Tải bản đầy đủ (.doc) (60 trang)

Tác động của đầu tư với tăng trưởng và phát triển kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (364.98 KB, 60 trang )

Dựa vào các lý thuyết kinh tế về đầu tư giải thích vai trò của đầu tư đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế
MỤC LỤC
GV hướng dẫn: PGS.TS. Từ Quang Phương 1
Dựa vào các lý thuyết kinh tế về đầu tư giải thích vai trò của đầu tư đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế
LỜI MỞ ĐẦU
Tăng trưởng và phát triển kinh tế luôn là mục tiêu hướng tới của nhiều
quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Từ khi giành được độc lập
năm 1975 và đặc biệt là từ sau năm 1986, khi Việt Nam thực hiện chính
sách đổi mới, Đảng và Nhà nước ta luôn đặt mục tiêu phát triển kinh tế lên
hàng đầu với định hướng đến năm 2020 Việt Nam sẽ cơ bản trở thành một
nước công nghiệp. Để đạt được mục tiêu trên thì đầu tư là một yếu tố cực
kỳ quan trọng vì đầu tư, nói rõ hơn là đầu tư phát triển, không những làm
gia tăng tài sản của cá nhân nhà đầu tư, mà còn trực tiếp làm gia tăng tài
sản vật chất cho nền kinh tế, có tác động rất mạnh mẽ đến phát triển kinh
tế. Đã có nhiều lý thuyết về đầu tư được nêu ra nhằm phân tích tác động
của đầu tư đến tăng trưởng và phát triển dưới nhiều khía cạnh khác nhau
như lý thuyết số nhân đầu tư, lý thuyết gia tốc đầu tư, mô hình Harrod –
Domar...
Chính phủ Việt Nam với vai trò của mình đã luôn nỗ lực tạo điều kiện
tốt nhất cho mục tiêu phát triển kinh tế bền vững và kết quả là Việt Nam đã
trở thành thành viên chính thức của tổ chức kinh tế thế giới WTO từ ngày
11/01/2007. Đây vừa là cơ hội vừa là thách thức lớn đặt ra đối với Việt
Nam khi nền kinh tế còn non trẻ, khả năng kiểm soát các luồng vốn đầu tư
(trong nước và từ bên ngoài vào) còn hạn chế. Nếu không có một cái nhìn
đúng đắn về đầu tư thì nền kinh tế Việt Nam sẽ rất khó đứng vững trước
làn sóng vốn tràn vào Việt Nam và luôn biến động một cách mạnh mẽ như
hiện nay. Chính vì tầm quan trọng của đầu tư đối với tăng trưởng và phát
triển kinh tế là rất lớn nhưng vấn đề giải thích sự tác động đó thông qua các
lý thuyết kinh tế về đầu tư còn ít được đề cập đến. Do đó chúng tôi quyết
định chọn đề tài nghiên cứu là: “DỰA VÀO CÁC LÝ THUYẾT KINH TẾ VỀ
ĐẦU TƯ GIẢI THÍCH VAI TRÒ CỦA ĐẦU TƯ ĐỐI VỚI TĂNG TRƯỞNG VÀ


PHÁT TRIỂN KINH TẾ”.
GV hướng dẫn: PGS.TS. Từ Quang Phương 2
Dựa vào các lý thuyết kinh tế về đầu tư giải thích vai trò của đầu tư đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế
CHƯƠNG I:
CÁC LÝ THUYẾT KINH TẾ VỀ ĐẦU TƯ
I/ CÁC LÝ THUYẾT KINH TẾ VỀ ĐẦU TƯ
Chúng ta đều biết rằng đầu tư là một yếu tố nằm trong tổng cầu của nền
kinh tế. Trong khi đầu tư nhỏ hơn rất nhiều so với tiêu dùng trong GDP, nhưng
nó lại rất quan trọng bởi vì nó là thành tố trong GDP biến đổi mạnh nhất và
phản ánh rõ nét nhất hình mẫu biến động theo chu kì mà các nền kinh tế thị
trường phải đối mặt. Có rất nhiều lý thuyết kinh tế về đầu tư, mỗi lý thuyết
nghiên cứu một khía cạnh khác nhau của đầu tư đối với tăng trưởng và phát
triển kinh tế. Dưới đây trình bày một số lý thuyết tiêu biểu.
1. Các khái niệm chung
1.1 Đầu tư là gì:
Đầu tư nói chung là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các
hoạt động nào đó nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các
nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó. Như vậy, mục tiêu của mọi công
cuộc đầu tư là đạt được các kết quả lớn hơn so với những hy sinh về nguồn lực
mà nhà đầu tư phải gánh chịu khi tiến hành đầu tư.
Nguồn lực được nói đến ở đây có thể là tiền, tài nguyên, công nghệ, nhà
xưởng, sức lao động, trí tuệ… và các mục đích hướng tới chính là sự tăng lên về
tài sản tài chính (tiền vốn), tài sản vật chất (nhà máy, đường sá, bệnh viện, máy
móc…), tài sản trí tuệ (trình độ chuyên môn, kỹ năng tay nghề, năng suất lao
động, trình độ quản lý… ) trong nền sản xuất xã hội.
Trong những kết quả đạt được trên đây, những kết quả trực tiếp của sự
hy sinh các tài sản vật chất, tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực tăng thêm có vai
trò quan trọng trong mọi lúc, mọi nơi không chỉ đối với người bỏ vốn mà cả đối
GV hướng dẫn: PGS.TS. Từ Quang Phương 3
Dựa vào các lý thuyết kinh tế về đầu tư giải thích vai trò của đầu tư đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế

với toàn bộ nền kinh tế. Những kết quả này không chỉ nhà đầu tư mà cả nền
kinh tế, xã hội được thụ hưởng.
Chẳng hạn, một nhà máy được xây dựng, tài sản vật chất của nhà đầu tư
trực tiếp tăng lên, đồng thời tài sản vật chất, tiềm lực sản xuất của nền kinh tế
cũng được tăng thêm. Lợi ích trực tiếp do sự hoạt động của nhà máy này đem lại
cho nhà đầu tư là lợi nhuận, còn cho nền kinh tế là thoả mãn nhu cầu tiêu dùng
(cho sản xuất và cho sinh hoạt) tăng thêm của nền kinh tế, đóng góp cho ngân
sách, giải quyết việc làm cho người lao động…
Trình độ nghề nghiệp, chuyên môn của người lao động tăng thêm không
chỉ có lợi cho chính họ (để có thu nhập cao, địa vị cao trong xã hội) mà còn bổ
sung nguồn lực có kỹ thuật cho nền kinh tế để có thể tiếp nhận công nghệ ngày
càng hiện đại, góp phần nâng cao dần trình độ công nghệ và kỹ thuật của nền
sản xuất quốc gia.
1.2 Phân loại đầu tư:
Căn cứ vào các kết quả của hoạt động đầu tư, bản chất và lợi ích do đầu
tư đem lai chúng ta có thể chia đầu tư ra làm 3 loại: đầu tư tài chính, đầu tư
thương mại và đầu tư phát triển.
*Đầu tư tài chính:
Đầu tư tài chính là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ ra cho vay hoặc
mua các giấy tờ có giá để hưởng lãi suất định trước, hay lãi suất tuỳ thuộc vào
kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của cơ quan phát hành. Đầu tư tài chính
không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế (Nếu không xét đến quan hệ quốc tế
trong lĩnh vực này) mà chỉ làm tăng giá trị tài sản tài chính của các tổ chức, cá
nhân. Với sự hoạt động của hình thức đầu tư này, vốn được lưu chuyển dễ dàng,
khi cần có thể rút ra nhanh chóng. Đây thực sự là một nguồn cung cấp vốn quan
trọng cho đầu tư phát triển.
* Đầu tư thương mại:
Đầu tư thương mại là hình thức đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra
mua hàng hóa và sau đó bán với giá cao hơn nhằm thu lợi nhuận chênh lệch do
GV hướng dẫn: PGS.TS. Từ Quang Phương 4

Dựa vào các lý thuyết kinh tế về đầu tư giải thích vai trò của đầu tư đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế
giá khi mua và khi bán. Loại đầu tư này không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế
(nếu không xét đến ngoại thương), mà chỉ làm tăng tài sản tài chính của nhà đầu
tư trong quá trình mua đi bán lại, chuyển giao quyền sở hữu hàng hoá giữa
người bán với nhà đầu tư và giữa nhà đầu tư với khách hàng của họ. Tuy nhiên
đầu tư thương mại có tác dụng thúc đẩy quá trình lưu thông của cải vật chất do
đầu tư phát triển tạo ra. Từ đó thúc đẩy đầu tư phát triển, tăng thu cho ngân
sách, tăng tích luỹ vốn cho phát triển sản xuất kinh doanh dịch vụ nói riêng và
nền sản xuất xã hội nói chung.
* Đầu tư phát triển:
Đầu tư phát triển là những hoạt động đầu tư tạo ra tài sản mới cho nền
kinh tế, làm tăng tiềm lực sản xuất kinh doanh và mọi hoạt động xã hội khác, là
điều kiện chủ yếu để tạo việc làm, nâng cao đời sống của mọi người dân trong
xã hội. Nói cách khác đầu tư phát triển là việc bỏ tiền ra để xây dựng, sửa chữa
nhà cửa, kết cấu hạ tầng, mua sắm trang thiết bị và lắp đặt chúng trên nền bệ,
bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện các chi phí thường xuyên gắn liền
với hoạt động của các tài sản này nhằm duy trì tiềm lực hoạt động của các cơ sở
đang tồn tại và tạo tiềm lực mới cho nền kinh tế xã hội.
Ba loại đầu tư trên luôn tồn tại và có mối quan hệ tương hỗ với nhau,
trong đó đầu tư phát triển là cơ bản nhất, tạo tiền đề đề tăng tích lũy, phát triển
hoạt động đầu tư tài chính và đầu tư thương mại. Đầu tư phát triển là điều kiện
tiên quyết cho sự ra đời, tồn tại và tiếp tục phát triển của mọi cơ sở sản xuất
kinh doanh dịch vụ. Bên cạnh đó, đầu tư tài chính và đầu tư thương mại hỗ trợ
và tạo điều kiện để tăng cường đầu tư phát triển. Tuy nhiên trong khuôn khổ của
đề tài này chúng ta chỉ đi sâu, tìm hiểu, xem xét các vấn đề kinh tế của đầu tư
phát triển - loại đầu tư quyết định trực tiếp sự phát triển của nền sản xuất xã hội,
là điều kiện tiên quyết cho sự ra đời, tồn tại và tiếp tục phát triển của mọi cơ sở
sản xuất kinh doanh dịch vụ.
GV hướng dẫn: PGS.TS. Từ Quang Phương 5
Dựa vào các lý thuyết kinh tế về đầu tư giải thích vai trò của đầu tư đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế

1.3 Khái niệm về tăng trưởng:
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng thu nhập của nền kinh tế trong một
khoảng thời gian nhất định (thường là một năm). Sự gia tăng này được thể hiện
ở quy mô và tốc độ tăng trưởng. Quy mô phản ánh sự gia tăng nhiều hay ít còn
tốc độ tăng trưởng được dùng để so sánh sự gia tăng giữa các thời kỳ. Người ta
thường xác định tăng trưởng kinh tế thông qua các chỉ tiêu GDP (tổng sản phẩm
quốc nội), GNP (tổng sản phẩm quốc dân) và GNI (thu nhập bình quân đầu
người).
Bản chất của tăng trưởng kinh tế là phản ánh sự thay đổi về lượng của
nền kinh tế. Đầu tư phát triển không những làm gia tăng tài sản của nhà đầu tư
mà còn trực tiếp làm tăng tài sản của nền kinh tế quốc dân. Chẳng hạn khi nhà
đầu tư xây dựng một nhà máy thì nhà máy đó không những là tài sản của nhà
đầu tư mà còn là tiềm lực sản xuất của cả nền kinh tế, tạo thêm công ăn việc làm
cho người lao động. Như vậy đầu tư phát triển chính là một yếu tố không thể
thiếu đối với quá trình tăng trưởng của một nền kinh tế.
1.4 Khái niệm về phát triển:
Phát triển kinh tế là quá trình lớn lên, tăng tiến về mọi mặt của nền kinh
tế. Phát triển kinh tế là một khái niệm rộng hơn tăng trưởng. Nếu tăng trưởng
được xem là quá trình biến đổi về lượng thì phát triển là quá trình biến đổi cả về
lượng và chất của nền kinh tế. Đó là sự kết hợp một cách chặt chẽ quá trình
hoàn thiện của cả hai vấn đề về kinh tế và xã hội ở mỗi quốc gia. Phát triển kinh
tế bao gồm có tăng trưởng, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo chiều hướng tiến
bộ (thường xét đến sự chuyển dịch cơ cấu ngành: sự gia tăng tỉ trọng ngành
công nghiệp, dịch vụ và giảm tỉ trọng ngành nông nghiệp), sự biến đổi ngày
càng tốt hơn trong các vấn đề xã hội (xóa bỏ nghèo đói, suy dinh dưỡng, tăng
tuổi thọ bình quân, tăng khả năng tiếp cận các dịch vụ y tế, nước sạch của người
dân, đảm bảo phúc lợi xã hội, giảm thiểu bất bình đẳng trong xã hội…).
Một mặt trái của đầu tư phát triển, bên cạnh việc làm tăng sản lượng của
nền kinh tế, đầu tư phát triển còn gây nên một số tác động tiêu cực như ô nhiễm,
GV hướng dẫn: PGS.TS. Từ Quang Phương 6

Dựa vào các lý thuyết kinh tế về đầu tư giải thích vai trò của đầu tư đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế
suy thoái môi trường, cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, gây ảnh hưởng tới sức
khỏe con người. Hiện nay, ở nhiều quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao,
người ta đã chú ý tới những ảnh hưởng tiêu cực đến tương lai do tăng trưởng
nhanh gây ra. Trên thế giới đã xuất hiện khái niệm mới về phát triển, đó là phát
triển bền vững. Theo định nghĩa của Ngân hàng Thế giới WB: “Phát triển bền
vững là sự phát triển đáp ứng các nhu cầu hiện tại mà không làm nguy hại đến
khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai”. Nói cách khác, phát triển
bền vững là sự kết hợp hài hòa, chặt chẽ, hợp lý cả về ba mặt: tăng trưởng kinh
tế, cải thiện các vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường. Đây là mục tiêu hướng tới
của nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam.
2. Số nhân đầu tư
2.1 Tư tưởng của mô hình
Mô hình số nhân đầu tư xuất phát từ tư tưởng của Keynes. Ông cho rằng
đầu tư tăng sẽ bù đắp cho những thiếu hụt về cầu tiêu dùng. Để đảm bảo cho
đầu tư gia tăng liên tục ông đưa ra nguyên lý số nhân.
2.2 Mô hình số nhân đầu tư
Số nhân đầu tư phản ánh vai trò của đầu tư đối với sản lượng. Nó cho
thấy sản lượng gia tăng bao nhiêu khi đầu tư gia tăng một đơn vị.
Công thức tính (1):
I
Y
k


=
Trong đó:
Y∆
là mức gia tăng sản lượng
I∆

là mức gia tăng đầu tư
k là số nhân đầu tư
Từ công thức (1) ta có :
IkY
∆=∆
.
GV hướng dẫn: PGS.TS. Từ Quang Phương 7
Dựa vào các lý thuyết kinh tế về đầu tư giải thích vai trò của đầu tư đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế
Như vậy việc gia tăng đầu tư có tác dụng khuếch đại sản lượng tăng lên
số nhân lần. Trong công thức trên, k là một số dương lớn hơn 1. Vì khi I=S, có
thể biến đổi công thức (2) thành:
MPSMPC
C
Y
CY
Y
S
Y
I
Y
k
1
1
1
1
1
=

=




=
∆−∆

=


=


=
(3)
Trong đó:
Y
C
MPC


=
Khuynh hướng tiêu dùng cận biên
Y
S
MPS


=
Khuynh hướng tiết kiệm cận biên
Vì MPS <1 nên k>1
Nếu MPC càng lớn thì k càng lớn, do đó, độ khuếch đại của sản lượng

càng lớn. Sản lượng càng tăng thì công ăn việc làm càng gia tăng.
Thực tế gia tăng đầu tư, dẫn đến gia tăng các yếu tố tư liệu sản xuất (máy
móc thiết bị, nguyên nhiên vật liệu…) và quy mô lao động. Sự kết hợp hai yếu
tố này làm cho sản xuất phát triển, kết quả là gia tăng sản lượng của nền kinh tế.
3. Lý thuyết gia tốc về đầu tư
3.1 Tư tưởng trung tâm của mô hình gia tốc đầu tư
Nếu số nhân đầu tư giải thích mối quan hệ giữa việc gia tăng đầu tư với
sản lượng hay việc gia tăng đầu tư có ảnh hưởng như thế nào tới sản lượng. Như
vậy, đầu tư xuất hiện như một yếu tố của tổng cầu. Theo Keynes, đầu tư còn
được xem xét dưới góc độ tổng cung, nghĩa là mỗi sự thay đổi của sản lượng
cũng làm thay đổi đầu tư như thế nào.
Các doanh nghiệp thực hiện các dự án đầu tư để đưa mức tư bản đạt
mức mong muốn. Lượng tư bản mong muốn phụ thuộc vào mức sản lượng là
GV hướng dẫn: PGS.TS. Từ Quang Phương 8
Dựa vào các lý thuyết kinh tế về đầu tư giải thích vai trò của đầu tư đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế
điều dễ dàng chấp nhận được. Khi mức sản lượng cao hơn, các hãng có nhu cầu
lớn hơn về tư bản, vì tư bản là một trong nhiều nhân tố để tạo ra sản lượng. Tư
tưởng trung tâm của mô hình gia tốc dựa trên mối quan hệ đơn giản này.
3.2 Nội dung của lí thuyết gia tốc đầu tư
Mô hình gia tốc giả thiết rằng, lượng tư bản mong muốn là bội số của
mức sản lượng:
t
d
t
YK .
α
=
0>
α
(1)

Ở dạng đơn giản nhất của mô hình gia tốc, đầu tư ròng đúng bằng chênh
lệch giữa lượng tư bản mong muốn với lượng tư bản hiện có vào cuối thời kì
trước. Nếu tạm thời bỏ qua hao mòn tư bản trong quá trình sử dụng, chúng ta có
mối liên hệ sau:
d
t
d
ttn
KKI
1,

−=
(2)
Lượng tư bản có được vào cuối thời kí trước chính là lượng tư bản mong
muốn phụ thuộc vào thu nhập của thời kì đó.
111
.
−−−
==
t
d
tt
YKK
α
(3)
Suy ra (2) được viết lại như sau:
).(..
111,
−−−
−=−=−=

tttt
d
t
d
ttn
YYYYKKI
ααα
ttn
YI
∆=
.
,
α
(4)
Mức đầu tư phụ thuộc vào sự thay đổi của sản lượng.
Dạng đơn giản này cho ta thấy một đặc điểm quan trọng của mô hình gia
tốc từ phương trình (1),
α
có thể được coi là tỉ lệ giứa mức tư bản mong muốn
so với sản lượng:
GV hướng dẫn: PGS.TS. Từ Quang Phương 9
Dựa vào các lý thuyết kinh tế về đầu tư giải thích vai trò của đầu tư đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế
t
d
t
Y
K
=
α
(5)

Trong bối cảnh đó, đầu tư sẽ biến động rất mạnh trong chu kỳ kinh
doanh. Theo mô hình giao điểm của Keynes cho thấy sự thay đổi của đầu tư có
tác dụng số nhân đến sản lượng. Vì vậy cùng với hiệu ứng số nhân, lí thuyết gia
tốc đơn giản chỉ có thể giải thích sự biến động theo chu kì của sản lượng. Một
cú sốc đối với sản lượng sẽ làm thay đổi mức đầu tư và sự thay đổi này sẽ làm
mức sản lượng cân bằng thay đổi thông qua hiệu ứng số nhân, và tác động vào
đầu tư thông qua hiệu ứng gia tốc. Tuy nhiên cũng giống như lí thuyết đơn giản
về số nhân của Keynes, chúng ta cần phải điều chỉnh lí thuyết gia tốc về đầu tư
trước khi có thể sử dụng nó để giải thích cho quá trình đầu tư trong nền kinh tế
thực.
Điều chỉnh đầu tiên mà chúng ta cần phải làm để mô hình gia tốc đơn
giản trở nên thực tế hơn bằng cách cho rằng lượng tư bản thực tế sẽ điều chỉnh
dần đến mức mong muốn. Giả sử ta dùng mô hình cho một năm nào đó. Cũng
giả sử rằng, do lượng tư bản tăng lên nên lượng tư bản mong muốn cũng tăng
theo. Các dự án đầu tư sẽ được thực hiện nhằm đưa lượng tư bản tiến tới mức
mong muốn. Bên cạnh những chi phí mà ta gọi là chi phí trực tiếp của đầu tư,
chúng ta cần tính đến những chi phí điều chỉnh, và việc coi chi phí này tăng lên
khi mức đầu tư tăng cũng là hợp lí. Những ví dụ về chi phí điều chỉnh như phải
đóng cửa nhà máy hay phải thuê thêm nhân công làm việc ngoài giờ để lắp đặt
thiết bị, chi phí tăng thêm do muốn tăng tiến độ xây dựng nhà máy và hoạt động
sản xuất có thể bị đình trệ do bộ máy quản lí phải tập trung vào việc triển khai
các dự án đầu tư. Nếu chi phí điều chỉnh tăng mạnh, thì quyết định tối ưu đối
với doanh nghiệp sẽ là điều chỉnh dần lượng tư bản thực tế đến mức mong
muốn. Khi đó chênh lệch giữa hai lượng tư bản này chỉ bị triệt tiêu một phần
trong từng thời kì.
GV hướng dẫn: PGS.TS. Từ Quang Phương 10
Dựa vào các lý thuyết kinh tế về đầu tư giải thích vai trò của đầu tư đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế
Để phản ánh được độ trễ điều chỉnh này, ta có thể viết (2) như sau:
).(
1,


−=
t
d
ttn
KKI
λ
10 <<
λ
(6)
Sử dụng (1) ta có:
)..(
1,

−=
tttn
KYI
αλ
(7)
Trong đó, thông thường
1−t
K
khác
d
t
K
1−
do lượng tư bản thực tế khác
lượng tư bản mong muốn trong mỗi thời kì. Phương trình (7) xác định cơ chế
điều chỉnh một phần mà ở đó hệ số

λ
thể hiện phần của chênh lệch giữa lượng
tư bản mong muốn và lượng tư bản thực tế được thực hiện thông qua đầu tư. Do
chỉ một phần sự thay đổi của lượng tư bản mong muốn được thực hiện trong
một thời kì nên trong một thời kì nhất định nào đó đầu tư sẽ phản ứng với những
thay đổi của thu nhập trong một số thời kì trước đó. Phương trình (7) hàm ý
rằng, đầu tư phản ứng chậm hơn với sự thay đổi của thu nhập hiện tại, mà vì thế
mà cũng hàm ý rằng đầu tư cũng không thay đổi nhiều trong ngắn hạn như mô
hình gia tốc đơn giản đã dự báo (4). Phương trình (7) được gọi là mô hình gia
tốc linh hoạt - có thể thích hợp hơn với những biến động của đầu tư trong thực
tế. Mặc dù đầu tư là nhân tố dễ biến động, nhưng nó không biến động nhiều như
mô hình gia tốc đơn giản dự báo.
Mô hình gia tốc linh hoạt cũng có thể được điều chỉnh nhằm thể hiện sự
biến động về tốc độ thay đổi của đầu tư nhằm lấp đầy lỗ hổng giữa lượng tư bản
thực tế với lượng tư bản mong muồn (tham số
λ
). Đây chính là biến lựa chọn
đối với hãng kinh doanh và có thể bị tác động bởi các điều kiện tín dụng, bao
gồm lãi suất, thuế và các yếu tố khác.
GV hướng dẫn: PGS.TS. Từ Quang Phương 11
Dựa vào các lý thuyết kinh tế về đầu tư giải thích vai trò của đầu tư đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế
3.3 Nhận xét về lý thuyết gia tốc đầu tư
*Ưu điểm:
a. Lý thuyết gia tốc đầu tư phản ánh quan hệ giữa sản lượng với đầu tư.
Nếu α không thay đổi trong kỳ kế hoạch thì có thể sử dụng công thức để lập kế
hoạch khá chính xác.
b. Lý thuyết phản ánh sự tác động của tăng trưởng kinh tế dẫn đến đầu
tư. Khi kinh tế tăng trưởng cao, sản lượng nền kinh tế tăng, cơ hội kinh doanh
lớn, dẫn đến tiết kiệm tăng cao và đầu tư nhiều.
* Nhược điểm:

a. Lý thuyết giả định quan hệ tỷ lệ giữa sản lượng và đầu tư là cố định.
Thực tế đại lượng này (α) luôn biến do sự tác động của nhiều nhân tố khác.
b. Thực chất lý thuyết đã xem xét sự biến động của đầu tư thuần (NI) chứ
không phải sự biến động của tổng đầu tư do sự tác động của thay đổi sản lượng.
Vì từ công thức
t
d
t
YK .
α
=
có thể viết:
Tại thời điểm t:
t
d
t
YK .
α
=
(8)
Tại thời điểm (t -1):
11
.
−−
=
t
d
t
YK
α

(9)
Lấy (8) trừ đi (9), ta có:
K
d
t
- K
t-1
d
= α.Y
t
-α.Y
t-1
d
= α.( Y
t
-Y
t-1
d
) (10)
Trong đó:
K
d
t
- K
t-1
d
: Đầu tư ròng và bằng (I
t
- D) với D là khấu hao
Do đó:

I
t
-D= K
d
t
- K
t-1
d
= α( Y
t
-Y
t-1
d
)= α.ΔY (11)
Và đầu tư ròng ΔI= α.ΔY
Như vậy theo lý thuyết này đầu tư ròng là hàm của sự gia tăng sản lượng
đầu ra. Nếu sản lượng tăng, đầu tư ròng tăng (lớn hơn α lần). Nếu sản lượng
giảm, đầu tư thuần sẽ âm. Nếu tổng cầu về sản lượng trong thời gian dài không
đổi, đầu tư ròng sẽ bằng 0 (khi ΔY=0 thì ΔI=0)
GV hướng dẫn: PGS.TS. Từ Quang Phương 12
Dựa vào các lý thuyết kinh tế về đầu tư giải thích vai trò của đầu tư đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế
Tuy nhiên khi sản lượng không thay đổi giữa hai thời kỳ đầu tư thuần
bằng 0 nhưng tổng đầu tư là một số dương vì các doanh nghiệp vẫn phải đầu tư
thay thế máy móc thiết bị đã hao mòn hết.
c. Theo lý thuyết này toàn bộ vốn đầu tư mong muốn đều được thực hiện
ngay trong cùng một thời kỳ. Điều này không đúng vì nhiều lý do, chẳng hạn do
việc cung cấp các yếu tố có liên quan đến thực hiện vốn đầu tư không đáp ứng,
do cầu vượt quá cung…do đó lý thuyết gia tốc đầu tư tiếp tục được hoàn thiện
qua thời gian. Theo lý thuyết gia tốc đầu tư sau này thì vốn đầu tư mong muốn
được xác định như là một hàm của mức sản lượng hiện tại và quá khứ, nghĩa là

quy mô đầu tư mong muốn được xác định trong dài hạn.
Nếu gọi K
t
d
và K
t-1
d
là vốn đầu tư thực hiện ở thời kì t và t-1
Kt
*
t
là vốn đầu tư mong muốn
λ là một hằng số (0< λ <1)
Thì: K
t
–K
t-1
= λ.(Kt
*
t
–K
t-1
)
Có nghĩa là sự thay đổi vốn đầu tư thực hiện giữa hai kỳ chỉ bằng một
phần của chênh lệch giữa vốn đầu tư mong muốn thời kỳ t và vốn đầu tư thực
hiện thời kỳ t-1. Nếu λ =1 thì K
d
t
=Kt*
t

Và lý thuyết gia tốc đầu tư hoàn thiện sau này cũng đã đề cập đến tổng
đầu tư.
Theo lý thuyết gia tốc đầu tư ban đầu thì đầu tư thuần ∆I=I
t
- D
t
=K
t
d
-K
t-1
d
.
Theo lý thuyết gia tốc đầu tư sau này thì
K
t
d
- K
t-1
d
= λ(Kt
*
t
–K
t-1
) và do đó ∆I= λ(Kt
*
t
–K
t-1

)
Để xác định tổng đầu tư, chúng ta giả định: D
t
=δ.K
t-1
δ là hệ số khấu hao và 0< δ <1. Do đó
I
t
- D
t=
I
t
- δ K
t-1
d
=
λ(Kt
*
t
–K
t-1
) hoặc
I
t
= λ (Kt
*
t
–K
t-1
) + δ K

t-1
d
I
t
chính là tổng đầu tư trong kỳ và là hàm của vốn mong muốn và vốn
thực hiện.
GV hướng dẫn: PGS.TS. Từ Quang Phương 13
Dựa vào các lý thuyết kinh tế về đầu tư giải thích vai trò của đầu tư đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế
4. Lý thuyết quỹ nội bộ đầu tư
Theo lý thuyết này, đầu tư có quan hệ tỷ lệ thuận với lợi nhuận thực tế:
I = f (lợi nhuận thực tế). Do đó, dự án đầu tư nào đem lại lợi nhuận cao sẽ được
lựa chọn. Vì lợi nhuận cao, thu nhập giữ lại cho đầu tư sẽ lớn hơn và mức đầu tư
sẽ cao hơn. Nguồn vốn cho đầu tư có thể huy động bao gồm: Lợi nhuận giữ lại,
tiền trích khấu hao, đi vay các loại trong đó bao gồm cả việc phát hành trái
phiếu bán cổ phiếu là nguồn vốn huy động từ bên ngoài. Vay mượn thì phải trả
nợ, trường hợp nền kinh tế lâm vào tình trạng suy thoái, doanh nghiệp có thể
không trả được nợ và lâm vào tình trạng phá sản. Do đó, việc đi vay không phải
là điều hấp dẫn, trừ khi được vay ưu đãi. Cũng tương tự, việc tăng vốn đầu tư
bằng phát hành trái phiếu cũng không phải là biện pháp hấp dẫn. Còn bán cổ
phiếu để tài trợ cho đầu tư chỉ được các doanh nghiệp thực hiện khi hiệu quả
của dự án đầu tư là rõ ràng và thu nhập do dự án đem lại trong tương lai sẽ lớn
hơn các chi phí đã bỏ ra.
Chính vì vậy theo lý thuyết quỹ nội bộ của đầu tư, các doanh nghiệp
thường chọn biện pháp tài trợ cho đầu tư từ các nguồn vốn nội bộ và các sự gia
tăng của lợi nhuận sẽ làm cho mức đầu tư của doanh nghiệp lớn hơn.
Sự khác nhau giữa lý thuyết gia tốc đầu tư và lý thuyết này dẫn đến việc
thực thi các chính sách khác nhau để khuyến khích đầu tư. Theo lý thyết gia tốc
đầu tư chính sách tài khoá mở rộng sẽ làm cho mức đầu tư cao hơn và do đó sản
lượng thu được cũng sẽ cao hơn. Còn việc giảm thuế lợi tức của doanh nghệp
không có tác dụng kích thích đầu tư. Ngược lại theo lý thuyết quỹ nội bộ của

đầu tư thì việc giảm thuế lợi tức của doanh nghiệp sẽ làm tăng lợi nhuận từ đó
tăng đầu tư và tăng sản lượng, mà tăng lợi nhuận cũng có nghĩa là tăng quỹ nội
bộ. Quỹ nội bộ là một yếu tố quan trọng để xác định lượng vốn đầu tư mong
muốn, còn chính sách tài khoá mở rộng không có tác dụng trực tiếp làm tăng
đầu tư theo lý thyết này.
GV hướng dẫn: PGS.TS. Từ Quang Phương 14
Dựa vào các lý thuyết kinh tế về đầu tư giải thích vai trò của đầu tư đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế
5. Lý thuyết q về đầu tư
Theo lý thuyết này, vốn đầu tư có mối quan hệ tỷ lệ thuận với hệ số q,
trong đó hệ số q là hệ số phản ánh giá trị thị trường của vốn đầu tư với chi phí
vật chất cho công cuộc đầu tư.
Nói cách khác:
RC
MP
q
=
Trong đó: MP: giá trị thị trường của tư bản lắp đặt
RC: chi phí thay thế tư bản lắp đặt
Với lý thuyết này, chính sách tài chính tiền tệ sẽ có ảnh hưởng lớn đầu
tư. Chẳng hạn, nếu lãi suất giảm, giá trị của chứng khoán sẽ tăng (vì giá của trái
phiếu và lãi suất có mối quan hệ tỷ lệ nghịch). Giá trị thị trường của các chứng
khoán của doanh nghiệp tăng sẽ làm cho q tăng, từ đó làm tăng vốn đầu tư.
Sự thay đổi về thuế thu nhập của doanh nghiệp cũng làm cho q thay đổi.
Nếu thuế thu nhập giảm, q sẽ tăng, và từ đó làm tăng vốn đầu tư.
Quy tắc đánh giá: q>1: nên đầu tư
q≤ 1: không nên đầu tư
6. Lý thuyết tân cổ điển
Các nhà kinh tế tân cổ điển đã cố gắng giải thích nguồn gốc của sự tăng
trưởng thông qua hàm sản xuất.
Hàm sản xuất Cobb - Douglas:

- Là hàm số biểu thị sự phụ thuộc của sản lượng vào các yếu tố đầu vào
như vốn, lao động, …
GV hướng dẫn: PGS.TS. Từ Quang Phương 15
Dựa vào các lý thuyết kinh tế về đầu tư giải thích vai trò của đầu tư đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế
- Hàm có dạng:
Y = Ae
rt
L
α
K
1-
α
Trong đó:
Y: sản lượng
L: số lao động
K: lượng vốn
Ae
rt
: năng suất toàn bộ nhân tố (đặc trưng cho công nghệ)
t : là thời gian
α,1-α : là các hệ số co giãn theo sản lượng lần lượt của lao động và
vốn
Trong trường hợp nền kinh tế (thị trường) ở trạng thái cạnh tranh hoàn
hảo thì α, 1-α có thể được xem là tỷ lệ đóng góp của vốn và lao động vào sản
lượng.
Từ hàm sản xuất Cobb - Douglas trên đây ta có thể tính được tốc độ tăng
trưởng của sản lượng như sau:
g = r + αh + (1-α) n
Trong đó:
g: Tỷ lệ tăng trưởng của sản lượng.

h: Tỷ lệ tăng trưởng của vốn.
n: Tỷ lệ tăng trưởng lao động
Biểu thức trên cho thấy: tăng trưởng của sản lượng có mối quan hệ
thuận với tiến bộ của công nghệ và tỷ lệ tăng trưởng của vốn và lao động.
Trong một nền kinh tế, ở “thời đại hoàng kim” có sự cân bằng trong
tăng trưởng của các yếu tố sản lượng, vốn và lao động.
Gọi đầu tư ròng là ∆I và ∆I = ∆K
∆K = S = s*Y suy ra ∆K = s*Y
Chia cả 2 vế cho K, ta được:
GV hướng dẫn: PGS.TS. Từ Quang Phương 16
Dựa vào các lý thuyết kinh tế về đầu tư giải thích vai trò của đầu tư đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế
*K s Y
K K

=
Hoặc
Y
h s
K
=
Khi h không đổi, s không đổi thì
Y
K

cũng không đổi và Y phải tăng
trưởng cùng tỷ lệ như h và K.
Khi đó: g = r + αg + (1-α)n
Suy ra: g – αg = r + (1-α )n
(1 - α)g = r +(1-α )n
Hay g =

1
r
α

+ n
Từ đó ta thấy tỷ lệ tăng trưởng trong “thời đại hoàng kim” g phụ thuộc
vào tỷ lệ tăng trưởng của công nghệ và lao động.
• Những nội dung mới của mô hình tân cổ điển:
- Trong mô hình tân cổ điển các nhà kinh tế học bác bỏ quan điểm cổ
điển cho rằng sản xuất trong một tình trạng nhất định đòi hỏi những tỉ
lệ nhất định về lao động và vốn. Họ cho rằng vốn có thể thay thế
được nhân công và trong quá trình sản xuất, có nhiều cách khác nhau
trong việc kết hợp các yếu tố đầu vào.
- Từ quan điểm trên đây, các nhà linh tế học tân cổ điển cũng đưa ra
khái niệm “Sự phát triển kinh tế theo chiều sâu”, có nghĩa là gia tăng
số lượng vốn cho một đơn vị lao động trong sản xuất; còn sự gia tăng
vốn phù hợp với sự gia tăng về lao động được gọi là “Sự phát triển
kinh tế theo chiều rộng”.
- Các nhà kinh tế tân cổ điển còn cho rằng, tiến bộ kĩ thuật là yếu tố cơ
bản để thúc đẩy sự phát triển kinh tế. Một khía cạnh đáng chú ý về xu
hướng thay đổi trong kĩ thuật là đa số các sang chế đều có khuynh
hướng dùng vốn để tiết kiệm nhân công.
GV hướng dẫn: PGS.TS. Từ Quang Phương 17
Dựa vào các lý thuyết kinh tế về đầu tư giải thích vai trò của đầu tư đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế
7. Mô hình Harrod – Domar
7.1 Sự ra đời của mô hình
Dựa vào tư tưởng của Keynes, vào những năm 40 với sự nghiên cứu một
cách độc lập, hai nhà kinh tế học là Roy Harrod ở Anh và Evsay Domar ở Mỹ
đã cùng đưa ra mô hình giải thích mối quan hệ giữa sự tăng trưởng và thất
nghiệp ở các nước phát triển. Mô hình này cũng được sử dụng rộng rãi ở các

nước đang phát triển để xem xét mối quan hệ giữa tăng trưởng và các nhu cầu
về vốn.
Mô hình này coi đầu ra của bất kỳ một đơn vị kinh tế nào, dù là một
công ty, một nghành công nghiệp hay toàn bộ nền kinh tế phụ thuộc vào tổng số
vốn đầu tư cho nó.
7.2 Nội dung của mô hình Harrod-Domar
- Mô hình Harrod-Domar giải thích mối quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng
kinh tế với yếu tố tiết kiệm và đầu tư.
- Giả định:
+ Lao động đầy đủ việc làm, không có hạn chế đối với cung lao động.
+ Sản xuất tỉ lệ với khối lượng máy móc.
Sản lượng năm t: Y
Tốc độ tăng trưởng kinh tế
Y
t
Y
g

=
Sản lượng gia tăng trong kì
Y∆
Tổng tiết kiệm trong năm S
Tỷ lệ tiết kiệm/GDP
Y
t
S
s =
Hệ số gia tăng vốn so với sản lượng ICOR
Hệ số ICOR phản ánh quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và đầu tư. Tính
hệ số này dựa trên các giả định chủ yếu sau:

GV hướng dẫn: PGS.TS. Từ Quang Phương 18
Dựa vào các lý thuyết kinh tế về đầu tư giải thích vai trò của đầu tư đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế
- Nền kinh tế luôn cân bằng ở dưới sản lượng tiềm năng. Để có thể huy
động được các nguồn lực dư thừa cần phải đầu tư để mở rộng quy mô sản xuất.
- Công nghệ không đổi, sự kết hợp giữa vốn và lao động được thực hiện
theo một hệ số cố định.
Hệ số ICOR (k) là chỉ tiêu phản ánh hiệu quả của vốn đầu tư, nó được
xác định theo công thức:
k =
Y
K


Trong đó:
∆K là mức thay đổi vốn sản xuất
(∆K = K
t
– K
t-1
)
∆Y là mức thay đổi về kết quả sản xuất và ∆Y = Y
t
– Y
t-1
, ở đây t chỉ
năm nghiên cứu và t - 1 chỉ năm trước năm nghiên cứu.
Ý nghĩa của k là để tạo thêm được một đơn vị kết quả sản xuất thì cần
tăng thêm bao nhiêu đơn vị vốn sản xuất. Hay nói cách khác, k là “giá” phải trả
thêm cho việc tạo thêm một đơn vị kết quả sản xuất. Hệ số ICOR càng lớn
chứng tỏ chi phí cho kết quả tăng trưởng càng cao nó phụ thuộc vào mức độ

khan hiếm nguồn dự trữ và tính chất của công nghệ sản xuất. Ở các nước phát
triển hệ số ICOR thường cao hơn ở các nước đang phát triển và ở mỗi nước thì
hệ số ICOR luôn có xu hướng tăng lên. Tức là khi kinh tế càng phát triển thì để
tăng thêm một đơn vị kết quả sản xuất cần nhiều hơn về nguồn lực sản xuất nói
chung và nhân tố vốn nói riêng, và khi đó đường sản lượng thực tế gần tiệm cận
với đường sản lượng tiềm năng. Điều này được giải thích bằng quy luật lợi ích
cận biên giảm dần theo quy mô.
- Từ công thức:
Y
K
ICOR


=
Nếu
IK =∆
, ta có
Y
I
ICOR

=
- Ta lại có: I = S = s*Y. Thay vào công thức tính ICOR, ta có:
GV hướng dẫn: PGS.TS. Từ Quang Phương 19
Dựa vào các lý thuyết kinh tế về đầu tư giải thích vai trò của đầu tư đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế
Y
Ys
Y
K
ICOR


=


=
*
từ đây suy ra:
ICOR
Ys
Y
*
=∆
Phương trình phản ánh tốc độ tăng trưởng kỉnh tế:
Y
ICOR
Ys
Y
Y
g :
*
=

=
Cuối cùng ta có:
ICOR
s
g
=
- Theo Harrod-Domar, tiết kiệm là nguồn gốc của tăng trưởng kinh tế.
Muốn gia tăng sản lượng với tốc độ g thì cần duy trì tỉ lệ tích lũy để đầu tư trong

GDP là s với hệ số ICOR không đổi.
- Mô hình thể hiện S là nguồn gốc của I, đầu tư làm tăng vốn sản xuất (
K∆
), gia tăng vốn sản xuất sẽ trực tiếp làm gia tăng
Y∆
.
II/ TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ ĐẾN TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN
KINH TẾ
1. Tác động của đầu tư đến quy mô tăng trưởng
1.1 Tác động của đầu tư đến tổng cung – tổng cầu
1.1.1 Tác động đến tổng cung
Tổng cung của nền kinh tế gồm hai nguồn chính là cung trong nước và
cung từ nước ngoài. Bộ phận chủ yếu của cung trong nước là một hàm các yếu
tố sản xuất: vốn, lao động, tài nguyên, công nghệ…
Theo Adam Smith thì vốn đầu tư chính là yếu tố quyết định đến số lao
động hữu dụng. Việc tăng vốn đầu tư sẽ dẫn đến tăng sức lao động và tăng công
GV hướng dẫn: PGS.TS. Từ Quang Phương 20
Dựa vào các lý thuyết kinh tế về đầu tư giải thích vai trò của đầu tư đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế
cụ sản xuất cả về số lượng và chất lượng, từ đó mở rộng sản xuất. Như vậy, từ
đầu thế kỷ 18, A.Smith đã bắt đầu đề cập đến vai trò của vốn đến sản xuất.
Tới thế kỷ 19, K.Marx đã đề cập đến vốn như là một trong bốn yếu tố tác
động đến quá trình tái sản xuất gồm đất đai, lao động, vốn và tiến bộ khoa học
kỹ thuật.
Kế thừa những tư tưởng trên, các nhà kinh tế tân cổ điển tiêu biểu là
Cobb và Douglas đã phân tích rõ vai trò của vốn thông qua hàm sản xuất:
Y = A.e
rt
.K
α
.N

(1-α)
Như vậy, tăng quy mô vốn đầu tư là nguyên nhân trực tiếp làm tăng tổng
cung của nền kinh tế nếu các yếu tố khác không thay đổi. Mặt khác, tác động
của vốn đầu tư còn được thực hiện thông qua hoạt động đầu tư nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực, đổi mới công nghệ…Do đó, đầu tư lại gián tiếp làm tăng
tổng cung của nền kinh tế.
1.1.2 Tác động đến tổng cầu:
Để tạo ra sản phẩm cho xã hội, trước hết cần đầu tư. Đầu tư là một yếu tố
chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu của toàn bộ nền kinh tế.
Theo Keynes, tổng sản lượng (cũng là tổng thu nhập) của nền kinh tế
hình thành nhờ vào việc hiện thực hóa những quyết định chi tiêu chính là: chi
tiêu dùng của hộ gia đình, chi tiêu cho đầu tư, mở rộng kinh doanh của doanh
nghiệp, chi tiêu của chính phủ và chi tiêu ròng của các nền kinh tế bên ngoài đối
với các sản phẩm nội địa.
AD = C + I + G + X – M
Như vậy, gia tăng đầu tư (I) sẽ làm cho tổng cầu (AD) tăng trong điều
kiện các yếu tố khác không đổi.
GV hướng dẫn: PGS.TS. Từ Quang Phương 21
Dựa vào các lý thuyết kinh tế về đầu tư giải thích vai trò của đầu tư đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế
Thông qua lý thuyết về số nhân đầu tư, Keynes đã giải thích mối quan hệ
giữa việc gia tăng đầu tư với gia tăng sản lượng hay việc gia tăng đầu tư có ảnh
hưởng như thế nào đến gia tăng sản lượng.
Lý thuyết số nhân đầu tư cho biết khi đầu tư tăng một đơn vị thì sản
lượng tăng k đơn vị (k >1). Thực tế, việc gia tăng đầu tư sẽ dẫn đến gia tăng các
yếu tố về tư liệu sản xuất (máy móc, thiết bị, nguyên nhiên vật liệu...) và quy
mô lao động. Do vậy làm tăng tiêu dùng, tăng giá bán sản phẩm, tăng việc làm
cho công nhân, từ đó làm tăng sản lượng hàng hóa tiêu dùng.
Thêm vào đó, lý thuyết gia tốc đầu tư phản ánh mức đầu tư thuần sẽ phụ
thuộc vào sự thay đổi quy mô sản lượng hay nói cách khác, đầu tư sẽ phụ thuộc
vào nhu cầu của sản lượng đầu ra.

Theo lý thuyết này, trong điều kiện lãi suất về giá các sản phẩm đầu ra
không thay đổi, sẽ có sự tồn tại mối quan hệ giữa sản lượng đầu ra và quy mô
vốn cần thiết đề sản xuất ra khối lượng sản phẩm đó.
Mối quan hệ giữa đầu tư với tổng cung và tổng cầu của nền kinh tế là
mối quan hệ biện chứng, nhân quả, có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực
tiễn. Đây là cơ sở lý luận để giải thích chính sách kích cầu đầu tư và tiêu dùng ở
nhiều nước trong thời kỳ nền kinh tế tăng trưởng chậm.
2.2 Tác động của đầu tư đến tốc độ tăng trưởng
Đầu tư vừa tác động đến tốc độ tăng trưởng vừa tác động đến chất lượng
tăng trưởng. Tăng quy mô vốn đầu tư và sử dụng vốn đầu tư hợp lý là những
nhân tố rất quan trọng góp phần nâng cao hiệu quả đầu tư, tăng năng suất nhân
tố tổng hợp, tác động đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công
nghiệp hóa – hiện đại hóa, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế… Do đó,
nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế.
GV hướng dẫn: PGS.TS. Từ Quang Phương 22
Dựa vào các lý thuyết kinh tế về đầu tư giải thích vai trò của đầu tư đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế
Sự thay đổi tổng cung tổng cầu được phản ánh qua tốc độ tăng trưởng
kinh tế. Như vậy, thay đổi quy mô vốn đầu tư cũng là nguyên nhân làm thay đổi
tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Thông qua hàm sản xuất Cobb – Douglas ta có thể tính được tỷ lệ tăng
trưởng của sản lượng như sau:
g = r +αh + (1 – α)n
Biểu thức trên cho thấy: tăng trưởng của sản lượng có mối quan hệ thuận
với tiến bộ của công nghệ và tỷ lệ tăng trưởng của vốn và lao động.
Harrod – Domar đã phát triển lý thuyết trên và giải thích mối quan hệ
giữa tốc độ tăng trưởng kinh tế với yếu tố tiết kiệm và đầu tư thông qua hệ số
ICOR (Incremental Capital Output Ratio).
Từ công thức tính:
Cho thấy: Nếu ICOR không đổi, mức tăng GDP phụ thuộc hoàn toàn vào
vốn đầu tư.

Thông qua chỉ số ICOR, ta có thể dự báo tốc độ tăng trưởng kinh tế hoặc
dự báo quy mô vốn đầu tư cần thiết để đạt một tốc độ tăng trưởng kinh tế nhất
định trong tương lai.
Trong những trường hợp nhất định, hệ số ICOR được xem là một trong
những chỉ tiêu phản ánh hiệu quả đầu tư. ICOR giảm cho thấy để tạo ra một đơn
GV hướng dẫn: PGS.TS. Từ Quang Phương
Tốc độ tăng trưởng kinh tế
=
Tỷ lệ vốn đầu tư/GDP
ICOR
23
Dựa vào các lý thuyết kinh tế về đầu tư giải thích vai trò của đầu tư đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế
vị GDP tăng thêm, nền kinh tế phải bỏ ra một lượng vốn đầu tư ít hơn, nếu các
điều kiện khác ít thay đổi.
Tuy nhiên, hệ số ICOR mới chỉ phản ánh ảnh hưởng của yếu tố đầu tư
mà chưa tính đến ảnh hưởng của các yếu tố sản xuất khác trong việc tạo ra GDP
tăng thêm. ICOR cũng bỏ qua sự tác động của các ngoại ứng như điều kiện tự
nhiên, xã hội, cơ chế chính sách…Mặt khác, hệ số ICOR không tính đến yếu tố
độ trễ thời gian của kết quả và chi phí, vấn đề tái đầu tư…
Đầu tư có ảnh hưởng quan trọng không chỉ đến tốc độ tăng trưởng cao
hay thấp mà còn đến chất lượng tăng trưởng kinh tế. Trên góc độ phân tích đa
nhân tố, vai trò của đầu tư đối với tăng trưởng kinh tế thường được phân tích
theo biểu thức sau:
g = Di + Dl + TFP
Trong đó:
g: tốc độ tăng trưởng GDP
Di: phần đóng góp của vốn đầu tư vào tăng trưởng GDP
Dl: phần đóng góp của lao động vào tăng trưởng GDP
TFP: phần đóng góp của tổng các yếu tố năng suất vào tăng trưởng GDP
Thông qua công thức này, chúng ta có thể đánh giá tác động của vốn đầu

tư đến tăng trưởng kinh tế.
2. Tác động của đầu tư đến chất lượng tăng trưởng
2.1Tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
Cơ cấu kinh tế là cơ cấu tổng thể các yếu tố cấu thành nền kinh tế, có
quan hệ chặt chẽ với nhau, được biểu hiện cả về mặt chất và mặt lượng, tùy theo
mục tiêu của nền kinh tế.
GV hướng dẫn: PGS.TS. Từ Quang Phương 24
Dựa vào các lý thuyết kinh tế về đầu tư giải thích vai trò của đầu tư đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế được hiểu là sự thay đổi tỷ trọng của các bộ
phận cấu thành nền kinh tế. Sự chuyển dịch kinh tế xảy ra khi có sự phát triển
không đồng đều về quy mô tốc độ giữa các ngành, vùng.
Những cơ cấu kinh tế chủ yếu trong nền kinh tế quốc dân bao gồm kinh
tế ngành, lãnh thổ, theo thành phần kinh tế.
Để đánh giá mức độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành giữa 2 thời kỳ
người ta có thể sử dụng công thức sau:
Nếu:
• Tỷ trọng của ngành nông nghiệp là
)(
)(
)(
tGDP
tGDP
t
NN
NN
=
β
• Tỷ trọng của ngành công nghiệp và xây dựng là
)(
)(

)(
tGDP
tGDP
t
CN
CN
=
β
• Tỷ trọng của ngành dịch vụ là
)(
)(
)(
tGDP
tGDP
t
DV
DV
=
β
• Tỷ trọng của ngành phi nông nghiệp là
β
Phi NN
(t)= β
CN
(t) + β
DV
(t)
• Tỷ trọng của ngành sản xuất vật chất là
β
SXVC

(t)= β
NN
(t)+ β
CN
(t)
Thì hệ số chuyển dịch k của hai ngành nông nghiệp và phi nông
nghiệp là
))1()1(())()((
)1()()1()(
cos
2222
0
tttt
tttt
PhiNNNNPhiNNNN
PhiNNPhiNNNNNN
ββββ
ββββ
θ
+×+
×+×
=
θ
0
=arccos θ
0
GV hướng dẫn: PGS.TS. Từ Quang Phương 25

×