công
tính theo sản phẩm thì lao động được đo theo số lượng sản phẩm trong đó lao động đã
ngưng đọng lại trong một khoảng thời gian nhất định" [30, tr.780].
Tiền công tính theo sản phẩm là thước đo hoàn toàn chính xác để đo cường độ lao
động và năng suất lao động.Về cường độ lao động, tiền công tính theo sản phẩm kích thích
người công nhân nâng cao mức bình thường của cường độ lao động, vì người công nhân
muốn có nhiều tiền công phải có nhiều sản phẩm. Về năng suất lao động, nếu năng suất lao
động tăng lên và các điều kiện khác không đổi thì tiền công tính theo sản phẩm sẽ giảm;
nói khác đi "tiền công tính theo sản phẩm giảm xuống theo cùng tỷ lệ với tỷ lệ tăng lên của
số sản phẩm đã sản xuất ra trong cùng một thời gian" [30, tr.787].

Tiền công theo sản phẩm tạo ra sự chênh lệch về thu nhập giữa các công nhân với
nhau do có sự khác biệt về tài khéo léo, sức lực, nghị lực, sức dẻo dai; qua đó góp phần
phát triển cá tính, tinh thần tự do, tính độc lập và khả năng tự kiểm tra của người công
nhân; thúc đẩy sự cạnh tranh giữa các công nhân với nhau. Điều này giúp cho việc quản lý
lao động trở nên có hiệu quả hơn.
Tiền công là giá cả sức lao động cho nên dù tiền công trả theo thời gian (biểu hiện
bằng tiền của giá trị sức lao động kết tinh theo thời gian) hay tiền công tính theo sản phẩm


(biểu hiện bằng tiền của giá trị sức lao động kết tinh trong từng sản phẩm) thì người lao
động cũng chỉ nhận được sự trả công cho lao động cần thiết, còn phần lao động thặng dư
thì bị người mua chiếm đoạt.
Việc nghiên cứu các hình thức tiền công của C.Mác đặt ra vấn đề: tiền lương của
đội ngũ giảng viên đại học nên tính theo thời gian hay theo sản phẩm ? Nếu tính tiền công
theo sản phẩm thì sản phẩm của đội ngũ giảng viên là những sản phẩm vô hình cho nên rất
khó đánh giá đúng số lượng và chất lượng các loại sản phẩm thể hiện ở số lượng, chất
lượng giờ giảng; số lượng và chất lượng các công trình nghiên cứu khoa học; tác dụng của
những sản phẩm đó đến người học như thế nào ? Nếu tính tiền công theo thời gian thì thời
gian lao động của giảng viên là bao nhiêu cho giảng dạy trên lớp, chuẩn bị giáo án, làm thí
nghiệm, tìm hiểu thực tế, nghiên cứu khoa học rất khó có thể tính đúng, tính đủ được giá trị
sức lao động cho đội ngũ này khi thực hiện các nhiệm vụ trên.
Tóm lại, tiền công là biểu hiện bằng tiền của giá trị sức lao động. Giá trị hàng hoá
sức lao động lại được quy thành thời gian lao động cần thiết sản xuất ra các tư liệu sinh
hoạt để tái sản xuất sức lao động.Giá trị các tư liệu sinh hoạt ấy phụ thuộc vào điều kiện tự
nhiên và xã hội, trình độ văn minh của mỗi nước, theo những thói quen và những nhu cầu
sinh hoạt của người lao động tự do.Tuy vậy, tiền công phải đảm bảo đầy đủ, ít nhất là
ngang bằng giá trị các tư liệu sinh hoạt cần thiết cho người lao động. Các tư liệu sinh hoạt
cần thiết đó có thể được tiêu dùng đi trong ngày như thức ăn, chất đốt, cũng có thể là
những tư liệu sinh hoạt trong một khoảng thời gian dài hơn.
Một số hàng hoá được mua hay trả tiền hàng ngày, một số khác thì hàng

tuần, hàng quý... Nhưng dù cho tổng số chi phí ấy có phân bổ như thế nào trong
thời gian một năm chẳng hạn, thì tổng số đó cũng phải được thanh toán bằng
những thu nhập trung bình, thu được từ ngày này sang ngày khác [30, tr.258].
1.1.2. Đặc điểm của tiền lương trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta hiện nay
Từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, quan điểm về tiền lương ở nước ta đã
từng bước được giải quyết theo kinh tế thị trường. Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhìn thấy
mối quan hệ chặt chẽ giữa sức lao động và việc làm, từ đó đã có nhận định quan trọng là:


Trong xã hội ta, còn nhiều người có sức lao động chưa có việc làm và chưa
sử dụng hết thời gian lao động. Khả năng thu hút sức lao động của khu vực nhà
nước trong những năm trước mắt còn có hạn. Cũng không thể đưa tất cả những
người làm ăn cá thể vào các tổ chức kinh tế tập thể trong một thời gian ngắn [9,
tr.55].
Từ nhận định này, Đảng ta đã chỉ ra phương hướng giải quyết mối quan hệ giữa sức
lao động và việc làm đó là nhà nước phải cố gắng tạo thêm việc làm và có chính sách để
người lao động tự tạo việc làm bằng cách khuyến khích phát triển kinh tế gia đình, khai
thác mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế khác, kể cả thành phần kinh tế tư bản tư
nhân. Việc thừa nhận nền kinh tế nước ta là nền sản xuất hàng hoá nhiều thành phần đòi
hỏi phải nghiên cứu một loại hàng hoá mới trong nền kinh tế nước ta là hàng hoá sức lao
động.
Trong nền sản xuất hàng hoá, các yếu tố tham gia vào quá trình sản xuất đều phải
được hạch toán đầy đủ vào chi phí sản xuất, chính vì vậy mà yếu tố sức lao động - yếu tố
cơ bản và đóng vai trò quan trọng trong nền sản xuất hàng hoá cũng phải được xem xét
xem có phải là hàng hoá hay không. Câu trả lời cho vấn đề này nằm ngay trong sự phát
triển của sản xuất hàng hoá.
Sự phát triển ngày càng phổ biến của sản xuất hàng hoá và sự mở rộng của các loại
thị trường ở nước ta, Đảng ta xác định nền kinh tế nước ta là nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã

hội chủ nghĩa. Đảng ta còn khẳng định muốn phát triển được nền kinh tế thị trường thì cần
phải "Từng bước hình thành và mở rộng đồng bộ các thị trường hàng tiêu dùng, tư liệu sản
xuất, dịch vụ, thị trường vốn và tiền tệ, thị trường ngoại hối, thị trường sức lao động... " [9,
tr.69]. Đây là lần đầu tiên trong nhận thức lý luận của mình - được trình bày trong Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được Đại hội Đại biểu
toàn quốc lần thứ VII thông qua - Đảng Cộng sản Việt Nam thừa nhận có thị trường sức
lao động trong nền kinh tế quốc dân và như vậy là đã thừa nhận có sự tồn tại của hàng hoá
sức lao động.
Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, sức lao động không được công nhận là
hàng hoá nên không ai có quyền mua, bán sức lao động. Ngược lại,"trong nền kinh tế hàng


hoá, sức lao động là một loại hàng hoá, nó được mua, được bán, có giá cả, giá trị và giá trị
sử dụng" [7, tr.35-39].
"Cũng giống như các loại hàng hoá khác, hàng hoá sức lao động trong quan hệ thuê
mướn, sử dụng lao động bị quy định bởi bản chất của chế độ chính trị xã hội". [32, tr.24]. ở
các nước tư bản chủ nghĩa, hàng hoá sức lao động chủ yếu phục vụ cho nhu cầu làm tăng
giá trị của nhà tư bản, quyền lợi của giới chủ là trước hết. Còn ở nước ta đang trong quá
trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, việc vận dụng lý luận của
Chủ nghĩa Mác-Lênin một cách sáng tạo và phù hợp với điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội
trên thế giới và trong nước đã và đang làm thay đổi quan điểm về hàng hoá sức lao động
trong nền kinh tế nước ta. Hầu hết các ý kiến của các nhà kinh tế Việt Nam hiện nay đều
cho rằng cần phải xem xét sức lao động là loại hàng hoá đặc biệt.
Hai nhà nghiên cứu Bùi Tiến Quý, Vũ Quang Thọ cho rằng:"Thừa nhận sức lao
động là hàng hoá, phát triển thị trường lao động hướng vào việc sử dụng có hiệu quả nguồn
lao động sẽ phá bỏ được các rào cản, đảm bảo được quyền tự chủ, tự chọn nghề nghiệp, tự
do di chuyển..., qua đó cải cách chế độ làm việc, chế độ sử dụng lao động, chế độ tiền
lương, chế độ phúc lợi, bảo hiểm " [35, tr.150].
Trong luận án của Bùi Thị Xuyến, sau khi phân tích lý luận hàng hoá sức lao động
của C.Mác và sự khách quan của việc tồn tại hàng hoá sức lao động trong nền kinh tế thị

trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, bà khẳng định:
Việc xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường đã và đang tạo ra những
điều kiện làm cho hàng hoá sức lao động xuất hiện, tồn tại và phát triển. Đó
chính là sự phát triển không đều về lực lượng sản xuất và sự tồn tại các hình
thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất tạo ra sự tách rời tư liệu sản xuất và
sức lao động. Sự kết hợp tư liệu sản xuất và sức lao động phải thông qua quan hệ
hàng - tiền và người sở hữu sức lao động không được chi phối sản phẩm làm ra,
đồng thời người lao động bị tước đoạt không bồi hoàn lao động thặng dư. Việc
thừa nhận hàng hoá sức lao động không cản trở việc xây dựng chủ nghĩa xã hội
mà còn giúp kích thích cả người sở hữu sức lao động và người sử dụng sức lao
động đóng góp tích cực hơn vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Hàng hoá
sức lao động tồn tại và phát triển trong các thành phần kinh tế tư bản tư nhân,


thành phần kinh tế tư bản nhà nước, thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài. Trong thành phần kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể, sức lao động không
phải là hàng hoá, nhưng tính chất hàng hoá của sức lao động được vận dụng
trong việc tính toán tiền lương để đảm bảo tính đủ các yếu tố đầu vào trong việc
sản xuất hàng hoá [45, tr.21].
Tác giả luận văn cũng hoàn toàn đồng tình với ý kiến trên của tác giả về việc xem
sức lao động là hàng hoá sẽ phù hợp với sự phát triển của kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở nước ta. Khi sức lao động là hàng hoá và tiền công là giá cả của sức lao động
thì mới đánh giá đầy đủ đóng góp của người lao động, kích thích người lao động hăng say làm
việc và sáng tạo, thúc đẩy tăng năng suất lao động xã hội, và đặc biệt đảm bảo công bằng giữa
những người lao động trong xã hội, tiến tới một xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.
Tác giả luận văn không đồng tình với ý kiến cho rằng "trong khu vực kinh tế nhà
nước và kinh tế tập thể, sức lao động không phải là hàng hoá ". Lý do là vì trên thực tế,
trong các đơn vị thuộc khu vực nhà nước không phải ai có sức lao động thì đều được vào
làm việc. Từ doanh nghiệp nhà nước đến các đơn vị sự nghiệp và cơ quan hành chính đều
phải xem xét rất kỹ lưỡng thuộc tính giá trị sử dụng của sức lao động. Nếu giá trị sử dụng

sức lao động phù hợp với yêu cầu công việc thì mới đựoc tuyển dụng. Ngược lại người có
sức lao động lại rất quan tâm đến giá trị sức lao động của mình. Tiền lương có đảm bảo
cuộc sống hay không thì họ mới đến làm việc trong các đơn vị đó. Như vậy sức lao động
được xem xét rất kỹ lưỡng ở cả hai thuộc tính: giá trị sử dụng và giá trị. Cho nên, sức lao
động là hàng hoá. Chỉ khi nào đơn vị sử dụng sức lao động và người có sức lao động được
đáp ứng thì mới đi đến ký kết hựop đồng loa động. Hợp đồng lao động là khế ước mua bán
sức lao động giữa đơn vị sử dụng sức lao động với cá nhân người lao động. Quan hệ mua
bán sức lao động ở đây là quan hệ giữa cá nhân người có sức lao động với các tổ chức xã
hội của người lao động, khác với quan hệ mua bán sức lao động giữa cá nhân người lao
động với cá nhân nhà tư bản trong khu vực kinh tế tư bản tư nhân.
Vấn đề cần lưu ý là trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta, một
mặt sức lao động là hàng hoá mang tính chất phổ biến nhưng quan hệ ua bán sức lao động
lại có tính chất đặc thù đối với từng thành phần kinh tế. Mặt khác, sức lao động là hàng hoá
phổ biến, nhưng không phải sức lao động cũng là hàng hoá. Những người lao động có đủ


tư liệu sản xuất của mình kết hợp với sức lao động của họ một cách thường xuyên để sản
xuất ra sản phẩm thuộc về họ thì những sức lao động đó không phải là hàng hoá. Chẳng
hạn như nông dân, thợ thủ công độc lập, nhà tư bản quản lý cơ sở kinh doanh của họ…thì
những sức lao động này không phải là hàng hoá vì họ không phải bán cho ai sử dụng mà
chính họ tự sử dụng sức lao động của mình. Nhưng cũng những người này, trong khoảng
thời gian họ không có tư liệu sản xuất của mình để kết hợp với sức lao động của mình, sức
lao động của họ kết hợp với tư liệu sản xuất của người khác để họ nhận được một số tiền
công thì sức lao động trở thành hàng hoá sức lao động trong khoảng thời gian đó.
Trong nền kinh tế thị trường, sức lao động là hàng hoá thì tiền lương là biểu hiện
bằng tiền của giá trị sức lao động, là giá cả của sức lao động mà người sử dụng lao động trả
cho người có sức lao động. Cũng giống như các hàng hoá khác, giá cả của hàng hoá sức
lao động được quy định bởi giá trị của nó và chịu ảnh hưởng của quy luật cung- cầu trên
thị trường.
ở nước ta, trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung trước đây, về lý luận chúng ta cho

rằng tiền lương về bản chất không phải là giá cả của sức lao động mà là một phần thu nhập
quốc dân - những tư liệu sinh hoạt được Nhà nước phân phối một cách có kế hoạch cho
người lao động được biểu hiện bằng tiền. Về nguyên tắc, việc phân phối số lượng và chủng
loại các tư liệu sinh hoạt cho từng người là căn cứ vào tính chất và đặc điểm lao động, số
lượng và chất lượng lao động của từng người. Nó chịu sự tác động của quy luật phát triển
cân đối có kế hoạch và do Nhà nước quy định tuỳ theo mức độ tăng năng suất lao động.
Trên thực tế, chế độ tiền lương của thời kỳ bao cấp chịu sự chi phối trực tiếp của
Nhà nước. Mỗi chính sách, chế độ, mức lương cụ thể đều do Nhà nước thống nhất ban
hành, không phân biệt họ đang công tác ở khu vực hành chính, sự nghiệp hay các đơn vị
sản xuất kinh doanh, không thể hiện được tính chất và đặc điểm lao động, số lượng và chất
lượng lao động Điều đó dẫn tới gần như cào bằng trong việc trả lương, nguyên tắc phân
phối theo lao động bị vi phạm, phân phối bình quân lấn át, người làm tốt cũng được hưởng
như người làm không tốt, người làm ít cũng như người làm nhiều, sự công hiến không
được chú ý, giá trị sức lao động bị quên lãng. Người lao động không quan tâm tới tới việc
công hiến nhiều hay ít, làm việc tốt hay xấu, mà điều họ quan tâm là làm việc ở đâu, biên
chế hay không biên chế, có thoải mái để làm thêm bên ngoài hay không, có chức quyền,


bổng lộc hay không. Là người quản lý trực tiếp ở đơn vị cơ sở, nhưng thủ trưởng đơn vị
không là người quyết định biên chế lao động, mức lương cho người lao động, mà lại phải
tuân thủ sự áp đặt từ một cấp trên không tính tới nhu cầu lao động cũng như chất lượng lao
động được trả lương. Với chính sách tiền lương thụ động như vậy đã làm cho người lao
động làm việc một cách thụ động, giảm tính sáng tạo, và từ đó đã làm thủ tiêu động lực của
người lao động.
Do nhận thức mới về con đường đi lên CNXH, chuyển nền kinh tế vận động theo cơ
chế thị trường, nên đã có cách nhìn mới về tiền lương, thay đổi so với quan điểm trong cơ
chế cũ.
Theo cơ chế mới, do thừa nhận lao động được tự do làm việc theo hợp
đồng thoả thuận, tự do chuyển dịch lao động giữa các thành phần kinh tế, giữa
các cơ sở sản xuất, nghĩa là về mặt lý luận thừa nhận sự tồn tại khách quan của

phạm trù thị trường sức lao động, nên tiền lương không chỉ thuộc phạm trù phân
phối mà còn là phạm trù trao đổi, phạm trù giá trị [4, tr.5].
Tiền lương và tiền công phải dựa trên số lượng và chất lượng lao động, bảo đảm tái
sản xuất sức lao động, tiền tệ hoá tiền lương, xoá bỏ chế độ bao cấp ngoài lương dưới hình
thức hiện vật, thực hiện sự tương quan hợp lý về tiền lương và thu nhập của các bộ phận
lao động xã hội.
Như vậy theo quan niệm mới về tiền lương thì tiền lương là số lượng tiền tệ mà
người sử dụng lao động trả cho người lao động sau khi đã hoàn thành công việc theo chức
năng, nhiệm vụ quy định. Tiền lương trong hợp đồng là giá cả sức lao động được hình
thành trên cơ sở giá trị sức lao động thông qua sự thoả thuận giữa người có sức lao động và
người sử dụng sức lao động, đồng thời chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế, trong đó
có quy luật cung- cầu. Tuy nhiên tuỳ theo cấp độ của từng đơn vị, tổ chức, doanh nghiệp
mà tiền lương được hình thành từ quỹ lương của các chủ thể quản lý tương ứng. Trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, còn tồn tại nhiều thành phần kinh
tế khác nhau nên các hình thức tiền lương cũng rất đa dạng.
Trong khu vực kinh tế nhà nước, các doanh nghiệp, các đơn vị hành chính, sự nghiệp
tiền lương trả cho người lao động theo cơ chế và chính sách của Nhà nước, được xác định
trên cơ sở tính đủ tính đúng giá trị sức lao động ở các vị trí khác nhau trong hệ thống phân


×