Tải bản đầy đủ (.pdf) (25 trang)

LUẬN văn các giải pháp tiếp tục thực hiện quy chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (335.29 KB, 25 trang )

LUẬN VĂN:

Các giải pháp tiếp tục thực hiện quy
chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn ở
Việt Nam hiện nay


I. Đặt vấn đề

Dân chủ là bản chất của chế độ ta. từ trước tới nay trong bất kỳ giai đoạn, hoàn
cảnh lịch sử nào, Đảng và Nhà nước ta đều nhận thức được rằng thực hành dân chủ
rộng rãi là sức mạnh to lớn, quyết định sự thành công của cách mạng. Tuy việc phát
huy dân chủ trong những năm gần đây trên các lĩnh vực của đời sống xã hội đã đạt
được nhiều kết quả tích cực song còn bộc lộ nhiều khiếm khuyết. Trong đó quyền làm
chủ của nhân dân chưa được thể hiện và thực hiện đầy đủ, chế độ trách nhiệm không
rõ ràng, bệnh quan liêu, tệ tham nhũng khá nặng nề, làm mất sức chiến đấu và giảm
uy tín của Đảng và Nhà nước.
Trong hệ thống chính trị nước ta, chính quyền cấp cơ sở có một vị trí hết sức
quan trọng, là cấp gần dân nhất, cấp cơ sở là cấp làm việc trực tiếp với dân, tiếp xúc
hàng ngày với dân, là cấp hiểu dân nhất, tất cả mọi tâm tư nguyện vọng yêu cầu của
dân ở cấp cơ sở nếu không quan liêu thì tất nhiên phải biết và đó cũng là cấp trực tiếp
truyền đạt những đường lối, chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước đối với dân
và trực tiếp lãnh đạo nhân dân thực hiện nhiệm vụ. Do đó, chính quyền cấp cơ sở có
một vai trò, vị trí rất quan trọng. Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, dân
chủ hoá xã hội và các mục tiêu có tính cương lĩnh khác của Đảng có thực hiện được hay
không có thể nói phần lớn phụ thuộc vào bộ phận dân cư ở cấp cơ sở này.
Thế nhưng, xét về kết cấu chính trị, xã hội, văn hoá ở cấp xã, phường khá phức
tạp. ở cơ sở xen lẫn với pháp luật của nhà nước là hương ước của các làng xã, luật tục,
lệ làng cùng tồn tại. Trình độ văn hoá của cán bộ và nhân dân còn thấp, nhiều nơi việc
tiếp xúc với các phương tiện thông tin còn hạn chế. Nhân dân ít quan tâm đến đời
sống chính trị và văn hoá, thậm chí những quyền lợi của mình cũng không biết đến.


Do đó, xét ở góc độ chính trị thì cấp cơ sở là cấp yếu nhất trong hệ thống chính trị ở
nước ta hiện nay. Nhiều điểm nóng cũng xẩy ra ở cơ sở, dân chủ bị vi phạm nghiêm
trọng, chính quyền nhiều nơi tham ô, ức hiếp nhân dân mà không được quan tâm giải
quyết kịp thời. Vì vậy, trong phạm vi bài tiểu luận này tác giả xin đề cập đến các giải
pháp để tiếp tục xây dựng hoàn thiện và thực hiện quy chế dân chủ ở xã, phường, thị
trấn ở nước ta hiện nay.


II. Nội dung
1. Dân chủ xã hội chủ nghĩa
1.1. Khái niệm dân chủ xã hội chủ nghĩa
Dân chủ (theo tiếng Hy Lạp) là "quyền lực của nhân dân", "chính quyền của
nhân dân". Các tác giả kinh điển Mác - Lênin đã kế thừa và phát triển tư tưởng dân
chủ ấy trong khi đặt vấn đề xác lập chế độ xã hội mới, xã hội chủ nghĩa. Trong Tuyên
ngôn Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph. Ăngghen đã đặt vấn đề xây dựng một xã hội mới,
xác định bản chất của chế độ mới rằng: "Tự do của mỗi người là điều kiện phát triển
tự do của tất cả mọi người" và "giải phóng con người" là mục tiêu của một nhà nước
kiểu mới; là nhà nước tổ chức được đời sống chung của nhân dân, trong đó bảo đảm
được sự phát triển tự do tối đa và "phát triển toàn diện con người".
Về mặt nhà nước, Các Mác chủ trương xây dựng một chế độ dân chủ triệt để,
dân chủ là "do nhân dân tự quy định", là bước chuyển từ xã hội thần dân sang xã hội
công dân, là từ "nhân dân của nhà nước" sang "nhà nước của nhân dân". Về sau, tư
tưởng dân chủ ấy được Lênin tiếp thu và phát triển trong quá trình xây dựng nhà nước
kiểu mới, trước hết là xác định rõ "Mục đích của chính quyền Xô viết là thu hút
những người lao động tham gia vào quản lý nhà nước", thực hiện một nền dân chủ
rộng rãi nhằm giải phóng con người và phát triển toàn diện con người trong xã hội
mới. Bởi vì, như Lênin đã nói: "không có chế độ dân chủ thì chủ nghĩa xã hội sẽ
không thể thực hiện được theo hai nghĩa sau đây: 1) giai cấp vô sản không thể hoàn
thành được cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa nếu họ không được chuẩn bị cho cuộc
cách mạng đó thông qua cuộc đấu tranh cho chế độ dân chủ; 2) chủ nghĩa xã hội chiến

thắng sẽ không giữ được thắng lợi của mình và sẽ không dẫn được nhân loại đi đến
thủ tiêu nhà nước nếu không thực hiện đầy đủ chế độ dân chủ".
Như vậy, dân chủ là một hiện tượng lịch sử xã hội gắn liền với sự tồn tại và
phát triển của đời sống con người là loài người. Xuất hiện trong điều kiện xã hội có
giai cấp nên cả nhà nước lẫn chế độ dân chủ đều mang bản chất giai cấp. Nhà nước là
công cụ để thực hiện lợi ích và duy trì quyền lực của giai cấp thống trị, nên chế độ
dân chủ bao giờ cũng chỉ phục vụ cho giai cấp thống trị mà thôi. Lênin gọi các chế độ
dân chủ đó, kể cả dân chủ tư sản là dân chủ của một thiểu số. Quần chúng nhân dân


lao động nếu có được hưởng một số quyền dân chủ nào đó thì điều đó do họ đấu tranh
mà dành được, giai cấp thống trị muốn tồn tại được buộc phải đáp ứng một số đòi hỏi
dân chủ nhất định cho dân chúng dù hạn chế và thường bị cắt xén.
Về mặt nhà nước, trên cơ sở xác định "việc thu hút được mọi người lao động
tham gia vào quản lý là một trong những chủ thể quyết định của nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa.
Trong điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam, Nguyễn ái Quốc đã sớm đặt
ra những yêu cầu dân chủ trong bức thư 8 điểm gửi Hội nghị Véc xây. Người đã đề
cập đến những quyền dân chủ rất cơ bản như ân xá toàn thể chính trị phạm Việt Nam,
bỏ hẳn Toà án đặc biệt đòi quyền tự do báo chí, tự do tư tưởng, hội họp, lập hội, tự do
cư trú, xuất dương học tập và mở trường kỹ thuật chuyên nghiệp cho người bản xứ ở
khắp các tỉnh.
Hồ Chí Minh cũng đã kế thừa tư tưởng dân chủ của phương Tây và phương
Đông như "Đề cao nhân dân", chẳng hạn "dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh".
Nhưng ở đây, khái niệm "dân" trong quan niệm của Hồ Chí Minh là "những người lao
khổ", là nhân dân lao động - những người sáng tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho
xã hội. Với quan niệm nhân dân ấy người đề cao nhân dân rằng "trong bầu trời không
có gì quý bằng nhân dân". Đối với người tất cả mọi việc trong đời, dù khó khăn đến
mấy nhưng nếu biết dựa hẳn vào dân thì bao giờ cũng thành công.
Từ vị thế của nhân dân, khi thành lập nước, xác định chính thể "Việt Nam dân

chủ cộng hoà", người khẳng định nguồn gốc sâu xa của quyền lực nhà nước là ở nhân
dân.
"Nước ta là nước dân chủ
Bao nhiêu lợi ích đều vì dân
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân.
Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra
Nói tóm lại quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân".
Từ quan điểm của các tác gia kinh điển chúng ta thấy cái mới của nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa là ở chỗ.


Thứ nhất: Dân chủ cho số đông, là sự bảo đảm quyền lực lợi ích của nhân dân,
do giai cấp công nhân đại diện. Giai cấp công nhân không có lợi ích riêng của mình
mà biểu hiện cho lợi ích chung của toàn xã hội.
Thứ hai: tiền đề đầu tiên của dân chủ xã hội chủ nghĩa là quần chúng phải được
giải phóng và đạt được một bước ngoặt lịch sử là tự do về chính trị, là chủ thể lịch sử,
là quyền dân tộc tự quyết.
Thứ ba: cơ sở chính trị trực tiếp là nhà nước kiểu mới, là Đảng Cộng sản cầm
quyền, lãnh đạo xã hội và nhà nước.
Đối với nước ta, chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa có một số đặc trưng sau:
Quyền dân chủ cao nhất thuộc về nhân dân, do nhân dân sử dụng để tổ chức bộ
máy nhà nước; và giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước (các cơ quan và cán
bộ công chức), để thực hiện các quyền dân chủ trực tiếp, nhất là ở cơ sở nơi nhân dân
trực tiếp lao động và sinh hoạt.
Chế độ dân chủ được xác lập là do thắng lợi của cuộc cách mạng do Đảng và
Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo - không có Đảng Cộng sản Việt Nam thì không có nền
dân chủ XHCN ở Việt Nam.
Dân chủ ở nước ta là dân chủ toàn diện được phát triển trên các lĩnh vực: chính
trị, kinh tế, văn hoá, xã hội.
Sự tham gia của nhân dân vào quản lý nhà nước và xã hội được thực hiện thông

qua các hình thức: Dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp.
Tóm lại, dân chủ là một quyền của người dân nhưng nó có hai mặt: Một là,
những quyền về tổ chức nhà nước và các quyền trong kinh tế, chính trị và dân sinh;
Hai là: các nghĩa vụ liên quan đến bảo vệ chế độ, đóng góp để tạo nguồn ngân sách,
chấp hành các quy định pháp luật về quyền lợi quốc gia dân tộc và của mỗi người.
Nếu nhân dân chỉ sử dụng quyền thì mới đạt được một mặt của dân chủ, nếu nhân dân
chỉ làm nghĩa vụ thì nội dung dân chủ bị đảo lộn.
1.2. Sơ lược về quá trình thực hiện dân chủ ở nước ta hiện nay
Nước ta là một nước chưa qua giai đoạn phát triển TBCN nên khác với các
nước phương Tây, vấn đề dân chủ là vấn đề tương đối mới mẻ. Tuy gọi là mới nhưng
từ khi chưa có sự ra đời của Đảng ở nước ta đã có những phong trào đấu tranh đòi dân
chủ như phong trào Đông Du, Đông kinh nghĩa thục… với các vị thân sỹ nổi tiếng


như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh… Sau khi Đảng ra đời phong trào đấu tranh đòi
dân chủ ở nước ta là một bộ phận của phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc. Đảng
lãnh đạo nhân dân ta là làm cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đánh đuổi thực dân,
đánh đổ phong kiến, xây dựng một nước dân chủ cộng hoà tiến lên CNXH. Dân chủ ở
đây là phải giành được độc lập dân tộc, đưa nhân dân từ vị trí nô lệ, làm thuê lên địa
vị làm chủ. Muốn vậy, Đảng Cộng sản phải lãnh đạo nhân dân giành được chính
quyền, đưa lại cho nhân dân cuộc sống ấm no hạnh phúc. Yêu cầu đầu tiên về dân chủ
"độc lập cho dân tộc, ruộng đất cho dân cày" đã thực hiện được bằng thắng lợi của
cuộc cách mạng tháng tám 1945 và công cuộc cải cách ruộng đất sau năm 1954. Khi
đất nước bị chia cắt làm hai miền với hai chế độ chính trị đối lập nhau, yêu cầu thiêng
liêng về dân chủ của toàn thể dân tộc Việt Nam là được sống trong một đất nước hoà
bình, tự do, thống nhất. Dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, nhân dân ta đã lập nên
chiến thắng vĩ đại với chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử mùa xuân 1975 và đã thống
nhất đất nước.
Trong báo cáo chính trị tại Đại hội IV (1976) Đảng ta khẳng định xây dựng và
phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động là vấn đề thuộc về bản chất của

chế độ ta. Quyền làm chủ đó phải được thể hiện trên mọi mặt: Làm chủ về chính trị,
kinh tế, văn hoá, làm chủ thiên nhiên, làm chủ xã hội, làm chủ bản thân; làm chủ trên
phạm vi cả nước và làm chủ ở từng địa phương; làm chủ bằng nhiều phương thức
khác nhau nhưng chủ yếu là bằng nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Đại hội lần thứ V giải thích rõ thêm: Nhân dân lao động thực hiện quyền làm
chủ tập thể chủ yếu bằng nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng.., trước hết thông qua
Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp… thông qua Hội đồng Bộ trưởng và uỷ ban
nhân dân các cấp.
Rút kinh nghiệm từ những thành tựu cũng như thiếu sót trong lãnh đạo xây
dựng đất nước, Đại hội VI (1986) đã nêu bài học lấy dân làm gốc, xây dựng và phát
huy tốt hơn nữa quyền làm chủ của nhân dân lao động, thực hiện phương châm "dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra". Nghị quyết Đại hội đã viết: "Đối với những chủ
trương quan hệ trực tiếp tới đời sống nhân dân trên phạm vi cả nước cũng như ở các
địa phương và đơn vị cơ sở, cấp uỷ đảng và cơ quan chính quyền phải trưng cầu ý
kiến nhân dân trước khi quyết định. Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, đó là nề


nếp hàng ngày của xã hội mới, thể hiện chế độ nhân dân lao động tự quản lý nhà nước
của mình".
Trên tinh thần đó sau hơn 10 năm đổi mới, quá trình dân chủ hoá ở nước ta đã
có nhiều tiến bộ. Dân chủ đã trở thành một nguyên tắc không thể thiếu trong sinh hoạt
của các tổ chức Đảng, đoàn thể và trong nhân dân. Sự công khai phê bình được mở
rộng, thông tin báo chí được tự do hơn. Nhiều hành vi phản dân chủ, vi phạm quyền
làm chủ của nhân dân được vạch trần và xử lý. Khẩu hiệu "dân biết, dân bàn, dân làm,
dân kiểm tra" được thực hiện ở nhiều nơi đem lại hiệu quả tốt về kinh tế, xã hội, tạo
nên bầu không khí lành mạnh và tin tưởng trong đời sống chính trị ở địa phương.
Tuy vậy, chúng ta cũng phải thẳng thắn thừa nhận rằng tình trạng mất dân chủ
ở nước ta còn rất nặng nề. Trong chỉ thị của Ban Chấp hành Trung ương đảng khoá
VIII ngày 18/12/1998 đã thừa nhận rằng: "Nhìn chung quyền làm chủ của nhân dân
còn bị vi phạm ở nhiều nơi, trên nhiều lĩnh vực, tệ quan liêu, mệnh lệnh, cửa quyền,

tham nhũng, sách nhiễu, gây phiền hà cho dân vẫn đang phổ biến và nghiêm trọng mà
chúng ta chưa đẩy lùi, ngăn chặn được. Phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân
kiểm tra" chưa được cụ thể hoá và thể chế hoá thành luật pháp". Điều đó được tiếp tục
khẳng định tại Đại hội IX của Đảng: "Tình trạng mất dân chủ, tệ quan liêu, cửa quyền,
tham nhũng, sách nhiễu dân, lãng phí còn nặng đang là lực cản của sự phát triển và
gây bất bình trong nhân dân".
Do đó vấn đề dân chủ hoá xã hội là vấn đề khó khăn, phức tạp. Sự kiện Thái
Bình và nhiều nơi khác đã thể hiện rõ điều đó. Nhưng cũng vì thế mà chúng ta không
nóng vội được bởi vì mở rộng dân chủ đến mức không giới hạn sẽ phá vỡ kỷ cương,
rối loạn xã hội mất ổn định về chính trị, nhất là trong bối cảnh kẻ thù đang dùng chiêu
bài dân chủ, nhân quyền để chống phá chúng ta. Giáo sư, tiến sỹ Lê Hữu Nghĩa đã
nói: "Đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước thuộc địa nửa phong kiến, bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa, chưa trải qua trường học dân chủ tư sản nên xã hội Việt Nam không
thể bỗng chốc có ngay một nền dân chủ đầy đủ và hoàn thiện. Chúng ta phải từng
bước xây dựng chế độ dân chủ và từng bước học dân chủ để làm dân chủ. Do đó dân
chủ là cả một quá trình".
2. Nội dung quy chế dân chủ ở cơ sở xã, phường, thị trấn


Những năm gần đây, trong hoạt động quản lý nhà nước có nhiều khuyết điểm,
nhất là nạn tham ô, tham nhũng, quan liêu, xa dân… làm phương hại đến uy tín của
nhà nước làm quyền lợi của nhân dân bị xâm hại, vai trò làm chủ của nhân dân bị xem
nhẹ. Do đó, sự cần thiết phải có quy chế dân chủ ở cơ sở là một đòi hỏi tất yếu của
tiến trình phát triển dân chủ ở nước ta trong đổi mới.
Quy chế thực hiện dân chủ ở xã (phường, thị trấn) được ban hành theo Nghị
định số 29/1998/NĐ-CP ngày 11-5-1998 của Chính phủ. Quy chế gồm lời nói đầu, 7
Chương và 25 Điều.
Những nội dung của bản Quy chế.
Thứ nhất: Những quy định chung về mục đích, mục tiêu và nguyên tắc áp dụng
Quy chế. Đó là:

- Quy chế ban hành nhằm bảo đảm cho cán bộ, công chức, cán bộ xã (phường,
thị trấn - sau đây gọi chung là cán bộ xã) chủ động phát huy quyền dân chủ của nhân
dân địa phương trong xây dựng và phát triển các mặt ở địa phương;
- Bảo đảm sự ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội, nâng cao dân trí;
- Xây dựng Đảng và chính quyền vững mạnh;
- Chống quan liêu, tham nhũng, suy thoái đạo đức trong công vụ;
- Phát huy vai trò chủ động, tích cực của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân
dân;
- Dân chủ trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật, ngăn chặn tình trạng mất
dân chủ từ phía Nhà nước, đồng thời chống khuynh hướng dân chủ bừa bãi.
Thứ hai: Những việc nhân dân bàn và trực tiếp quyết định.
Những quy định này xuất phát từ quan điểm: Nhân dân có quyền và nghĩa vụ
thực hiện và chấp hành pháp luật, vận dụng những quy định pháp luật nhằm gia tăng
sản xuất, huy động nguồn lực để phát triển.
Nhưng mỗi địa phương có điều kiện khác nhau về dân trí, dân số, tài nguyên,
tập quán, do đó cũng khác nhau trong việc huy động và phát triển đời sống, xây dựng
cơ sở hạ tầng nông thôn theo Quy chế tự quản.
Vì thế, nội dung này nằm ngoài những nội dung quy định trong pháp luật. Tuy
nhiên, khi quyết định các vấn đề phải vừa phát huy tiềm năng trên cơ sở tự giác, đồng
thời không được áp đặt, ép buộc dân.


Những công việc cụ thể trong Quy chế bao gồm 5 loại công việc, như vấn đề:
mức đóng góp cho xây dựng công trình phúc lợi, lập các quỹ phục vụ nhu cầu địa
phương không trái pháp luật… (Điều 6, Chương III). Đây là những quy định mở rộng
quyền tự quản của nhân dân nhằm phát huy nội lực của nhân dân địa phương, phục vụ
cho chính nhân dân địa phương.
Thứ ba: những việc nhân dân góp ý kiến, chính quyền xã quyết định và chịu
trách nhiệm.
Nội dung này được quy định tại Chương IV, Điều 9, 10 của Quy chế.

- Đây là nhóm những công việc thuộc chức năng của chính quyền xã, nhất là
các chức năng có tính chất xây dựng chủ trương, chính sách về kinh tế - xã hội trên
địa bàn xã. Những công việc này, về mặt chức năng và tổ chức thực hiện thuộc vai trò
của chính quyền, nhưng có ảnh hưởng trực tiếp tới việc huy động sức dân, huy động
sự tham gia của nhân dân địa phương.
Vì thế, trước khi ban hành chính sách, thường là các nghị quyết của Hội đồng
nhân dân, chính quyền cần tổ chức tham khảo ý kiến nhân dân.
- Về phương thức lấy ý kiến, Quy chế quy định thực hiện các hình thức để có thể
lấy ý kiến các thành viên chủ chốt như: chủ hộ, các đoàn thể…
Thứ tư: những việc nhân dân giám sát, kiểm tra.
Những quy định này nằm trong Chương V, Điều 11, 12 của Quy chế.
Quy định này liên quan trực tiếp đến loại nhiệm vụ thuộc chức năng của Hội
đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân, gắn liền với nhóm các công việc quy định ở phần
trên. Tuy nhiên, hai loại việc và hai loại quy định có liên quan như sau:
ở chương IV: Nhân dân góp ý kiến vào những công việc mà chính quyền mới
xây dựng, sau đó thực thi.
ở chương V: Nhân dân kiểm tra, giám sát những việc đó (những việc chủ yếu)
xem chính quyền thực thi như thế nào, kết quả đến đâu.
Qua đó cho thấy, cơ chế thực hiện quyền dân chủ gắn chặt vào quan hệ giữa
tính chất chịu trách nhiệm của chính quyền trước nhân dân, người trao quyền và có
quyền kiểm tra, giám sát họ.
Để bảo đảm tính khả thi các quy định, Quy chế định ra những nội dung chủ yếu
thuộc quyền và trách nhiệm giám sát đối với cán bộ và chính quyền xã. Vì, nếu Nhà


nước định ra những quy định, nhưng những quy định đó diễn ra ở cơ sở, sát dân; nếu
dân không là người giám sát trực tiếp mà chỉ dựa vào cơ chế giám sát trong nội bộ bộ
máy chính quyền thì chưa đủ. Trên thực tế, cơ chế đó sẽ không có hiệu quả khi chế độ
quan liêu không được khắc phục thì việc giám sát bằng con đường hành chính chưa
đủ, mà phải bằng cơ chế dân chủ và tự quản.

Thứ năm: Những việc chính quyền cần thông báo cho nhân dân biết.
Đây là tập hợp những quy định liên quan đến các lĩnh vực thuộc chính sách của
Nhà nước (pháp luật, những quy định liên quan đến địa phương: ngân sách hàng năm,
chủ trương của địa phương về vay vốn… và nhóm các lĩnh vực về; giải quyết tiêu cực,
tình hình an ninh, chống tệ nạn xã hội, các hoạt động văn hoá và tổng kết, sơ kết của
chính quyền).
Đây là nhóm công việc quan hệ trực tiếp của chính quyền xã với chính quyền
cấp trên, nhưng liên quan đến lợi ích vật chất và tinh thần lâu dài ở địa phương.
Trong hoạt động này, nhân dân có vai trò như người bổ trợ, hỗ trợ đắc lực; cơ
quan nhà nước cấp trên giám sát chính quyền cấp dưới (ví dụ: báo cáo lý do, mục đích
để vay vốn ngân hàng có đúng thực trạng ở địa phương và nguyện vọng của nhân dân
hay không?).
Những quy định trong chương này còn là cơ sở để chính quyền xã tranh thủ sự
ủng hộ, sự tham gia một cách tự giác của nhân dân, tăng thêm sức mạnh hỗ trợ đối với
hoạt động của chính quyền.
Về phương thức thực hiện, Quy chế quy định chính quyền có trách nhiệm phối
hợp với đoàn thể và ban tự quản thôn, bản, cung cấp đầy đủ thông tin qua sáu phương
thức khác nhau để nhân dân biết một cách thuận lợi nhất.
Thứ sáu: Xây dựng cộng đồng thôn (làng, ấp, bản…).
Những quy định trong chương này nhằm xây dựng quy chế tự quản của cộng
đồng dân cư thôn, bản bên cạnh sự quản lý của chính quyền cơ sở.
Những quy định trong chương này nhằm phát huy mọi tiềm năng về nhân tài,
vật lực của cộng đồng để phục vụ chính cộng đồng. Việc tổ chức các tổ quản lý cộng
đồng cũng do chính nhân dân tự quyết theo nguyện vọng của đa số.
Trong Quy chế quy định, các cấp chính quyền địa phương, từ cấp tỉnh đến cấp
xã, nhất là Chủ tịch UBND xã (phường, thị trấn) có trách nhiệm trực tiếp trong việc


phổ biến, giúp đỡ các thôn, bản xây dựng quy chế tự quản phù hợp với Quy chế dân
chủ và pháp luật của Nhà nước.

Những quy định chủ yếu của chương này nhằm vào các nội dung:
Một là, xác định thôn, làng, ấp, bản không phải là cấp chính quyền; mọi hoạt
động phải theo quy chế tự quản, không áp dụng các quy định hành chính.
Hai là, nguyện vọng của nhân dân thông qua ý kiến đa số được thực hiện bằng
hội nghị. Đây là quy định bảo đảm sự bình đẳng, nhất là bình đẳng giữa các hộ dân.
Ba là, tổ chức quản lý và tổ chức do dân bầu ra, không nắm quyền hành chính,
mà chỉ thể hiện ý chí tập thể cộng đồng. Vì vậy, mọi hoạt động của tổ chức này (chủ
yếu là ban quản lý thôn, có trưởng thôn) cần giữ đúng vị thế là đơn vị tự quản, không
phải bộ máy chính quyền.
Bốn là, hoạt động tự quản chủ yếu nhằm vào việc giữ gìn đoàn kết, tương thân,
tương ái, giúp đỡ thực hiện pháp luật Nhà nước, trợ giúp trong sản xuất, cùng nhau giữ
gìn trật tự, an ninh, an toàn xã hội (trong thôn, bản).
3. Đánh giá việc thực hiện quy chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn
Về những việc chính quyền cần thông báo công khai để nhân dân biết.
Trong những năm qua bằng nhiều hình thức thông tin công khai, thông báo, các
địa phương trong cả nước đã thực hiện tốt việc công khai hoá cho nhân dân biết những
loại việc về chính sách pháp luật của Nhà nước, các văn bản của cơ quan Nhà nước
cấp trên, về tình hình xây dựng phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương; quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất đai, các chương trình, dự án xoá đói giảm nghèo…
Tuy nhiên, nhìn chung, nội dung này vẫn là một khâu yếu trong quá trình triển
khai thực hiện Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở. Một số chính quyền xã, phường, thị
trấn vẫn chưa thực sự coi đây là một nhiệm vụ trọng tâm phải thực hiện để Quy chế
thực sự đi vào đời sống.
Đối với những việc nhân dân được bàn và quyết định trực tiếp
Những việc nhân dân bàn và quyết định trực tiếp trong Quy chế thực hiện dân
chủ đã được cấp uỷ, chính quyền cơ sở tạo điều kiện tổ chức thực hiện nhằm phát huy
tốt trí tuệ của quần chúng nhân dân, phát huy quyền dân chủ của nhân dân. Nhiều nơi
đã thực hiện nội dung này theo một quy trình chặt chẽ, khách quan và đảm bảo dân
chủ. Nhiều xã, phường, thị trấn đã làm tốt việc đưa ra nhân dân bàn và quyết định trực



tiếp những nội dung công việc như việc nhân dân đóng góp xây dựng cơ sở hạ tầng và
các công trình phúc lợi công cộng; việc lập, thu, chi các loại quỹ theo pháp luật; xây
dựng hương ước, quy ước; giới thiệu người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã
tại khu dân cư; bầu, bãi miễn, miễn nhiệm trưởng thôn, tổ trưởng dân phố… Ví dụ
trong 5 năm 1999 - 2004, nhân dân Nghệ An đóng góp 1.160 tỷ đồng, chiếm 55%
kinh phí xây dựng kết cấu hạ tầng, trong đó: xây dựng cứng hoá 4.700 km đường và
3.425 km kênh mương, 3.500 km đường dây hạ thế và trên 30.000 m2 trường học. Về
xây dựng hương ước, quy ước một số tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đạt trên
95% như: Hà Nội, Cao Bằng, Phú Thọ, Tuyên Quang, Quảng Ninh, Bắc Ninh, Ninh
bình, Hà Tĩnh, Đà Nẵng, Phú Yên, Đồng Nai, Bình Dương, Trà Vinh… Tỉnh Lâm
Đồng tuy là một tỉnh miền núi, nhưng trong năm 2005, nhân dân đã đóng góp 4,3 tỷ
đồng và gần 48.000 ngày công xây dựng hơn 167 km đường liên thôn, liên bản; 200
chiếc cầu mới, sửa chữa 64 phòng học…
Qua thực tiễn áp dụng Quy chế thực hiện dân chủ ở các địa phương, có thể thấy
đây là các nội dung được nhân dân đánh giá là thực hiện tốt nhất và cũng có sự tham
gia phối hợp tích cực của chính quyền cơ sở. Bên cạnh sự hỗ trợ tích cực của Hội
đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn, thì các nội dung công việc
này được nhân dân ở cộng đồng thôn, làng, ấp, bản, tổ dân phố quan tâm vì gắn bó
thiết thực tới quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, ảnh hưởng trực tiếp tới đời
sống, sinh hoạt của nhân dân cả cộng đồng.
Đối với những việc nhân dân tham gia ý kiến, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân
dân cấp xã quyết định.
Tại nhiều địa phương, trước khi thông qua dự thảo kế hoạch phát triển kinh tế xã hội; kế hoạch chuyển đổi cơ cấu kinh tế, kế hoạch sử dụng đất đai, dự án huy động
các nguồn đóng góp của nhân dân, chính quyền cơ sở đã niêm yết các dự thảo này tại
trụ sở Uỷ ban nhân dân hoặc đưa xuống thôn, ấp, bản, tổ dân phố để nhân dân tham
gia ý kiến. Qua việc tổ chức cho nhân dân tham gia ý kiến, các kế hoạch, dự án được
xây dựng, hoàn chỉnh phù hợp với thực tiễn hơn, thu hút được trí tuệ đóng góp của
nhân dân và qua đó làm cho nhân dân hiểu và quan tâm tới các vấn đề về kinh tế - xã
hội, dân sinh đặt ra đối với địa phương.



Trong kỳ bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2004 - 2009, cử
tri tại cộng đồng dân cư thôn, làng, ấp, bản, tổ dân phố đã phát huy quyền dân chủ của
nhân dân, thực hiện quyền tham gia xây dựng chính quyền địa phương thông qua việc
trực tiếp thảo luận danh sách người ra ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân xã, phường,
thị trấn. Nhân dân đã phát hiện nhiều ứng cử viên vi phạm pháp luật, tham ô, biến
chất… đã kiến nghị đưa ra khỏi danh sách nhiều ứng cử viên tại vòng hiệp thương lần
thứ nhất. Mặc dù nội dung này mới được thực hiện lần đầu tiên, song được nhân dân
đồng tình, ủng hộ và đánh giá cao trong việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở
cơ sở.
Đối với những việc nhân dân giám sát, kiểm tra
Quy chế thực hiện dân chủ đã tạo cơ sở pháp lý để bảo đảm quyền giám sát,
kiểm tra của nhân dân đối với các hoạt động của chính quyền địa phương cấp cơ sở.
Chính quyền xã, phường, thị trấn đã bằng nhiều phương thức, tạo điều kiện tốt cho
nhân dân kiểm tra, giám sát các công việc mà Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân
đã, đang và sẽ thực hiện.
Nhìn chung nội dung các việc mà nhân dân được quyền giám sát, kiểm tra đã
được Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn triển khai thực hiện
và đạt được nhiều kết quả thiết thực trong đời sống chính trị - xã hội tại xã, phường,
thị trấn.
Tuy nhiên, qua tổng hợp tình hình thực hiện cho thấy, kết quả đạt được chỉ mới
ở mức ban đầu, hiệu quả chưa cao như mong đợi của nhân dân, không ít nơi việc thực
hiện còn mang nặng tính hình thức và chưa đáp ứng được sự kỳ vọng của nhân dân
địa phương. Những nội dung công việc mà nhân dân thực sự giám sát, kiểm tra theo
quy định của Quy chế thực hiện dân chủ chưa nhiều, chủ yếu vẫn dừng lại ở mức độ
chính quyền cơ sở thông báo cho nhân dân biết. Điều này lý giải vì sao ở một số địa
phương cơ sở, tình trạng khiếu kiện kéo dài, có nơi mâu thuẫn giữa nhân dân với một
bộ phận lãnh đạo chính quyền cấp xã diễn ra gay gắt, nhân dân bất bình khiếu nại, tố
cáo vượt cấp lên cấp trên.

Về thực hiện tự quản của cộng đồng dân cư thôn, tổ dân phổ
Quá trình thực hiện Quy chế thực hiện dân chủ đã góp phần uan trọng vào việc
xây dựng, củng cố cộng đồng dân cư thôn, làng, ấp, bản, tổ dân phố ở các địa phương.


Nhiều công việc liên quan trực tiếp đến người dân đã được triển khai thực hiện công
khai, dân chủ ở cộng đồng dân cư do đó bảo đảm được sự đoàn kết trong nhân dân,
giữ vững trật tự an toàn xã hội. Đã xây dựng được nhiều hương ước, quy ước tại thôn,
tổ dân phố. Các công việc chung của cộng đồng như vệ sinh môi trường, xây dựng
cuộc sống mới ở khu dân cư, tương trợ giúp đỡ lẫn nhau trong sản xuất và đời sống,
giữ gì, phát huy các truyền thống tốt đẹp và thuần phong mỹ tục của làng, xã đã được
gìn giữ và phát huy qua thực hiện hương ước, quy ước.


4. Các giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở hiện nay
4.1. Tiếp tục thực hiện mở rộng dân chủ trên lĩnh vực kinh tế
Để thực hiện dân chủ trên lĩnh vực kinh tế, phải tôn trọng và đảm bảo lợi ích
chính đáng của người lao động thông qua các chính sách kinh tế và các chính sách xã
hội đối với các thành phần kinh tế trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trên tinh thần
bình đẳng, công khai, tạo lập các điều kiện kinh tế - xã hội cho người lao động có cơ
hội như nhau trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ kinh tế. Phải thể chế hoá về
mặt pháp lý những quyền công dân cơ bản trên lĩnh vực kinh tế, mở rộng dân chủ trên
lĩnh vực kinh tế thông qua việc thực hiện dân chủ trong quản lý kinh tế - xã hội ở cơ
sở, cụ thể: xây dựng kế hoạch, ngân sách, tài chính một cách dân chủ, công khai, phù
hợp với đặc điểm kinh tế của địa phương nhằm nâng cao đời sống của nhân dân. Thực
hiện công bằng, bình đẳng trong thu các loại thuế, các khoản thu khác theo pháp luật.
Không thu tùy tiện hoặc thu cao hơn mức quy định với dân. Huy động sự đóng góp
của dân trên nguyên tắc tự nguyện, việc quản lý khoản đóng góp của dân phải công
khai, có kiểm tra, kiểm soát. Khi nhân dân có khiếu kiện phải giải quyết kịp thời,
đúng đắn, công khai, dân chủ.

4.2. Đổi mới tổ chức bộ máy và phương thức hoạt động của hệ thống chính
trị cơ sở
4.2.1. Xây dựng tổ chức cơ sở đảng ngang tầm với vai trò là hạt nhân lãnh đạo
hệ thống chính trị
Cơ sở là địa bàn quan trọng trong hệ thống bốn cấp của chính quyền, sự lãnh
đạo của tổ chức đảng ở cơ sở phải đối mặt trực tiếp với những vấn đề cụ thể hàng
ngày của nhân dân. Cấp uỷ cơ sở cần tập trung lãnh đạo tốt những nội dung sau:
Lãnh đạo, tổ chức nhân dân nắm được đường lối, chính sách, nghị quyết của
Đảng, pháp luật của Nhà nước, quy định của địa phương. Làm rõ nghĩa vụ, trách
nhiệm của người dân khi đóng góp những loại công quỹ đột xuất: bão lụt, quỹ tương
thân, tương ái. Đảm bảo cho nhân dân quyền được thông tin tất cả những vấn đề liên
quan đến quyền lợi của họ.
Lãnh đạo nhân dân xây dựng "quy ước", "hương ước" nếp sống văn minh, làng
văn hoá, tộc họ văn hoá, gia đình văn hoá.


Lãnh đạo nhân dân, ban thanh tra nhân dân kiểm tra các quyết định về phát
triển kinh tế nông thôn, đóng góp xây dựng cơ sở hạ tầng, thu chi ngân sách, thi công
thanh quyết toán các công trình, thực hiện tốt chế độ công khai tài chính trước dân.
Để xây dựng cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh, giữ vững được vai trò lãnh đạo
cần:
- Kiện toàn đội ngũ cấp uỷ về số lượng và chất lượng, giữ vững nề nếp sinh
hoạt đảng, đoàn kết thống nhất.
- Nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên về mọi mặt: bản lĩnh chính trị, kiến
thức, phẩm chất đạo đức, gần gũi quần chúng, biết tuyên truyền, vận động quần chúng
thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Quá trình xây dựng dân chủ trong đảng cần tiến hành đồng thời với xây dựng
hoàn thiện tổ chức, thể chế dân chủ chung trong toàn xã hội. Thực hiện nghiêm túc
nguyên tắc tập trung dân chủ trong hoạt động của bộ máy nhà nước và thực hiện dân
chủ trong toàn xã hội. Trong đó mỗi đảng viên là một tấm gương mẫu mực trong thực

hiện dân chủ và quy chế dân chủ cho nhân dân noi theo.
4.2.2. Xây dựng bộ máy chính quyền cơ sở vững mạnh là nhiệm vụ trung tâm
của đổi mới hệ thống chính trị nhằm nâng cao trình độ thực hiện dân chủ ở cơ sở
Nhà nước là yếu tố trụ cột của hệ thống chính trị, vì thế việc đổi mới hệ thống
chính trị là cơ sở để nâng cao trình độ thực hiện dân chủ, tất yếu phải lấy xây dựng
chính quyền cơ sở là nhiệm vụ trung tâm. Chính quyền phải là chính quyền công khai
dân chủ, tính công khai dân chủ này không chỉ đòi hỏi ở cấp chính quyền cơ sở mà
còn đòi hỏi ở chính quyền cấp trên, nếu chỉ công khai ở cơ sở không thôi thì không đủ
để duy trì và phát triển dân chủ ở cơ sở một cách rộng rãi và bền vững. Do đó, cần
phải:
- Tăng cường vai trò của cơ quan dân cử: các cơ quan dân cử được nhân dân
bầu ra để đại diện cho nhân dân thực hiện quyền làm chủ của dân, nhân dân bầu người
đại diện không phải bầu xong là mất quyền mà người đại diện đó phải thường xuyên
gặp gỡ nhân dân, lắng nghe nguyện vọng của nhân dân, đề nghị, kiến nghị đến cơ
quan hành pháp giải quyết quyền lợi chính đáng của dân.


- Xây dựng quy chế làm việc nghiêm túc của các cơ quan chính quyền các cấp.
Quy định rõ chức năng, quyền hạn của từng tổ chức cá nhân, quy định mối quan hệ
công tác giữa Đảng, chính quyền, đoàn thể nhân dân, các tổ chức kinh tế - xã hội.
- Xây dựng mối quan hệ mật thiết giữa chính quyền và nhân dân, tạo điều kiện
để nhân dân trực tiếp tham gia xây dựng chính quyền cơ sở, tham gia trực tiếp vào
công tác kiểm tra, kiểm soát các hoạt động của bộ máy chính quyền. Chỉ khi nào nhân
dân tham gia hoạt động này có hiệu quả thì mới chống được tham nhũng và những
thiếu sót mà bộ máy nhà nước thường mắc phải.
- Tiếp tục thực hiện cải cách hành chính trong hoạt động của chính quyền cơ sở
với mục tiêu là xây dựng một nền hành chính dân chủ, đó là một nền hành chính công
quyền, sát dân, sát cơ sở. Cải cách hành chính ở cơ sở cần tập trung xây dựng đội ngũ
công chức có phẩm chất năng lực hoàn thành nhiệm vụ quản lý nhà nước theo chức
danh, chế độ công cụ; tập trung cải cách thủ tục hành chính nhằm giảm bớt sự phiền

hà đối với công dân, xử lý đúng đắn, nhanh gọn những vấn đề có liên quan đến đời
sống nhân dân.
4.2.3. Tiếp tục đổi mới tổ chức phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc
và các đoàn thể chính trị, xã hội cơ sở
Đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của các đoàn thể chính trị, xã hội ở
cơ sở nhằm củng cố, tăng cường cơ sở chính trị của quyền lực nhà nước; nâng cao
chất lượng phối hợp và thống nhất hành động của các tầng lớp dân cư trong thực hiện
đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tham gia xây dựng các quyết
sách chính trị của tổ chức đảng, nghị quyết của Hội đồng nhân dân, cùng những quyết
định quản lý nhà nước của chính quyền cơ sở. Bằng cách đó, nhân dân thực hiện
quyền giám sát, kiểm tra việc thực hiện quyền dân chủ, chăm lo, bảo vệ lợi ích chính
đáng của các tầng lớp nhân dân địa phương, bảo vệ Đảng và chính quyền, góp phần
tăng cường mối liên hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước từ cơ sở.
4.3. Từng bước hoàn thiện hình thức dân chủ đại diện và phát triển hình
thức dân chủ trực tiếp ở cơ sở
Hoàn thiện cơ chế thực hiện dân chủ đại diện nhằm khắc phục dân chủ hình
thức trong hoạt động của các cơ quan dân cử và đoàn thể chính trị, xã hội ở cơ sở.
Thực hiện đầy đủ các chế định bầu cử dân chủ.


Tổ chức chỉ đạo thực hiện bầu cử đúng pháp luật hiện hành.
Đảm bảo quyền tự do ứng cử của nhân dân. Khi quyết định hành vi ứng cử,
công dân đã tự ý thức được giá trị dân chủ trên lĩnh vực chính trị. Để mở rộng khả
năng sử dụng quyền đó, cần tạo bầu không khí dân chủ kích thích tính tích cực chính
trị của công dân, khuyến khích tinh thần tham gia các hoạt động quản lý nhà nước ở
cơ sở.
Việc bố trí Bí thư Đảng uỷ xã (hay chi bộ) kiêm Chủ tịch UBND hay Chủ tịch
HĐND là một quyết định đúng đắn làm cho các hoạt động của chính quyền đúng
hướng lãnh đạo chính trị của Đảng, pháp luật của nhà nước. Song, việc thực hiện chủ
trương "nhất thể hoá" lại phát sinh nhiều vấn đề mới cần chú ý đúng mức ở hoàn cảnh

cụ thể ở từng cơ sở mà giải quyết.
Nâng cao chất lượng hoạt động của các hình thức dân chủ đại diện, thực chất là
quá trình hiện thực hoá quyền làm chủ của cộng đồng dân cư ở cơ sở, mở rộng dân
chủ XHCN, làm cho mọi hoạt động quản lý và điều hành của cơ quan quyền lực nhà
nước ở địa phương dựa theo nguyên tắc và phương pháp dân chủ, tạo điều kiện cho
việc thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở cũng chính là góp phần hoàn thiện hình
thức dân chủ trực tiếp ở cơ sở. Vấn đề thực hiện dân chủ trực tiếp phải xác định rõ
quyền được bàn bạc, thảo luận dân chủ những vấn đề có liên quan đến cuộc sống thiết
thân của dân như giao quyền sử dụng đất, vay vốn phát triển xoá đói giảm nghèo, phát
triển kinh tế hộ, đề cử, ứng cử Hội đồng nhân dân, góp ý với cấp uỷ đảng và chính
quyền cơ sở về công tác lãnh đạo, quản lý…
Xác định những vấn đề mà dân có quyền quyết định như mức đóng góp, xây
dựng cơ sở hạ tầng, các công trình phúc lợi ở địa phương, xây dựng hương ước, quy
ước, nếp sống văn minh, cộng đồng tự quản, thiết lập Ban Thanh tra nhân dân, tham
gia dự thảo chủ trương, chính sách, kế hoạch, nghị quyết của cơ quan lãnh đạo và
quản lý của địa phương trước khi ra quyết định.
Xác định rõ quyền của nhân dân, thực hiện việc giám sát, kiểm tra hoạt động
của đại biểu cơ quan dân cử; kiểm tra kết quả giải quyết các đơn thư khiếu tố của dân,
giám sát nguồn tài chính do dân đóng góp, khắc phục tính hình thức trong công tác
tiếp dân; công khai giải quyết những vấn đề dân phát hiện, xử lý kịp thời cá nhân vi
phạm pháp luật.


4.4. Nâng cao trình độ dân trí, đặc biệt là văn hoá dân chủ, văn hoá pháp
luật cho các tầng lớp xã hội nhằm tích cực hoá các nhu cầu và năng lực thực hành
dân chủ của quần chúng nhân dân ở cơ sở
Muốn mọi người dân có thể làm chủ được xã hội, tham gia có hiệu quả vào việc
thực hiện dân chủ ở cơ sở, cần phải xác lập hệ thống các giá trị dân chủ ở cơ sở, điều
này đòi hỏi phải không ngừng nâng cao trình đô văn hoá dân chủ, văn hoá pháp luật
cho mọi công dân.

Thứ nhất, bồi dưỡng ý thức dân chủ theo định hướng XHCN cho các tầng lớp
xã hội ở cơ sở.
Thứ hai, nâng cao kinh nghiệm và năng lực thực hành dân chủ cho từng cá
nhân và cộng đồng dân cư.
Thứ ba, xây dựng nhân cách dân chủ của cá nhân thông qua các hoạt động
chính trị ở cơ sở.
Hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo hành lang pháp lý đảm bảo quyền làm chủ
thực sự của công dân ở cơ sở, ví dụ xây dựng các quy định pháp lý về "bầu cử trưởng
thôn" hay "tổ chức ban quản lý thôn". Đồng thời, nâng cao trình độ văn hoá pháp luật
cho mọi công dân để mỗi công dân có thể tự tham gia xây dựng Hiến pháp, pháp luật,
sử dụng pháp luật như là công cụ bảo vệ mình, chống lại những hành vi vi phạm
pháp luật một cách tích cực và đúng pháp luật. Chỉ khi nào mỗi công dân thực sự hiểu
rõ, nắm vững vai trò, vị trí của pháp luật và những chế định pháp luật cụ thể thì mới
sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật được. Việc giáo dục pháp luật cho công
dân phải đi liền với giáo dục đạo đức, bởi thực tế những tội phạm ra trước vành móng
ngựa không phải họ không hiểu biết pháp luật mà do sự thoái hoá, biến chất kém đạo
đức.
4.5. Xây dựng đời sống cộng đồng tự quản ở cơ sở
Thực hiện QCDC ở cơ sở là một bước ngoặt quan trọng để xây dựng và củng
cố những nền tảng văn hoá, vật chất và tinh thần cho sự phát triển bền vững của xã
hội nông thôn Việt Nam. Trong đó, một nội dung quan trọng của quy chế là xây dựng
cộng đồng dân cư thôn, làng, ấp, bản.
Làm thế nào để xây dựng cộng đồng tự quản ở cơ sở? Cần phải:


- Sàng lọc kỹ cán bộ thôn. Việc sàng lọc tuyển chọn cán bộ là do nhân dân trực
tiếp làm. Có thể tiến hành bầu trưởng thôn, ban quản lý thôn theo hai bước. Bước
một, phát phiếu tín nhiệm cho từng thành viên trong cộng đồng, mỗi người sẽ ghi tên
người mình chọn lựa vào phiếu tín nhiệm, thống kê lấy những người cao phiếu nhất
đưa ra bầu cử. Bước hai, bầu cử trưởng thôn hay ban quản lý thôn theo danh sách

thống kê ở bước một theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp, bỏ phiếu kín.
Bầu người quản lý ở cơ sở theo phương thức trên sẽ chọn ra được những người có đủ
phẩm chất, năng lực, tâm huyết, được nhân dân tín nhiệm, gần dân, sát dân và đảm
bảo quyền dân chủ ngay từ khâu chọn người lãnh đạo thay cho cách bầu áp đặt trước
đây.
- Tạo các nguồn lực, kinh phí đưa về thôn, xã. Việc thu hút kinh phí và quản lý
kinh phí phải làm sao để tránh rò rỉ và đem lại hiệu quả thực sự. Kinh phí đưa về cơ
sở thường bị thất thoát bằng nhiều cách, vì vậy cần công khai hoá, báo trước cộng
đồng những nguồn kinh phí được cấp. Niêm yết và phát thanh hay báo cáo trước hội
nghị thôn những kế hoạch triển khai và khai báo sử dụng kinh phí được cấp hay cả
kinh phí tự có.
- Cần phải thay đổi nhiều hơn nữa phương thức làm việc của các cấp địa
phương và trung ương thì mới xây dựng được một cuộc sống cộng đồng ở cơ sở bởi
đây không phải chỉ là việc của thôn xã mà đó chỉ là một mắt khâu, dù là mắt khâu
quan trọng nhưng nếu tiến hành độc lập thì cũng không thể thành công được.
- Việc xây dựng quy ước, hương ước, xây dựng làng văn hoá là một yếu tố rất
quan trọng để xây dựng cộng đồng tự quản ở cơ sở nông thôn. Vì vậy lãnh đạo Đảng,
chính quyền cơ sở không thể xem nhẹ công việc này. Cần tiến hành nghiêm túc từ
khâu làm điểm, làm mẫu việc xây dựng quy ước, hương ước đến đưa cho dân trực tiếp
bàn bạc, góp ý kiến xây dựng cho từng điểm quy định trong quy ước, hương ước và
tiến hành thực hiện những quy định đó theo đúng các chuẩn mực pháp luật.
4.6. Xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở có phẩm chất năng lực xứng đáng với sự
uỷ quyền của dân và tận tụy phục vụ dân
- Cán bộ phải được đào tạo cơ bản, có hệ thống theo một quy trình chặt chẽ từ
khâu thi tuyển, học tập, nghiên cứu đến kiểm tra đánh giá đúng chất lượng khi ra
trường.


- Có kế hoạch đào tạo bồi dưỡng cán bộ. Căn cứ vào tiêu chuẩn cán bộ từng
ngành, từng lĩnh vực để xây dựng chương trình cho sát hợp, "Làm việc gì học việc

ấy". Kết hợp các hình thức đào tạo:
+ Đào tạo dài hạn đối với cán bộ trong diện quy hoạch lâu dài.
+ Bồi dưỡng ngắn hạn cho cán bộ đương chức.
+ Tập huấn ngắn ngày, tham quan, học tập kinh nghiệm.
- Mở một số lớp đào tạo cán bộ cơ sở đặc biệt, phục vụ cho yêu cầu của các địa
phương, cơ sở với nội dung đào tạo ngắn gọn, phù hợp với xã, phường; thiết thực
trước mắt như: quản lý đất đai, quản lý hộ tịch, chính sách thương binh xã hội, ngân
sách xã, quyết đoán các công trình xây dựng cơ bản, Tư pháp, Thanh tra nhân dân,
tiếp dân, giải quyết khiếu nại tố cáo của dân, hào giải dân, Luật hành chính. Đào tạo
chuyên môn nghiệp vụ gắn liền đạo đức, tác phong.
Đào tạo cán bộ phải gắn với sử dụng cán bộ. Phải thấy rõ sử dụng cán bộ là yêu
cầu của thực tiễn cách mạng, là năng lực, đạo đức của người lãnh đạo. Đó là sự kết
hợp cả nhân tố khách quan và chủ quan. Để tránh tình trạng sử dụng cán bộ theo lối
"mở cửa" đối với người ăn cánh và "giam" đối với người không ăn cánh thì phải kiên
quyết chữa những căn bệnh "kéo bè, kéo cánh", "bệnh cận thị", "bệnh thích xu nịnh và
thích a dua', bệnh cầu lợi và hưởng lạc vì vậy cần khảo sát đánh giá lại đội ngũ cán bộ
trên tất cả các mặt để có nhận định đúng đắn về thực trạng đội ngũ cán bộ. Từ đó có
kế hoạch đào tạo, sử dụng phù hợp.
- Đối với những cán bộ chủ chốt: Trưởng, phó thôn, Thủ trưởng cơ quan, Giám
đốc xí nghiệp… cần có chế độ bầu cử trực tiếp, dân chủ để chọn được những người đủ
tài, đức xứng đáng thay mặt dân lãnh đạo, quản lý, điều hành mọi hoạt động ở cơ sở.
Từ đó có thể vận dụng mở rộng bầu cử trực tiếp với lãnh đạo cấp cao hơn.
- Trên cơ sở xem xét rõ ràng năng lực công tác, tác phong sinh hoạt, cách nói,
cách viết, cách làm… cần "phải có gan cất nhắc cán bộ" trong sử dụng cán bộ, nhất là
cất nhắc cán bộ trẻ.
- Cần có quy hoạch, kế hoạch phát triển cán bộ ở địa phương, thu hút cán bộ trẻ
có năng lực về địa phương cơ sở bằng những chính sách, chế độ hợp lý đối với cán bộ
cơ sở. Đó là động lực để quy tụ đội ngũ cán bộ toàn tâm toàn ý học tập để phục vụ
nhân dân. Tính chất lao động của cán bộ cơ sở rất vất vả, phức tạp, ngoài quy định



chung của Trung ương, các địa phương, cơ sở cần có kinh phí riêng hỗ trợ thêm để
đào tạo, sử dụng cán bộ cơ sở.
- Kiên quyết dựa vào ý kiến nhân dân đấu tranh với những biểu hiện tiêu cực
trong đội ngũ cán bộ cơ sở. Thay thế những cán bộ năng lực hạn chế, thiếu tinh thần
trách nhiệm, tham nhũng, gây mất đoàn kết nội bộ kéo dài, không còn uy tín trong
nhân dân.
III. Kết luận

Việc triển khai quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở là một quá trình xây dựng,
đấu tranh để quy chế ngày càng hoàn thiện và việc thực hiện ngày càng đi vào nề nếp
thường xuyên. Từ những nội dung trình bày trong tiểu luận cho thấy:
- Dân chủ ở cơ sở là một khâu quan trọng có ý nghĩa chiến lược, liên quan đến
sự sống còn của đất nước và chế độ mới, đảm bảo cho nhân dân thực sự là chủ thể
quyền lực chính trị. Dân chủ ở cơ sở là một giá trị văn hoá - văn hoá dân chủ. Tính
giai cấp, tính nhân dân, tính lịch sử, những giá trị nhân loại, dân tộc kết tinh trong hệ
thống các giá trị dân chủ, trong tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ ngày càng được
chúng ta nhận thức đầy đủ và sâu sắc hơn qua việc thực hiện dân chủ ở cơ sở.
Để QCDC ở cơ sở đi vào đời sống, cần có cơ chế thực hiện nó, cơ chế này bao
gồm những nguyên tắc, phương thức tổ chức, biện pháp quản lý và hoạt động của các
tổ chức chính trị, xã hội phản ánh trình tự mối liên hệ và cách thiết lập mối liên hệ
giữa các tổ chức đó trong quá trình đưa các giá trị dân chủ vào cuộc sống theo tư
tưởng dân chủ Hồ Chí Minh.
- Vấn đề thực hiện QCDC ở cơ sở hiện nay cần phải được bảo đảm bằng một
hệ thống đồng bộ các giải pháp, hệ thống các điều kiện kinh tế, chính trị, văn hoá, dân
trí, pháp luật, đội ngũ cán bộ trong mối quan hệ tác động lẫn nhau theo định hướng xã
hội chủ nghĩa do Đảng lãnh đạo. Sự nhận thức đúng đắn các điều kiện thực hiện dân
chủ đòi hỏi phải có quan điểm toàn diện, quan điểm thực tiễn và phát triển.
- Mở rộng dân chủ trên lĩnh vực kinh tế là nội dung trung tâm của hệ thống các
giải pháp cơ bản có tính chỉnh thể - Nhân dân thực hiện quyền dân chủ và làm chủ của

mình trên lĩnh vực kinh tế, từ sản xuất đến phân phối sản phẩm, có quyền được biết,
được bàn, được làm và được kiểm tra trong thực tế với các quan hệ kinh tế ở cơ sở.


Như vậy, các giá trị dân chủ trên lĩnh vực kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa sẽ
được xác lập.
- Đổi mới hệ thống chính trị ở cơ sở là giải pháp cơ bản, có ý nghĩa trọng yếu
và trực tiếp đối với việc làm cho các giá trị dân chủ trở thành hiện thực. Gắn liền với
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương, sự đổi mới phương thức tổ chức,
hoạt động của từng bộ phận hợp thành cũng như cả HTCT sẽ có tác động trực tiếp tới
phát huy dân chủ. Từng bước hoàn thiện hình thức dân chủ đại diện và hình thức dân
chủ trực tiếp ở cơ sở sẽ tác động mạnh mẽ tới quá trình phát huy quyền làm chủ của
nhân dân thông qua cơ chế vận hành HTCT và sự tự quản của các tầng lớp xã hội
trong cộng đồng.
- Nâng cao trình độ văn hoá dân chủ là một giải pháp tác động đồng bộ tới cấu
trúc, ý thức dân chủ, năng lực và kinh nghiệm thực hành dân chủ, nhân cách dân chủ
của các chủ thể chính trị cũng như nếp sống, tập quán sinh hoạt dân chủ của cả cộng
đồng và mỗi cá nhân. Nhờ vậy, tình trạng quan liêu, mệnh lệnh, tham nhũng, cơ hội,
lộng quyền, lạm quyền, bè phái gây mất đoàn kết nội bộ, tha hoá về đạo đức của đội
ngũ cán bộ sẽ được ngăn chặn từng bước. Cùng với sự tác động mạnh mẽ của pháp
luật đến sự điều chỉnh hành vi của mỗi công dân, cả những chủ thể lãnh đạo và bị lãnh
đạo, nâng cao trình độ văn hoá pháp luật dần dần tạo nên nếp sống tôn trọng kỷ
cương, phép nước, tránh được biểu hiện dân chủ cực đoan, tự do vô chính phủ.
Thực hiện QCDC ở cơ sở là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta. Đó vừa
là nhiệm vụ quan trọng và cấp bách hiện nay, vừa là nhiệm vụ lâu dài có ý nghĩa chiến
lược, nhằm tạo động lực cho công cuộc đổi mới, ccnj đất nước. Vì vậy, đòi hỏi phải
tiếp tục chỉ đạo triển khai quy chế này sâu rộng, biến nó thành một nề nếp sinh hoạt
thường xuyên, thành thói quen trong cách làm việc của cấp uỷ, chính quyền và mọi
người dân ở tất cả các địa phương, cơ sở.



Nhận xét của giáo viên

......................................................................................................................
......................................................................................................................
......................................................................................................................
......................................................................................................................
......................................................................................................................
......................................................................................................................
......................................................................................................................
......................................................................................................................
......................................................................................................................
......................................................................................................................
......................................................................................................................
......................................................................................................................
......................................................................................................................


Mục lục

Trang
I. Đặt vấn đề

1

II. Nội dung

2

1. Dân chủ xã hội chủ nghĩa


2

1.1. Khái niệm dân chủ xã hội chủ nghĩa

2

1.2. Sơ lược về quá trình thực hiện dân chủ ở nước ta hiện nay

4

2. Nội dung quy chế dân chủ ở cơ sở xã, phường, thị trấn

6

3. Đánh giá việc thực hiện quy chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn

9

4. Các giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở hiện

12

nay
III. Kết luận

18



×