Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

LUẬN văn thu hút vốn đầu tư để phát triển du lịch ở tỉnh hủa phăn, nước cộng hoà dân chủ nhân dân lào

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (771.42 KB, 100 trang )

LUẬN VĂN:

Thu hút vốn đầu tư để phát triển du lịch ở
tỉnh Hủa Phăn, nước Cộng hoà Dân chủ
Nhân dân Lào


Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào, sau hơn hai mươi năm đổi mới nền kinh
tế đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa quan trọng trong sự phát triển của đất
nước. Cùng với các ngành khác, trong những năm qua ngành du lịch của Lào đã phát
triển mạnh, nhanh và liên tục có sự tăng trưởng đáng kể. Tỷ trọng du khách năm 2007
tăng 34%, tổng doanh thu từ du lịch đạt 223,3 triệu USD, chiếm 8% GDP.
Thời gian qua, được sự quan tâm chỉ đạo, ủng hộ tạo điều kiện của lãnh đạo tỉnh,
tổng cục Du lịch và các bộ ngành Trung ương, đồng thời có sự phối hợp và hỗ trợ của
chính quyền địa phương các cấp cũng như sự quan tâm của các nhà đầu tư, du lịch tỉnh
Hủa Phăn đã thu được những kết quả nhất định. Nhờ thu hút vốn đầu tư tăng, các kênh
huy động vốn ngày càng đa dạng, thu hút nhiều thành phần kinh tế tham gia, nên du lịch
tỉnh Hủa Phăn phát triển nhanh, mạnh và liên tục.
Hiện nay, du lịch tỉnh Hủa Phăn đã và đang trở thành một ngành kinh tế mũi
nhọn, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế của tỉnh. Trong 5 năm qua (2004 2008) doanh thu từ du lịch tăng trưởng bình quân 18,56%/năm. Lượt khách du lịch bình
quân 25%/năm.
Nhưng tiềm năng du lịch vốn có của tỉnh còn rất lớn như vườn quốc gia bảo tồn
động – thực vật Nặm ét – Phu Lơi, Nặm Xăm, nhiều suối nước nóng, danh lam thắng
cảnh, thác nước, hang động nhất là ở huyện Viêng Xay, chưa khai thác được. Do vậy,
cần thu hút mạnh mẽ hơn nữa vốn đầu tư của mọi thành phần kinh tế, nhằm thu hút các
lực lượng lao động, đa dạng hoá các hình thức hoạt động du lịch, tăng lượt khách du
lịch, đẩy mạnh xúc tiến và tiếp thị du lịch, xây dựng và quảng bá thương hiệu du lịch
tỉnh Hủa Phăn, ra thị trường thế giới, tìm kiếm mở rộng thị trường mới; phát triển đồng
bộ hệ thống hạ tầng, dịch vụ phục vụ du lịch, tổ chức các tuyến du lịch và nối các tuyến


du lịch trong tỉnh với các tuyến du lịch của cả nước; từng bước nâng cao chất lượng của
ngành du lịch ngang tầm quốc tế tăng doanh thu, đóng góp GDP du lịch vào giá trị tổng
sản phẩm của tỉnh.


Để phát triển ngành du lịch tỉnh Hủa Phăn một cách bền vững đòi hỏi cần giải quyết
hàng loạt vấn đề, trong đó vấn đề tìm kiếm các nguồn vốn để đáp ứng nhu cầu đầu tư nhằm
khai thác một cách bền vững tiềm năng du lịch mà thiên nhiên ưu đãi cho tỉnh Hủa Phăn là
vấn đề quan trọng có tính chiến lược.
Với những lý do trên đây, cùng với sự ham thích và mong muốn đóng góp vào
công tác quy hoạch đầu tư phát triển vào ngành du lịch tỉnh Hủa Phăn - ngành kinh tế
mà được Đảng và chính quyền tỉnh Hủa Phăn ưu tiên phát triển hàng đầu, tôi chọn đề tài
“Thu hút vốn đầu tư để phát triển du lịch ở tỉnh Hủa Phăn, nước Cộng hoà Dân chủ
Nhân dân Lào” làm luận văn thạc sĩ kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu
Thu hút vốn đầu tư phát triển kinh tế xã hội nói chung và phát triển du lịch nói
riêng đã được nhiều tác giả nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau. Những công trình
nghiên cứu đó, chủ yếu đề cập đến việc thu hút vốn đầu tư phát triển kinh tế phục vụ sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam và một số nước trong khu vực hiện
nay.
- Võ Văn Cần (2008), “Thu hút vốn đầu tư phát triển du lịch Khánh Hoà đến
năm 2020”. Luận văn Thạc sĩ kinh tế.
- Nguyễn Văn Lúa (2007), “Thu hút vốn đầu tư để phát triển khu kinh tế mở Chu
Lai, tỉnh Quảng Nam”. Luận văn thạc sĩ kinh tế.
- Nguyễn Minh Tuấn (2008), “ Kinh tế nhiều thành phần trong lĩnh vực du lịch ở
Đồng Tháp”. Luận văn thạc sĩ kinh tế.
Đối với Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào, việc nghiên cứu của những công trình
khoa học này chỉ đề cập đến một khía cảnh nào đó trong chính sách thu hút vốn đầu tư;
chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu có hệ thống tập trung vào vấn đề thu hút
vốn đầu tư để phát triển du lịch nói chung và du lịch tỉnh Hủa Phăn hiện nay.

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Phân tích lý luận về vốn đầu tư và vai trò của việc thu hút vốn đầu tư phát triển
du lịch. Làm rõ thực trạng thu hút vốn đầu tư vào phát triển du lịch ở tỉnh Hủa Phăn.


Trên cơ sở đó, luận văn đưa ra một số giải pháp nhằm thu hút vốn đầu tư để phát triển
du lịch trong những năm tới.
3.2. Nhiệm vụ
- Nghiên cứu cơ sở lý luận và những nhân tố ảnh hưởng đến thu hút vốn đầu tư
để phát triển du lịch, kinh nghiệm thu hút vốn đầu tư vào phát triển du lịch ở một số tỉnh
trong nước.
- Đánh giá thực trạng thu hút vốn đầu tư để phát triển du lịch ở tỉnh Hủa Phăn từ
năm 2005 đến nay.
- Đưa ra một số phương hướng và giải pháp thu hút vốn đầu tư để phát triển du
lịch ở tỉnh Hủa Phăn từ nay đến năm 2015, tầm nhìn năm 2020.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là thu hút vốn đầu tư để phát triển du lịch.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Đề tài nghiên cứu thu hút vốn đầu tư phát triển du lịch ở tỉnh Hủa Phăn nước
Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào từ năm 2005 đến nay.
- Giới hạn nghiên cứu thu hút vốn tiền tệ để phát triển du lịch: từ ngân sách Nhà
nước và các thành phần kinh tế, từ các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Về cơ sở lý luận : Luận văn dựa trên cơ sở phương hướng lý luận của chủ nghĩa
Mác – Lênin và những quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước Cộng hoà Dân
chủ Nhân dân Lào. Trước hết, nắm vững và vận dụng đúng phương pháp luận Mác –
Lênin với 3 quan điểm rất cơ bản.
Một là, quan điểm lịch sử cụ thể. Lịch sử cụ thể phải căn cứ vào từng địa điểm cụ

thể, từng địa phương cụ thể, từng xã hội cụ thể, từng quốc gia – dân tộc cụ thể, trong
thời gian và không gian nhất định. Lịch sử cụ thể ấy không thể chỉ nối tiếp “cái nọ” sau
“cái kia”, “cái nọ” do “cái kia”, mà còn đan xen và lồng ghép với nhau. Vận dụng quan
điểm lịch sử cụ thể của phương pháp luận Macxít trong nghiên cứu đề tài là nghiên cứu
phải xuất phát từ đặc điểm cụ thể ở dân tộc Lào, tỉnh Hủa Phăn là chính, đồng thời tiếp


biến kinh nghiệm các tỉnh khác với các nước khác trên thế giới, tiếp thu có chọn lọc mà
phải biến cải.
Hai là, quan điểm vận động và phát triển. Thực tiễn và thực tế là diễn biến của
lịch sử và thời đại, nó luôn luôn vận động và biến đổi theo hướng ngày càng hoàn thiện
hơn, thì lý luận cũng phải vận động và biến đổi cho phù hợp với thực tiễn và thực tế ấy,
Những thành tựu mới về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, nhất là khoa học & công
nghệ của loại người rọi chiếu một ánh sáng mới đòi hỏi phải có cách nhìn mới, lý luận
mới. Vận dụng quan điểm vận động và phát triển của phương pháp luận Mác – Lênin
vào nghiên cứu đề tài là lý luận, giải pháp không có sẵn mà phải được rút ra từ thực tế
và thực tiễn hoạt động của ngành du lịch của tỉnh Hủa Phăn ở nước Cộng hoà Dân chủ
Nhân dân Lào, cần phải được làm giàu, bổ sung, đổi mới và phát triển.
Ba là, quan điểm quan hệ giữa lý luận và thực tiễn. Thực tiễn là tiêu chuẩn của
chân lý, mà chân lý là cụ thể. Nhưng căn cứ để rút ra lý luận không chỉ là thực tiễn, mà
còn là thực tế cuộc sống, trong đó thực tiễn là hoạt động của ngành du lịch tỉnh Hủa
Phăn ở nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào, còn thực tế rộng hơn, nó bao gồm toàn
bộ cuộc sống nhà nước và xã hội, cuộc sống có một môi trường nhất định. Lý luận
không chỉ giải thích, mà còn nhằm đổi mới hoạt động của ngành du lịch của tỉnh Hủa
Phăn. Vấn đề đổi mới cần nhận thức rõ, nếu hiểu đúng, vận dụng đúng, thực hành đúng
sẽ thành công, nhưng có nguy cơ hiểm hoạ rất lớn, thất bại nặng nề, nếu hiểu sai, làm
lệch
Về phương pháp nghiên cứu:
Một là, kết hợp phương pháp ngành và đa ngành (kinh tế chính trị học, chính
trị học, chính sách học, lãnh đạo quản lý học) với phương pháp phỏng vấn sâu,

phương pháp lôgíc và lịch sử, phương pháp đối chiếu và so sánh, phương pháp phân
tích và tổng hợp để giải quyết nội dung nghiên cứu của đề tài.
Hai là, kết hợp nghiên cứu quan điểm Mác – Lênin, đường lối của Đảng Nhân
dân cách mạng Lào, chính sách của Nhà nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào, kế
thừa chọn lọc kết quả nghiên cứu của các công trình nghiên cứu trước trong các cuộc
hội thảo khoa học, sách báo, tạp chí, luận văn, luận án liên quan đến đề tài. Phải vượt


qua chính mình, thoát khỏi sự trói buộc của những lý thuyết, quan điểm lần nay được
coi là nguyên lý, nhưng bị thực tế bác bỏ. Hướng nghiên cứu đi tìm cái đúng, nghĩa là
cái phù hợp với nhu cầu và nguyện vọng của dân, phù hợp với thực tế ở tỉnh Hủa Phăn
nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào, phù hợp với xu thế của thời đại.
Ba là, đề tài tổ chức đi khảo sát thực tế ở một số địa phương trong tỉnh Hủa Phăn
về thu hút vốn đầu tư phát triển du lịch như Huyện Viêng Xay, huyện Xăm Tớ và các
Sở, ban ngành có liên quan, nhằm làm sáng tỏ cả các vấn đề lý luận, thực trạng tổ chức
cơ sở thu hút vốn đầu tư phát triển du lịch ở Hủa Phăn nước Cộng hoà Dân chủ Nhân
dân Lào. Trên những cơ sở đó, đề tài đề ra quan điểm, định hướng và các biện pháp có ý
nghĩa thực tế, khắc phục những vấn đề tồn tại của việc thu hút vốn đầu tư phát triển
ngành du lịch ở Hủa Phăn hiện nay.
6. Những đóng góp mới của luận văn
- Về mặt lý luận: luận văn hệ thống hoá vấn đề về vốn từ lý luận Mác – Lênin
đến hiện nay
- Về mặt thực tiễn: luận văn đưa ra một số giải pháp có ý nghĩa thực tiễn nhằm thu
hút các nguồn vốn đầu tư phát triển du lịch ở tỉnh Hủa Phăn nước Cộng hoà Dân chủ Nhân
dân Lào từ nay đến năm 2015, tầm nhìn năm 2020.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo luận văn bao gồm 3
chương, 7 tiết



Chương 1
Cơ sở lý luận và thực tiễn về thu hút vốn
đầu tư phát triển du lịch
1.1. nguồn vốn đầu tư và nội dung thu hút vốn đầu tư phát triển du lịch
1.1.1. Khái niệm và phân loại vốn
1.1.1.1. Khái niệm vốn
Thuật ngữ “vốn” đã được phổ biến trong nền kinh tế thị trường. Các học thuyết
kinh tế từ Aristotle (384 – 322 TCN) là một nhà triết học Hy Lạp cổ đại, nhà kinh tế sơ
khai, William Petty (1623-1687) là người đặt nền móng cho trường phái Kinh tế chính
trị cổ điển ở Anh, Francois Quesnay (4 tháng 6, 1694 - 16 tháng 12, 1774) là người
đứng đầu khuynh hướng trọng nông – khuynh hướng đặc biệt trong trường phái Kinh tế
học cổ điển, Adam Smith, FRSE (rửa tội ngày 16 tháng 6 năm 1723, hay 5 tháng 6 năm
1723 trong lịch Julian; mất ngày 17 tháng 7 năm 1790) là nhà kinh tế chính trị học và
triết gia đạo đức học vĩ đại người Scotland, John Stuart Mill (20 tháng 5, 1806 – 8 tháng
5, 1873) là một nhà triết học và nhà kinh tế chính trị học người Anh, David Ricardo (18
tháng 4, 1772–11 tháng 9, 1823) là một nhà kinh tế học người Anh, Alfred Marshall
(born 26 July 1842 in Bermondsey, London, England, died 13 July 1924 in Cambridge,
England) was an English economist and one of the most influential economists of his
time, Karl Heinrich Marx (thường được phiên âm là "Các Mác"; sinh 5 tháng 5 năm
1818 tại Trier, Đức – mất 14 tháng 3 năm 1883 tại Luân Đôn) là nhà tư tưởng, nhà kinh
tế chính trị, nhà lãnh đạo cách mạng của Hiệp hội Người lao động Quốc tế, John
Maynard Keynes (5 tháng 6 1883 – 21 tháng 4 1946) là một nhà kinh tế học người Anh,
R. arrod, E. Domar, E. Hansen, M. Fridman, F. Hayek, J. R. Hiks, Paul Adam
Samuelson (1915-) là một nhà kinh tế học người Hoa Kỳ, đại biểu của trường phái kinh
tế học vĩ mô tổng hợp đều bàn đến vốn theo những phương pháp tiếp cận khác nhau.
Tuy vậy, đến nay chưa có sự thống nhất khái niệm về vốn. Dưới đây là một số quan
điểm khác nhau về vốn.


Vốn là “bất kỳ tài sản hay nguồn tài sản nào – tài chính hay vật chất có khả

năng tạo ra thu nhập” [11, tr. 56]. Quan niệm này nhấn mạnh thuộc tính tạo ra thu nhập
của vốn.
Hay “đây là một trong ba yếu tố đầu vào phục vụ cho sản xuất (đất đai, lao
động, vốn). Vốn bao gồm các sản phẩm lâu bền được chế tạo để phục vụ sản xuất (máy
móc, công cụ, thiết bị, nhà cửa, kho dự trữ thành phẩm hoặc bán thành phẩm) ” [12, tr.
300]. Quan niệm này tách bạch vốn với các yếu tố khác thuộc đầu vào của quá trình sản
xuất là đất đai, lao động; chỉ rõ các biểu hiện cụ thể của vốn: máy móc, thiết bị, công cụ,
nhà cửa, kho bãi...
Có quan niệm khác cho rằng: “vốn là một khối lượng tiền nào đó được ném vào
lưu thông nhằm mục đích kiếm lợi. Số tiền đó được sử dụng muôn hình, muôn vẻ, nhưng
suy cho cùng là để mua sắm tư liệu sản xuất và trả công cho người lao động, nhằm
hoàn thành công việc sản xuất kinh doanh hay dịch vụ nào đó với mục đích là thu về số
tiền lớn hơn số tiền ban đầu” [6, tr 26-27]. Quan niệm này đã cụ thể hoá hơn về phạm
trù vốn, cho rằng vốn là tiền dùng trong quá trình sản xuất kinh doanh hay dịch vụ
chuyển hoá thành tư liệu sản xuất và tiền công cho người lao động.
Trong tiếng Anh, vốn và tư bản là hai từ đồng nghĩa (Capital: vốn, tư bản). Chúg
ta có thể tìm hiểu khái niệm vốn thông qua phạm trù tư bản mà C. Mác đã làm rõ trong
bộ “Tư Bản”. Xin nêu tóm tắt một số luận điểm cơ bản của C. Mác về tư bản như sau:
- Tiền tệ là sản phẩm cuối cùng của lưu thông hàng hoá đồng thời là hình thái
đầu tiền của tư bản.
- Tiền là tư bản vận động theo công thức T – H - T’
- Trong quá trình vận động tư bản mang ba hình thái: tư bản tiền tệ; tư bản sản
xuất; tư bản hàng hoá và không ngừng chuyển hoá từ hình thái này sang hình thái kế
tiếp.
- Tư bản là giá trị, thông qua quan hệ xã hội mà đem lại giá trị lớn hơn.
Từ những cách tiếp cận khác nhau về vốn và xuất phát từ những luận điểm trên
của C.Mác, có thể hiểu: “vốn là giá trị của tất cả các tài sản hữu hình và vô hình được
đem vào hoạt động sản xuất và kinh doanh, tạo ra sản phẩm vật chất và dịch vụ”.



1.1.1.2. Phân loại vốn
Dựa theo những tiêu thức khác nhau, người ta có thể phân loại vốn thành các loại
khác nhau. Dưới đây là một số cách phân loại cơ bản.
Một là, căn cứ vào đặc điểm vận động của vốn, có hai loại: vốn cố định và vốn
lưu động.
Vốn cố định là giá trị của những tài sản cố định như: máy móc, thiết bị, nhà
xưởng, kho tàng, phương tiện vận tải. Vốn cố định có đặc điểm là giá trị của nó chuyển
dần vào trong sản phẩm, vì vậy thời gian chu chuyển dài, phải tham gia vào nhiều chu
kỳ sản xuất mới thu hồi lại được.
Vốn lưu động, là giá trị của những tài sản lưu động như: nguyên liệu, nhiên liệu,
sản phẩm dở dang, các khoản tiền đáp ứng nhu cầu thanh toán chi trả...Vốn lưu động
chu chuyển nhanh, giá trị của vốn lưu động chuyển toàn bộ vào trong sản xuất, sau mỗi
chu kỳ sản xuất là thu hồi được toàn bộ vốn lưu động ứng ra.
Hai là, căn cứ vào quan hệ sở hữu và vốn trong kinh doanh thì bao gồm vốn tự
có và vốn đi vay. Vốn tự có là vốn thuộc quyền sở hữu của chủ thể kinh doanh. Vốn đi
vay là số vốn đi vay nợ để sản xuất kinh doanh của chủ thể kinh doanh [8, tr 10].
Ba là, căn cứ vào thời gian tham gia của vốn vào quá trình hoạt động có vốn
ngắn hạn và vốn dài hạn. Vốn dài hạn nhằm thực hiện các mục tiêu có tính chất chiến
lược, đảm bảo các lợi ích trong dài hạn. Vốn dài hạn là lượng tiền được sử dụng vào
việc mua sắm các tài sản cố định, thay đổi công nghệ, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế,
kỹ thuật, phục vụ cho sản xuất kinh doanh.
Vốn ngắn hạn là lượng tiền được sử dụng để mua sắm những yếu tố chi dùng
thường xuyên trong hoạt động sản xuất kinh doanh tiến hành đều đặn, trôi chảy.
Ngoài cách tiếp cận trên, còn có những cách phân loại vốn khác như: căn cứ vào
quyền sở hữu các nguồn vốn ở phạm vi không gian trong nước hay ngoài nước có vốn
trong nước và vốn nước ngoài; căn cứ vào quyền sở hữu các nguồn vốn giữa chủ thể là
nhà nước và các chủ thể khác có nguồn vốn ngân sách nhà nước và nguồn vốn ngoài
ngân sách nhà nước.



Mặc dù có nhiều tiêu thức để phân thành nhiều loại vốn khác nhau, nhưng xét về
bản chất nó là một thể thống nhất. Việc phân vốn thành các loại khác nhau để giúp chúng ta
nhận thức rõ hơn vai trò, đặc điểm của từng loại vốn, chủ động trong thu hút, vốn có hiệu
quả trong sản xuất kinh doanh của mình.
1.1.2. Khái niệm và những đặc trưng của vốn đầu tư
Hiện nay, nền kinh tế của Lào đang chuyển sang nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý vĩ mô của nhà nước, đó là môi trường thuận lợi để
vốn bộc lộ bản chất, vai trò của mình. Việc tìm hiểu, nhận thức lại khái niệm và những
đặc trưng cơ bản của vốn đầu tư là công việc cần thiết, trước khi đi tìm các giải pháp để
thu hút vốn cho đầu tư phát triển.
Vốn đầu tư là một bộ phận của nguồn lực biểu hiện dưới dạng giá trị của các tài
sản quốc gia được thể hiện bằng các tài sản hữu hình và vô hình nhằm vào mục đích
đầu tư để sinh lời.
Cần chú ý rằng, nguồn lực trên phải nằm trong một dự án đầu tư thì mới được coi
là nguồn vốn đầu tư. Nếu không, chúng chỉ là nguồn lực tích luỹ và dự trữ dưới dạng
tiềm năng. Nói cách khác, nguồn vốn đầu tư phải là nguồn lực trong trạng thái “động”.
Để làm rõ khái niệm về vốn đầu tư, cần đi sâu phân tích những đặc trưng cơ bản
của vốn đầu tư dưới đây.
Thứ nhất, vốn phải được biểu hiện bằng giá trị của những tài sản, điều này có
nghĩa là vốn phải đại diện cho một lượng giá trị có thực của tài sản (tài sản hữu hình và
tài sản vô hình). Tài sản hữu hình là những tài sản có hình thái vật chất cụ thể như nhà
xưởng, máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, nguyên vật liệu...Tài sản vô hình là tài
sản không có hình thái vật chất cụ thể. Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường, tài sản vô
hình rất phong phú và đa dạng như vị trí kinh doanh, bản quyền, phát minh sáng chế,
nhãn hiệu hàng hoá, uy tín trong kinh doanh... Như vậy, một lượng tiền phát hành
không vào lưu thông, không có giá trị đảm bảo hoặc các khoản nợ không có khả năng
thanh toán cũng không thể được coi là vốn.
Thứ hai, vốn phải được vận động nhằm mục đích sinh lời. Vốn là tiền, nhưng
không phải mọi đồng tiền đều là vốn. Tiền chỉ là vốn ở dạng tiềm năng, khi nào chúng



được dùng vào đầu tư kinh doanh thì chúng mới biến thành vốn. Tiền là phương tiện để
trao đổi, lưu thông hàng hoá còn vốn là để sinh lời, nó luôn tuần hoàn và chu chuyển.
Quá trình đầu tư là một quá trình vận động của vốn đầu tư. Cách vận động và phương
thức vận động của tiền vốn lại là do phương thức đầu tư kinh doanh quyết định. Các
phương thức đầu tư có thể mô phòng theo sơ đồ sau:
a). Trường hợp đầu tư vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh:
TLSX
T–H

... SX ... H’ – T’
SLĐ

b). Trường hợp đầu tư vào lĩnh vực thương mại:
T – H – T’
c). Trường hợp đầu tư mua cổ phiếu, trái phiếu, góp vốn liên doanh...
T – T’
Ngoài sự phân biệt giữa vốn và tiền, cần phân biệt sự khác nhau giữa vốn và tài
sản. Vốn là biểu hiện bằng tiền của một bộ phận tài sản, nhưng không phải mọi tài sản
đều được gọi là vốn. Tài sản có nhiều loại: có loại do thiên nhiên ban tặng; có loại do
thành quả lao động của con người sáng tạo ra; có loại là hữu hình, có loại là vô hình.
Nhưng tài sản đó nếu được giá trị hoá thành tiền và đưa vào đầu tư thì đều được gọi là
vốn đầu tư. Những tài sản này được gọi là tài sản hoạt động (để phân biệt với tài sản bất
động, tức là tài sản ở dạng tiềm năng).
Thứ ba, vốn bao gìơ cũng gắn liền với một chủ sở hữu nhất định, không có khái
niệm vốn vô chủ. Chủ sở hữu vốn có thể là một chủ như Nhà nước là chủ sở hữu vốn
duy nhất trong các doanh nghiệp nhà nước; nhưng cũng có thể là nhiều chủ như các cổ
đông là chủ sở hữu vốn trong các công ty cổ phần. Tuỳ theo hình thức đầu tư mà người
chủ sở hữu có thể đồng nhất hoặc không đồng nhất với người sử dụng vốn. ở đâu không
xác định được rõ chủ sở hữu của vốn và tài sản thì ở đó việc quản lý vốn sẽ kém hiệu

quả gây ra lãng phí và tiêu cực.
Thứ tư, trong nền kinh tế thị trường vốn là một loại hàng hoá đặc biệt. Sở dĩ coi
vốn là một loại hàng hoá, vì nó cũng có giá trị và giá trị sử dụng như mọi loại hàng hoá


khác. Giá trị của vốn là để sinh lời. Nhưng vốn là một loại hàng hoá đặc biệt khác với
hàng hoá thông thường, ở chỗ người bán vốn không mất đi quyền sở hữu mà chỉ bán
quyền sử dụng vốn mà thôi. Người mua nhận được quyền sử dụng vốn trong một
khoảng thời gian nhất định và phải trả cho người bán vốn một tỷ lệ nhất định tính trên
số vốn đó, gọi là lãi suất. Như vậy, lãi suất chính là giá cả của quyền sử dụng vốn.
Việc mua bán quyền sử dụng vốn được diễn ra trên thị trường tài chính. Thị
trường tài chính là nơi diễn ra các hoạt động mua bán quyền sử dụng các nguồn vốn tài
chính thông qua những phương thức giao dịch và các công cụ tài chính nhất định, là
tổng hoà các quan hệ cung và cầu về vốn. Thị trường tài chính bao gồm hai bộ phận:
Thị trường tiền tệ: là thị trường vốn ngắn hạn, nơi diễn ra các hoạt động mua bán
quyền sử dụng các nguồn vốn ngắn hạn. Thị trường tiền tệ diễn ra chủ yếu thông qua
hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại. Vì các ngân hàng thương mại là chủ thể
quan trọng nhất trong việc thu hút và cung cấp các nguồn vốn ngắn hạn.
Thị trường vốn: là nơi diễn ra các hoạt động mua bán quyền sử dụng các nguồn
vốn dài hạn. Thị trường vốn cung cấp tài chính cho các khoản đầu tư dài hạn của Chính
phủ, chính quyền địa phương, của các doanh nghiệp, các hộ gia đình và các cá nhân. Thị
trường vốn gồm có thị trường vay nợ dài hạn và thị trường chứng khoán.
Chỉ khi nào có lợi tức thoả đáng thì người sở hữu vốn mới bán quyền sử dụng
vốn của mình. Đây là một nguyên lý có tính chất nguyên tắc để thu hút, huy động vốn
trong cơ chế thị trường.
Thứ năm, đồng vốn có giá trị về mặt thời giá. ở các thời điểm khác nhau thì giá
trị của vốn cũng khác nhau. Bởi lẽ, đồng tiền càng trải dài theo thời gian thì nó càng bị
mất giá và độ an toàn càng giảm. Như vậy, một vấn đề đặt ra là phải hiện tại hoá hoặc
tương lai hoá giá trị của vốn để làm cơ sở tính toán và phân tích hiệu quả đầu tư.
Thứ sáu, vốn phải được tích tụ và tập trung. Tích tụ vốn là việc tăng số vốn cá

biệt của từng doanh nghiệp, từng hộ sản xuất. Tập trung vốn là làm tăng quy mô vốn
đơn vị toàn xã hội. Có tích tụ vốn mới có tập trung vốn. Tập trung vốn sẽ biến những
tác dụng nhỏ bé của từng khoản vốn tích tụ cá biệt thành sức mạnh của nguồn vốn đầu


tư của toàn xã hội. C.Mác đã khẳng định nếu không có tích tụ và tập trung tư bản thì
đến nay trên thế giới chưa có được hệ thống đường sắt.
Thiếu vốn là căn bệnh kinh niên của nền kinh tế. Để điều trị căn bệnh này không
còn cách nào ưu việt hơn là phải tăng cường thu hút, huy động vốn, khơi thông các
dòng chảy của vốn và hướng chúng vào đầu tư phát triển kinh tế. Đó chính là tiền đề cơ
bản cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của đất nước. Vốn chính là tiền đề của mọi
quá trình đầu tư.
1.1.3. Các nguồn vốn đầu tư
Nguồn vốn đầu tư phát triển của toàn xã hội được hình thành trên cơ sở động
viên các nguồn lực trong nước và ngoài nước, thông qua các công cụ, chính sách, cơ chế
và luật pháp. Nguồn vốn trong nước bao gồm nguồn vốn từ ngân sách nhà nước, nguồn
vốn tín dụng (tín dụng nhà nước và tín dụng ngân hàng), các nguồn vốn khác (vốn đầu
tư của các doanh nghiệp, các tổ chức và dân cư). Nguồn vốn ngoài nước gồm có: đầu tư
trực tiếp nước ngoài, nguồn vốn vay, viện trợ và các nguồn vốn khác.
1.1.3.1. Vốn trong nước
Thứ nhất, vốn từ ngân sách nhà nước. Ngân sách nhà nước được đặc trưng bằng
sự vận động của các nguồn tài chính gắn liền với quá trình tạo lập và quỹ tiền tệ tập
trung của nhà nước nhằm thực hiện các chức năng của Nhà nước trên cơ sở luật định.
Nó phản ánh các quan hệ kinh tế giữa nhà nước và các chủ thể khác trong xã hội, phát
sinh khi nhà nước tham gia phân phối các nguồn tài chính quốc gia theo nguyên tắc
không hoàn trả trực tiếp là chủ yếu.
Nguồn vốn ngân sách nhà nước được hình thành từ tiết kiệm của ngân sách nhà
nước, đó là khoản chênh lệch giữa thu và chi của ngân sách nhà nước. Thu của ngân
sách nhà nước được thực hiện chủ yếu là từ thuế và một số phần nhỏ là các khoản thu từ
phí, lệ phí và thu khác... Chi của ngân sách nhà nước bao gồm: chi cho đầu tư phát triển

và chi thường xuyên cho quản lý hành chính, an ninh quốc phòng, sự nghiệp, văn hoá, y
tế, giáo dục - đào tạo, nghiên cứu khoa học, thể dục thể thao và xã hội, chi các sự
nghiệp kinh tế... Xu hướng chi tiêu công cộng của nhà nước có chiều hướng ngày càng
tăng lên, vì nhà nước ngày càng phải đảm nhận việc cung cấp nhiều hàng hoá công cộng


hơn cho xã hội. Một quan hệ thường thấy trong cân đối ngân sách quốc gia là có bội thu
hoặc bội chi. Nếu bội thu ngân sách thì điều hiển nhiên là nhà nước có nguồn tiết kiệm
để hình thành nên vốn đầu tư phát triển. Nhưng một vấn đề cần lưu ý là có thể trong
trường hợp bội chi ngân sách thì ngân sách nhà nước vẫn tiết kiệm một phần để dành
cho đầu tư phát triển, vì trong các khoản chi của nhà nước có khoản chi cho đầu tư phát
triển. Điều này có nghĩa là muốn có tiết kiệm từ ngân sách nhà nước thì tốc độ tăng chi
đầu tư phát triển phải luôn luôn lớn hơn tốc độ tăng chi thường xuyên. Vấn đề không
phải là bội chi ít hay nhiều mà phương pháp xử lý chính là định hướng đầu tư. Nhưng một
thực tế là hầu hết các nước đang phát triển, tiết kiệm của Chính phủ không phải là nguồn
đầu tư chủ yếu, vì thông thường ngân sách của các nước này nguồn thu rất hạn chế, mà
nhu cầu chi thường xuyên lại cao, nên nhà nước chỉ có thể tập trung vốn đầu tư phát triển
ở những lĩnh vực thật sự cần thiết.
Muốn tăng nguồn tích luỹ của ngân sách nhà nước phải phấn đấu tăng thu và tiết
kiệm chi. Vốn đầu tư phát triển qua kênh ngân sách nhà nước, được thể hiện qua hai
phần: một phần vốn đầu tư xây dựng cơ bản tập trung của nhà nước, một phần từ nguồn
kinh phí sự nghiệp kinh tế hàng năm.
Thứ hai, vốn tín dụng nhà nước. Là hình thức vay nợ của nhà nước thông qua
kho bạc, được thực hiện chủ yếu bằng cách phát hành trái phiếu Chính phủ, do Bộ tài
chính phát hành.
Trong trường hợp nhu cầu chi tiêu của ngân sách lớn, nhưng nguồn thu lại không
đáp ứng được. Để thoả mãn nhu cầu này, Chính phủ thường cân đối ngân sách bằng
cách phát hành trái phiếu Chính phủ. Cũng có thể Chính phủ tiến hành một dự án nào
đó, nhưng không muốn sử dụng vốn ngân sách, thì dự án này có thể được thực hiện
bằng vốn vay dưới hình thức phát hành trái phiếu Chính phủ.

Đối với vốn đầu tư phát triển, hình thức tín dụng nhà nước có thể tác động lên
hai mặt: Chính phủ vay ngắn hạn tạo điều kiện cân đối ngân sách đảm bảo kế hoạch đầu
tư phát triển kinh tế và phát hành trái phiếu để đầu tư cho một số dự án nào đó. Hình
thức tín dụng nhà nước tuy lãi suất chưa cao, nhưng có sự đảm bảo của nhà nước nên rất
dễ huy động vốn. Nếu vận dụng tốt sẽ tạo ra nguồn vốn đầu tư phát triển quan trọng.


Thứ ba, vốn đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước. Hiện nay, ở các quốc gia
đều tồn tại khu vực kinh tế nhà nước (doanh nghiệp nhà nước) vì nhiều lý do khác nhau:
bảo đảm những ngành, những lĩnh vực then chốt, mũi nhọn, kinh doanh ở những lĩnh
vực mà tư nhân không đủ sức, đủ vốn hoặc không muốn làm vì hiệu quả kinh tế thấp,
nhất là ở những lĩnh vực như giao thông, thuỷ lợi, năng lượng, dịch vụ công cộng...
Vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước được hình thành từ rất nhiều nguồn khác
nhau như: vốn do ngân sách nhà nước cấp cho các doanh nghiệp nhà nước lúc mới hình
thành doanh nghiệp, nhưng nguồn vốn này sẽ có xu hướng giảm đáng kể về tỷ trọng và
số lượng; nguồn vốn huy động thông qua phát hành trái phiếu, cổ phiếu (đối với doanh
nghiệp nhà nước đã thực hiện cổ phần hoá); tiền khấu hao cơ bản của tài sản cố định, lợi
nhuận tích luỹ được phép để lại doanh nghiệp...
Thứ tư, nguồn vốn tín dụng ngân hàng. Các ngân hàng thương mại và các tổ
chức tài chính trung gian khác như công ty tài chính, quỹ tín dụng nhân dân, công ty
bảo hiểm... có vai trò rất quan trọng trong việc huy động vốn đầu tư phát triển. Các tổ
chức này có ưu điểm là có thể thoả mãn được mọi nhu cầu về vốn của các pháp nhân và
thể nhân trong nền kinh tế, nếu đối tượng vay vốn chấp hành đầy đủ những quy chế tín
dụng. Sở dĩ các tổ chức này có thể thu hút, huy động nguồn vốn bằng tiền nhàn rỗi trong
nền kinh tế với khối lượng lớn, bởi vì các tổ chức này đã sử dụng dưới nhiều hình thức
huy động khác nhau rất phong phú và đa dạng. Mặt khác, thời hạn cho vay cũng rất linh
hoạt (bao gồm vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn), tuỳ thuộc vào nhu cầu của người đi
vay. Do nguồn vốn của các tổ chức này huy động được có thời gian nhàn rỗi cũng rất
khác nhau (tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn) và là nguồn vốn bằng tiền nên có thể
điều chỉnh giữa các nguồn vốn với nhau để đáp ứng nhu cầu về thời gian của người đi

vay. Phạm vi cho vay cũng rất rộng, liên quan đến các chủ thể và các lĩnh vực khác
nhau trong nền kinh tế. Bởi vậy, trong lĩnh vực đầu tư phát triển thì vấn đề huy động
vốn qua tín dụng ngân hàng và các tổ chức tài chính trung gian là hình thức không thể
thiếu được trong nền kinh tế thị trường.


Thứ năm, nguồn vốn đầu tư của khu vực dân doanh. Nguồn vốn đầu tư từ khu
vực dân doanh được hình thành từ các nguồn tiết kiệm của các doanh nghiệp ngoài quốc
doanh và tiết kiệm của dân cư.
Đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh (công ty cổ phần, công ty trách nhiệm
hữu hạn, doanh nghiệp tư nhân...): lợi nhuận sau thuế của các doanh nghiệp này sẽ
được chia làm hai phần: một phần chia cho các cổ đông và một phần để lại cho doanh
nghiệp. Khoản lợi nhuận không chia này là khoản tiết kiệm của doanh nghiệp để hình
thành nên nguồn vốn đầu tư. Bên cạnh đó, để tiến hành đầu tư các doanh nghiệp ngoài
quốc doanh sử dụng thêm cả phần vốn khấu hao tài sản cố định.
Ngoài ra, các doanh nghiệp cũng có thể vay tín dụng ngân hàng hoặc phát hành
cổ phiếu đối với công ty cổ phần và phát hành trái phiếu để thu hút vốn đầu tư phát triển
sản xuất kinh doanh, vay lẫn nhau giữa các doanh nghiệp có vốn tạm thời nhàn rỗi, vay
thông qua mua hàng trả chậm và vay thương mại (thường được các doanh nghiệp xuất
nhập khẩu áp dụng).
Theo xu hướng phát triển hiện nay, nguồn vốn này có chiều hướng gia tăng vì
ngày càng có nhiều doanh nghiệp ngoài quốc doanh ra đời, dưới nhiều hình thức, quy
mô, lĩnh vực hoạt động khác nhau và phát triển với tốc độ tương đối nhanh.
Trong giai đoạn hiện nay, ở Lào các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thường
được đầu tư với quy mô doanh nghiệp vừa và nhỏ, thích hợp với điều kiện và hoàn cảnh
cụ thể của từng doanh nghiệp, nhưng lại rất linh hoạt và hiệu quả trong hoạt động sản
xuất kinh doanh, tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập, góp phần xoá đói giảm nghèo, tạo
tiền đề cho việc thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Tiết kiệm của dân cư: phụ thuộc vào thu nhập hoặc chi tiêu của mỗi hộ gia đình.
Thu nhập của hộ gia đình lại phụ thuộc vào thu nhập có thể sử dụng như tiền lương, tiền

công, thu nhập từ sản xuất kinh doanh...và các khoản thu nhập khác như vay, mượn...
Một khi thu nhập nhỏ hơn mức chi tiêu sẽ không có tiết kiệm, các hộ gia đình
phải vay mượn thêm để chi tiêu. Khi thu nhập có thể sử dụng vừa bằng mức chi tiêu thì
tiết kiệm bằng không. Nếu thu nhập lớn hơn mức chi tiêu thì mới có tiết kiệm. Một xu
hướng chung là các hộ gia đình có mức thu nhập cao hơn sẽ tiết kiệm nhiều hơn (mức


tiết kiệm ở thành thị lớn hơn nông thôn) và những nước phát triển cũng có tỷ lệ tiết
kiệm cao hơn những nước kém phát triển.
Đối với Lào hiện nay, do thu nhập của dân cư ở mức thấp, đặc biệt ở nông thôn
tỷ lệ hộ đối nghèo còn cao, nên mức tiết kiệm trong dân cư rất thấp, đây là vấn đề khó
khăn trong việc thu hút và huy động vốn đầu tư. Tuy nhiên, thu nhập của dân cư sẽ có
xu hướng tăng, nguồn vốn này cũng có xu hướng tăng lên theo mức tăng của thu nhập
trong dân cư.
Một vấn đề cần quan tâm trong việc nghiên cứu nguồn vốn tiết kiệm là sự tách
rời giữa những động cơ đưa đến tiết kiệm và đầu tư. Trong nền kinh tế mức tiết kiệm và
mức đầu tư mà chúng ta mong muốn không phải ngẫu nhiên bằng nhau, bởi vì nói
chung tiết kiệm và đầu tư do những người khác nhau thực hiện và vì những lý do khác
nhau. Đầu tư chủ yếu do doanh nghiệp tiến hành bằng nguồn vốn tích luỹ, vay ngân
hàng, phát hành cổ phiếu, trái phiếu... Ngước lại, tiết kiệm chủ yếu do hộ gia đình, các
cá nhân, các quỹ tập thể. Cá nhân mong muốn tiết kiệm vì nhiều lý do: đề phòng khó
khăn, dự phòng tài chính cho tương lai, lãi suất cao thúc đẩy tiết kiệm hoặc do thói
quen, tập quán của địa phương... Trong khi đó thì thị trường không phối hợp được
nhanh chóng giữa tiết kiệm và đầu tư; nó không tự động chuyển những sự thay đổi
trong khoản tiết kiệm mong muốn của người tiêu thụ thành những thay đổi trong đầu tư
của người kinh doanh. Tức là, khoản tiết kiệm chỉ được đưa ra đầu tư khi người đầu tư
thấy có lợi.
Khoảng cách giữa tiết kiệm và đầu tư đòi hỏi Nhà nước phải có vai trò điều tiết
vĩ mô thích hợp mới có thể có được chính sách thu hút vốn có hiệu quả. Cho đến nay,
hầu hết các nhà kinh tế và hoạch định chính sách đều nhận thấy rằng có tiết kiệm mới có

đầu tư. Để tăng nguồn vốn trong nước thì phải kích thích tăng trưởng kinh tế để tăng tiết
kiệm và đầu tư. Tăng trưởng kinh tế là điều kiện cần để có vốn đầu tư. Điều này rất quan
trọng vì nếu toàn bộ số thu nhập đều sử dụng cho tiêu dùng thì sẽ không có tiết kiệm. Song
có tiết kiệm mà không bỏ vào đầu tư thì nguồn tiết kiệm chỉ là nguồn tiềm năng mà thôi.
Đối với những nước đang phát triển như Lào, dù có thu hút tối đa nguồn vốn trong
nước cũng chưa thể thoả mãn nhu cầu cho đầu tư phát triển, nhất là trong điều kiện hạ tầng


kinh tế - xã hội còn thấp như hiện nay. Muốn nền kinh tế của đất nước có những bước đi
vững chắc thì phải có đầu tư lớn. (xem phục lục 1).
Để tăng cường hoạt động đầu tư, góp phần thúc đẩy nền kinh tế của đất nước
ngày càng phát triển thì điều quan trọng hàng đầu là phải thực hiện chính sách nền kinh
tế mở, trên cơ sở cân nhắc các điều kiện và khả năng có liên quan đến mối quan hệ kinh
tế đối ngoại, phải có sự hoà nhập và không gian kinh tế, xoá bỏ hàng rào địa lý. Có như
vậy mới thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển kinh tế và các yêu cầu về đầu tư phát
triển. Không ngừng đẩy mạnh khả năng tăng nhanh việc tạo vốn trong toàn bộ nền kinh
tế, tranh thủ triệt để các nguồn vốn từ ngoài nước, đồng thời phát triển mạnh mẽ thị
trường vốn nhằm thực hiện tốt quá trình giao lưu vốn giữa các thành phần kinh tế.
Với tình hình kinh tế của đất nước hiện nay cho thấy, việc khai thác các nguồn
vốn trong nước có thể nhiều khi gặp nhiều khó khăn, thì nguồn vốn đầu tư nước ngoài là
rất quan trọng và hết sức cần thiết.
1.1.3.2. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài
Trong giai đoạn đầu của các nước đang phát triển mức thu nhập còn thấp nên khả
năng tiêu dùng cũng như khả năng tích luỹ ở mức thấp. Trong khi đó lại cần khoản vốn
đầu tư lớn để hoàn chỉnh kết cấu cơ sở hạ tầng và xây dựng các công trình quan trọng
nhằm phát triển kinh tế. Mặt khác, ở giai đoạn này hàng hoá xuất khẩu chủ yếu là hàng
nông sản và hàng công nghiệp tiêu dùng có giá trị chưa cao. Trong khi đó hàng hoá
nhập khẩu là những máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ hiện đại có giá trị cao; nên
cán cân thanh toán thương mại bị thâm hụt. Các nước đang phát triển luôn phải đối mặt
với một vấn đề thiếu hụt ngoại tệ.

Đầu tư nước ngoài góp phần tích cực để giải quyết hai vấn đề nan giải nêu trên,
đồng thời với xu hướng quốc tế hoá, toàn cầu hoá đời sống kinh tế – xã hội, quan hệ
giao lưu kinh tế và khoa học kỹ thuật phát triển sống động đã trở thành nhu cầu bức xúc
của tất cả các nước trên thế giới. Mỗi nước dù nhỏ hay lớn đều có thể và cần phải tham
gia vào phân công lao động trong khu vực và quốc tế để tận dụng những khả năng to lớn
của nền kinh tế thế giới về di chuyền các luồng tài chính, mở rộng thị trường, chuyển


giao công nghệ, kinh nghiệm quản lý...từ đó xuất hiện nhu cầu đầu tư và nhu cầu nhận
đầu tư.
So với nguồn vốn trong nước, nguồn vốn nước ngoài có ưu thế là bổ sung nguồn
vốn đầu tư phát triển kinh tế – xã hội, từ đó thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ
cấu lao động theo hướng công nghiệp – hiện đại hoá, là cầu nối quan trong giữa kinh tế
của Lào với nền kinh tế khu vực và quốc tế, thúc đẩy các doanh nghiệp nâng cao khả
năng cạnh tranh, đổi mới phương thức quản trị doanh nghiệp cũng như phương thức
kinh doanh. Nhiều nguồn lực trong nước như lao động, đất đai, lợi thế kinh tế, tài
nguyên được khai thác và sử dụng có hiệu quả hơn. Tuy vậy, trong nó lại tiềm ẩn những
nhân tố tiềm tàng gây bất lợi cho nền kinh tế. Đó là sự lệ thuộc, nguy cơ khủng hoảng
nợ, sự tháo chạy đầu tư, sự gia tăng tiêu dùng và giảm tiết kiệm trong nước. Như vậy,
vấn đề thu hút vốn đầu tư nước ngoài đặt ra những thử thách không nhỏ trong chính
sách thu hút đầu tư của nền kinh tế đang chuyển đổi. Đó là, một mặt phải ra sức huy
động huy động vốn nước ngoài để đáp ứng tối đa nhu cầu vốn cho sự phát triển của đất
nước. Mặt khác, phải kiểm soát chặt chẽ sư di chuyển của dòng vốn nước ngoài để ngăn
chặn khủng hoảng tài chính. Để vượt qua những thử thách đó, đòi hỏi nhà nước phải tạo
lập môi trường đầu tư thuận lợi cho sự vận động của dòng vốn này. Điều chỉnh và lựa
chọn các hình thức thu hút đầu tư sao cho dòng vốn này đầu tư dài hạn trong nước một
cách bền vững để có lợi cho nền kinh tế.
Về bản chất, vốn nước ngoài cũng được hình thành từ tiết kiệm của chủ thể kinh
tế nước ngoài và được huy động thông qua các hình thức cơ bản:
a). Viện trợ phát triển chính thức (Official Development Assistance – ODA). Đây là

tất cả các khoản viện trợ của các đối tác viện trợ nước ngoài dành cho Chính phủ và nhân
dân nước nhận viện trợ. ODA một mặt nó là nguồn bổ sung cho nguồn vốn trong nước để
phát triển kinh tế. Bên cạnh đó, nó giúp các quốc gia nhận viện trợ tiếp cận nhanh chóng
các thành tựu khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại. Ngoài ra, nó tạo điều kiện phát triển
cơ sở hạ tầng kinh tế – xã hội và đào tạo phát triển nguồn nhân lực. Tuy nhiên, các nước
tiếp nhận viện trợ thường xuyên phải đối mặt những thử thách rất lớn. Đó là, gánh nặng nợ


quốc gia trong tương lai, chấp nhận những điều kiện và ràng buộc khắt khe về thủ tục
chuyển giao vốn, đôi khi còn gắn cả những điều kiện về chính trị.
b). Đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Invesment – FDI). Đây là nguồn
vốn do các nhà đầu tư nước ngoài đem vốn vào một nước để đầu tư trực tiếp bằng việc
tạo lập những doanh nghiệp. FDI đã và đang trở thành hình thức huy động vốn nước
ngoài phổ biến của nhiều nước đang phát triển. Khi mà các luồng dịch chuyển vốn từ
các nước phát triển đi tìm cơ hội đầu tư ở nước ngoài để gia tăng thu nhập trên cơ sở
khai thác lợi thế so sánh giữa các quốc gia. Các hình thức chủ yếu của FDI là doanh
nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, hợp đồng hợp tác kinh doanh
dưới hình thức BOT (Built-Operation - Transfer, có nghĩa: xây dựng - vận hành chuyển giao), BTO (Hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh), BT (Hợp đồng
xây dựng - chuyển giao).
Khác với ODA, FDI không chỉ đơn thuận đưa ngoại tệ vào nước sở tại, mà
còn kèm theo chuyển giao công nghệ, trình độ quản lý tiên tiến và khả năng tiếp cận
thị trường thế giới, giải quyết việc làm, sử dụng tài nguyên trong nước. Song điều
quan trọng đặt ra cho các nước tiếp nhận là phải khai thác triệt để các lợi thế có được
của nguồn vốn này nhằm đạt được sự phát triển tổng thể cao về kinh tế. Tuy nhiên,
FDI cũng có những mặt trái của nó. Đó là, nguồn vốn FDI về thực chất cũng là một
khoản nợ, trước sau nó vẫn không thuộc quyền sở hữu và chi phối của nước sở tại.
Bên cạnh đó, các nước nhận đầu tư còn phải gánh chịu nhiều thiệt thòi do phải áp
dụng một số ưu đãi (ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp, giá thuê đất, vị trí doanh
nghiệp, quyền khai thác tài nguyên...) cho các nhà đầu tư hay bị nhà đầu tư nước
ngoài tính giá cao hơn mặt bằng quốc tế cho các yếu tố đầu vào, cũng như vẫn có thể

chuyển giao công nghệ và kỹ thuật lạc hậu.
1.1.4. Nội dung thu hút vốn đầu tư để phát triển du lịch.
1.1.4.1. Đầu tư cơ sở hạ tầng
Vật chất - kỹ thuật và kết cấu hạ tầng là một nguồn lực một điều kiện không thể
thiếu được để phát triển du lịch. Cơ sở vật chất - kỹ thuật và kết cấu hạ tầng tốt, đồng


bộ tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển du lịch, ngược lại sẽ gây khó khăn cho phát
triển du lịch. Đầu tư cơ sở hạ tầng bao gồm:
1). Đầu tư vào vật chất - kỹ thuật và kết cấu hạ tầng: là để đảm bảo nơi ăn, chỗ ở
cho khách du lịch. Đây là hai dịch vụ đặc trưng nhất của hoạt động kinh doanh du lịch,
chúng đáp ứng nhu cầu bản năng của con người (ăn và ngủ), khi họ sống ngoài nơi cư
trú thường xuyên của họ. Dịch vụ lưu trú và dịch vụ ăn uống chiếm tỷ trọng lớn trong
giá thành của các sản phẩm du lịch.
Đầu tư vào cơ sở vật chất - kỹ thuật kết cấu hạ tầng và dịch vụ ăn uống: Bao
gồm toàn bộ các phương tiện vật chất, tham gia vào việc sản xuất và cung ứng các
dịch vụ hàng hoá nhằm đáp ứng nhu cầu ăn uống và giải trí của du khách. Chúng bao
gồm tất cả các phòng ăn, phòng uống, nhà kho, nhà bếp, các trang thiết bị tiện nghi
phục vụ du khách ngủ qua đêm. Các loại hình cơ sở lưu trữ gồm: khách sạn, nhà
nghỉ, nhà trọ, làng du lịch, trang trại...
2). Mạng lưới bán hàng: là một thành phần trong vật chất - kỹ thuật du lịch nhằm
đáp ứng nhu cầu của khách du lịch về mua sắm, bằng việc bán các hàng hoá đặc trưng
của địa phương mình, của đất nước mình, hàng thực phẩm và các hàng hoá khác. Vật
chất - kỹ thuật này gồm hai phần: Một phần thuộc các trung tâm dịch vụ du lịch, phục
vụ du khách là chủ yếu; phần khác thuộc mạng lưới thương nghiệp địa phương, với
nhiệm vụ phục vụ nhân dân địa phương, đồng thời càng đóng vai trò quan trọng đối với
phục vụ khách du lịch, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động nơi đó.
3). Đầu tư vào cơ sở thể thao: là bộ phận của vật chất - kỹ thuật du lịch, có tác
dụng tạo điều kiện thuận lợi cho kỳ nghỉ của du khách làm cho nó trở nên tích cực hơn.
Các cơ sở thể thao bao gồm cả các công trình thể thao, các phòng thể thao với nhiều loại

khác nhau, các thiết bị chuyên dùng cho mỗi loại thể thao như: bể bơi, xe đạp, sân quần
vợt, sân bóng đá, sân golf, trường đua ngựa... Ngày nay, công trình thể thao là một bộ
phận không thể tách rời, vật chất - kỹ thuật của các trung tâm du lịch. chúng làm phong
phú và đa dạng các loại hình hoạt động du lịch, làm tăng sự hấp dẫn, kéo dài thời gian
lưu trú của du khách, làm tăng hiệu quả sử dụng khách sạn, nhà nghỉ nhà trọ...


4). Đầu tư vào cơ sở y tế: nhằm mục đích phục vụ du khách chữa bệnh và cung
cấp dịch vụ bổ sung tại các điểm du lịch. Vật chất - kỹ thuật ở đây bao gồm: các trung
tâm chữa bệnh (bằng nước khoáng, ánh nắng mặt trời, xông hơi nóng, mát xa, các món
ăn kiêng), các phòng y tế khác.
5). Đầu tư vào công trình phục vụ văn hoá thông tin: bao gồm các trung tâm văn
hoá thông tin, phòng chiếu phim, câu lạc bộ, phòng triển lãm, Internet, phòng đọc
sách...hoạt động văn hoá thông tin có thể được tổ chức thông qua các buổi dạ hội hữu
nghị, dạ hội hoá trang, đêm ca nhạc, tổ chức các buổi gặp gỡ trao đổi giữa những người
khách du lịch cùng nghề, buổi chiếu phim, xem kịch, tham quan bảo tàng...
6). Đầu tư vào giao thông vận tải: bao gồm đường bộ, đường hàng không, đường
sông. Mạng lưới giao thông phát triển tạo điều kiện cho việc đi lại của khách một cách
dễ dàng. Đồng thời tạo điều kiện khai thác tối đa tiềm năng du lịch của một vùng, một
địa phương, một đất nước.
7). Đầu tư vào cơ sở phục vụ các dịch vụ bổ sung khác bao gồm: trạm xăng dầu,
thiết bị cấp cứu như du lịch mạo hiểm, xưởng sửa chữa dụng cụ thể thao, phòng rửa
tráng phim ảnh, hiệu cắt tóc, gội đầu, cửa hiệu sửa chữa thiết bị liên lạc, giặt là, bưu
điện, phòng sao chép.
Ngoài ra đảm nhận việc vận chuyển các tin tức một cách nhanh chóng và kịp
thời, góp phần đắc lực vào thực hiện giao lưu các vùng, các khu vực và các nước.
8). Đầu tư vào bảo vệ cảnh quan môi trường. Phát triển du lịch có tác động thúc
đẩy cải tạo môi trường, làm cho cảnh quan, môi trường sinh thái xanh, sạch đẹp hơn.
Mặt khác, phát triển du lịch là động lực thúc đẩy xây dựng các cơ sở hạ tầng, vật chất kỹ thuật, các khu bảo tồn thiên nhiên, các khu rừng quốc gia... đều là điều kiện tốt để
bảo vệ các loại động vật hoang dã, thực vật quý hiếm, bảo vệ môi trường.

Bảo vệ tài nguyên môi trường, bảo đảm an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội:
với các mục tiêu giữ gìn môi trường tự nhiên và xã hội, bảo đảm vệ sinh, an ninh trật tự,
an toàn xã hội, tạo điều kiện phát triển du lịch nhanh và bền vững, chú trọng tôn tạo,
bảo vệ, sử dụng hợp lý và hiệu quả các nguồn tài nguyên, tăng hiệu lực quản lý nhà
nước, nhất là trên lĩnh vực du lịch.


Tăng cường giáo dục sâu rộng trong nhân dân về nhiệm vụ phát triển du lịch để
nhân dân tuyên truyền, giới thiệu về du lịch địa phương. Xây dựng môi trường xã hội an
toàn, tạo sự tin tưởng, yên tâm cho khách du lịch.
Xây dựng và ban hành các quy định về bảo vệ môi trường, về giữ gìn an ninh,
trật tự an toàn xã hội trong các khu vực du lịch, thường xuyên kiểm tra theo dõi biến
động về môi trường để có những giải pháp kịp thời, phối hợp cùng các cấp, các ngành
và các địa phương, khắc phục sự cố, tình trạng xuống cấp về tài nguyên môi trường. Có
kế hoạch và chương trình tuyên truyền giáo dục nâng cao nhận thức về bảo vệ tài
nguyên môi trường du lịch cho du khách cũng như cộng đồng dân cư trên các phương
tiện thông tin đại chúng.
Bên cạnh những mặt tích cực, phát triển du lịch có nguy cơ làm huỷ hoại, phá vỡ
hệ sinh thái môi trường, làm ô nhiễm nguồn nước, tàn phá các danh lam thắng cảnh, làm
cạn kiệt dần nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Du lịch là ngành hoạt động đòi hỏi môi trường và khoảng không gian rất lớn là
yếu tố nội tại của ngành du lịch. Văn hoá và môi trường là nguyên liệu thô của ngành
công nghiệp du lịch. Vấn đề đặt ra cho người lãnh đạo, người quản lý, người kinh doanh
là phải có chiến lược phát triển du lịch đúng đắn để phát huy mạnh mẽ những thế mạnh
và hạn chế đến mức tối đa những mặt tiêu cực do phát triển du lịch đem lại. Đồng thời,
đây cũng là trách nhiệm của mỗi người dân, là trách nhiệm chung của toàn xã hội.
9). Đầu tư vào việc bảo tồn di tích và giữ gìn bản sắc văn hoá. Tôn tạo các di
tích văn hoá lịch sử và phát triển các lễ hội truyền thống phục vụ du lịch, một trong
những mục đích chính của khách du lịch đến là để tìm hiểu nền văn hoá, lịch sử phát
triển của mỗi quốc gia dân tộc. Do vậy, việc đầu tư tôn tạo và nâng cấp các điểm di tích

văn hoá hiện nay không chỉ có ý nghĩa đối với hoạt động phát triển du lịch mà còn có ý
nghĩa giáo dục những thế hệ sau về những giá trị văn hoá, lịch sử của dân tộc, quê
hương. Việc đầu tư vào lĩnh vực này sẽ giúp cho các ngành du lịch phát triển và giữ gìn
được những bản sắc truyền thống dân tộc qua những sản phẩm truyền thống của đất
nước. Muốn vậy cần tập trung vốn vào các công việc sau:


a). Tôn tạo nâng cấp các điểm di tích văn hoá, lịch sử bảo đảm được đúng tiêu
chuẩn của một điểm du lịch. Hướng dẫn các hoạt động lễ hội phục vụ cho du lịch như:
lễ hội Bun Pi May, Bun Xuông Hưa (Lễ hội đua thuyền), lễ hội của các dân tộc...
b). Quy hoạch xây dựng và khôi phục lại một số làng nghề truyền thống như:
làng thủ công mỹ nghệ, làng dệt... để đưa du khách tham quan tìm hiểu và mua hàng lưu
niệm.
Việc khai thác, sử dụng phải đi đôi với bảo quản, giữ gìn, trùng tu và tôn tạo các
giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc được thể hiện qua các di tích. Kết hợp việc khai
thác hợp lý các di tích với việc tôn tạo nhằm duy trì các sản phẩm du lịch có chất lượng,
phát triển một số ngành kinh tế, văn hoá, xã hội và hiện đại hoá kho tàng di sản văn hoá
dân tộc. Việc khai thác di tích, góp phần đưa du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn,
đồng thời tạo điều kiện phát triển một số ngành kinh tế chủ đạo hỗ trợ cho du lịch.
1.1.4.2. Đầu tư vào công tác tuyên truyền, quảng bá du lịch
Trong hoạt động du lịch, việc thu hút khách đóng vai trò quyết định. Đối với thị
trường trong nước và quốc tế, cần tập trung nguồn vốn thích hợp để tuyên truyền quảng bá
nhằm nâng cao hình ảnh, tài nguyên, sản phẩm du lịch đặc sắc của đất nước để thu hút du
khách. Đối với địa phương cần tuyên truyền quảng bá để nâng cao nhận thức của các cấp, các
ngành và nhân dân về vai trò của du lịch, nâng cao ý thức trách nhiệm toàn dân đối với bảo
vệ tài nguyên môi trường tự nhiên, xã hội trong sự phát triển kinh tế của địa phương, của đất
nước.
Để phát triển du lịch toàn dân trước hết, cần phải có kinh phí xây dựng những bộ
phim, những tập sách, tranh thủ các kênh báo chí, phát thanh truyền hình để đẩy mạnh
tuyên truyền quảng bá các sự kiện du lịch, các ngày kỷ niệm, các lễ hội của đất nước và

của địa phương. Với mục tiêu tăng cường nhận thức của toàn dân về vai trò của du lịch,
đem lại lợi ích cho nhân dân về các mặt như: giải trí, tăng thu nhập, tạo công ăn việc
làm nâng cao ý thức bảo vệ, giữ gìn và khai thác hợp lý tài nguyên du lịch. Duy trì và
nâng cao hình ảnh du lịch trong và ngoài nước nhằm thu hút ngày càng nhiều du khách,
các nhà đầu tư, góp phần mở rộng quan hệ hợp tác phát triển trong nước và quốc tế. Muốn
vậy cần tập trung vốn đầu tư vào các công việc như sau:


1). Xuất bản những ấn phẩm tuyên truyền và giới thiệu về lịch sử các di tích văn
hoá, danh lam thắng cảnh, tiềm năng du lịch để phục vụ cho hoạt động xúc tiến du lịch
trong và ngoài nước.
2). Giới thiệu và đưa ra thị trường bản đồ du lịch với bưu cảnh tập gấp, những
chương trình du lịch dành cho các đối tượng du khách riêng biệt. Tăng cường thông tin và
thời lượng phát về du lịch trên các phương tiện thông tin của địa phương và Trung ương.
Xây dựng một số pa-nô, biển quảng cáo về du lịch và cần làm ngay là việc xây dựng một số
biển chỉ dẫn chi tiết cho các khu du lịch.
3). Tổ chức đăng cai một số hội thảo về du lịch và tích cực tham gia các hội chợ, hội
thảo về du lịch được tổ chức trong nước và quốc tế. Kết hợp đẩy mạnh công tác tuyên
truyền và giáo dục toàn dân về văn minh du lịch, giao tiếp, ứng xử, sinh hoạt văn hoá góp
phần nâng cao hình ảnh tốt đẹp của du lịch.
4). Xây dựng hệ thống thông tin du lịch: nối mạng thông tin trong nước để khai
thác và cung cấp thông tin phục vụ quản lý và kinh doanh của các đơn vị. Xây dựng
trang Website về du lịch để giới thiệu lên Internet. Xây dựng các sản phẩm nghe, nhìn
như: CD ROM - VCD, giới thiệu về tiềm năng tài nguyên và sản phẩm du lịch.
1.1.4.3. Đầu tư cho đào tạo nguồn nhân lực
Con người là một hoạt động trực tiếp trong lĩnh vực du lịch và kinh doanh du
lịch, đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động du lịch. Để đảm
bảo sự phát triển nhanh và bền vững cho ngành du lịch, chính sách phát triển nguồn
nhân lực phải được coi là một chính sách lớn, một nhiệm vụ chiến lược thuộc trách
nhiệm chủ yếu của Nhà nước. Du lịch là một ngành kinh tế đòi hỏi có sự giao tiếp rộng

rãi và trực tiếp đối với du khách, đòi hỏi trình độ nghiệp vụ, phong cách và thái độ giao
tiếp của cán bộ, nhân viên trong ngành cũng như người tham gia hoạt động du lịch. Các
điều kiện vật chất - kỹ thuật dần dần sẽ trở nên không khác biệt lắm so với các nước
khác. Điều làm cho các sản phẩm du lịch trở nên khác biệt và hấp dẫn hơn, là cách thức
làm cho du khách cảm thấy sự thoải mái và có ấn tượng sâu sắc trong suốt quá trình
hưởng thụ các sản phẩm du lịch tại nơi mình đến. Điều đó chứng tỏ nhân tố con người
với phong cách phục vụ và trình độ chuyên môn cao sẽ góp phần tạo ra sự khác biệt của


×