Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

LUẬN văn tác động của tệ nạn xã hội tới sự phát triển kinh tế xã hội ở thanh hoá

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.9 MB, 106 trang )

LUẬN VĂN:

Tác động của tệ nạn xã hội tới sự phát
triển kinh tế - xã hội ở Thanh Hoá


Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua vấn đề TNXH và đấu tranh phòng, chống TNXH đã được Đảng
và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm và bước đầu đã thu được những kết quả đáng khả quan,
đã từng bước hoàn thiện được các văn bản pháp luật về phòng, chống tệ nạn xã hội, tăng
cường sự chỉ đạo triển khai thực hiện các chương trình hành động quốc gia về công tác
này, giảm được các tụ điểm TNXH phức tạp. Tuy nhiên số người mắc các loại TNXH vẫn
có xu hướng gia tăng và diễn biến phức tạp trên diện rộng, đặc biệt là các tệ nạn ma tuý,
mại dâm, cờ bạc, buôn bán phụ nữ và trẻ em, xâm hại tình dục trẻ em..., đang là vấn đề gây
bức xúc và nhức nhối cho toàn xã hội. Hàng năm Nhà nước từ Trung ương đến địa phương
phải chi ra hàng ngàn tỉ đồng cùng với một lực lượng lớn về con người để tập trung đấu
tranh triệt phá các ổ nhóm, đường dây buôn bán ma tuý, mại dâm, buôn bán phụ nữ và trẻ
em; tổ chức chữa bệnh, cai nghiện phục hồi và tái hoà nhập cộng đồng cho người nghiện
ma tuý và gái mại dâm song hiệu quả chưa cao, tỷ lệ tái phạm còn rất lớn. Hàng ngày,
hàng giờ bộ phận dân cư mắc các tệ nạn xã hội đã tiêu phí một lượng tiền rất lớn ném vào
ma tuý, ăn chơi sa đoạ không những không mang lại lợi ích kinh tế, mà ngược lại còn làm
cho một bộ phận dân cư này ngày càng rơi vào tình trạng đói nghèo, ảnh hưởng tới sự phát
triển của giống nòi và nguồn nhân lực của đất nước trong tương lai. Tội phạm và TNXH
gia tăng, gây mất an ninh trật tự, an toàn xã hội làm xói mòn đạo đức, làm sai lệch những
chuẩn mực và giá trị truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc, phá hoại hạnh phúc của mỗi
con người, mỗi gia đình, đe doạ đến tính mạng, sức khoẻ của nhân dân. Sự gia tăng của tệ
nạn xã hội còn là nguyên nhân chủ yếu làm lây lan nhanh căn bệnh HIV/AIDS trong cộng
đồng dân cư. Đặc biệt nghiêm trọng hơn tệ nạn xã hội đã và đang lan nhanh ở nhóm thanh
thiếu niên và môi trường học đường.
Ngày nay, quá trình toàn cầu hoá với các mặt trái của nó đang làm nẩy sinh và lan


nhanh nhiều TNXH mới. Nếu chúng ta không có những giải pháp ngăn chặn có hiệu quả
thì TNXH trở thành mối đe doạ, kéo theo những hậu quả khôn lường cho xã hội, tác động
tiêu cực đến công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Vấn đề nghiên cứu tác động của TNXH tới sự phát triển kinh tế – xã hội nhất là đối
với một tỉnh như Thanh Hoá là một vấn đề quan trọng. Trên cơ sở nghiên cứu có thể đưa


ra được các nhân tố tác động chủ yếu và đề xuất các giải pháp nhằm hạn chế những tác
động xấu của TNXH tới sự phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh Thanh Hoá. Tuy nhiên từ
trước đến nay chưa có nghiên cứu chuyên sâu thuộc lĩnh vực kinh tế chính trị về vấn đề
này.
Từ những lý do trên, vấn đề nghiên cứu “Tác động của tệ nạn xó hội tới sự phỏt triển
kinh tế - xó hội ở Thanh Hoỏ” được chọn làm luận văn tốt nghiệp Cao học kinh tế chuyên
ngành Kinh tế chính trị.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Thời gian qua đã có một số công trình nghiên cứu của các nhà khoa học, các nhà
chuyên môn về những hiểu biết cơ bản về TNXH, đưa ra những lý giải về nguyên nhân, cơ
chế gia tăng, cũng như hậu quả của TNXH đối với con người và xã hội. Đồng thời, đã
tham mưu cho Đảng và Nhà nước, xây dựng chính sách, pháp luật và đề xuất các giải pháp
nhằm đẩy lùi TNXH. Tuy nhiên những nghiên cứu đó ở nhiều góc độ và giới hạn khác
nhau, nên chưa đồng bộ và trên thực tế tác dụng còn hết sức khiêm tốn, chẳng hạn như:
Cuốn sách “Mại dâm, ma tuý, cờ bạc, tội phạm thời hiện đại” của nhóm tác giả;
GS,TS. Nguyễn Xuân Yêm, TS. Phạm Đình Khánh, TS. Nguyễn Thị Kim Liên, Nhà xuất
bản Công an nhân dân năm 2003, đã trình bầy những vấn đề cơ bản về TNXH trên
phương diện Xã hội học và Tội phạm học hiện đại như: đưa ra những hiẻu biết cơ bản
về TNXH ở ba dạng cơ bản là ma tuý, mại dâm, cờ bạc; cập nhật được tình hình và
những kinh nghiệm về phòng chống TNXH trên thế giới, khu vực và ở nước ta; đã đề
xuất được một số giải pháp tăng cường đấu tranh phòng, chống TNXH trong điều kiện
kinh tế thị trường...
Dưới góc độ xã hội học, trên phương diện quản lý nhà nước về phòng, chống mại dâm và

cai nghiện phục hồi ở đề tài“Vấn đề Phòng chống TNXH trong thời kỳ đổi mới”, TS. Đàm
Hữu Đắc cùng với các tác giả Nguyễn Văn Minh, Trần Việt Trung, TS. Lê Thị Hà, đã hệ
thống những lý luận cơ bản về tệ nạn mại dâm và ma tuý, phân tích, đánh giá thực trạng và
tình hình phòng, chống tệ nạn mại dâm và nghiện ma tuý trong những năm đổi mới, dự báo
tình hình cũng như đề xuất những giải pháp ngăn ngừa, phòng chống TNXH đến 2020.
Đề tài nghiên cứu của Văn phòng Chính phủ (năm 2000) về “ Một số giải pháp cơ bản
nhằm nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống các TNXH (MT, MD) và phòng chống


HIV/AIDS” đã đánh giá thực trạng công tác quản lý nhà nước về lĩnh vực phòng chống
mại dâm, ma tuý, đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác này.
Đề tài cấp Nhà nước thuộc chương trình KX.04.14 của Tổng cụ Cảnh sát nhân dân
“Tệ nạn xã hội ở Việt Nam, thực trạng, nguyên nhân và giải pháp” Nxb Công an nhân dân
1994. Trong đề tài này các tác giả đã đưa ra khái niệm về TNXH, dấu hiệu đặc trưng của
TNXH, đặc biệt nhấn mạnh vấn đề TNXH trong cơ chế thị trường, những căn nguyên phát
sinh TNXH và các giải pháp giải quyết TNXH. Nhóm các tác giải đều khẳng định TNXH
là hiện tượng xã hội có nguồn gốc sâu xa và liên quan đến mọi mặt của đời sống xã hội,
phá vỡ hạnh phúc gia đình, làm sói mòn đạo đức xã hội, ảnh hưởng đến kinh tế, sức khoẻ,
nhân cách của con người...
TS. Bùi Ngọc Thanh, TS. Nguyễn Hữu Dũng, TS. Phạm Đỗ Nhật Tân (chủ biên) Nxb
Chính trị quốc gia (1996), “Nghiên cứu cơ sở xã hội ở nông thôn Việt Nam” trong đó có
vấn đề TNXH và quan điểm cơ bản giải quyết vấn đề TNXH ở nông thôn, các tác giả đã
đưa ra khái niệm về TNXH, nguyên nhân phát sinh TNXH và giải pháp phòng, chống
TNXH ở nông thôn Việt Nam.
Trong tài liệu “Phòng, chống sự xâm nhập của các TNXH vào gia đình”, HN, 2006
của nhóm tác giả PGS,TS. Lê Ngọc Hùng, TS. Ngô Thị Ngọc Anh và các cộng sự đã nêu
một cách khái quát về khái niệm TNXH, các loại TNXH, ảnh hưởng của TNXH đối với
gia đình và giải pháp phòng tránh các loại TNXH xâm nhập vào gia đình trong thời kỳ
hiện nay.
Về phòng, chống tệ nạn BBPNTE đã có một số công trình nghiên cứu như“

Quyền của Phụ nữ và trẻ em trong các văn bản pháp luật Quốc tế và pháp luật của
Việt Nam” của TS. Đỗ Ngọc Bình, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia năm 2003;
"Phòng chống buôn bán phụ nữ, trẻ em” của TS. Nguyễn Thị Quý, Nhà xuất bản
phụ nữ năm 2004; ngoài ra còn có một số tài liệu về phòng, chống buôn bán người
của các Tổ chức Quốc tế ILO, Terre Des Hommes, IOM, UNISEP... những nghiên
cứu đó đều đi sâu phân tích các khái niệm về buôn bán người, nguyên nhân và thủ
đoạn của tội phạm, những kinh nghiệm từ các nước trên thế giới về phòng chống
buôn bán người, cũng như thực trạng tình hình của Việt Nam, từ đó đề ra những giải


pháp nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống buôn bán người ở Việt Nam hiện
nay.
Nhiều hội thảo khoa học của các ngành chức năng, các tài liệu, đề cương bài giảng được
trình bày ở các trường Đại học Luật, trường Đại học Xã hội nhân văn, trường Đại học Lao
động xã hội, trường Đại học Cảnh sát nhân dân, các nghiên cứu của Viện nghiên cứu Nhà
nước và Pháp luật thuộc Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn Quốc gia; các tài liệu báo
cáo, đánh giá tình hình TNXH của UBQG phòng, chống AIDS, phòng chống ma tuý, mại
dâm... Một số công trình nghiên cứu, bài báo khoa học, luận án tiến sĩ, thạc sĩ luật học về
phòng chống TNXH, phòng chống tội phạm cũng đã được công bố.
Những tài liệu, công trình nghiên cứu trên đã trình bày khái quát được

những vấn đề

cơ bản về phòng, chống TNXH, phòng chống tội phạm. Đưa ra được những lý giải về
nguyên nhân gia tăng TNXH, tội phạm, đề cập tới phương pháp tiếp cận của từng loại hình
TNXH và tội phạm dưới góc độ chuyên ngành mà chưa có một công trình nghiên cứu nào,
bài viết nào trên phương diện Kinh tế chính trị, nghiên cứu tác động của TNXH tới sự ổn
định và phát triển kinh tế xã hội trên phạm vi toàn quốc hay ở một địa phương cụ thể như ở
đề tài này.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn

3.1. Mục đích
Nghiên cứu sự tác động của TNXH tới ổn định và phát triển kinh tế – xã hội. Đề xuất
những quan điểm, giải pháp nhằm hạn chế những tác động xấu của TNXH.
3.2. Nhiệm vụ
Khái quát những vấn đề lý luận về TNXH và sự tác động của TNXH đối với sự phát
triển kinh tế xã hội.
Phân tích tác động của TNXH tới ổn định và phát triển kinh tế - xã hội ở Thanh Hoá
giai đoạn 2003-2007.
Dự báo xu hướng tác động của Tnxh đến phát triển kT-xh Thanh Hoá giai đoạn 20082012 và những giải pháp ngăn ngừa.
4. Đối tượng nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:


Đối tượng nghiên cứu của luận văn là mối quan hệ tác động của TNXH tới sự ổn định và
phát triển kinh tế xã hội trong phạm vi một địa phương nhất định (tỉnh Thanh Hoá).
- Phương pháp nghiên cứu:
Quán triệt những nguyên lý của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và hệ
thống chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước, luận văn sử dụng các phương pháp chủ
yếu để nghiên cứu như: thống kê khái quát hoá, phân tích, tổng hợp, điều tra khảo sát điểm,
phương pháp chuyên gia, phương pháp nghiên cứu tài liệu để làm sáng tỏ các vấn đề nghiên
cứu.
5. Giới hạn nội dung và phạm vi nghiên cứu
- Nội dung nghiên cứu:
TNXH là một vấn đề rất rộng, có ảnh hưởng và liên quan đến tất cả mọi mặt của đời
sống kinh tế - xã hội. Do đó trong luận văn chỉ tập trung nghiên cứu sự ảnh hưởng của một
số loại TNXH điển hình như; tệ nạn ma tuý, mại dâm, buôn bán phụ nữ và trẻ em tới sự ổn
định và phát triển kinh tế - xã hội để làm nội dung nghiên cứu chính.
- Phạm vi nghiên cứu:
Thời gian nghiên cứu từ 2003 đến 2007.
Lĩnh vực nghiên cứu tác động của TNXH là tình hình phát triển KT - XH Phạm vi địa

bàn nghiên cứu là tỉnh Thanh Hoá.
6. Đóng góp về mặt khoa học của luận văn
Trên phương diện Kinh tế chính trị, luận văn làm rõ những tác động của TNXH tới ổn định
và phát triển kinh tế - xã hội nói chung, và đặc biệt chú trọng những biểu hiện mới của nó trong
thời kỳ mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế.
Khái quát thành tựu và những vấn đề đặt ra trong lý luận và thực tiễn về những tác
động của TNXH đối với phát triển kinh tế - xã hội nói chung và ở Thanh Hoá nói riêng
trong thời gian qua, dự báo tình hình tác động này trong giai đoạn 2008 - 2015.
Luận văn làm rõ quan điểm phòng, chống, định hướng và những giải pháp ngăn ngừa
những tác động xấu của TNXH.

7. Kết cấu của luận văn


Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn được kết
cấu thành 3 chương, 9 tiết.


Chương 1
tệ nạn xã hội và tác động của tệ nạn xã hội
đến phát triển kinh tế - xã hội

1.1. Một số cơ sở lý luận chung về tệ nạn xã hội
1.1.1. Khái niệm về tệ nạn xã hội
Chủ nghĩa Mác-Lênin xem xét xã hội trong trạng thái vận động và phát triển không
ngừng, C.Mác viết “Tôi coi sự phát triển của những hình thái kinh tế-xã hội là một quá
trình lịch sử tự nhiên”. Tương ứng với từng nấc thang nhất định của nó là những hình thái
kinh tế - xã hội, phát triển từ thấp đến cao, mặc dù có những tính đặc thù của nó, nhưng
chúng có cái chung là đều gắn liền với sự phát sinh và phát triển của các quan hệ xã hội,
các quan hệ sản xuất. V.I Lênin viết:

…chỉ có đem quy những quan hệ xã hội vào những quan hệ sản xuất, và đem
những quan hệ sản xuất vào trình độ của lực lượng sản xuất thì người ta mới có
được một cơ sở vững chắc để quan niệm sự phát triển của những hình thái kinh tếxã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên. Và dĩ nhiên là không có một quan điểm
như thế thì không có một khoa học xã hội được [36, tr.64].
Quan hệ xã hội và quan hệ sản xuất luôn tác động biện chứng với nhau, thúc đẩy kinh
tế - xã hội phát triển. Trong quá trình phát triển lịch sử tự nhiên đó có những nhân tố tác
động tích cực thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển, nhưng cũng có những nhân tố tác động
tiêu cực có tính kìm hãm sự phát triển, một trong những nhân tố đó là TNXH.
Thực chất những hành vi TNXH của con người được nhận biết chủ yếu thông qua các quan hệ
xã hội, những hành vi đó liên quan đến các giá trị chuẩn mực xã hội. Vì vậy, TNXH phải được
nghiên cứu xem xét một cách toàn diện theo quan điểm duy vật lịch sử và biện chứng trong trạng
thái vận động và phát triển của xã hội.
Khái niệm về TNXH cho đến nay vẫn chưa có sự thống nhất, nhưng tựu chung các tác giả
đều cho rằng, TNXH được coi là những hành vi của con người gây ra vi phạm các giá trị
đạo đức, làm sai lệch chuẩn mực xã hội và có tính phổ biến trong xã hội, những hành vi
này gây hậu quả tiêu cực cho con người và cho xã hội.


Dưới góc độ Xã hội học, PGS,TS. Đặng Cảnh Khanh, Viện trưởng Viện nghiên cứu
Thanh niên Việt Nam quan niệm rằng các tệ nạn xã hội là hành vi sai lệch với những chuẩn
mực xã hội, sai lệch với những quy tắc đạo đức truyền thống xã hội của những cá nhân hoặc
những nhóm người do những nguyên nhân chủ quan hoặc khách quan nào đó tác động tới.
Dưới phương diện khoa học pháp lý, tập thể tác giả GS,TS. Nguyễn Xuân Yêm, TS.
Phan Đình Khánh, Nguyễn Thị Kim Liên trong cuốn “Mại dâm, ma tuý, cờ bạc thời hiện
đại” đã đưa ra khái niệm “Tệ nạn xã hội là một hiện tượng xã hội tiêu cực có tính lịch sử
cụ thể biểu hiện bằng những hành vi vi phạm pháp luật và sai lệch các chuẩn mực xã hội,
có tính lây lan, phổ biến gây nguy hiểm cho xã hội và được quy định trong pháp luật hình
sự, pháp luật hành chính và các chuẩn mực đạo đức xã hội”. PGS,TS. Võ Khánh Vinh,
Viện nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật trong báo cáo khoa học "Một số vấn đề về pháp
luật đấu tranh với các tệ nạn xã hội", quan niệm “tệ nạn xã hội là những hiện tượng xã hội

nguy hiểm lớn cho xã hội, được thay đổi về mặt lịch sử và thể hiện ở sự thống nhất biện
chứng các hành vi vi phạm pháp luật, xâm phạm đến lợi ích của xã hội, của Nhà nước, đến
tài sản, các quyền và lợi ích chính đáng của công dân”.
Dưới góc độ khoa học quản lý. Theo TS. Đàm Hữu Đắc, Thứ trưởng Bộ Lao động Thương binh và Xã hội và nhóm tác giả trong chuyên đề “vấn đề tệ nạn xã hội trong thời
kỳ đổi mới” cho rằng “Tệ nạn xã hội là một hiện tượng xã hội, thể hiện ra những hành vi
sai lệch chuẩn mực xã hội có tính phổ biến bao gồm các vi phạm có tính nguyên tắc về lối
sống, truyền thống văn hoá, đạo đức, thuần phong mỹ tục và những quy tắc được thể chế
hoá bằng pháp luật, gây ra hậu quả nghiêm trọng cho đời sống kinh tế, văn hoá, đạo đức xã
hội của nhân dân”.
Dước góc độ đạo đức và giáo dục học, trong tài liệu hướng dẫn chương trình phòng chống
tệ nạn xã hội của Bộ Giáo dục và Đào tạo, nhóm tác giả Mai Huy Bổng, Nguyễn Văn Sơn, Lê
Trung Hiếu cho rằng “Tệ nạn xã hội là một hiện tượng xã hội, nó liên quan tới các đặc điểm
của xã hội, tâm lý, sinh lý, đạo đức, kinh tế, văn hoá của mỗi cá nhân và gia đình”.
Ngoài ra còn có nhiều bài viết, bài báo, các hội thảo khoa học nghiên cứu về tệ nạn
xã hội ở nước ta và đưa ra nhiều quan niệm dưới nhiều góc độ khác nhau như; Viện Khoa
học lao động và các Vấn đề xã hội - Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, trong báo cáo
khoa học "Tệ nạn xã hội và cách tiếp cận trong việc đề ra và thực hiện các chính sách xã


hội" cho rằng tệ nạn xã hội bao gồm tất cả những hành vi vi phạm pháp luật, kể cả pháp
luật hình sự, những hiện tượng xã hội tiêu cực, trái với thuần phong mỹ tục của dân tộc;
gây ảnh hưởng xấu cho xã hội.
Trong báo cáo khoa học "Đổi mới các chính sách xã hội nhằm khắc phục tệ nạn xã
hội trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường" của TS. Nguyễn Hữu Dũng, Bộ Lao động
- Thương binh và Xã hội cho rằng "Tệ nạn xã hội là những hiện tượng xã hội rất tiêu cực,
đem lại những hậu quả nghiêm trọng trong đời sống kinh tế - văn hoá - xã hội và gây ra
tâm trạng xã hội rất nặng nề thậm chí gây mất ổn định về an ninh chính trị, an toàn xã hội”.
Trong báo cáo khoa học của đại tá Nguyễn Mạnh Tề, Cục cảnh sát hình sự - Bộ Công an
cho rằng "Tệ nạn xã hội là những hành vi vi phạm pháp luật nhưng chưa phải là tội phạm, là
những thói hư tật xấu trái với thuần phong mỹ tục, đạo đức dân tộc do nhiều người mắc phải,

gây tác hại đến đời sống vật chất tinh thần của nhân dân ta. Tệ nạn xã hội rất đa dạng, gồm cả
văn hoá phẩm đồi truỵ, cao bồi càn quấy, đầm bóng, bói toán, mại dâm, nghiện hút, cờ bạc...”
Tóm lại, từ những quan niệm trên có thể khẳng định “Tệ nạn xã hội là một hiện tượng xã
hội có tính lịch sử, được biểu hiện ra ở những hành vi làm sai lệch các giá trị chuẩn mực xã hội
tiến bộ, gây ra những hậu quả nghiêm trọng đến mọi mặt của đời sống kinh tế, chính trị, xã hội”
1.1.2. Những nét đặc trưng của tệ nạn xã hội
1.1.2.1. Tệ nạn xã hội mang tính lịch sử
TNXH không bất biến, nó bắt nguồn từ đời sống xã hội và có tính chất lịch sử phức tạp,
trong đó có những loại hình TNXH đã tồn tại rất lâu nên không thể loại trừ nó bằng biện pháp
đơn giản nào đó và trong một thời gian ngắn được. TNXH có thể thay đổi cùng với sự phát
triển của kinh tế - xã hội. Lịch sử đã chứng minh rằng, các TNXH (bản chất và hình thức biểu
hiện của nó) thay đổi tuỳ thuộc vào sự thay đổi của hình thái kinh tế - xã hội, tuỳ thuộc vào sự
phát triển và thay đổi của cơ cấu kinh tế, cơ cấu xã hội trong từng giai đoạn phát triển nhất
định của một xã hội, tuỳ thuộc vào thể chế nhà nước v.v... Tệ nạn xã hội không chỉ xuất hiện ở
giai đoạn suy thoái của nền kinh tế - xã hội mà ngay cả trong giai đoạn phát triển.
Cũng do TNXH có tính lịch sử và tính động mà trong những điều kiện lịch sử khác nhau,
ở những hoàn cảnh khác nhau, ở những thể chế xã hội khác nhau quan niệm về TNXH cũng
khác nhau.


* Từ thời cổ đại xa xưa, khi con người chưa nhận thức được đầy đủ như thế nào là
TNXH, thì ngay trong cuộc sống của xã hội nguyên thuỷ đã bị quy định chặt chẽ bởi một hệ
thống lễ nghi, nghi thức thờ cúng, biểu tượng, ký hiệu, biểu trưng, tác động ma thuật, thần
chú, cầu khấn và các lời nguyền... đều mang tính chất tín ngưỡng và thần thoại, trong đó đã
chứa đựng những yếu tố của TNXH.
* Trong thời kỳ thị tộc những quan niệm về tôn giáo, về những lực lượng thần thánh đã
bắt đầu dần dần chi phối đời sống và hành động của con người. Những cấm đoán về thần
thoại đã chuyển hoá thành những cấm đoán về tôn giáo - luân lý, xuất hiện những bộ luật để
trừng phạt những hành vi được coi là sai lệch, hay là những cái được coi là cái đúng, cái sai.
Trong xã hội này vai trò trừng phạt ngày càng tăng lên và cũng là thời kỳ chuyển hoá xã hội

từ chế độ nguyên thuỷ sang phân hoá xã hội, phân hoá giai cấp. Những biến đổi cơ bản trong
đời sống xã hội gắn liền với việc xuất hiện sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và những đối
kháng do sở hữu gây ra, đã làm thay đổi cơ bản quan niệm trước kia về cái coi là chuẩn mực xã
hội, cái bình thường và không bình thường. Những quan niệm mới về chuẩn mực xã hội và sự
lệch chuẩn xã hội đã hình thành.
* Trong chế độ phong kiến, nhà nước phong kiến đã ban hành những đạo luật hà khắc,
thêm vào đó là những giáo lý tôn giáo, thần thánh, mê tín dị đoan... làm thay đổi những quan
niệm mới về chuẩn mực xã hội. Những hủ tục lạc hậu man rợ được chế độ phong kiến coi là
những hiện tượng xã hội mẫu mực như hiến tế người cho thần linh, hay cắt bỏ những bộ phận
cơ thể của con người để thể hiện ý chí, hay quy phục, hoặc dâng, hiến, cống vợ, con, người
thân cho vua, chúa bề trên để làm nô lệ tình dục, chiến tranh xâm lược cướp bóc và buôn bán
nô lệ... và cho rằng đây là ý nguyện tối cao của Thượng đế, của Chúa, của Vua mà bổn phận
con người phải thực hiện. Một điều đáng chú ý là những quan niệm về chuẩn mực xã hội đều
được thể hiện qua hàng loạt các truyền thuyết thần thoại và giáo lý tôn giáo được cụ thể hoá
bằng luật pháp và các học thuyết thời bấy giờ, và coi đó là những chuẩn mực phải thi hành.
* Khi lực lượng sản xuất phát triển, đồng thời các quan hệ xã hội cũng được mở rộng và
nền kinh tế thị trường ra đời đã làm xuất hiện và tiềm ẩn những yếu tố phá vỡ trật tự và quan
niệm cũ về sự áp đặt, trừng phạt, sự giả dối, nghiêm cấm, bạo lực, tín ngưỡng, tôn giáo. CNTB
ra đời gắn liền với chế độ tư hữu tư nhân TBCN đã sinh ra những bất công, nghèo khổ, thất


nghiệp và phân tầng xã hội xã hội sâu sắc, là nguyên nhân chủ yếu của sai lệch xã hội, là
nguồn gốc phát sinh và gia tăng TNXH.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin đã có nhiều phân tích về TNXH và giải
quyết tệ nạn này. Trong các tác phẩm "Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của
Nhà nước", "Những bức thư từ Vúppơtan"; "Tình cảnh giai cấp công nhân ở nước Anh"
của Ph.Ănghen; các tác phẩm "Những cuộc tranh luận của hội nghị dân biểu khoá 6 của
tỉnh Ranh", "Gia đình thần thánh" của C.Mác; tác phẩm "Nhà nước và cách mạng" của
V.I.Lênin v.v... các ông đã phân tích sâu sắc các nguyên nhân của tệ nạn xã hội và cho
rằng các yếu tố thất nghiệp, bất bình đẳng về xã hội và chủng tộc, sự không đảm bảo vật

chất, v.v. vốn gắn liền với chế độ xã hội TBCN chính là nguồn gốc phát sinh TNXH.
Chế độ sở hữu tư nhân TBCN đã đẩy đông đảo tầng lớp dân cư thành những người vô
sản, những người thất nghiệp và bần cùng hoá, buộc họ phải tìm lối thoát nào đó và đẩy trật tự
xã hội rối loạn. Ph.Ănghen nói:
… Ai kết tội họ, nếu như đàn ông thì đầu trộm đuôi cướp, đàn bà thì ăn cắp
và mại dâm, những cái đó thì như thế nào, nó đắng hay ngọt, điều đó đâu liên quan
tới Nhà nước; Nhà nước ném những kẻ bị đói này vào các nhà tù hoặc đẩy họ đến
những trại giam phạm nhân, còn khi Nhà nước thả họ ra khỏi nhà tù và trại giam,
thì có thể hài lòng nhìn thấy thành quả đã đạt được; Nhà nước đã tiến hành biến
những con người bị tước hết bánh mì thành những con người còn bị tước hết cả
đạo đức nữa… [36, tr.55].
Quan niệm về tự do công bằng, luật pháp, chính trị, đạo đức tôn giáo và những thượng
tầng kiến trúc và cả những hình thức tư tưởng ở CNTB được coi là ‘‘chân lý vĩnh cửu, trừu
tượng và đứng trên giai cấp’’, quan điểm này rốt cuộc cũng chỉ là những biện minh để bảo vệ
cho quyền lợi và lợi ích ích kỷ của CNTB.
V.I. Lênin nhấn mạnh:
Nguyên nhân xã hội sâu xa của những hành vi thái quá vi phạm quy tắc
của cuộc sống chung trong xã hội, là sự bóc lột những quần chúng lâm vào cảnh
thiếu thốn, cùng khổ... Toàn bộ lịch sử của tư bản là một lịch sử đầy những sự tàn
bạo và cướp đoạt, đầy máu và nạn mãi dâm và tội ác, đó là hiện tượng không


phải riêng biệt mà là hiện tượng chung tiêu biểu cho toàn bộ thế giới tư bản [36,
tr.57].
Như vậy TNXH trong xã hội tư bản không còn là những hành vi có tính chất tự phát,
áp đặt và ràng buộc bởi các giáo lý, quy ước, hay thần thoại hoá... như thời kỳ trước
CNTB. Mà nó hình thành, phát sinh, phát triển gắn liền với bản chất bóc lột của xã hội tư
bản, của giai cấp tư bản, chính nó là nguồn gốc sâu xa của đói nghèo, bất công, bạo lực và
sự vô trách nhiệm v.v...
* Trong suốt hơn nửa thế kỷ tồn tại, hệ thống các nước XHCN đã xây dựng nên một xã

hội ổn định, trật tự và thuần khiết. ở đó Nhà nước XHCN hướng tới mục đích đảm bảo công
bằng cho mọi người trong cống hiến và hưởng thụ, đảm bảo an sinh xã hội v.v... Hệ thống
luật pháp được xây dựng để bảo vệ lợi ích chung cho toàn dân, không phân biệt tầng lớp xã
hội nào. Chính vì vậy các giá trị chuẩn mực xã hội được toàn xã hội hướng tới đã làm hạn chế
phát sinh và gia tăng các TNXH.
Điều này hoàn toàn đúng với phân tích và khẳng định của Ph.Ăngghen "nền dân chủ
tư sản không thể chữa lành những bệnh hoạn xã hội. Việc này chỉ có thể làm trong những
điều kiện nền dân chủ xã hội" [36, tr.65].
* Ngày nay khi khoa học kỹ thuật là lực lượng sản xuất trực tiếp, xu thế toàn cầu hoá
ngày càng phổ biến trên phạm vi toàn thế giới và những khuyết tật của nền kinh tế thị
trường lại đang là những nhân tố tác động làm gia tăng TNXH. TNXH không chỉ còn đơn
thuần là những hành vi sai lệch các giá trị chuẩn mực xã hội của một cá nhân, một nhóm
người với những loại hình TNXH giản đơn như trước kia, mà nay nó phát sinh, phát triển
với nhiều loại hình TNXH phong phú và đa dạng với các cấp độ ngày càng cao. Không chỉ
là vấn đề riêng của từng cộng đồng dân tộc, hay từng quốc gia, hay từng nhóm người nào,
trong một phạm vi nào, mà nó ngày càng lan rộng và có tính chất quốc tế. Các đường dây
tội phạm ma tuý, mại dâm, nạn buôn bán người không chỉ còn là vấn đề riêng ở một quốc
gia nào mà đã vượt biên giới quốc gia với những mục đích, âm mưu, thủ đoạn tinh vi xảo
quyệt được bổ trợ những phương tiện hiện đại... Đi liền với nó là những hệ luỵ gây nên
những hậu quả tác động rất xấu đến kinh tế, chính trị và xã hội.
Việt Nam chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN, là một hướng đi đúng đắn trước sự đòi hỏi phát triển tất yếu của đất


nước trong thời kỳ quá độ, và nó đã đem lại những thành quả kinh tế quan trọng, đã và
đang đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy nhiên, chính kinh tế thị
trường cũng tiềm ẩn rất nhiều khuyết tật xã hội như: bất công, đói nghèo, bạo lực, tội phạm
và TNXH.
Các nhà Xã hội học và Luật học đã chứng minh, cơ chế thị trường dù trong trường hợp
nào cũng kéo theo một người bạn đồng hành khá “thuỷ chung”, đó là những TNXH và tội

phạm. Theo số liệu thống kê về tình hình tội phạm và TNXH của một số nước trong những
năm gần đây so với thời kỳ 1960 - 1990 thì đều có chiều hướng gia tăng. Đặc biệt trong thời
kỳ đầu chuyển từ nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường thì tội phạm và TNXH tăng
nhanh. Thực tế ở Việt Nam chúng ta thấy cũng không nằm ngoài quy luật này.
Tuy nhiên TNXH ở Việt Nam hiện nay chủ yếu lại có nguồn gốc từ nhận thức về lối
sống của một bộ phận dân cư. Chẳng hạn một phận thanh thiếu niên thích đua đòi, ăn chơi,
không chịu học tập rèn luyện, lười lao động...và sẵn sàng tiếp nhận những văn hoá phẩm
đồi truỵ du nhập bên ngoài và cho đó là văn hoá.
Như vậy muốn giảm tác động xấu của TNXH (tức là giảm TNXH) thì phải có quan điểm
khách quan toàn diện và giải quyết nó cũng phải trên quan điểm lịch sử. Vì TNXH thường thay đổi
và phụ thuộc vào tính chất xã hội - lịch sử, nên việc nhận thưc, đánh giá và giải quyết nó phải trên
quan điểm giai cấp và lịch sử - cụ thể.
1.1.2.2. Tệ nạn xã hội có tính đa dạng, phức tạp
* Từ những phân tích trên cho thấy TNXH là:
- Những hiện tượng xã hội, không bất biến mà là những hiện tượng có tính lịch sử, có
nguồn gốc từ đời sống xã hội, sự phát sinh, tồn tại của chúng có thể thay đổi cùng với sự
phát triển kinh tế - xã hội và gắn liền với những điều kiện lịch sử nhất định của xã hội.
- Những thói hư, tật xấu, những hành vi sai lệch các giá trị chuẩn mực xã hội theo hướng
tiêu cực, (trái với thuần phong mỹ tục, đạo đức, văn hoá, lối sống, tập quán tiến bộ…). Hành
vi sai lệch đó có tính phổ biến, không phải là một vài hiện tượng đơn lẻ, cá biệt mà có xu
hướng phát triển lây lan nhanh trong một nhóm xã hội nào đó hay trong nhiều nhóm xã hội
khác nhau.


- Những hành vi vi phạm pháp luật, gây ra những hiện tượng nguy hiểm cho xã hội,
gây tâm trạng xã hội nặng nề. TNXH phát triển trở thành sự nhức nhối, gay cấn, bệnh hoạn
của xã hội, gây ra hậu quả nghiêm trọng tới mọi mặt của đời sống kinh tế, chính trị, xã hội.
- Có nhiều loại hình rất đa dạng: cờ bạc, số đề, rượu chè bê tha, tảo hôn, tham nhũng,
những hành vi vi phạm quyền con người như; bạo lực trong gia đình, xâm phạm tình dục, buôn
bán người...và nổi cộm hơn cả là tệ nạn ma tuý, mại dâm.

- Ngoài ra quan niệm và nhận thức về TNXH phụ thuộc vào chế độ chính trị, điều
kiện kinh tế xã hội và tuỳ thuộc vào quan điểm tiếp cận.
* Tính phức tạp và đa dạng của TNXH còn nhận thấy qua các hình thức biểu hiện hay
ở những đặc trưng bản chất của nó.
- Về mặt hình thức, biểu hiện chủ yếu của TNXH là những hành vi sai lệch chuẩn
mực xã hội mà hành vi đó bao giờ cũng xảy ra trong một phạm vi nhất định, có một hay
nhiều chủ thể tham gia, gắn liền với hoạt động của con người và chịu sự tác động sâu sắc
của môi trường kinh tế - xã hội.
Có thể phân chia TNXH theo 2 nhóm sau:
+ Nhóm TNXH ngoài xã hội như ma tuý, mại dâm, bạo lực gia đình, xâm phạm tình
dục trẻ em, buôn bán phụ nữ trẻ em...
+ Nhóm TNXH trong thiết chế bộ máy Nhà nước, trong các tổ chức kinh tế - xã hội
như: tham ô, tham nhũng, hối lộ, lạm dụng chức vụ... nó biểu hiện ra các hành vi sai lệch
của cá nhân hay một nhóm người trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá, hay
trong các thiết chế xã hội.
Từ đó cho thấy, mặc dù xét về hình thức thì TNXH là một vấn đề xã hội, nó thuộc về
quan hệ xã hội, nhưng nếu truy nguyên nguồn gốc phát sinh, quá trình hình thành thì
TNXH lại là vấn đề mang bản chất kinh tế - xã hội. Nó có nguồn gốc sâu xa từ trình độ
phát triển của sản xuất, từ những quan hệ sản xuất bản chất, thống trị, từ những thể chế
kinh tế và chính trị...
- Về phương diện đặc trưng bản chất, TNXH có điểm nổi bật là lây lan nhanh, gây
hậu quả cho xã hội ngày càng trầm trọng. TNXH ở Việt nam rất “phong phú và đa dạng”,
ngoài các loại tệ nạn có tính chất truyền thống như nghiện rượu, cờ bạc, đồng bóng, bói
toán, tảo hôn…còn có các loại tệ nạn mới phát sinh nhưng phát triển nhanh và rất nguy


hiểm như ma tuý, mại dâm, xâm phạm tình dục trẻ em, buôn bán phụ nữ và trẻ em, bạo
lực, tham nhũng…
* Từ đó cho thấy, do có tính phức tạp và đa dạng nên TNXH tác động, ảnh hưởng tới mọi
mặt của đời sống xã hội. Các TNXH là nguồn gốc sinh ra các loại tội phạm hay nói cách

khác TNXH luôn luôn gắn liền với tội phạm. Là môi trường lây lan các loại bệnh dịch
nguy hiểm cho xã hội. TNXH thường để lại những hậu quả rất xấu đối với con người và
đối với mọi mặt của đời sống xã hội, cản trở phát triển kinh tế - xã hội.
1.1.3. Xu hướng biến đổi của tệ nạn xã hội
TNXH phát sinh từ đời sống xã hội, tồn tại và phát triển có tính lịch sử và không bất
biến, nó luôn biến đổi tăng, giảm cả về quy mô và tính chất phức tạp. Sự biến đổi đó phụ
thuộc vào những điều kiện kinh tế - xã hội từng thời kỳ cũng như chế độ chính trị xã hội
của từng quốc gia khác nhau.
1.1.3.1. Các nhân tố tác động làm gia tăng tệ nạn xã hội
- Phân hoá giàu nghèo.
Khoảng cách giàu nghèo càng dãn rộng, tức là tình trạng phân hoá giầu - nghèo, phân
tầng xã hội ngày càng sâu sắc, dẫn đến sự mất cân bằng thu nhập, và mức sống trong dân
cư. Một bộ phận những người giầu có sẽ phát sinh những nhu cầu mới, đặc biệt là sự
hưởng thụ trong đó không loại trừ những nhu cầu hưởng thụ giải trí không lành mạnh và
không có giới hạn đã làm xuất hiện những lệch chuẩn trong vấn đề hưởng thụ. Quan niệm
sống gấp, sống để tận hưởng... Mặt khác kết quả của sự phân tầng xã hội cũng tạo ra một
lớp người gặp khó khăn trong cuộc sống; thất nghiệp, việc làm không phù hợp, thu nhập
thấp... Đứng trước sự biến động xã hội, họ hoang mang bi quan, mất phương hướng và bị
lôi cuốn vào vòng xoáy các hoạt động buôn bán và tiêm chích ma tuý, mại dâm... ở họ
thường xuất hiện tư tưởng bất cần đời, dễ bị lợi dụng, dễ bị sa ngã, đã tạo môi trường
thuận lợi cho các TNXH phát triển.
- Xu thế toàn cầu hoá, mở cửa và hội nhập.
Toàn cầu hoá tạo ra sự liên kết thúc đẩy phát triển các nền kinh tế của các quốc gia
trong khu vực cũng như toàn thế giới, đồng thời là môi trường cạnh tranh quyết liệt của
các thành phần kinh tế và ở đó các nước có cơ hội tiếp thu các thành tựu khoa học kỹ thuật
cũng như trình độ quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Song môi trường này cũng tạo ra


những điều kiện thuận lợi để TNXH xâm nhập, lan toả mang tính quốc tế đặc biệt là các
nước kém phát triển và đang phát triển đang phải gánh chịu những áp lực về TNXH từ

ngoài xâm nhập vào và phát sinh mới ở từng quốc gia.
Điều này có thể nhìn thấy rất rõ ở nước ta trong thời gian vừa qua.
Từ khi chúng ta thực hiện chính sách mở cửa và hội nhập, nền kinh tế - xã hội có nhiều
khởi sắc, tạo nhiều cơ hội trong phát triển. Nhưng chúng ta cũng phải đối đầu với nhiều cản
trở và thách thức trong việc giải quyết các vấn đề xã hội, nhất là vấn đề mại dâm và ma tuý.
Các đường dây hoạt động buôn bán ma tuý, mại dâm, buôn bán phụ nữ và trẻ em không còn
bó hẹp ở trong nước mà mở rộng sang các nước trong khu vực và trên thế giới. Hoạt động
ma tuý, mại dâm, BBPNTE có tổ chức với các phương tiện kỹ thuật hiện đại và công nghệ
ngày càng cao. Bên cạnh đó, các sản phẩm phi văn hoá du nhập vào nước ta cũng đang làm
tha hoá một bộ phận thanh thiếu niên. Lối sống ngoại lai, tiêu cực đã thẩm thấu bằng nhiều
con đường khác nhau, ảnh hưởng đến tâm tư, tình cảm của những thanh thiếu niên mới lớn,
gây tâm lý tò mò, muốn bắt chước, học đòi và thử nghiệm những điều mới lạ một cách thiếu
chọn lọc và phê phán. Trong khi đó, khả năng lĩnh hội những thành tựu văn hoá còn hạn chế,
đã dễ dàng đẩy họ vào các hoạt động ma tuý, mại dâm... một cách tự nguyện hoặc bị ép
buộc.
- Dân số và tỷ lệ gia tăng dân số cao.
“Bùng nổ dân số” gây áp lực việc làm ngày càng gia tăng, tỷ lệ dân số hàng năm
bước vào tuổi lao động cao sẽ dẫn đến tình trạng có một bộ phận dân cư trong độ tuổi lao
động có nguy cơ thất nghiệp, thiếu việc làm. Bên cạnh đó diện tích đất có khả năng canh
tác bình quân trên đầu người được sử dụng vốn đã thấp thì lại càng thấp hơn khi có sự
"bùng nổ" về dân số (nhất là đối với người lao động trẻ ở khu vực nông thôn và những
vùng do bị ảnh hưởng của quá trình đô thị hoá). Một bộ phận lớn không có tay nghề, không
đủ trình độ hoặc không có khả năng đáp ứng được công việc trong thị trường lao động hiện
nay, thiếu chỗ đứng ổn định trong xã hội, từ đó gây nên gánh nặng cho xã hội và gia đình.
Hoàn cảnh đó dẫn đến nguy cơ đẩy họ đến với tệ nạn xã hội.
- Sự sa sút về văn hoá, giáo dục gia đình và nhân cách đạo đức.
Mọi quốc gia, mọi dân tộc trên thế giới đều có truyền thống văn hoá mang đậm bản
sắc riêng. Điều đó được thể hiện đậm nét ở những nhân cách đạo đức của mỗi cá nhân và



truyền thống giáo dục gia đình. Đây là yếu tố quan trọng để mỗi con người hướng tới
“chân, thiện, mỹ” và hướng tới những giá trị chuẩn xã hội tiến bộ. Những yếu tố này
không được phát huy thì nó sẽ tác động đến sự gia tăng của TNXH.
Nền kinh tế thị trường đang tác động làm chuyển hoá các chuẩn mực giá trị truyền
thống văn hoá trong đời sống gia đình, dòng họ, ngày nay cuộc sống hiện đại hơn, những
mẫu hình gia đình truyền thống có xu hướng chuyển sang gia đình hạt nhân - mọi người
đều có quyền độc lập cả về tinh thần và vật chất. Mặt trái của sự chuyển hoá này đang tác
động xấu đến tình cảm và mối quan hệ trong gia đình, sự quan tâm lẫn nhau trong gia đình
có xu hướng giảm dần, quan hệ giữa các thành viên trong gia đình không còn chặt chẽ như
trước đây; tình trạng ly hôn, ly thân giữa các cặp vợ chồng gia tăng, thiếu sự chăm sóc lẫn
nhau... Đặc biệt là trong những gia đình có người nghiện hút, có người chơi cờ bạc, có
người liên qua đến mại dâm và có tiền án, tiền sự... Đây là những nguyên nhân dẫn đến
con cái họ và bản thân họ dễ vi phạm các TNXH.
Các giá trị truyền thống tốt đẹp của văn hoá cộng đồng (văn hoá làng xã) ngày một mai
một, không được duy trì và phát huy cũng là cơ hội cho tệ nạn xã hội phát sinh và gia tăng nhanh
chóng. Thực tế cho thấy ở những địa phương nào mà người dân được sống trong bầu không khí
đoàn kết, mọi người đều thương yêu giúp đỡ nhau, sẵn sàng chia sẻ cảm thông, người dân cảm
thấy hạnh phúc và bình yên, họ có khả năng giải quyết được các vấn đề phát sinh ở cộng đồng thì
ở đó an ninh được đảm bảo, TNXH được đẩy lùi và môi trường sống trong sạch lành mạnh.
Sự xuống cấp về đạo đức, định hướng giá trị cá nhân lệch lạc dẫn đến tình trạng một bộ
phận dân cư tha hoá về nhân cách nên có những hành vi lệch chuẩn, không được cộng đồng và
xã hội chấp nhận. Họ thích hưởng thụ "làm ít hưởng nhiều", lối sống xô bồ truỵ lạc và với quan
niệm "có tiền là có tất cả" nên họ đã kiếm tiền bằng đủ mọi cách, thậm chí ngay cả trên thân xác
của bản thân họ và của người khác hoặc vi phạm pháp luật.
Ngoài ra, ở một quốc gia mà trình độ quản lý xã hội thiếu chặt chẽ, hệ thống pháp luật và
hiệu lực thực thi pháp luật kém hiệu quả, xã hội mất ổn định v.v... cũng là môi trường thuận lợi
để TNXH dễ xâm nhập và gia tăng, nhất là tệ nạn tham nhũng, ma tuý, mại dâm.
1.1.3.2. Các nhân tố tác động làm giảm tệ nạn xã hội
- Tăng trưởng và phát triển kinh tế đi đôi với công bằng xã hội.



Tăng trưởng kinh tế đi đôi với công bằng xã hội có nghĩa là, kinh tế phát triển, xã
hội ổn định, đời sống của người dân nhờ đó được cải thiện, mọi người đều có cơ hội
phát triển và tiếp cận các dịch vụ an sinh xã hội, đói nghèo giảm, rút ngắn khoảng cách
phân tầng xã hội, mọi người đều được nâng cao trình độ, nâng cao nhận thức và có cuộc
sống tương đối đầy đủ cả về vật chất và tinh thần. Tăng trưởng kinh tế đi đôi với công bằng xã
hội, cũng có nghĩa là giải quyết tốt vấn đề việc làm, giảm thất nghiệp, đồng thời đồng nghĩa
với việc tăng thu nhập, tăng nhanh phát triển kinh tế hộ gia đình. Đây là những yếu tố quan
trọng làm giảm tệ nạn xã hội bởi vì một trong những nguyên nhân sâu xa làm gia tăng TNXH
là vì lý do kinh tế.
- Trình độ dân trí và giá trị văn hoá.
Trình độ dân trí được nâng cao không những đáp ứng ngày càng cao về chất lượng nguồn
nhân lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước mà còn tạo ra một xã hội mà ở đó mọi
người đều nhận thức, hiểu và tự giác chấp hành pháp luật, hạn chế được tình trạng do không
hiểu biết mà vi phạm TNXH, hoặc có ý thức tự bảo vệ và tránh xa TNXH.
Giữ gìn và phát huy các giá trị truyền thống văn hoá tốt đẹp trong gia đình, dòng họ,
trong cộng đồng từ đó mọi người thương yêu giúp đỡ lẫn nhau, hạn chế được sự sa ngã,
tránh được các tác động của lối sống xô bồ, truỵ lạc phi văn hoá, xây dựng được một xã hội
mang đậm bản sắc của dân tộc, mọi người sống, làm việc theo Pháp luật và hướng theo
chuẩn mực xã hội tiến bộ, cơ cấu xã hội và gia đình chặt chẽ thì tệ nạn xã hội sẽ có chiều
hướng giảm.
- Các căn bệnh xã hội nguy hiểm và đại dịch HIV/AIDS.
Do tính chất nguy hại của các căn bệnh xã hội nguy hiểm và đại dịch HIV/AIDS ở Việt
Nam, trong những năm qua, phần lớn những người bị HIV/AIDS đều tập trung ở các đối
tượng nghiện ma tuý và gái mại dâm. Thông qua hệ thống thông tin tuyên truyền và được
chứng kiến trong thực tế cuộc sống, mọi người đã hiểu và nhận biết được các tác hại và hậu
quả của đại dịch này. Chính điều đó đã và đang có tác động lớn đến tâm lý và nhận thức của
người dân. Và như vậy người dân sẽ dần dần tránh xa ma tuý, mại dâm.
- Chế độ chính trị xã hội ổn định.
Sự biến đổi của TNXH còn phụ thuộc vào quan niệm cũng như chế độ xã hội. Một chế độ

xã hội có trật tự xã hội càng cao, có một nền kinh tế phát triển mạnh mẽ và bền vững, có một chế


độ chính trị xã hội ổn định, có hệ thống luật pháp đầy đủ và thực thi nghiêm minh, trình độ dân trí
văn minh và ý thức tự giác người dân được nâng cao, thì những hành vi vi phạm TNXH sẽ giảm.
1.1.4. Một số tác động tiêu cực của tệ nạn xã hội đến phát triển kinh tế - xã hội
1.1.4.1. Khái quát về phát triển kinh tế - xã hội
- Phát triển kinh tế:
Phát triển kinh tế hiểu theo nghĩa khái quát nhất đó là quá trình lớn lên, tăng tiến mọi
mặt của nền kinh tế. Là sự tăng trưởng kinh tế gắn liền với sự hoàn thiện cơ cấu kinh tế và
nâng cao chất lượng cuộc sống.
Như vậy, để phát triển kinh tế thì vấn đề trước hết là phải có sự tăng trưởng kinh tế.
Vậy tăng trưởng kinh tế là gì? Nó có vai trò như thế nào? Và nó bị chi phối bởi những
nhân tố nào?. Và sau tăng trưởng kinh tế là vấn đề hoàn thiện cơ cấu kinh tế, thể chế kinh
tế...
+ Thứ nhất, tăng tưởng kinh tế.
Tăng trưởng kinh tế thường được hiểu là sự tăng lên về quy mô sản lượng của nền
kinh tế trong một thời kỳ nhất định. Sự tăng trưởng được so sánh theo các thời điểm
gốc sẽ phản ánh tốc độ tăng trưởng. Đó là sự gia tăng quy mô sản lượng kinh tế nhanh
hay chậm so với thời điểm gốc. Quy mô và tốc độ tăng trưởng là “cặp đôi” trong nội
dung khái niệm tăng trưởng kinh tế. Hiện nay, trên thế giới người ta thường tính mức
gia tăng về tổng giá trị của cải xã hội bằng các đại lượng tổng sản phẩm quốc dân hoặc
tổng sản phẩm quốc nội.
Tăng trưởng kinh tế là mức gia tăng GDP hay GNP năm sau so với năm trước. Nếu gọi
GDP0 là tổng sản phẩm quốc nội năm trước, GDP1 tổng sản phẩm quốc nội năm sau thì mức
tăng trưởng kinh tế năm sau so với năm trước là:

GDP1  GDP0
x100%
GDP0

Hoặc tính theo mức độ tăng GNP thì:

GNP1  GNP0
x100%
GNP0
(GNP0 là tổng sản phẩm quốc dân năm trước, GNP1 là tổng sản phẩm quốc dân năm
sau).


GNP và GDP là hai thước đo tiện lợi nhất để tính mức tăng trưởng kinh tế của một
quốc gia.
Thành tựu kinh tế vĩ mô của một quốc gia thường được đánh giá theo những dấu hiệu
chủ yếu như: ổn định, tăng trưởng, công bằng xã hội. Trong đó, tăng trưởng kinh tế là cơ
sở để thực hiện hàng loạt các vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội.
Trước hết tăng trưởng kinh tế nhanh là vấn đề có ý nghĩa quyết định đối với mọi quốc
gia trên con đường vượt lên khắc phục sự lạc hậu, hướng tới giàu có, thịnh vượng.
Tăng trưởng kinh tế làm cho mức thu nhập của dân cư tăng, phúc lợi xã hội và chất
lượng cuộc sống của cộng đồng được cải thiện như: kéo dài tuổi thọ, giảm tỷ lệ suy dinh
dưỡng và tử vong ở trẻ em, giúp cho giáo dục, y tế, văn hoá... phát triển.
Tăng trưởng kinh tế tạo điều kiện giải quyết công ăn việc làm, giảm thất nghiệp. Khi một
nền kinh tế có tỷ lệ tăng trưởng cao thì một trong những nguyên nhân quan trọng là đã sử
dụng tốt hơn lực lượng lao động. Vì vậy, tăng trưởng kinh tế nhanh thì thất nghiệp có xu
hướng giảm. Mối quan hệ giữa tăng trưởng thực tế và tỷ lệ thất nghiệp ở nước phát triển đã
được lượng hoá dưới tên gọi quy luật Okun (hay quy luật 2,5% - 1). Quy luật này xác định,
nếu GNP thực tế tăng 2,5% trong vòng một năm so với GNP tiềm năng của năm đó thì tỷ lệ
thất nghiệp giảm đi 1%.
Tăng trưởng kinh tế tạo tiền đề vật chất để củng cố an ninh quốc phòng, củng cố chế độ
chính trị, tăng uy tín và vai trò quản lý của nhà nước đối với xã hội.
Việc xác định các yếu tố ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế có nhiều quan điểm và cách
phân loại khác nhau. Các nhà kinh tế cổ điển cho rằng các yếu tố cơ bản của tăng trưởng kinh

tế là đất đai, lao động, tư bản và cách thức kết hợp các yếu tố với nhau. Theo quan điểm
hiện đại, muốn có tăng trưởng kinh tế cao phải sử dụng có hiệu quả các yếu tố cơ bản như
vốn, con người, khoa học công nghệ...
Vốn, là toàn bộ tài sản được sử dụng để sản xuất kinh doanh. Vốn tồn tại dưới hai hình
thức: vốn tài chính và vốn hiện vật. Vốn tài chính là vốn tồn tại dưới hình thức tiền tệ hay các
loại chứng khoán, còn vốn hiện vật tồn tại dưới hình thức vật chất của quá trình sản xuất như
nhà xưởng, máy móc thiết bị, nguyên vật liệu... Một nền kinh tế tăng trưởng cao không chỉ
dừng lại ở việc tăng khối lượng vốn đầu tư, mà còn phải đặc biệt chú ý đến hiệu quả sử dụng,
quản lý, đầu tư vốn hợp lý vào các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế.


Về con người, có thể nói đó là nguồn lực của mọi nguồn lực, là tài nguyên của mọi tài
nguyên. Vì vậy, con người có sức khoẻ, trí tuệ, tay nghề cao, có động lực và nhiệt tình, được
tổ chức chặt chẽ sẽ là nhân tố cơ bản của tăng trưởng kinh tế bền vững.
Đầu tư cho con người về thực chất là đầu tư cho sự phát triển. Nhà nước cần phải có
chiến lược phát triển con người, mà trước hết phải nâng cao về số lượng và chất lượng hệ
thống giáo dục, y tế, bảo hiểm xã hội, bồi dưỡng nhân tài... cùng với việc quản lý và sử dụng
hợp lý nguồn nhân lực.
Nhân tố con người là sự biểu hiện và khẳng định vai trò của con người trên cả hai phương
diện: tính cá thể và tính xã hội (cộng đồng). Vì vậy, Nhà nước cần phải có cơ chế, chính sách
thích hợp nhằm kết hợp sự nỗ lực của mỗi người với sự hỗ trợ của cộng đồng xã hội để tạo ra
động lực, lợi thế cho sự tăng trưởng kinh tế.
Khoa học và công nghệ, là nguồn lực quan trọng để tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Khoa học và công nghệ được coi là “ chiếc đũa thần mầu nhiệm” để tăng năng suất lao động,
phát triển lực lượng sản xuất. Nhờ ứng dụng những thành tựu khoa học và công nghệ đã làm
cho chi phí về lao động, vốn tài nguyên trên một đơn vị sản phẩm giảm xuống, hay nói cách
khác, hiệu quả sử dụng của các yếu tố này tăng lên.
Sự phát triển khoa học và công nghệ cho phép tăng trưởng và tái sản xuất mở rộng theo
chiều sâu, làm xuất hiện những ngành kinh tế có hàm lượng khoa học cao như: công nghệ điện
tử, công nghệ thông tin, công nghệ sinh học... đang là cơ hội và thách thức đối với các quốc

gia hướng tới nền kinh tế tri thức. Như vậy, khoa học và công nghệ cũng là một yếu tố đóng
vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự tăng trưởng nhanh và bền vững.
Mọi nền kinh tế đều tồn tại và vận động trong một cơ cấu nhất định. Cơ cấu kinh tế là
mối quan hệ hữu cơ, phụ thuộc và quy định lẫn nhau cả về quy mô và trình độ giữa các ngành,
các thành phần, các vùng, các lĩnh vực của nền kinh tế. Vì vậy, việc xây dựng cơ cấu kinh tế
hợp lý, hiện đại để phát huy mọi tiềm năng, nội lực, lợi thế so sánh của toàn bộ nền kinh tế,
phù hợp với sự phát triển của khoa học và công nghệ tiên tiến gắn với phân công lao động và
hợp tác quốc tế là yếu tố tạo tiền đề, cơ sở cho sự tăng trưởng và sự phát triển kinh tế.
Thể chế chính trị, vai trò của Nhà nước trong việc ổn định về chính trị - xã hội là điều kiện
cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế nhanh và bền vững.


Thể chế chính trị tiến bộ có khả năng định hướng sự tăng trưởng kinh tế vào những mục tiêu
mong muốn, khắc phục được những nguyên nhân gây ra ô nhiễm môi trường, phân hoá giàu
nghèo sâu sắc... Bởi vì, trên thực tế đã từng có sự tăng trưởng kinh tế không phát triển cùng chiều
với tiến bộ xã hội.
Hệ thống chính trị mà đại diện là Nhà nước có vai trò hoạch định đường lối, chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội, cùng hệ thống chính sách đúng đắn sẽ hạn chế được tác động tiêu
cực của cơ chế thị trường, khuyến khích tích luỹ, tiết kiệm, kích cầu... làm cho nền kinh tế
tăng trưởng nhanh đúng hướng.
+ Thứ hai, vấn đề hoàn thiện cơ cấu kinh tế và thể chế kinh tế.
Sự biến đổi cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ thể hiện ở tỷ trọng các vùng, miền,
ngành, thành phần kinh tế... thay đổi. Trong đó tỷ trọng của vùng nông thôn giảm tương
đối so với tỷ trọng vùng thành thị, tỷ trọng các ngành dịch vụ, công nghiệp tăng, đặc biệt là
ngành dịch vụ. Nội dung này phản ánh chất lượng tăng trưởng, trình độ kỹ thuật của nền
sản xuất để có thể đảm bảo cho sự tăng trưởng kinh tế bền vững.
Cuộc sống của đại bộ phận dân số trong xã hội sẽ có cuộc sống tươi đẹp hơn: giáo
dục, y tế, tinh thần của người dân được chăm lo nhiều hơn, môi trường được đảm bảo. Nội
dung này phản ánh mặt công bằng xã hội của sự tăng trưởng kinh tế.
Phát triển kinh tế là một quá trình tiến hoá theo thời gian và do những nhân tố nội tại

(bên trong) quyết định đến toàn bộ quá trình phát triển đó.
Với những nội dung trên, phát triển kinh tế bao hàm các yêu cầu cụ thể là:
Mức tăng trưởng kinh tế phải lớn hơn mức tăng dân số.
Sự tăng trưởng kinh tế phải dựa trên cơ cấu kinh tế hợp lý, tiến bộ để đảm bảo tăng
trưởng bền vững.
Chất lượng sản phẩm ngày càng cao, phù hợp với sự biến đổi nhu cầu của con người
và xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái.
Tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với công bằng xã hội, tạo điều kiện cho mọi người có
cơ hội ngang nhau trong đóng góp và hưởng thụ kết quả của tăng trưởng kinh tế. Phát triển
kinh tế bao hàm trong nó mối quan hệ biện chứng giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng
xã hội. Tăng trưởng và phát triển kinh tế là điều kiện tiên quyết và cơ bản để giải quyết
công bằng xã hội, công bằng xã hội là mục tiêu phấn đấu của nhân loại, vừa là động lực


quan trọng của sự phát triển. Mức độ công bằng xã hội càng cao thì trình độ phát triển,
trình độ văn minh của xã hội càng có cơ sở bền vững.
+ Những yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế.
Những yếu tố thuộc về lực lượng sản xuất (bao gồm tư liệu sản xuất và người lao động).
Trong đó, cùng với việc bảo tồn và sử dụng hợp lý điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên,
cần phải nhấn mạnh vai trò của con người, khoa học và công nghệ.
Vai trò của quan hệ sản xuất đối với phát triển kinh tế thể hiện khi quan hệ sản xuất
phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất thì nó tạo ra động lực thúc đẩy lực
lượng sản xuất phát triển, ngược lại, khi nó không phù hợp sẽ là nhân tố cản trở, kìm hãm
sự phát triển đó.
Những yếu tố thuộc về kiến trúc thượng tầng bao gồm những quan điểm chính trị,
pháp quyền, triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật... cùng với những thiết chế xã hội
tương ứng của chúng như nhà nước, đảng phái, các đoàn thể xã hội... có ảnh hưởng to lớn
đến sự phát triển kinh tế. Những bộ phận đó tác động đến các quan hệ kinh tế và sự phát
triển xã hội bằng nhiều hình thức khác nhau và theo những cơ chế khác nhau. Tác dụng
của kiến trúc thượng tầng sẽ là tích cực khi nó tác động cùng chiều với sự vận động của

quy luật kinh tế khách quan. Trái lại, nếu tác động ngược chiều với những quy luật đó thì
nó sẽ là trở lực, gây tác hại cho sự phát triển sản xuất, cản trở sự phát triển kinh tế - xã hội.
Trong sự tác động đó, chính trị có ảnh hưởng sâu sắc nhất và ngày càng tăng đối với sự
phát triển kinh tế. Bởi vì, chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế.
- Phát triển kinh tế - xã hội.
Phát triển kinh tế - xã hội là quá trình nâng cao điều kiện sống về vật chất và tinh
thần của con người qua việc sản xuất ra của cải vật chất, cải tiến quan hệ xã hội, nâng cao
chất lượng văn hoá, y tế, giáo dục…
Những nguồn lực chính để phát triển kinh tế - xã hội.
+ Vị trí địa lý.
+ Nguồn tài nguyên thiên nhiên.
+ Dân cư và nguồn lao động
+ Cơ sở vật chất kỹ thuật.
+ Đường lối phát triển kinh tế xã hội.


Những yếu tố tác động đến phát triển kinh tế - xã hội:
+ Lao động việc làm.
+ Giáo dục, văn hoá, y tế.
+ Sử dụng vốn, đất đai.
+ Vấn đề lương thực và thực phẩm.
+ Vấn đề phát triển cây công nghiệp.
+ Giao thông vận tải và thông tin liên lạc.
+ Vấn đề phát triển kinh tế đối ngoại.
+ Thực trạng nền kinh tế…
Những điều kiện để đảm bảo tăng trưởng kinh tế.
+ Sự ổn đinh chính trị - xã hội.
+ Tăng trưởng kinh tế phải trở thành mục tiêu phấn đấu của mọi người.
+ Trình độ văn hoá của nhân dân và chất lượng đội ngũ lao động.
+ Đầu tư phát triển khoa học – công nghệ và có khả năng ứng dụng công nghệ tiên

tiến trên thế giới.
Từ những khái quát về tăng trưởng kinh tế, phát triển kinh tế và phát triển kinh tế - xã hội,
cho ta thấy các yếu tố chịu sự tác động nhiều nhất của TNXH đó là con người, nguồn lực con
người, vốn, văn hoá giáo dục, y tế và thể chế chính trị xã hội.
1.1.4.2. Một số tác động chủ yếu của tệ nạn xã hội đến phát triển kinh tế - xã hội
TNXH đang tác động tiêu cực đến mọi mặt của đời sống kinh tế- xã hội, TNXH là
hiểm hoạ lớn cho toàn xã hội, gây tác hại cho sức khoẻ, làm suy thoái nòi giống, phẩm giá
con người, phá hoại hạnh phúc gia đình, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự an toàn
xã hội và an ninh quốc gia. Từ những hậu quả đó kéo theo hệ luỵ là làm gia tăng đói
nghèo, phân tầng xã hội, mất cân đối các nguồn lực, làm biến động ổn định trật tự xã hội, chi
phí xã hội tăng do phải giải quyết các vấn đề xã hội phức tạp do TNXH gây ra, đặc biệt chi phí
để giải quyết chính các vấn đề của TNXH trong đó có cả cho con người và cho xã hội. Mọi tác
động đó đều hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp tác động cản trở và thách thức đến phát triển kinh tế
- xã hội không chỉ của một địa phương mà còn của cả nền kinh tế - xã hội.
- Tác động của TNXH đến kinh tế.
+ Tác động xấu đến nguồn lực lao động và con người.


×