Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

LUẬN văn thu hút vốn đầu tư vào các khu công nghiệp, khu kinh tế ở tỉnh quảng trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (647.9 KB, 77 trang )

LUẬN VĂN:

Thu hút vốn đầu tư vào các khu công
nghiệp, khu kinh tế ở tỉnh Quảng Trị


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân là một vấn đề có tính quy luật
chung của những nước nông nghiệp. Trong điều kiện phát triển mạnh mẽ xu thế toàn cầu
hóa và cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, một số nước phát triển nhất đang chuyển lên
nền kinh tế tri thức. Đảng ta chủ trương tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với
phát triển kinh tế tri thức. Một trong những nhiệm vụ quan trọng là "Khuyến khích phát
triển công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp chế tác, công nghiệp phần mềm và công
nghiệp bổ trợ có lợi thế cạnh tranh, tạo nhiều sản phẩm xuất khẩu và thu hút nhiều lao
động; phát triển một số khu kinh tế mở và đặc khu kinh tế, nâng cao hiệu quả của các khu
công nghiệp, khu chế xuất" [30, tr.91].
Quảng Trị là một tỉnh duyên hải bắc miền Trung có lợi thế về địa kinh tế nên đã thành
lập khu kinh tế - thương mại đặc biệt Lao Bảo và xây dựng các khu công nghiệp Nam Đông
Hà, khu công nghiệp Quán Ngang, các khu du lịch - dịch vụ Cửa Tùng, Cửa Việt.
Tuy nhiên, Quảng Trị là một tỉnh chịu hậu quả nặng nề của chiến tranh, điều kiện thiên
nhiên không được thuận lợi như nhiều địa phương khác nên việc đầu tư để khai thác các
nguồn lực chưa nhiều. Vì vậy, việc thu hút vốn đầu tư vào các khu công nghiệp, khu kinh tế
nói trên có một ý nghĩa rất quan trọng. Nhưng gần 10 năm đã qua số lượng dự án và lượng
vốn mà tỉnh thu hút được chưa nhiều, chưa tương xứng với tiềm năng của tỉnh. Chỉ từ khi
hành lang kinh tế Đông - Tây được khai thông thì thị trường đầu tư ở Quảng Trị mới có
những tiến triển. Tại sao với sự giúp đỡ to lớn của Chính phủ và sự nỗ lực của tỉnh mà kết
quả đạt được chưa nhiều là một vấn đề cần được nghiên cứu. Bởi vậy " Thu hút vốn đầu tư
vào các khu công nghiệp, khu kinh tế ở tỉnh Quảng Trị " được chọn làm đề tài của luận
văn này.


2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề thu hút vốn đầu tư đã được nghiên cứu, phân tích ở nhiều góc độ khác nhau.
Có thể nêu ra một số công trình sau:
“Nâng cao sức cạnh trạnh của nền kinh tế nước ta trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế” GS-TS Chu Văn Cấp, Nxb CTQG, Hà Nội, 2003. “Kinh tế có vốn đầu tư nước


ngoài trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam: Thực trạng và
triển vọng” Đề tài cấp bộ năm 2004 của khoa Kinh tế - Chính trị, Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh, PGS-TS Trần Quang Lâm chủ biên. “Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt
Nam thực trạng và giải pháp” Trần Xuân Tùng, Nxb CTQG, Hà Nội, 2005; “Nghiên cứu
chiến lược xúc tiến FDI tại nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam” của bộ Kế Hoạch &
Đầu Tư và cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản năm 2003. “Thu hút đầu tư trực tiếp từ các
nước trong khu vực nhằm thúc đẩy phát triển nền kinh tế Việt Nam - thực trạng và giải
pháp” Đinh Văn Cường -Luận văn thạc sĩ kinh tế năm 2004. “Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở
Bình Dương - thực trạng và giải pháp” Bùi Thị Dung - Luận văn thạc sĩ kinh tế năm 2005. “
Kinh nghiệm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở các nước ASEAN và vận dụng vào
Việt Nam” Nguyễn Huy Thám - Luận án tiến sĩ kinh tế năm 2000. "Một số giải pháp đẩy
mạnh thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào vùng duyên hải miền Trung" Bài báo của
Hoàng Hồng Hiệp, tạp chí Kinh tế và Dự Báo số 4/2005. "Một số vấn đề xã hội trong xây
dựng và phát triển các khu công nghiệp ở Việt Nam" Bài báo của Th.S Nguyễn Ngọc Dũng,
tạp chí Kinh tế và Dự Báo số 3/2005.
Các công trình trên chủ yếu tập trung nghiên cứu vấn đề thu hút vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài trên phạm vi của cả nước hoặc của từng ngành, từng địa phương.
Ở tỉnh Quảng Trị có các văn bản liên quan đến thu hút đầu tư như Quyết định số
11/2005/QĐ -TTg ngày 12/01/2005 của Thủ tướng Chính phủ ban hành qui chế khu kinh tế
- thương mại đặc biệt Lao Bảo tỉnh Quảng Trị. Quyết định 984/2005/QĐ - UBND của Uỷ
ban nhân dân tỉnh Quảng Trị ngày 25/5/2005 Ban hành chính sách khuyến khích ưu đãi đầu
tư trên địa bàn tỉnh Quảng Trị. “Một số tình hình về xây dựng và phát triển khu kinh tế
thương mại đặc biệt Lao Bảo tỉnh Quảng Trị” của Ban Quản Lý khu kinh tế thương mại đặc

biệt Lao Bảo tỉnh Quảng Trị năm 2006.
Các văn bản trên đề ra những quy định về quản lý vĩ mô của Nhà nước, chưa trực tiếp
nghiên cứu vấn đề thu hút vốn đầu tư vào các khu công nghiệp, khu kinh tế ở tỉnh.
Luận văn này kế thừa có chọn lọc phương pháp phân tích, một số quan điểm, giải pháp
và những kiến nghị từ các công trình đã được nêu ở trên, để làm rõ lợi thế địa kinh tế của
Quảng Trị trong hệ thống hành lang kinh tế Đông - Tây. Phân tích thực trạng quy hoạch xây
dựng các khu công nghiệp, khu kinh tế, chính sách ưu đãi và quảng bá xúc tiến thu hút đầu


tư, chính sách phát triển nguồn nhân lực của tỉnh Quảng Trị từ đó chỉ ra những thành công
và yếu kém của hoạt động này, đồng thời đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường
thu hút vốn đầu tư vào các khu công nghiệp, khu kinh tế ở tỉnh Quảng Trị đến năm 2010.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Luận văn tập trung nghiên cứu lợi thế địa kinh tế của tỉnh Quảng Trị trong việc thành
lập các khu công nghiệp, khu kinh tế và khả năng thu hút vốn đầu tư, tìm hiểu nguyên nhân
Quảng Trị chưa thu hút được nhiều vốn đầu tư trong 10 năm qua và đề xuất các giải pháp
nhằm tăng cường thu hút vốn đầu tư ở Quảng Trị trong thời gian đến.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
- Phân tích lợi thế về địa kinh tế của tỉnh Quảng Trị trong việc thành lập các khu công
nghiệp, khu kinh tế và khả năng thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước vào các khu công
nghiệp, khu kinh tế đó.
- Đánh giá những thành tựu và hạn chế trong việc thu hút vốn đầu tư vào các khu công
nghiệp, khu kinh tế ở Quảng Trị trong gần 10 năm qua. Trên cơ sở đó chỉ ra nguyên nhân
chủ quan, khách quan ảnh hưởng đến quá trình thu hút vốn đầu tư vào các khu công nghiệp,
khu kinh tế ở Quảng Trị.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp để tăng cường thu hút vốn đầu tư vào các khu
công nghiệp, khu kinh tế ở Quảng Trị.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Thu hút vốn đầu tư vào các khu công nghiệp, khu kinh tế

ở tỉnh Quảng Trị.
4.2. Phạm vi nghiên cứu: Từ 1998 đến tháng 6/2006 và đến năm 2010 với tầm nhìn
đến năm 2020.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn vận dụng các phương pháp nghiên cứu của khoa học kinh tế - chính trị, coi
trọng phương pháp khảo sát thực tiễn, phân tích, tổng hợp, so sánh, xử lý các số liệu thống kê.
6. Những điểm mới của luận văn


- Phân tích lợi thế địa kinh tế của tỉnh Quảng Trị trên tuyến hành lang kinh tế Đông Tây ảnh hưởng đến việc thu hút vốn đầu tư vào các khu công nghiệp, khu kinh tế ở Quảng
Trị.
- Phân tích nguyên nhân cơ bản khiến Quảng Trị chưa thu hút được nhiều vốn đầu tư
trong và ngoài nước vào các khu công nghiệp, khu kinh tế.
- Xu hướng, triển vọng và phương hướng, giải pháp để thu hút vốn đầu tư vào các khu
công nghiệp, khu kinh tế ở tỉnh Quảng Trị.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo luận văn gồm 3 chương,
7 tiết.
Chương 1
NHU CẦU VÀ KHẢ NĂNG THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ
VÀO CÁC KHU CÔNG NGHIỆP, KHU KINH TẾ Ở TỈNH QUẢNG TRỊ

1.1. KHU CÔNG NGHIỆP, KHU KINH TẾ VÀ VAI TRÒ CỦA CHÚNG ĐỐI
VỚI QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ
1.1.1. Khái niệm đầu tư
Do hoạt động đầu tư rất phong phú nên có nhiều cách hiểu về thuật ngữ này. Theo
Trần Xuân Tùng, khái niệm đầu tư thường được sử dụng rộng rãi để nói lên sự chi phí, sự
hy sinh các nguồn lực hiện tại (vốn, tài nguyên, nhân lực, khoa học - công nghệ...) vào hoạt
động nào đó của con người nhằm thu được lợi ích lớn hơn trong tương lai. Ở một góc độ
khác, đầu tư được hiểu là hoạt động sử dụng tiền vốn, tài nguyên... trong một thời gian

tương đối dài nhằm thu lợi nhuận hoặc lợi ích kinh tế - xã hội.
Theo từ điển Bách Khoa Việt Nam (Q1), Hà Nội, 1995.“ Đầu tư là bỏ vốn vào một
doanh nghiệp một công trình hay một sự nghiệp bằng nhiều biện pháp như cấp phát ngân
sách, vốn tự có, liên doanh hoặc vay dài hạn để mua sắm thiết bị, xây dựng mới hoặc thực
hiện việc hiện đại hoá mở rộng xí nghiệp nhằm thu doanh lợi hay phát triển phúc lợi công
cộng...” [38, tr.761].
Theo luật đầu tư được Quốc Hội khoá XI thông qua ngày 29/11/2005 và Chủ Tịch
Nước ký lệnh số 32/2005/L/CTN công bố ngày 12/12/2005 và có hiệu lực thi hành từ ngày


01/7/2006 thì “Đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn bằng các loại tài sản hữu hình hoặc vô
hình để hình thành tài sản tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định của luật này và các
quy định khác của pháp luật có liên quan” [32, tr.8].
Cũng theo luật này thì “vốn đầu tư là tiền và các tài sản hợp pháp khác để thực hiện
các hoạt động đầu tư theo hình thức đầu tư trực tiếp hoặc gián tiếp” [32, tr.10].
Như vậy, theo nghĩa chung nhất đầu tư là sự bỏ ra các nguồn lực vào một công việc
nào đó nhằm thu lợi lớn hơn trong tương lai. Nhưng không phải bất kể một sự chi phí nào
cũng được gọi là đầu tư. Có hai đặc trưng để phân biệt một hoạt động được coi là đầu tư đó
là tính sinh lời và rủi ro. Thực vậy, nếu người ta chỉ chi phí ra để mua một thứ hàng hoá cho
tiêu dùng thông thường thì không thể có yếu tố đầu tư trong đó. Tuy nhiên, nếu hoạt động
đầu tư nào cũng sinh lời mà không có rủi ro thì mọi người đều trở thành nhà đầu tư. Chính
hai thuộc tính này đã phân hoá, sàng lọc các nhà đầu tư và thúc đẩy xã hội phát triển. Người
bỏ vốn đó được gọi là nhà đầu tư hay chủ đầu tư, họ có thể là cá nhân, tổ chức hoặc nhà
nước.
1.1.2. Khái niệm khu công nghiệp
Theo luật Đầu Tư nói trên thì "Khu công nghiệp là khu chuyên sản xuất hàng công
nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định,
được thành lập theo quy định của Chính phủ" [32, tr.11].
Theo Từ Điển Bách Khoa Việt Nam, Tập 2, Hà Nội, 2002. Thì "Khu công nghiệp là
khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp,

do chính phủ thành lập hay cho phép thành lập" [39, tr.535].
Cũng theo Từ Điển Bách Khoa Việt Nam "Trong quá trình thực hiện công nghiệp hóa,
nhiều nước trên thế giới đã khẳng định khu công nghiệp là mô hình sản xuất công nghiệp có
hiệu quả, mang lại nhiều lợi ích. Việt nam phát triển khu công nghiệp theo quan điểm toàn
diện:
- Khu công nghiệp tác động đến đầu tư, đến sản xuất công nghiệp để xuất khẩu và phục
vụ tiêu dùng trong nước góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế.
- Việc kiểm soát chất thải công nghiệp bảo vệ môi trường sinh thái có điều kiện thực
hiện tốt hơn.


- Trình độ tay nghề công nhân được nhân lên, sự chuyển giao công nghệ tiên tiến
trong công nghiệp được hình thành từ đây.
- Tiết kiệm nguồn lực phát triển hạ tầng, sử dụng đất có hiệu quả.
- Góp phần hình thành các đô thị vệ tinh mới, giảm bớt sự tập trung quá cao vào các
đô thị lớn hiện có, thu hẹp khoảng cách giữa các vùng. Phát triển khu công nghiệp không
chỉ mang lại lợi ích kinh tế - xã hội mà còn mang ý nghĩa an ninh quốc phòng" [39, tr.535].
Như vậy, khu công nghiệp được hiểu là nơi tập trung các hoạt động sản xuất và phục
vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định và do chính phủ quy định hay cho
phép thành lập.
1.1.3. Khái niệm khu kinh tế
Theo Luật Đầu tư "Khu kinh tế là khu vực có không gian kinh tế riêng biệt với môi
trường đầu tư và kinh doanh đặc biệt thuận lợi cho các nhà đầu tư, có ranh giới địa lý xác
định, được thành lập theo quy định của Chính phủ" [32, tr.12].
Như vậy, có thể hiểu khu kinh tế là mô hình tổ chức "khu trong khu" nó bao gồm các
khu đô thị, cụm dân cư, các khu công nghiệp (công nghiệp nặng và công nghiệp nhẹ), khu
thương mại, các khu du lịch - dịch vụ... Tất cả các "Khu" này có quan hệ hữu cơ, tác động
lẫn nhau, là động lực của nhau và là nền tảng cho sự phát triển bền vững. Đó là điều kiện
quan trọng bậc nhất trong quá trình thu hút đầu tư. Khu kinh tế có nội dung hoạt động kinh
tế rộng, đa chức năng, đan xen các yếu tố kinh tế với xã hội, phát triển công nghiệp gắn với

thương mại dịch vụ và sự hình thành các khu dân cư, khu đô thị, khu du lịch, khu thương
mại tự do... là điều kiện để sử dụng chung kết cấu hạ tầng, thu hút đầu tư.
So với khu công nghiệp thì khu kinh tế có nhiều đối tượng quản lý khác nhau bao
gồm yếu tố doanh nghiệp lẫn các yếu tố khác như đô thị, du lịch, dân cư...với mô hình "khu
trong khu" sẽ là một địa điểm rất phù hợp cho việc áp dụng những chính sách thử nghiệm
như: Tiếp tục thực hiện chủ trương phân cấp, uỷ quyền quản lý từ Trung ương cho địa
phương, sự mở cửa một số lĩnh vực kinh tế hiện nay đang hạn chế đầu tư nước ngoài, một
số loại hình kinh doanh chưa từng được áp dụng tại Việt Nam hoặc các vấn đề về thủ tục
đầu tư, chế độ tài chính, quản lý xuất nhập khẩu, xuất nhập cảnh và cư trú, thủ tục hải
quan... nhằm mục tiêu cải cách nền hành chính và cải thiện môi trường đầu tư theo hướng
hội nhập kinh tế quốc tế. Khi tác động trở lại, những chính sách thử nghiệm này sẽ nhanh


chóng hoàn thiện môi trường đầu tư và tăng tính hấp dẫn của khu kinh tế, đặc biệt là đối với
các nhà đầu tư nước ngoài.
Ở góc độ hẹp, khu kinh tế thực chất là một địa bàn lãnh thổ thu nhỏ.Với một không
gian kinh tế có thể được xem là tương đối độc lập và có khả năng "phát triển khép kín",
nhưng khu kinh tế không thể tự tồn tại mà không cần đến một không gian kinh tế lớn hơn để
hình thành các thị trường thiết yếu với những quan hệ kinh tế cần thiết. Quản lý nhà nước
tại khu kinh tế theo mô hình "khu trong khu" có nhiều thuận lợi, Với mục tiêu trọng tâm
hướng đến là phát triển công nghiệp - phát triển kinh tế, việc quản lý nhà nước tại khu kinh
tế có điều kiện tốt để giải toả sức ép về mặt xã hội và ở một mức độ cao hơn, nó có điều
kiện để vận hành và vận dụng các tiện ích xã hội nội khu để phục vụ tốt nhất cho các hoạt
động sản xuất kinh doanh trong Khu. Bộ máy quản lý tại khu kinh tế sẽ có những thẩm
quyền đa ngành - đa lĩnh vực nhưng lại có tính chất chuyên biệt và chuyên môn hoá cao, do
đó có điều kiện để nâng cao hiệu quả quản lý. Tuy nhiên, vấn đề này chưa có tiền lệ tại Việt
Nam nên cần được nghiên cứu, bám sát thực tiễn để dự báo và đưa ra các giải pháp giải
quyết một cách hợp lý.
Phát triển các khu công nghiệp, khu kinh tế là một phương thức quản lý công nghiệp
tập trung, một cách thức tạo ra các tiểu vùng kinh tế động lực rất phổ biến trong xu thế hiện

nay. Với những giải pháp quản lý tích cực, chặt chẽ các khu công nghiệp, khu kinh tế sẽ là
động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh, bền vững, tạo việc làm và tăng thu nhập cho
người lao động, góp phần thúc đẩy đô thị hóa, bảo vệ môi trường sinh thái nâng cao hiệu
quả sử dụng vốn, tài nguyên và sức cạnh tranh, thúc đẩy hình thành vùng nguyên liệu theo
hướng sản xuất hàng hóa lớn, là điều kiện để chuyển biến cơ bản về mọi mặt đời sống xã
hội theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Ngoài ra cũng theo luật đầu tư còn có một số khái niệm liên quan như:
"Khu chế xuất là khu công nghiệp chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện dịch vụ
cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu, có ranh giới địa lý xác định, được
thành lập theo quy định của Chính phủ".
"Khu công nghệ cao là khu chuyên nghiên cứu phát triển, ứng dụng công nghệ cao,
ươm tạo doanh nghiệp công nghệ cao, đào tạo nhân lực công nghệ cao, sản xuất và kinh


doanh sản phẩm công nghệ cao, có ranh giới địa lý xác định, được thành lập theo quy định
của Chính phủ" [32, tr.12].
Thực chất khu chế xuất, khu công nghệ cao là những dạng phái sinh theo chức năng
khác nhau của khu công nghiệp. Khu chế xuất là khu công nghiệp chuyên sản xuất hàng hóa
và thực hiện các dịch vụ phục vụ cho xuất khẩu. Khu công nghệ cao là khu chuyên nghiên
cứu, ứng dụng các công nghệ cao vào sản xuất và là nơi đào tạo cung cấp và chuyển giao
nguồn nhân lực công nghệ cao cho nền kinh tế.
1.1.4. Vai trò của các khu công nghiệp, khu kinh tế đối với quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa
1.1.4.1. Xây dựng và phát triển các khu công nghiệp, khu kinh tế là điều kiện để thu
hút các nguồn vốn đầu tư
Xây dựng và phát triển các khu công nghiệp, khu kinh tế là điều kiện để thu hút các
nguồn vốn đầu tư nhằm khai thác có hiệu quả các nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội.
Đây là một hình thức để huy động nguồn lực, động viên các nguồn vốn trong nước, ngoài
nước, tiết kiệm trong dân cư vào sản xuất kinh doanh để thúc đẩy tăng trưởng và phát triển
kinh tế.

Đặc biệt ở những địa phương có khả năng tích luỹ từ nội bộ thấp thì nguồn vốn thu
hút được thông qua các dự án đầu tư không chỉ đơn thuần là nguồn lực bổ sung mà còn
được coi là điều kiện để tạo ra “cú hích” từ bên ngoài, phá vỡ “ vòng luẩn quẩn của đói
nghèo".
1.1.4.2. Phát triển các khu công nghiệp, khu kinh tế là điều kiện để giải quyết việc
làm và đào tạo nguồn nhân lực
Tăng quy mô hoạt động của các doanh nghiệp hiện có hoặc thành lập các doanh
nghiệp mới trong các khu công nghiệp và khu kinh tế sẽ giải quyết việc làm cho người lao
động. Hơn nữa, đi theo các dự án là sự phát triển các ngành dịch vụ và gia công trong các
lĩnh vực bổ trợ như dịch vụ ăn uống, vận tải, cung ứng vật liệu xây dựng, cho thuê nhà
ở...Đây là điều kiện tốt để giải quyết việc làm, tăng thu nhập, thực hiện chuyển dịch cơ cấu
lao động.
Thông qua yêu cầu đáp ứng nhân lực cho các dự án đầu tư, người lao động sẽ có cơ
hội được đào tạo nghề, học hỏi, tiếp thu khoa học - công nghệ, rèn luyện kỹ năng, kỹ luật


lao động và năng lực tổ chức quản lý doanh nghiệp. Chính nguồn lực này góp phần quan
trọng để rút ngắn khoảng cách tụt hậu mà trước hết là tụt hậu về kinh tế và công nghệ.
1.1.4.3. Xây dựng các khu công nghiệp, khu kinh tế là điều kiện để thúc đẩy quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Thu hút lao động từ nông nghiệp vào công nghiệp và dịch vụ sẽ làm giảm tỷ trọng lao
động nông nghiệp, tăng tỷ trọng lao động công nghiệp và dịch vụ trong tổng số lao động của
tỉnh (và do đó của cả nước). Đi theo sự chuyển dịch cơ cấu lao động là sự biến đổi cơ cấu
giá trị trong GDP cũng theo hướng giảm tỷ trọng giá trị sản phẩm nông nghiệp, tăng tỷ
trọng giá trị sản phẩm công nghiệp và dịch vụ.
Mặt khác, cơ cấu vùng cũng được đổi mới do hình thành những khu đô thị hay thị trấn
gắn liền với các khu công nghiệp, khu kinh tế, đồng thời hệ thống kết cấu hạ tầng được mở
rộng và hoàn thiện tạo thuận lợi cho việc giao lưu với các vùng khác trong và ngoài tỉnh, tác
động đến cơ cấu hàng hóa xuất ra và nhập vào tỉnh.
Thông qua quá trình đầu tư sẽ làm xuất hiện nhiều ngành nghề mới có trình độ công

nghệ và năng suất lao động cao phát triển mạnh, đồng thời chính quá trình ấy sẽ tạo ra một
xu thế ngược lại, một số ngành nghề có sức cạnh tranh kém sẽ phát triển chậm lại thậm chí
bị mai một và triệt tiêu.
1.1.4.4. Phát triển các khu công nghiệp, khu kinh tế là điều kiện để mở rộng thị
trường và thúc đẩy xuất khẩu
Xuất khẩu là yếu tố quan trọng của tăng trưởng và cân bằng cán cân thương mại của
mỗi nước cũng như của từng địa phương, thông qua xuất khẩu, lợi thế so sánh của từng địa
phương sẽ được khai thác có hiệu quả hơn. Trong quá trình toàn cầu hóa hiện nay, dù doanh
nghiệp có khả năng sản xuất với mức chi phí thấp cũng vẫn gặp khó khăn trong việc thâm
nhập thị trường, nhất là thị trường thế giới. Thông qua liên doanh, liên kết đầu tư, nhất là
với các công ty xuyên quốc gia nắm được thị phần lớn là điều kiện tốt nhất để phát huy những
lợi thế so sánh của mỗi quốc gia và của mỗi địa phương, nhanh chóng khẳng định được thương
hiệu, vì các công ty xuyên quốc gia có vị thế và uy tín lớn trong hệ thống sản xuất và thương
mại quốc tế. Đây là điều kiện để đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, tham gia vào quá
trình phân công lao động quốc tế của cả nước cũng như của từng doanh nghiệp.


1.1.4.5. Thông qua thu hút các dự án liên doanh, liên kết vào các khu công nghiệp,
khu kinh tế sẽ tiếp thu được công nghệ mới, kỹ năng quản lý tiên tiến, tạo ra sự phát
triển năng động tại nơi tiếp nhận đầu tư
Trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đi tắt đón đầu việc tiếp thu những
công nghệ mới là một đòi hỏi bức thiết của các nước đang phát triển cũng như của từng địa
phương. Thu hút các doanh nghiệp có vốn nước ngoài vào các khu công nghiệp, khu kinh tế
được coi là con đường quan trọng để chuyển giao công nghệ vào nước ta, hơn thế nữa
những công nghệ, kỹ năng quản lý được chuyển giao đó sẽ được cải tiến phù hợp với hoàn
cảnh cụ thể của nơi tiếp nhận.
Kinh nghiệm cho thấy khi các dự án đầu tiên được triển khai thuận lợi, có hiệu quả sẽ
khuyến khích, lôi kéo các nhà đầu tư tiềm năng khác, thậm chí còn tạo ra sự cạnh tranh giữa
các nhà đầu tư với nhau và giữa các nhà đầu tư với các doanh nghiệp hiện có ở địa phương,
tạo nên sức ép buộc các doanh nghiệp sở tại phải thay đổi cách làm, cách quản lý có hiệu

quả hơn để tồn tại và phát triển.
1.1.4.6. Phát triển khu công nghiệp, khu kinh tế sẽ góp phần tăng thu ngân sách
nhà nước ở địa phương và nâng cao đời sống nhân dân
Các dự án đầu tư sẽ mang lại nguồn thu ngân sách cho địa phương từ các khoản về
thuế, tiền thuê đất, phí kết cấu hạ tầng, lợi nhuận...Mặt khác sản phẩm hàng hóa, dịch vụ sẽ
phong phú và đa dạng, chất lượng cao, giá cả hợp lý, thoả mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu
tiêu dùng của các tầng lớp dân cư mà trước hết và trực tiếp là dân cư địa phương.
1.2. KHẢ NĂNG VÀ NHU CẦU THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ VÀO CÁC KHU
CÔNG NGHIỆP, KHU KINH TẾ Ở TỈNH QUẢNG TRỊ
Xuất phát từ những lợi thế của Quảng Trị về điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý, đặc biệt
nằm trên nút giao cắt của trục giao thông Bắc - Nam với hành lang kinh tế Đông - Tây và
thực trạng cơ cấu kinh tế của tỉnh, Đại hội đại biểu Đảng Bộ tỉnh Quảng Trị lần thứ XIV
(nhiệm kỳ 2006 - 2010) xác định: “Quảng Trị có nguồn nhân lực khá dồi dào, trình độ tay
nghề, chất lượng đào tạo được nâng lên một bước. Quá trình hội nhập, Quảng Trị có lợi thế
của tuyến đường xuyên Á nối vùng kinh tế động lực trên trục hành lang kinh tế Đông - Tây
qua cửa khẩu quốc tế Lao Bảo, tạo thuận lợi trong giao lưu phát triển kinh tế - xã hội”. Từ


thực tế đó Đại hội chỉ rỏ: “Phát triển công nghiệp - xây dựng là nhiệm vụ trọng tâm, ưu tiên
số một của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm tạo ra động lực quan trọng và cơ
bản cho chuyển dịch cơ cấu và phát triển kinh tế của tỉnh. Tập trung đầu tư phát triển hạ
tầng các khu công nghiệp nam Đông Hà, Quán Ngang, khu kinh tế - thương mại đặc biệt
Lao Bảo, các cụm công nghiệp ở các huyện, thị xã, gắn kết các vùng kinh tế động lực với sự
phát triển chung của hành lang kinh tế Đông - Tây về phía Việt Nam để tăng cường thu hút
các nguồn vốn đầu tư” [37, tr.62- 63].
Do nguồn lực đầu tư cho khai thác các tiềm năng chưa lớn và điều kiện tích lũy từ
nội bộ của tỉnh thấp nên việc quy hoạch, xây dựng các khu công nghiệp, khu kinh tế để thu
hút các nguồn vốn đầu tư nhất là nguồn vốn từ nước ngoài và ngoài tỉnh vào địa bàn Quảng
Trị là một chủ trương lớn trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
1.2.1. Khả năng thu hút vốn đầu tư vào các khu công nghiệp, khu kinh tế ở tỉnh

Quảng Trị
1.2.1.1. Lợi thế địa kinh tế của Quảng Trị là một nhân tố hấp dẫn đầu tư vào trồng
và chế biến cây công nghiệp; phát triển du lịch; nuôi trồng, chế biến thủy sản và khai
thác khoáng sản
Quảng Trị là một tỉnh duyên hải bắc miền Trung Việt Nam, được tái lập tháng 7 năm
1989 trên cơ sở chia tách tỉnh Bình-Trị-Thiên thành ba tỉnh: Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa
Thiên-Huế. Tỉnh có chiều dài biên giới 206 km được phân chia bởi dãy Trường sơn và có
hai cửa khẩu: cửa khẩu quốc tế Lao Bảo và cửa khẩu quốc gia La Lay. Quảng Trị là một
trong những địa phương có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ và khai thác biển Đông,
đảm bảo giao thông thông suốt giữa hai miền Bắc-Nam và là vị trí ngã ba Đông Dương trên
trục hành lang kinh tế Đông -Tây thông qua nước bạn Lào - Đông Bắc Thái Lan - Myanmar
mở ra quan hệ rộng lớn với vùng Tây Á.
Điều kiện tự nhiên của Quảng Trị phong phú và đa dạng. Ngoài vùng đồng bằng của
các lưu vực sông và ven biển, vùng đồi núi, trung du của Quảng Trị phần lớn được kiến tạo
bởi đất đỏ Bazan rất thích hợp cho trồng các loại cây công nghiệp như: cao su, hồ tiêu,
café... là điều kiện để cung cấp nguyên liệu phát triển các ngành công nghiệp chế biến.
Tài nguyên biển của Quảng Trị rất đa dạng, bờ biển dài 75km, ven bờ là bãi cát
trắng mịn, phía trong là những cồn cát cao do sóng và gió tạo nên. Một số rạn đá ngầm


ven bờ vừa có tác dụng chắn sóng, là nơi cư trú, sinh sống của các loại hải sản, vừa tạo
nên những bãi tắm đẹp như Cửa Tùng, Cửa Việt, Mỹ Thuỷ...Ngoài khơi có đảo Cồn Cỏ
cách đất liền 15 hải lý đóng vai trò quan trọng trong thế vươn ra biển khơi và là một
điểm đến du lịch lý tưởng, một khu neo đậu tránh bão và hậu cần nghề cá đang được
khai thác. Vùng lãnh hải Quảng Trị rộng chừng 8.400 km2 là ngư trường đánh bắt rộng
lớn, ven bờ có hơn 4.000ha diện tích mặt nước đầm, phá có thể nuôi trồng các loại thuỷ
hải sản có giá trị kinh tế cao. Biển Quảng Trị có các loại thuỷ, hải sản quý như tôm hùm,
mực nang, mực ống, cá cam, cá thu, cá ngừ, hải sâm, tảo...Là một lợi thế để phát triển
các ngành thủy, hải sản và du lịch biển.
Thiên nhiên ưu đãi cho Quảng Trị nhiều loại tài nguyên khoáng sản đa dạng, dễ khai

thác tuy trữ lượng không lớn. Đến cuối năm 1995 đã tìm kiếm và thống kê được 48 điểm
mỏ và quặng. Trong đó có 17 điểm thuộc nhóm kim loại (sắt, đồng, vàng, titan...); 22 điểm
thuộc nhóm khoáng sản vật liệu xây dựng (đá vôi, đất sét, đá xây dựng, đá trang trí); 2 điểm
than bùn; 6 điểm nước khoáng và 2 điểm cát thuỷ tinh... là điều kiện để phát triển các ngành
công nghiệp nhất là công nghiệp khai khoáng.
Nhìn chung, việc đầu tư khai thác các nguồn lực cho phát triển kinh tế chưa nhiều,
phần lớn các nguồn lực của Quảng Trị còn ở dạng tiềm năng.
1.2.1.2. Lợi thế của Quảng Trị về giao thông cũng tạo thuận lợi cho lưu chuyển
hàng hóa, mở rộng du lịch và thu hút đầu tư
Trong xu thế phát triển, Quảng Trị có thuận lợi so với nhiều địa phương khác về giao
thông. Quảng Trị có quốc lộ 1A và đường sắt chạy suốt chiều dài Bắc - Nam của tỉnh nối
liền các vùng, các trung tâm kinh tế của đất nước với các huyện, thị về phía đông. Đường
Hồ Chí Minh qua Quảng Trị với hai nhánh Đông, Tây giao cắt với quốc lộ 9 rồi hợp thành
một tuyến chính vào Tây Nguyên nối liền các trung tâm kinh tế về phía tây của Quảng Trị.
Đặc biệt quốc lộ 9 theo trục Đông - Tây qua dãy Trường Sơn ở đèo Lao Bảo là trục
chính trong hành lang kinh tế Đông - Tây, hành lang này dài 1450km đi qua 4 nước:
Myanmar, Thái lan, Lào và ở Việt Nam nối từ cửa khẩu quốc tế Lao Bảo qua thị xã Đông
Hà, vào Huế và kết thúc tại Đà Nẵng. Hành lang kinh tế Đông - Tây giao nhau với một số
tuyến đường huyết mạch bắc - nam như: Yangon - Dawei, Chiang Mai - Bangkok, đường 13
( Lào) và quốc lộ 1A (Việt Nam) là điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế theo hướng bắc


hoặc hướng nam đến các trung tâm thương mại lớn như Bangkok, thành phố Hồ Chí Minh,
Hà Nội...Sự ra đời của hành lang kinh tế Đông - Tây sẽ đem lại nhiều lợi ích thiết thực và
lâu dài cho các quốc gia thành viên mà Quảng Trị là một địa phương đầu cầu về phía Việt
Nam. Đây là cơ hội cho tỉnh Quảng Trị thu hút vốn đầu tư vào khai thác các nguồn tài
nguyên khoáng sản, hải sản và năng lượng phục vụ cho sản xuất và chế biến trong các khu
công nghiệp, mở ra cơ hội phát triển các thành phố, thị trấn, thị xã... trên tuyến hành lang,
thúc đẩy thương mại xuyên biên giới, khu vực và thế giới, phát triển các hoạt động kinh tế
mới thông qua việc sử dụng hiệu quả không gian kinh tế và hình thành khu vực kinh tế

xuyên quốc gia với các nước vùng Tây Á, Nam Á, Đông Nam Á, Trung Quốc.
Về đường biển, từ cảng Cửa Việt nối liền thông thương với các hải cảng khác mà
trước hết là các hải cảng trong khu vực miền Trung như Chân Mây, Đà Nẵng, Liên Chiểu,
Dung Quất.
Quảng Trị nằm trên tuyến du lịch di sản miền Trung, nơi hội tụ nhiều di sản văn hóa,
thiên nhiên thế giới như Phong Nha - Kẻ Bàng (Quảng Bình), Hội An, Mỹ Sơn (Quảng
Nam), cố đô Huế. Đây là khu vực có nhiều lễ hội đặc sắc mang tính liên kết du lịch vùng
độc đáo, có khả năng thu hút ngày càng nhiều du khách như lễ hội làng Sen (Nghệ An),
festival Huế, nhịp cầu xuyên Á (Quảng Trị), lễ hội trăng rằm phố cổ Hội An (Quảng Nam)
và Quảng Trị là điểm dừng chân của lữ hành với các loại hình du lịch hoài niệm về chiến
trường xưa và đồng đội, với một hệ thống di tích lịch sử chiến tranh cách mạng nổi tiếng
như làng hầm địa đạo Vịnh Mốc, đôi bờ Hiền Lương, Cồn Tiên, Dốc Miếu, Thành Cổ
Quảng Trị, Khe Sanh, Đường 9, Nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn...Hoặc du lịch danh thắng
như đường Hồ Chí Minh huyền thoại, bãi tắm Cửa Tùng, Cửa Việt, Mỹ Thuỷ...dọc theo
tuyến đường ven biển Quảng Trị. Hoặc du lịch sinh thái như rừng nhiệt đới Rú Lịnh, khu
bảo tồn thiên nhiên Đắkrông, trằm Trà Lộc... Đó là những tiềm năng du lịch đang mời gọi
du khách và các nhà đầu tư.
1.2.1.3. Khả năng cung ứng đầu vào cho các dự án đầu tư (Nhân lực, các ngành bổ
trợ: vật liệu xây dựng, vận tải, bưu chính viễn thông…)cũng là một điều kiện hấp dẫn
đầu tư
Thực tiễn cho thấy để một dự án được triển khai đầu tư đi vào hoạt động và phát triển
nó đòi hỏi nhiều yếu tố mà trước hết là những nhu cầu cho quá trình xây dựng và hoạt động


của dự án. Chính vì vậy, ngoài những vấn đề như môi trường chính trị - xã hội, vị trí địa lý,
điều kiện tự nhiên, trình độ phát triển kinh tế và đặc điểm văn hoá - xã hội...thì những yếu tố
như nguồn nhân lực tại chổ, khả năng cung ứng vật liệu xây dựng, vận tải, bưu chính viễn
thông, tín dụng, ngân hàng...nếu được đáp ứng kịp thời, thuận tiện, hợp lý cũng là những
điều kiện hấp dẫn các nhà đầu tư.
Quảng Trị có dân số 632.840 người, trong đó có 316.475 người trong độ tuổi lao

động (Lao động nữ là 159.450 người) chiếm 50% dân số. Lao động đã có việc làm là
281.937 người, chưa có việc làm ổn định là 34.538 người. Mức thu nhập bình quân đầu
người năm 2005 là 5,16 triệu đồng. Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo chung đạt 23,3%, đã qua
đào tạo nghề là 13%. Hàng năm địa phương đã tạo được việc làm mới cho khoảng 6.000 lao
động.
Công tác đào tạo nghề, cơ sở vật chất của hệ thống các trường dạy nghề, trung tâm dạy
nghề, được quan tâm đầu tư, Ở tỉnh lỵ và các huyện, thị đều có trường hoặc trung tâm dạy
nghề. Hiện nay toàn tỉnh có 4 trường dạy nghề, 15 trung tâm dạy nghề, 7 trung tâm khác có
dạy nghề. Đặc biệt, trong chính sách khuyến khích ưu đãi đầu tư, tỉnh chủ trương hỗ trợ
kinh phí đào tạo nghề từ 500 nghìn đến 800 nghìn đồng/lao động khi được nhà đầu tư đào
tạo nghề tương thích với dự án đầu tư.
Lực lượng lao động ở Quảng Trị khá dồi dào, trong đó có tỷ lệ đã qua đào tạo đáng
kể, con người Quảng Trị tích cực, cần cù, sáng tạo, mức thu nhập chung của lao động còn
thấp... đó là những lợi thế cho các dự án khi đầu tư vào Quảng Trị.
Ngoài các chính sách khuyến khích ưu đãi đầu tư của tỉnh Quảng Trị như hỗ trợ bồi
thường giải phóng mặt bằng, hỗ trợ sản xuất vùng nguyên liệu, chính sách tạo vốn thực hiện
dự án, ưu đãi về đào tạo nghề và sử dụng lao động ở địa phương, khuyến khích và vận động
xúc tiến đầu tư, bảo đảm nguồn vốn hỗ trợ và các ưu đãi về đất đai, miễn giảm thuế, phí sử
dụng hạ tầng, thủ tục hải quan...các nhà đầu tư còn được 763 doanh nghiệp sở tại hoạt động
trên tất cả các lĩnh vực, ngành nghề cung cấp các hàng hóa và dịch vụ cần thiết như vật liệu
xây dựng, vận tải, kho bãi, bưu chính viễn thông, xây lắp...(Xem phụ lục số 6).
Với một hệ thống kết cấu hạ tầng của các khu công nghiệp, khu kinh tế đã được quy
hoạch, xây dựng trong gần 10 năm qua cùng với những kinh nghiệm mà Quảng Trị đã tích
luỹ được qua xúc tiến đầu tư, đặc biệt cơ chế, chính sách và danh mục các chương trình dự


án kêu gọi đầu tư đã được tỉnh ban hành đồng bộ nhằm tạo môi trường đầu tư thông thoáng,
cởi mở và tin cậy. Điều đó thể hiện sự cam kết, bảo đảm của chính quyền địa phương đối
với các nhà đầu tư khi đến làm ăn với Quảng Trị.
1.2.2. Nhu cầu thu hút vốn đầu tư vào các khu công nghiệp, khu kinh tế ở Quảng

Trị
1.2.2.1. Nhu cầu thu hút vốn đầu tư vào khu kinh tế - thương mại đặc biệt Lao Bảo
Khu kinh tế - thương mại đặc biệt Lao Bảo được quy hoạch cách thị xã tỉnh lỵ Đông
Hà 60km về phía Tây, là điểm đầu của Việt Nam trên hành lang kinh tế Đông - Tây, trải dọc
25km theo quốc lộ số 9, có tổng diện tích 15.804 ha, có ranh giới địa lý xác định thuộc lãnh
thổ chủ quyền quốc gia Việt Nam nhưng có không gian kinh tế thương mại riêng biệt, bao
gồm 2 thị trấn: Khe Sanh, Lao Bảo và 5 xã: Tân Liên, Tân Hợp, Tân Lập, Tân Long, Tân
Thành thuộc huyện Hướng Hoá. Dân số hiện nay khoảng 35.000 người, trong đó có 4.000
người thuộc đồng bào dân tộc Tàôi - Pacô và Bru - Vân Kiều.
Đây là một mô hình khu kinh tế được Chính phủ triển khai xây dựng và hoạt động
theo một quy chế riêng lần đầu tiên được áp dụng thí điểm tại Việt Nam, được hưởng mức
ưu đãi cao nhất theo quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam và các cam kết quốc tế mà
Việt Nam tham gia.Việc thành lập khu kinh tế - thương mại đặc biệt Lao Bảo thể hiện sự
quan tâm lớn của Đảng và Nhà nước nhằm vào các mục tiêu: Khai thác có hiệu quả tiềm
năng, thế mạnh khu kinh tế cửa khẩu trên hành lang kinh tế Đông - Tây; cụ thể hoá mối
quan hệ hợp tác toàn diện với nước bạn Lào; mở rộng giao thương để đón đầu tiến trình hội
nhập AFTA; thực hiện chính sách xoá đói, giảm nghèo nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần cho cư dân vùng biên giới huyện Hướng Hoá tỉnh Quảng Trị.
Đến nay công tác quy hoạch và xây dựng khu kinh tế - thương mại đặc biệt Lao Bảo
đã cơ bản được hoàn thành, bao gồm quy hoạch chung, quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế
- xã hội đến năm 2020, Xây dựng kết cấu hạ tầng của các khu chức năng dành cho hoạt
động đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh. Để thực hiện đúng quy hoạch, khai thác và phát
huy hiệu quả của kết cấu hạ tầng đã được xây dựng cần những lượng vốn đầu tư cho các
lĩnh vực sau:
Một là, vốn xây dựng kết cấu hạ tầng


Đây là khu kinh tế - thương mại nhận được sự giúp đỡ, đầu tư rất lớn của Chính phủ.
Sau gần 8 năm xây dựng và phát triển, Chính phủ và UBND tỉnh Quảng Trị đã tập trung đầu
tư có trọng điểm nên nhiều công trình kết cấu hạ tầng thiết yếu đã được hình thành và phát

huy hiệu quả thiết thực. Đã có 65 hạng mục đầu tư xây dựng hạ tầng hoàn thành và đưa vào
sử dụng với số vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước là 320 tỷ đồng. Ngoài ra, bằng nhiều
nguồn vốn khác các doanh nghiệp đã đầu tư xây dựng nhiều hạng mục bảo đảm cung ứng
cho khu kinh tế - thương mại như: trạm biến áp và đường dây tải điện 110 KV Đông Hà Lao Bảo có giá trị 130 tỷ đồng; nhà máy cấp nước Khe Sanh - Lao Bảo có công suất
9.000m3/ngày/đêm và đang được nâng công suất lên 15.000 m3/ngày/đêm; xây dựng và đưa
vào sử dụng 2 tổng đài 512 số, điện thoại di động phủ sóng toàn khu vực với hai mạng
Vinaphone và Mobiphone; triển khai lắp đặt mạng Internet tốc độ cao ADSL và đã đưa vào
khai thác. Hệ thống các loại hình dịch vụ như ngân hàng, bảo hiểm, nhà nghỉ, khách sạn,
nhà hàng, và các khu vui chơi giải trí đã được đầu tư và đi vào hoạt động. Ước tính nguồn
vốn các doanh nghiệp của các thành phần kinh tế khác đã đầu tư hơn 600 tỷ đồng.
Ngoài ra, hạ tầng xã hội đã được đầu tư khá hoàn chỉnh: 3 trường phổ thông trung
học, 5 trường phổ thông cơ sở, 10 trường tiểu học được xây dựng khang trang. Tất cả các
xã, thị trấn trên địa bàn đều có trung tâm y tế với đội ngũ y, bác sĩ có chuyên môn cao; bệnh
viện đa khoa trung tâm có quy mô 100 giường bệnh đã được hoàn thành và đưa vào sử
dụng. Sân vận động Khe Sanh có sức chứa 10.000 chỗ, nhà văn hoá 1.000 chỗ ngồi, trạm
thu phát sóng truyền hình Khe Sanh và Lao Bảo đã được xây dựng hoàn chỉnh và đưa vào
khai thác có hiệu quả.
Cùng với chính sách đặc biệt ưu đãi và hệ thống cơ sở kỹ thuật, cơ sở phúc lợi xã hội
ngày một hoàn thiện, khu kinh tế - thương mại đặc biệt Lao Bảo đang vận hành trong những
điều kiện hết sức thuận lợi, sẵn sàng chào đón các nhà đầu tư.
Nhưng hiện nay khu kinh tế - thương mại đặc biệt Lao Bảo vẫn đang cần vốn để tiếp
tục hoàn thiện các công trình hạ tầng trên quy mô 130 ha tại các khu vực đã quy hoạch sản
xuất kinh doanh tập trung và triển khai hệ thống các công trình kết cấu hạ tầng mới trên diện
tích mở rộng thêm, đáp ứng nhu cầu sử dụng đất của các doanh nghiệp đã và sẽ đăng ký
tham gia hoạt động tại khu vực. Đồng thời lập quy hoạch và xây dựng các công trình kết cấu
hạ tầng của các khu dịch vụ - du lịch bổ trợ khác như: Khu du lịch sinh thái thác Ồ, khu


công viên văn hoá Khe Sanh - Tân Độ - Rào Quán. Hoàn thành thủ tục và triển khai 5 dự án
bổ sung vào hệ thống hạ tầng kinh tế - xã hội với tổng mức đầu tư khoảng 13 triệu USD từ

nguồn vốn ODA của ADB ưu tiên đầu tư trên hành lang kinh tế Đông - Tây vào khu kinh tế
thương mại đặc biệt Lao Bảo gồm: Hệ thống thoát nước và vệ sinh môi trường thị trấn Lao
Bảo (2 triệu USD); trung tâm dịch vụ cứu hộ SOS (2 triệu USD); kho ngoại quan Lao Bảo
(1triệu USD); Trung tâm dịch vụ tổng hợp đường 9 (5 triệu USD); Tổ hợp chế biến gỗ xuất
khẩu (3 triệu USD).
Tỉnh đã lập kế hoạch trình chính phủ bố trí vốn trong năm 2007 khoảng 70 đến 80 tỷ
đồng cho các hạng mục hạ tầng mới như: cắm mốc chỉ giới, san nền thoát nước giao thông
tại khu dịch vụ - du lịch Làng Vây, điện cáp ngầm tại cụm thương mại - dịch vụ, nhà kinh
doanh lương thực, gốm, sứ, thuỷ tinh tại trung tâm thương mại, các hạng mục công trình
giao thông, cấp điện tại cụm cửa khẩu. kịp thời đáp ứng tốt nhất nhu cầu về kết cấu hạ tầng
đang tăng mạnh của các dự án sản xuất kinh doanh.
Hai là, nhu cầu thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp - thương mại - dịch vụ Lao
Bảo; cụm công nghiệp tập trung phía tây thị trấn Lao Bảo; cụm cửa khẩu quốc tế Lao Bảo;
khu công viên văn hóa Lao Bảo; khu công nghiệp Tân Thành
* Khu công nghiệp - thương mại - dịch vụ Lao Bảo có diện tích 100 ha, đã đầu tư hoàn
chỉnh về kết cấu hạ tầng kỹ thuật và thu hút các dự án chủ yếu như kinh doanh thương mại,
du lịch, khách sạn, gia công, tái chế, lắp ráp, sản xuất công nghiệp sạch.
* Cụm công nghiệp tập trung phía tây thị trấn Lao Bảo có diện tích 27 ha. Tập trung
thu hút các loại hình hoạt động như sản xuất công nghiệp, chế biến thực phẩm, lắp ráp ô tô,
điện tử, điện lạnh, sản xuất đồ gỗ gia dụng.
* Cụm cửa khẩu quốc tế Lao Bảo có diện tích 30 ha quy hoạch xây dựng nhà ga kiểm
soát cửa khẩu, kho ngoại quan, bãi đỗ xe xuất - nhập cảnh.
* Khu công viên văn hoá Lao Bảo rộng 25 ha (Có 7 ha mặt nước). Thu hút các dự án
đầu tư về dịch vụ như: vui chơi, giải trí, hoạt động văn hoá, nhà hàng, khách sạn.
* Khu công nghiệp Tân Thành có diện tích 60 ha, quy hoạch dự trữ dành cho sản xuất
công nghiệp nặng. Giai đoạn I đã xây dựng hoàn chỉnh kết cấu hạ tầng 30 ha.


* Khu dịch vụ - du lịch Làng Vây có diện tích 65 ha, tập trung thu hút các ngành dịch
vụ, kinh doanh siêu thị, kho bãi trung chuyển hàng hoá, bãi đỗ xe, xưởng sửa chữa, bảo

dưỡng các phương tiện giao thông.
Tổng các nguồn vốn dự kiến kêu gọi đầu tư vào các khu vực trên là 88 triệu USD,
dưới các hình thức như vốn trong nước, liên doanh, 100% vốn nước ngoài, BOT, BTO, BT.
1.2.2.2. Nhu cầu thu hút vốn đầu tư vào khu công nghiệp nam Đông Hà
Khu công nghiệp nam Đông Hà được quy hoạch trên địa phận phường Đông Lương
thị xã Đông Hà tỉnh Quảng Trị, cách trung tâm thị xã tỉnh lỵ 2 km về phía nam, cách cảng
Cửa Việt 12 km, nằm cạnh ga Đông Hà và quốc lộ 1A. Đặc biệt nằm gần đường xuyên Á và
cách khu kinh tế - thương mại đặc biệt Lao Bảo 51 km. Tổng diện tích quy hoạch 159 ha,
tổng vốn phê duyệt đầu tư xây dựng 140 tỷ đồng, giai đoạn I quy hoạch 99 ha và đã đầu tư
40 tỷ đồng từ nguồn vốn do Trung ương đầu tư để xây dựng các công trình hạ tầng cơ bản
như hệ thống giao thông, điện, nước, thông tin liên lạc.
Đây là khu công nghiệp có vị trí thuận lợi, nằm trên nút giao cắt Bắc - Nam của quốc lộ
1A với hành lang kinh tế Đông - Tây. Thuận tiện vận chuyển đường sắt bằng ga chính Đông
Hà, đường thuỷ thông qua cảng Cửa Việt.
Khu công nghiệp này thu hút mọi ngành nghề trong đó chú trọng đến công nghiệp sản
xuất vật liệu xây dựng, trang trí nội thất, dệt, giày da, may mặc, cơ khí điện tử, thủ công mỹ
nghệ. Tổng các nguồn vốn dự kiến kêu gọi đầu tư vào khu công nghiệp này là 103 triệu
USD, dưới các hình thức như vốn trong nước, liên doanh, 100% vốn nước ngoài, BOT,
BTO, BT...nhưng hiện mới chỉ có 8 dự án đăng ký và mới thực hiện được 3 dự án với số
vốn đăng ký 952 tỷ đồng và vốn thực hiện 622 tỷ đồng.
1.2.2.3. Nhu cầu thu hút vốn đầu tư vào khu công nghiệp Quán Ngang
Đây là khu công nghiệp được quy hoạch trên địa phận xã Gio Quang, huyện Gio
Linh, tỉnh Quảng Trị. Cách trung tâm tỉnh lỵ 7 km về phía bắc, cách cảng cửa Việt 5 km,
nằm cạnh ga Hà Thanh và quốc lộ 1A. Là khu công nghiệp mới quy hoạch nằm trên đường
xuyên Á, cách khu kinh tế - thương mại đặc biệt Lao Bảo 55 km.
Tổng diện tích quy hoạch 205 ha, tổng vốn phê duyệt đầu tư 120 tỷ đồng, giai đoạn I
quy hoạch 139 ha và đã đầu tư 10 tỷ đồng xây dựng một số hạ tầng thiết yếu như điện,
nước, hệ thống giao thông nội bộ. Khu công nghiệp Quán Ngang có quỹ đất rộng và bằng



phẳng, gần với các vùng nguyên liệu phía bắc của tỉnh như cao su, hồ tiêu, cà phê, thuỷ hải
sản và các khoáng sản khác.
Khu công nghiệp này tập trung thu hút các ngành nghề của công nghiệp chế biến nông
- lâm - thuỷ sản, rượu bia, nước giải khát, thức ăn chăn nuôi, dệt, may mặc, kho hàng. Tổng
các nguồn vốn dự kiến kêu gọi đầu tư vào khu này là 22 triệu USD, dưới các hình thức như
vốn trong nước, liên doanh, 100% vốn nước ngoài, BOT, BTO, BT...Đến nay tuy có 3 dự án
đăng ký với số vốn 367 tỷ đồng nhưng chưa có dự án nào được thực hiện.
1.2.2.4. Nhu cầu thu hút vốn đầu tư vào khu du lịch - dịch vụ Cửa Việt
Đây là khu du lịch - dịch vụ được quy hoạch trên địa bàn xã Gio Hải, huyện Gio Linh, tỉnh
Quảng Trị với quy mô 141 ha, bao gồm 4 khu chức năng:
+ Khu du lịch - khách sạn : 13 ha
+ Khu công trình công cộng: 9 ha
+ Khu dân cư và đô thị mới: 28 ha
+ Quỹ đất dự phòng phát triển: 91 ha
Tổng vốn phê duyệt đầu tư kết cấu hạ tầng 153 tỷ đồng.
Mục tiêu xây dựng khu vực này thành khu du lịch - dịch vụ có kết cấu hạ tầng hiện
đại kết hợp với bảo tồn và hình thành các làng nghề truyền thống, các làng du lịch sinh thái
biển phục vụ nhu cầu nghỉ dưỡng, giải trí, tắm biển và thể thao, khai thác tiềm năng biển.
Thu hút đầu tư trong và ngoài nước để hình thành vùng kinh tế động lực ven biển của
Quảng Trị.
Hiện nay hệ thống đường giao thông ven biển ngoài hàng rào(vốn đầu tư giai đoạn I:
150 tỷ đồng) và cầu Cửa Tùng (vốn đầu tư 53 tỷ đồng) bắc qua Cửa Tùng đã được thông
tuyến nối liền hai khu du lịch - dịch vụ Cửa Tùng - Cửa Việt. Huyện đảo Cồn Cỏ đã được
quy hoạch chi tiết cho việc xây dựng thành đảo du lịch - dịch vụ hậu cần nghề cá sẽ tạo nên
một vùng kinh tế năng động mở ra cơ hội khai thác biển Đông có hiệu quả. Tổng các nguồn
vốn dự kiến kêu gọi đầu tư vào khu này là 42 triệu USD, dưới các hình thức như vốn trong
nước, liên doanh, 100% vốn nước ngoài, BOT, BTO, BT. Hiện đã có 15 dự án đăng ký với
số vốn hơn 3.182 tỷ đồng nhưng chỉ mới có 4 dự án thực hiện với số vốn hơn 20 tỷ đồng,
bằng 0,64% số vốn đăng ký.



1.3. KINH NGHIỆM THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ CỦA MỘT SỐ ĐỊA PHƯƠNG
TRONG NƯỚC
1.3.1. Tạo lập môi trường thu hút đầu tư - Kinh nghiệm ở thành phố Đà Nẵng
Thành phố Đà Nẵng là trung tâm kinh tế của khu vực miền Trung. Trong những năm
qua cùng với việc mở rộng và đa dạng hoá các quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế, hoạt động thu
hút đầu tư nước ngoài trở thành một bộ phận quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội của thành phố Đà Nẵng. Tính đến cuối năm 2005 trên địa bàn Thành phố có 73 dự án đầu tư
trực tiếp nước ngoài được cấp giấy phép còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư 472 triệu USD. Vốn
đầu tư thực hiện chiếm 34,78% tổng vốn đầu tư. Các dự án có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
đã giải quyết việc làm cho khoảng 22.500 lao động. Kim ngạch xuất khẩu đạt 105 triệu USD,
chiếm 21% tổng kim ngạch xuất khẩu của thành phố. Ngoài ra, tại Đà Nẵng còn có 123 chi
nhánh, văn phòng đại diện, kho trung chuyển của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đang
hoạt động.
Để đạt được những thành tựu như trên, UBND thành phố Đà Nẵng đã có những giải pháp
quan trọng nhằm cải thiện và tăng cường môi trường đầu tư, tháo gỡ những khó khăn trong hoạt
động của doanh nghiệp, cụ thể:
- Thành lập trung tâm xúc tiến đầu tư Đà Nẵng (IPC DaNang) một đơn vị có chức năng
giúp UBND thành phố, sở kế hoạch và đầu tư thực hiện công tác quản lý nhà nước về lĩnh vực
xúc tiến đầu tư.
- Ưu tiên thu hút đầu tư vào những ngành công nghiệp có giá trị gia tăng lớn như công
nghệ thông tin, sản xuất phần mềm tin học, công nghiệp hướng vào xuất khẩu và sản xuất hàng
tiêu dùng thay thế hàng nhập khẩu với quy mô vừa và lớn, thiết bị công nghệ tiên tiến, hiện đại.
- Hình thành các trung tâm thương mại, phát triển các dịch vụ cảng biển và sân bay, tài
chính, ngân hàng, bưu chính viễn thông, vận tải, chuyển giao kỹ thuật, tư vấn đầu tư...
- Đa dạng hoá các loại hình du lịch, xây dựng các khu du lịch ven biển, phát triển du lịch
quốc tế song song với du lịch nội địa.
- Việc cấp giấy phép cho các dự án đầu tư nước ngoài vào địa bàn thành phố được thực
hiện theo cơ chế “một cửa” tại trung tâm xúc tiến đầu tư Đà Nẵng. Nhà đầu tư được miễn các
chi phí liên quan đến công tác giải quyết thủ tục đầu tư.



- Về đất đai, UBND Thành Phố tổ chức thực hiện và chịu chi phí bồi thường thiệt hại,
giải phóng mặt bằng, hoàn thành các thủ tục cho thuê đất. Đối với các dự án đầu tư ngoài khu
công nghiệp, đơn giá thuê đất từ 0,02 - 6,7 USD/m2/năm tuỳ theo vị trí và lĩnh vực đầu tư. Đối
với các dự án đầu tư trong khu công nghiệp do thành phố quản lý, đơn giá thuê đất (đã bao gồm
phí xây dựng và bảo dưỡng kết cấu hạ tầng) có giá thuê từ 0,3 – 0,54 USD/m2/năm tuỳ theo
phương thức trả tiền thuê đất.
1.3.2. Cải cách thủ tục hành chính - Kinh nghiệm thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài ở Bình Dương
Đã từ lâu Bình Dương được các nhà đầu tư nước ngoài đánh giá là tỉnh có cơ chế, chính
sách và thủ tục cấp phép đầu tư thông thoáng. Trước đây mỗi dự án cấp phép phải mất 30 ngày
thẩm định, sau đó rút ngắn còn 15 ngày rồi 7 ngày và hiện tại chỉ còn 3 ngày. Từ khi có quy
định của chính phủ phân cấp cho tỉnh cấp phép với những dự án dưới 5 triệu USD, có dự án đã
được cấp phép ngay trong ngày, riêng ban quản lý khu công nghiệp Việt Nam - Singapo được
uỷ quyền cấp phép đến 40 triệu USD. Hàng tuần hội đồng đầu tư của tỉnh đều có buổi họp
thông qua các dự án mới và giải quyết kịp thời những vướng mắc cho các dự án đã được cấp
phép.
UBND tỉnh đã ban hành quy chế về trình tự thủ tục cấp phép đầu tư và các biện pháp hỗ
trợ nhà đầu tư sau cấp phép. Các khâu thủ tục hành chính sau cấp phép thuộc thẩm quyền của
các sở, ban ngành trên địa bàn và thời gian được quy định rất cụ thể như: cấp mã số thuế không
quá 7 ngày; mã số hải quan 7 ngày; xác nhận kế hoạch xuất, nhập khẩu 7 ngày; thủ tục thiết kế
xây dựng 10 ngày; các quy trình đo đạc, lập bản đồ địa chính 20 ngày; thủ tục khắc con dấu
không quá 4 ngày...
Định kỳ lãnh đạo UBND tỉnh sắp xếp chương trình đến làm việc với doanh nghiệp, kịp
thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc, giúp doanh nghiệp yên tâm sản xuất kinh doanh.
Thực tế đó đã góp phần thúc đẩy mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội của Bình Dương, cụ thể:
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là nguồn vốn bổ sung quan trọng cho tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh. Về công nghệ, theo thống kê của tỉnh Bình Dương thì đa số
các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài sử dụng công nghệ tiên tiến, số còn lại sử

dụng công nghệ mới có chất lượng khá hơn các doanh nghiệp trong nước. Về học tập kinh
nghiệm quản lý, thay vì trước đây phần lớn các nhà đầu tư sử dụng chuyên gia nước ngoài để


quản lý thì nay họ đã huấn luyện, đào tạo và đang chuyển giao những nhiệm vụ quan trọng cho
người Việt Nam đảm nhiệm. Về giải quyết việc làm cho người lao động, các doanh nghiệp có
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tạo công ăn việc làm thường xuyên cho 265.000 lao động.
Để có được những thành công trên, Bình Dương đã tập trung giải quyết đồng bộ, có hiệu
quả một số giải pháp chủ yếu trong việc cải thiện môi trường đầu tư như:
- Ưu tiên phát triển những ngành sản xuất sản phẩm có lợi thế cạnh tranh, có thị trường
tiêu thụ ổn định và hướng vào xuất khẩu.
- Kịp thời tháo gỡ những khó khăn và khuyến khích đầu tư phát triển sản xuất kinh
doanh, đổi mới trang thiết bị, áp dụng công nghệ tiên tiến để nâng cao sức canh tranh của sản
phẩm cho các doanh nghiệp.
- Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, nâng cao năng lực chỉ đạo, điều hành của bộ máy
chính quyền, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi bình đẳng cho các doanh nghiệp của mọi
thành phần kinh tế. Chú trọng giảm các chi phí đầu tư, mở rộng lĩnh vực đầu tư cho các nhà đầu
tư phù hợp với pháp luật và những cam kết kinh tế quốc tế của Việt Nam.
1.3.3. Vận dụng cơ chế, chính sách nhằm thu hút đầu tư - Kinh nghiệm ở Thái
Nguyên
Tính đến cuối năm 2005, toàn tỉnh có 34 dự án có vốn đầu tư nước ngoài đang hoạt
động, trong đó có 8 dự án ODA, 15 dự án FDI với tổng vốn đăng ký là 205,5 triệu USD. Tỉnh
xác định vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có vai trò quan trọng trong việc khai thác những tiềm
năng của tỉnh, đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Hiện nay, tỉnh Thái Nguyên đang thực hiện nghiêm chỉnh quyết định về cơ chế “ một
cửa” của Thủ tướng Chính phủ, đơn giản hoá thủ tục hành chính nhất là các thủ tục về cấp phép
đầu tư, cấp giấy phép kinh doanh, thủ tục về đất đai...Thực hiện có hiệu quả đề án “cải thiện
môi trường đầu tư” nhằm thu hút các nguồn vốn ODA, FDI cùng các nguồn vốn trong và ngoài
tỉnh đầu tư trên địa bàn. Mặt khác, tỉnh đã tăng cường đầu tư xây dựng mới và nâng cấp kết cấu
hạ tầng nhằm thu hút nhiều hơn nữa vốn đầu tư vào Thái Nguyên.

Thời gian tới, Thái Nguyên sẽ tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư trong
khuôn khổ pháp luật về đầu tư. Thực hiện cơ chế “một đầu mối”, sở Kế Hoạch và Đầu Tư là cơ
quan đầu mối tham mưu cho UBND tỉnh quản lý nhà nước về đầu tư trực tiếp nước ngoài trên
địa bàn và thực hiện cấp phép cho các dự án đầu tư FDI ở ngoài các khu công nghiệp. Ban quản


lý các khu công nghiệp là đầu mối quản lý nhà nước về đầu tư tại các khu công nghiệp và thực
hiện việc cấp phép đầu tư. Các cơ quan chức năng, thanh tra, kiểm tra theo kế hoạch được tiến
hành sau khi có báo cáo và có ý kiến đồng ý của UBND tỉnh.
Nhà đầu tư được hỗ trợ, tạo điều kiện về sử dụng hạ tầng. Nếu nhà đầu tư đã xây dựng
hoặc ứng vốn xây dựng các công trình hạ tầng ngoài hàng rào thì được hoàn trả. Tỉnh quy định
cụ thể giá tiền thuê đất và cơ chế miễn giảm cụ thể, rỏ ràng cho các khu vực, các khu công
nghiệp trên địa bàn tỉnh và được công bố công khai. Nhà đầu tư được miễn tiền thuê đất trong
thời gian xây dựng cơ bản và trong 11 năm tiếp theo kể từ ngày dự án đi vào hoạt động.
Mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp và chế độ miễn giảm thuế thu nhập doanh
nghiệp được áp dụng cụ thể:
- Doanh nghiệp được hưởng ưu đãi về mức thuế suất thu nhập doanh nghiệp 20% và thực
hiện trong 10 năm kể từ khi dự án đi vào hoạt động đối với dự án được hưởng ưu đãi đầu tư và
đầu tư tại địa bàn thành phố Thái Nguyên, thị xã Sông Công, huyện Phổ Yên, huyện Phú Bình;
những dự án không thuộc ngành nghề, lĩnh vực được hưởng ưu đãi đầu tư nhưng đầu tư tại
huyện Đồng Hỷ, Đại Từ, Định Hoá và Phú Lương cũng được hưởng những ưu đãi nói trên.
- Thuế suất 15% và thực hiện trong 12 năm kể từ khi dự án đi vào hoạt động áp dụng đối
với dự án đầu tư không thuộc ngành nghề, lĩnh vực ưu đãi đầu tư tại địa bàn huyện Võ Nhai; dự
án đầu tư thuộc ngành nghề, lĩnh vực được hưởng ưu đãi đầu tư và đầu tư tại địa bàn huyện
Đồng Hỷ, Đại Từ, Định Hoá và Phú Lương.
- Thuế suất 10% và thực hiện trong 15 năm kể từ khi dự án đi vào hoạt động áp dụng đối
với các dự án đầu tư thuộc ngành nghề, lĩnh vực được hưởng ưu đãi đầu tư và đầu tư vào huyện
Võ Nhai.
Hết thời hạn áp dụng mức thuế suất ưu đãi, doanh nghiệp được hưởng mức thuế suất 28%,
được miễn giảm bổ sung đối với thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp. Thuế nhập khẩu được miễn

giảm 100% đối với máy móc, thiết bị tạo tài sản cố định mà trong nước chưa sản xuất được, nguyên
vật liệu sản xuất trong thời gian 5 năm kể từ khi bắt đầu sản xuất, miễn thuế đối với nguyên liệu, bộ
phận rời, phụ tùng và vật tư để sản xuất hàng xuất khẩu. Khi bán sản phẩm cho doanh nghiệp khác
trực tiếp sản xuất hàng xuất khẩu, được miễn thuế nhập khẩu tương ứng với số sản phẩm này. Miễn
thuế nhập khẩu đối với nguyên liệu, vật tư thực hiện dự án BOT, BTO, BT, giống cây trồng, vật
nuôi, nông sản đặc biệt để thực hiện dự án. Không phải nộp thuế giá trị gia tăng đối với thiết bị,


máy móc, phương tiện vận tải chuyên dùng gắn với dây chuyền công nghệ và vật tư trong nước
chưa sản xuất được mà phải nhập khẩu để tạo tài sản cố định; nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất và
cung ứng cho các doanh nghiệp trực tiếp sản xuất sản phẩm xuất khẩu.
1.3.4. Vận dụng chính sách ưu đãi về đất đai - Kinh nghiệm ở Phú Yên
Đến tháng 12/2005 tỉnh Phú Yên thu hút được 34 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài
với tổng vốn đầu tư 247 triệu USD, vốn pháp định 118 triệu USD vốn đầu tư thực hiện 68
triệu USD, chiếm 27,53%. Có được kết quả trên là nhờ UBND tỉnh đã chủ động vận dụng
các chủ trương chính sách ưu đãi của Chính phủ vào điều kiện cụ thể của tỉnh. Trong phạm
vi chức năng và thẩm quyền, UBND đã đề ra những cơ chế, chính sách ưu đãi nhằm thu hút
các nhà đầu tư nước ngoài như: thực hiện cải cách thủ tục hành chính gọn nhẹ “một cửa, tại
chỗ”. Đảm bảo thực hiện ổn định, lâu dài các cơ chế chính sách ưu đãi của tỉnh, các tổ chức
tư vấn, cá nhân trong và ngoài nước giới thiệu các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Phú
Yên được hưởng phí môi giới.
Về giá thuê đất, đối với các dự án đầu tư ngoài khu công nghiệp, giá thuê đất từ 0,01 5 USD/m2/năm tuỳ theo vị trí và ngành nghề đầu tư, đối với các dự án đầu tư vào khu công
nghiệp, giá thuê đất là 0,2 USD/m2/năm. Đặc biệt tỉnh áp dụng các phương thức trả tiền thuê
đất linh hoạt, nếu nhà đầu tư nộp trước tiền thuê đất một lần cho nhiều năm ngay trong năm
đầu thì được giảm tiền thuê đất như sau: Nếu nộp cho 5 năm thì giảm 5% tiền thuê đất của 5
năm đó, nộp cho thời hạn thuê đất trên 5 năm thì cứ mỗi năm tăng thêm được giảm thêm 1%
tổng số tiền thuê đất của thời gian đó, nhưng tổng mức giảm không vượt quá 20% số tiền
phải nộp. Trường hợp nộp tiền thuê đất cho toàn bộ thời gian thuê đất trên 25 năm thì được
giảm 25% số tiền thuê đất phải nộp.
Kết luận chương 1

Trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, phát triển các khu
công nghiệp, khu kinh tế là một phương thức thu hút các nguồn lực đầu tư để phát triển kinh
tế. Đây là một trong những động lực để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh, bền vững, tạo
việc làm và tăng thu nhập cho người lao động, góp phần thúc đẩy đô thị hóa, bảo vệ môi
trường sinh thái nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, tài nguyên và sức cạnh tranh của nền kinh


×