HOÀNG THỊ LAN – Kết quả nghiên cứu khả năng sinh sản...
TÌNH HÌNH CHĂN NUÔI BÒ VÀ KHẢ NĂNG SINH TRƯỞNG CỦA BÒ VÀNG VÀ
BÒ LAI SIND TẠI HUYỆN M’DRĂK, TỈNH ĐĂK LĂK
Văn Tiến Dũng*
Bộ môn Chăn nuôi chuyên khoa, Khoa Chăn nuôi Thú y, Trường Đại học Tây Nguyên
* Tác giả để liên hệ: Ths. Văn Tiến Dũng, Trưởng Bộ môn chăn nuôi chuyên khoa, Khoa
Chăn nuôi thú y, Trường Đại học Tây Nguyên. ĐT: 0914075140; E-Mail:
ĐẶT VẤN ĐỀ
M’Drăk là một huyện phía đông Bắc tỉnh Dăk Lăk, huyện có tiềm năng phát triển nghề
chăn nuôi gia súc có sừng. Huyện có diện tích tự nhiên 133.628 ha trong đó 47% là diện tích
đồng cỏ tự nhiên và thảm cỏ dưới tán rừng có thể sử dụng cho chăn thả. Tổng đàn bò của
huyện hiện nay là 29.415 con và thu nhập hàng năm từ chăn nuôi trâu bò chiếm 35% trong
tổng thu nhập của cả huyện. Tuy nhiên chăn nuôi trâu bò tại đây chủ yếu vẫn ở hình thức chăn
nuôi nhỏ lẻ và quảng canh, đa số các hộ nuôi bình quân 5-10 con, sản phẩm chưa trở thành thị
trường hàng hoá chính thống.
Đàn bò thịt của huyện hiện nay vẫn chủ yếu là bò nội, chiếm khoảng 73% tổng đàn. Bò
lai các loại chiếm khoảng 27%. Trong những năm gần đây một số công thức lai giữa bò lai
Sind với các giống bò có năng suất thịt cao hơn như Red Sindhi, Brahman, Droughmaster,
Charolais đã và đang được triển khai trên địa bàn huyện. Tuy nhiên cho đến nay việc so sánh
khả năng sinh trưởng của các nhóm giống này vẫn chưa được tiến hành một cách đầy đủ.
Huyện M’Drăk có chủ trương phát triển chăn nuôi bò thịt, phấn đầu đến năm 2010 tổng
đàn bò đạt 45.000 con và tỷ lệ bò lai chuyên thịt đạt 37% (Sở Nông nghiệp và phát triển Nông
thôn Tỉnh Dăk Lăk, 2005). Để chủ trương này trở thành hiện thực và người chăn nuôi bò thịt
có lãi thì các thông tin về tình hình chăn nuôi của huyện cũng như việc xác định khả năng
sinh trưởng phát triển của các nhóm giống khác nhau trong điều kiện địa phương là rất cần
thiết. Chính vì vậy chúng tôi tiến hành đề tài: Đánh giá tình hình chăn nuôi và khảo sát một số
chỉ tiêu sinh trưởng của bò vàng và bò Lai sind nuôi tại huyện M’Drăk, Tỉnh Đăk Lăk nhằm
đánh giá hiện trạng điều kiện chăn nuôi và khả năng sinh trưởng của đàn bò nội và bò lai Sind
trong địa bàn huyện.
HOÀNG THỊ LAN – Kết quả nghiên cứu khả năng sinh sản...
VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng
Đàn bò vàng và bò lai Sind nuôi tại một số xã điển hình của Huyện M’Drăk
Nội dung nghiên cứu
- Đánh giá tình hình chăn nuôi bò thịt tại huyện M’Drak
- Khảo sát khả năng sinh trưởng của 2 giống bò thịt chính được nuôi trên địa bàn
huyện.
Phương pháp nghiên cứu
Phân tích các số liệu thống kê thu thập từ Phòng thống kê, Phòng Nông nghiệp, Trạm
khuyến nông, Uỷ ban Nhân Dân huyện và Uỷ ban Nhân dân các xã. Việc phân tích tình
hình cũng như đánh giá tiềm năng phát triển chăn nuôi bò của huyện M’Drak chủ yếu
dựa trên các số liệu hiện có và các lập luận xuất phát từ kiến thức và kinh nghiệm của các
tác giả.
- Khảo sát các chỉ tiêu sinh trưởng của bò vàng và bò lai Sind được tiến hành thông
qua việc xác định khối lượng (KL) cơ thể ở các giai đoạn tuổi khác nhau từ sơ sinh đến
24 tháng tuổi. Thước tiêu chuẩn FAO dùng để đo xác định KL của bò và KL bò được tiến
hành vào các buổi sáng, trước khi cho bò đi ăn.
Xử lý số liệu
Các số liệu cần xử lý thống kê như KL và tăng KL của bò và các giá trị trung bình
của nhiệt độ, ẩm độ, lượng mưa... đều được xử lý trên phần mềm Excel và Minitab.
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
Đánh giá hiện trạng chăn nuôi bò tại huyện M’Drăk
Điều kiện tự nhiên của huyện M’Drăk
M’Drăk là huyện nằm cách thành phố Buôn Ma Thuột 90 km, có tổng diện tích tự
nhiên 133.628 ha. Tổng diện tích đất nông nghiệp là 29.682,34 ha (chiếm 22,42% tổng
diện tích đất tự nhiên), đất lâm nghiệp là 17.047ha (chiếm 12,76%), đất đồng cỏ chăn thả
là 2.515ha (chiếm 2,02%), đất chưa sử dụng là 30.513ha (chiếm 22,83%) và còn lại là đất
ở và đất chuyên dùng khác. Các loại đất lâm nghiệp, đất chưa sử dụng và đất đồng cỏ có
thể được sử dụng để chăn thả nhằm tận dụng lợi thế đất đai này. Ước tính, đàn trâu bò
hiện đang được chăn thả trên khoảng 44% diện tích đất tự nhiên của huyện (tương đương
58.790ha) gồm chăn thả trên diện tích đất lâm nghiệp, đất chưa sử dụng và đồng cỏ. (Cục
thống kê tỉnh Đăk Lăk, 2006). Nếu mỗi ha đất này có thể cung cấp đủ thức ăn cho 2 bò
thì tổng diện tích đất có thể chăn thả của hiện sẽ đủ để nuôi 116.000 bò. Như vậy với điều
kiện đất đai hiện có, M’Drak có tiềm năng lớn để phát triển chăn nuôi gia súc nhai lại.
Địa hình M’Drăk có thể được chia thành 3 phần: địa hình có độ cao 500 - 550m và
độ dốc 0 -80 (chiếm 35%), địa hình có độ cao 600 - 650m và độ dốc 8 - 150 (chiếm 30%)
và địa hình có độ cao trên 650m và độ dốc > 150 (chiếm 35%). Với địa hình có nhiều cấp
độ dốc như vậy, việc chăn nuôi bò thịt cần phải lưu ý đến cơ cấu giống sao cho hợp lí.
Các giống bò lai có tỷ lệ máu ngoại cao thường có khối lượng cơ thể lớn, nhu cầu thức ăn
cao, sức chịu đựng kham khổ và khả năng leo dốc tương đối kém nên sẽ không thích hợp
với các khu vực có địa hình dốc ở mức >100. Với các khu vực này, giống bò vàng địa
phương hoặc bò lai Sind có độ máu Sind ở mức trung bình (không quá 75%) sẽ là sự lựa
chọn thích hợp hơn do các giống này có KL cơ thể nhỏ, nhu cầu thức ăn thấp hơn lại có
HOÀNG THỊ LAN – Kết quả nghiên cứu khả năng sinh sản...
khả năng leo dốc tốt nên có khả năng thu nhận đủ lượng thức ăn cần thiết. Ở các khu vực
có địa hình thấp hơn, có thể nuôi các giống có KL cơ thể tương đối lớn như con lai giữa
bò Lai Sind và bò đực chuyên thịt nhiệt đới (Brahman, Drought Master) và ôn đới
(Charolais, Limousine, Red Angus, Simental vv.).
Mùa mưa thường bắt đầu vào thời điểm tháng 5 và kéo dài 8 tháng có những năm kéo
dài hơn 8 tháng, trong đó lượng mưa cao nhất vào khoảng tháng 11-12 và thấp nhất là
vào tháng 2-3. Một số đặc điểm về thời tiết khí hậu được trình bày ở Bảng 1.
Bảng1: Điều kiện thời tiết, khí hậu trên địa bàn huyện M’Drak
Chỉ tiêu
Đơn vị Trung bình
Cao nhất
Lượng mưa
mm/tháng
230,9
550-600 (tháng 10-11)
0
24
36-37 (tháng 4-5)
Nhiệt độ không khí
C
ẩm độ không khí
%
84
91 (tháng 11-12)
Số giờ nắng
h/tháng
170,25
98 (tháng 12)
Nguồn: Trung tâm khí tượng thuỷ văn Đăk Lăk (2006)
Thấp nhất
20 (tháng 2-3)
16-24 (tháng 12-1)
78-80 (tháng 2-4)
232-269 (tháng 5-7)
Như vậy có thể nói M’Drak có lượng mưa, nhiệt độ và số giờ nắng trung bình /năm
khá cao. Đây có thể được coi là một yếu tố thuận lợi cho sự phát triển của ngành chăn
nuôi trâu bò bởi lượng mưa và số giờ nắng cao là điều kiện thuận lợi cho đồng cỏ phát
triển. Tuy nhiên việc phân bố lượng mưa không đều lại là một trở ngại cho sự phát triển
các hệ thống chăn nuôi dựa vào thiên nhiên. Vào các tháng 2-3 do lượng mưa thấp nên dễ
dẫn đến sự thiếu hụt thức ăn thô xanh, đàn bò thường bị giảm sút về khối lượng cũng như
thể trạng. Hệ thống sông suối có khả năng cung cấp đủ nước cho trồng trọt và chăn nuôi
nhưng do địa hình đồi núi đa dạng nên việc phát triển hệ thống thủy lợi gặp nhiều khó
khăn và hiệu quả không cao. Do đó việc chủ động nguồn nước vẫn còn là bài toán nan
giải. Ngoài ra lượng mưa lớn tại các tháng mùa mưa thường kết hợp với ẩm độ cao nên
trâu bò thường hay mắc một số bệnh về hô hấp và tiêu chảy gây thiệt hại không nhỏ cho
người chăn nuôi. Việc chế biến dự trữ thức ăn và thay đổi phương thức chăn nuôi chuyển
từ chăn thả hoàn toàn sang bán chăn thả kết hợp bổ sung thức ăn có thể là những giải
pháp cần thiết để phát triển chăn nuôi gia súc nhai lại trên địa bàn huyện.
Tình hình chăn nuôi
Số lượng đàn gia súc gia cầm
Trong những năm qua ngành chăn nuôi của huyện luôn được quan tâm của lãnh đạo
tỉnh và địa phương nên tốc độ phát triển tăng lên đáng kể. Trong thời gian từ năm 2003
đến 2006 tổng đàn bò đã tăng 150% (từ 19460 con lên 29415 con), đàn trâu cũng tăng với
tốc độ tương tự - từ 962 con lên 1458 con, đàn lợn tăng xấp xỉ 200% và đàn gia cầm tăng
130% (Bảng 2). Như vậy có thể nói đàn lợn vẫn nhận được sự quan tâm phát triển của
các hộ chăn nuôi nhiều nhất, kế đến là đàn trâu và bò.
Bảng 2: Số lượng gia súc, gia cầm của huyện M’Drak (năm 2003 – 2006)
Vật nuôi
Trâu (con)
Bò (con)
Heo (con)
Gia cầm (con)
Năm 2003
962
19.460
17.032
20.000
Số lượng và cơ cấu đàn bò
Năm 2004
804
28.433
30.157
185.200
Năm 2005
1.207
31.636
32.207
215.961
Năm 2006
1.458
29.415
32.745
257.460
HOÀNG THỊ LAN – Kết quả nghiên cứu khả năng sinh sản...
Đàn bò có sự chuyển biến lớn cả về số đầu con lẫn cơ cấu giống trong giai đoạn từ
2001 đến 2006. Năm 2001 tổng đàn bò là 16.324 con trong đó bò vàng chiếm 79,6% và
lai Sind là 17%. Năm 2006 tổng đàn bò cả huyện đã tăng lên 29.515 con, trong đó bò
vàng chiếm 73,6% và bò lai Sind chiếm 24,5% (Bảng 3). Tuy nhiên cũng cần lưu ý là số
lượng bò năm 2005 (31.636 con) cao hơn năm 2006. Nguyên nhân của sự giảm đi trong
năm 2006 là do giá bò giống đột biến cao, do nhu cầu thị trường bò giống tăng mạnh nên
việc xuất bán bò giống cho các địa phương khác đã làm cho số lượng đàn bò của huyện
giảm.
Tỷ lệ bò lai Sind tăng lên và bò vàng giảm đi cho thấy người chăn nuôi đã quan tâm
nhiều hơn đến chất lượng con giống. Đồng thời điều này cũng cho thấy việc đầu tư của
chính quyền vào công tác cải tiến giống bò thịt đã có những bước tiến rõ rệt. Xu hướng
tăng tỷ lệ bò lai Sind và giảm bò vàng sẽ là một trong những điều kiện thuận lợi cho việc
phát triển đàn bò thịt chất lượng cao ở địa phương, góp phần nâng cao năng suất và chất
lượng thịt bò của huyện nói riêng và tỉnh Đak Lak nói chung.
Bảng 3: Biến động đàn bò trong giai đoạn 2001-2006
Năm
Tổng số bò
(con)
Tổng số
bò vàng
(con)
Tỷ lệ (%)
so với tổng
số
Tổng số bò Lai
Sind (con)
Tỷ lệ (%)
so với tổng số
2001
2002
2003
2004
2005
2006
16.324
16.850
19.460
28.433
31.636
29.415
12.994
12.816
14.700
19.959
22.873
21.649
79.601
76.059
75.540
70.197
72.301
73.599
2.791
3.545
4.517
6.539
7.592
7.216
17.09
21.03
23.21
22.99
23.9
24.53
Tỷ lệ các loại bò theo giới tính và nhóm tuổi được trình bày ở Bảng 4 cho thấy nhìn
chung cơ cấu đàn là hợp lý nếu tính bình quân qua các năm. Tuy nhiên tỷ lệ bò đực giống
bò vàng là tương đối cao (chiếm tỷ lệ bình quân từ 5.92% - 9.19% tổng đàn bò). Đây sẽ
là một trở ngại không nhỏ ảnh hưởng đến công tác cải tạo đàn bò nội hiện có tại địa
phương.
Bảng 4: Tỷ lệ các loại bò theo giới tính và lứa tuổi
Năm
2001
2002
2003
2004
2005
2006
1
Tổng
số
(con)
Đực
TL1
16.324
16.850
19.460
28.433
31.636
29.415
1155
1199
1152
2612
2231
2082
7,08
7,12
5,92
9,19
7,05
7,08
Bò vàng
Cái
sinh
TL 1
sản
7876 48,25
7966 47,28
8689 44,65
10382 36,51
13439 42,48
11706 39,80
Bê
TL 1
3963
3651
4859
6965
7203
7861
24,28
21,67
24,97
24,50
22,77
26,72
Đực
286
310
397
523
629
594
Bò Lai Sind (Con)
Cái
TL1 sinh TL 1
Bê
TL 1
sản
1,75 1370
8,39 1135 6,95
1,84 1725 10,24 1510 8,96
2,04 2484 12,76 1636 8,41
1,84 3596 12,65 2420 8,51
1,99 4175 13,20 2788 8,81
2,02 3582 12,18 3040 10,33
: Tỷ lệ % tổng đàn
Bò đực lai Sind chiếm tỷ lệ rất thấp trong tổng đàn (1,75% - 2,02%), bò cái sinh sản
và bê lai sind cũng chiếm tỷ lệ thấp. Đây là vấn đề khó khăn chính cho công tác cải tạo
giống bò nhằm nâng cao năng suất và sản lượng sản phẩm trong chăn nuôi tại địa
HOÀNG THỊ LAN – Kết quả nghiên cứu khả năng sinh sản...
phương. Tuy nhiên khi so sánh tỷ lệ bò cái và tỷ lệ bê trong tổng đàn của mỗi giống, ta
thấy đàn bò lai Sind có tỷ lệ đàn bê cao hơn (39 so với 32%) so với tỷ lệ này của đàn bò
vàng. Điều này phần nào cho thấy người chăn nuôi tại địa phương đã quan tâm nhiều hơn
đến sự phát triển đàn bò lai Sind. Trái lại, tỷ lệ bò cái sinh sản lai Sind (52% tổng đàn bò
lai Sind) lại thấp hơn so với tỷ lệ này ở đàn bò vàng (57,8% tổng đàn bò vàng), có thể do
tỷ lệ loại thải hoặc bán giống cho các địa phương khác của đàn lai Sind cao hơn đàn bò
vàng. Ngoài ra thời gian thành thục của đàn bò lai Sind dài hơn bò vàng cũng phần nào
dẫn đến sự chênh lệch trong tỷ lệ bê và bò cái sinh sản giữa hai nhóm giống này.
Phương thức nuôi dưỡng và qui mô đàn bò
Số hộ chăn nuôi và qui mô đàn bò năm 2006 được trình bày ở Bảng 5. Chăn nuôi bò
trên địa bàn huyện M’Drak vẫn chủ yếu mang tính chất chăn nuôi hộ gia đình nhỏ lẻ. Số
hộ nuôi dưới 5 con chiếm tỷ lệ xấp xỉ 78% và số hộ nuôi dưới 10 con chiếm tới 96% tổng
số hộ chăn nuôi bò. Tỷ lệ số hộ nuôi trên 50 con là thấp nhất, chỉ chiếm 0,51%.
Phương thức nuôi dưỡng đàn bò chủ yếu là chăn thả có kiểm soát trên đồng cỏ tự
nhiên và dưới tán rừng hoặc chăn thả có kết hợp bổ sung cỏ trồng. Việc chăn thả có kiểm
soát là điều kiện tốt cho công tác giám sát dịch bệnh và cải tiến giống cho đàn bò địa
phương. Tuy nhiên số hộ có đầu tư trồng cỏ để phục vụ chăn nuôi bò mới chỉ chiếm một
tỷ lệ nhỏ khoảng 10%. Đồng cỏ tự nhiên sẽ không thể đáp ứng đủ nhu cầu thức ăn của
đàn bò lai có tỷ lệ máu Sind và bò chuyên thịt chất lượng cao vì các giống này có khối
lượng cơ thể lớn và khả năng leo dốc tìm kiếm thức ăn kém. Đây sẽ là vấn đề cần phải
được quan tâm khi chính quyền địa phương muốn phát triển chăn nuôi bò và đặc biệt là
khi tỷ lệ đàn bò lai Sind tăng lên.
Bảng 5: Số hộ chăn nuôi, qui mô và phương thức nuôi dưỡng của đàn bò huyện M’Drak năm
2006
Số
lượng
bò
(con)
<5
6-10
11-20
21-40
41-50
> 50
Số hộ
nuôi
(hộ)
Tỷ lệ
(%)
6.557
1.542
165
62
45
43
77,92
18,32
1.96
0.73
0.53
0.51
Phương thức nuôi dưỡng
§ồng cỏ
tự nhiên
6,035
1.274
144
62
45
43
Kết hợp (cỏ tự nhiên
và cỏ trồng)
522
268
21
-
Chăn thả tự
do
-
Chăn thả có
kiểm soát
6.557
1.542
165
62
45
43
Dịch vụ khuyến nông phục vụ công tác phát triển chăn nuôi
Toàn bộ trạm khuyến nông huyện M’Drak hiện có 5 người trong đó 3 người làm
công tác khuyến nông chăn nuôi. Hệ thống khuyến nông cơ sở gồm 13 người, trung bình
mỗi xã và thị trấn có 1 người, mỗi thôn buôn có 1 cộng tác viên khuyến nông. Với đội
ngũ khuyến nông viên nói trên Trạm khuyến nông có thể đảm nhiệm công việc triển khai
các lớp tập huấn kỹ thuật về phương pháp dự trữ chế biến thức ăn từ phụ phẩm nông
nghiệp, kỹ thuật trồng cỏ, kỹ thuật chăm sóc nuôi dưỡng bò cho cán bộ khuyến nông thôn
bản và người chăn nuôi. Bên cạnh hệ thống khuyến nông viên, hiện trên địa bàn huyện đã
có 12 người được đào tạo làm dẫn tinh viên. Số cán bộ này hiện chỉ còn 7 người nhưng
kết quả thụ tinh nhân tạo cho đàn bò trong giai đoạn 2003-2006 (Bảng 6) cho thấy trình
độ của các dẫn tinh viên là rất tốt.
HOÀNG THỊ LAN – Kết quả nghiên cứu khả năng sinh sản...
Bảng 6: Kết quả thụ tinh nhân tạo phát triển đàn bò
Năm
2003
2004
2005
2006
Số lượng bò cái được
thụ tinh
1019
2991
4265
2633
Số lượng bò cái
có thai
842
2507
3585
1934
Tỷ lệ đậu thai
83%
84%
84%
73%
Số lượng bê
sinh ra
712
1028
2773
2008
Tỷ lệ đậu thai bằng thụ tinh nhân tạo đạt 73-84%. Đây là điều kiện thuận lợi cho
công tác cải tạo giống bò vàng của địa phương.
Những thuận lợi và khó khăn đối với phát triển chăn nuôi bò
Huyện M’Drak có nhiều thuận lợi cho chăn nuôi bò thịt. Diện tích đất rừng và đất tự
nhiên chưa sử dụng lớn là một lợi thế cho việc sản xuất chăn nuôi bò thịt giá thành thấp.
Hệ thống chăn thả có kiểm soát và hệ thống dịch vụ thú y, khuyến nông phủ khắp địa bàn
huyện cũng là điều kiện thuận lợi cho công tác phòng trừ dịch bệnh cho đàn bò. Ngoài ra
ngành trồng trọt với khoảng 2890 ha lúa, 5821 ha ngô, 2599 ha sắn và 1913 ha mía cũng
cung cấp một lượng phụ phẩm đáng kể có thể sử dụng cho chăn nuôi gia súc nhai lại.
Tuy nhiên chăn nuôi bò trên địa bàn huyện cũng có những khó khăn nhất định. Địa
hình chia cắt kết hợp với phân bố lượng mưa không đều dẫn đến thiếu thức ăn cho đàn bò
trong mùa khô và dịch bệnh xảy ra trong mùa mưa. Tập quán nuôi quảng canh, ít quan
tâm đến việc đầu tư thâm canh cũng là điều kiện khó khăn cho việc phát triển đàn bò thịt
chất lượng cao.
Một số chỉ tiêu sinh trưởng của bò vàng và bò lai Sind
Khả năng sinh trưởng của bò vàng
KL và khả năng tăng KL của bò vàng từ sơ sinh đến 24 tháng tuổi nuôi tại M’Drak
được trình bày ở Bảng 7. Kết quả tại Bảng 7 cho thấy bình quân KL sơ sinh của con đực
là 14, 8 kg và của con cái là 13,1 kg. Các giá trị này thấp hơn một chút so với kết quả
khảo sát bò vàng nuôi trên địa bàn các tỉnh miền Bắc là 15, 6 kg ở con đực và 14, 2 kg ở
con cái (Lê Viết Ly và cs, 2001). Sự khác nhau về KL sơ sinh của bò vàng nuôi tại
M’Drak và bò vàng nuôi ở các địa phương khác có thể là do điều kiện nuôi dưỡng khác
nhau giữa các địa điểm nuôi. Ở M’Drak, bò chủ yếu được nuôi chăn thả trên đồng cỏ tự
nhiên tương đối nghèo dinh dưỡng nên khả năng bò mẹ cung cấp chất dinh dưỡng cho sự
phát triển của phôi thai bị hạn chế và do đó bê sinh ra có KL thấp.
KL lúc 24 tháng tuổi của bò đực cao hơn của bò cái 23% (194 kg so với 158 kg;
Bảng 7). Tương tự, tăng KL trung bình /ngày từ sơ sinh đến 24 tháng tuổi của bò đực
cũng cao hơn bò cái (khoảng 7%). Sự chênh lệch về KL và khả năng tăng KL giữa con
đực và con cái của bò vàng cũng không nằm ngoài qui luật tự nhiên của sinh vật, như
thường thấy ở tất cả các loài gia súc gia cầm nuôi.
Tăng KL tuyệt đối của cả con đực và con cái đều có chiều hướng giảm dần qua các
tháng tuổi, điều này hoàn toàn phù hợp với quy luật sinh trưởng chung của gia súc.
HOÀNG THỊ LAN – Kết quả nghiên cứu khả năng sinh sản...
Bảng 7: Biến đổi khối lượng bò vàng qua các tháng tuổi
Đực
N (con)
KL (kg) Mean ±
SE
Tăng KL
(g/ngày)
N
(con)
Cái
KL (kg) Mean
± SE
Sơ sinh
11
14,8 ± 3,5
9
13,1 ± 2,4
1 tháng
3 tháng
6 tháng
12 tháng
18 tháng
24 tháng
13
10
9
13
12
11
25,1 ± 2,2
46,9 ± 4,5
71,9 ± 6,2
118,2 ± 8,0
153,5 ± 8,5
194,1 ± 12,5
345
363
279
257
196
225
9
12
11
10
13
11
22,7 ± 4,1
40,7 ± 4,5
67,0 ± 7,1
94,2 ± 7,4
126,2 ± 8,1
158,1 ± 10,1
Tháng tuổi
Tăng KL
(g/ngày)
321
300
292
292
178
177
Khả năng sinh trưởng của bò lai Sind
KL và khả năng tăng KL của bò lai Sind từ sơ sinh đến 24 tháng tuổi nuôi tại
M’Drak được trình bày ở Bảng 8. KL sơ sinh của bê đực và cái lai Sind nuôi tại
M’Drak lần lượt là 18, 5 và 17,7 kg, cao hơn so với công bố của Phạm Thế Huệ
(1997) về KL sơ sinh trung bình của bò lai Sind nuôi tại Đăk Lăk (trung bình là
17,47kg). Tăng KL trung bình (g/ngày) của bò lai Sind nuôi tại M’Drăk có chiều
hướng giảm dần theo tháng tuổi và tăng KL của con đực luôn cao hơn con cái, điều
này hoàn toàn phù hợp với quy luật sinh trưởng ở gia súc nói chung và ở trâu bò nói
riêng. Tính cho cả giai đoạn thì tăng KL trung bình của con đực đạt 275g/ngày và con
cái 247g/ngày; thấp hơn khá nhiều so với kết quả nghiên cứu của Phạm Thế Huệ
(1997) (tăng KL của bò lai Sind đạt xấp xỉ 336g/ngày; bò đạt KL 263, 5 kg lúc 24
tháng tuổi).
Khi so sánh KL và tốc độ sinh trưởng giữa bò vàng và bò lai Sind nuôi tại
M’Drak ta thấy bò lai Sind có KL tại các thời điểm cân luôn cao hơn 13-36% (trung
bình 23,2%) đối với con đực và 25-44% (trung bình 36,7%) đối với con cái so với bò
vàng. Tuy nhiên tăng KL trung bình (g/ngày) của bò lai Sind chỉ cao hơn của bò vàng
trong giai đoạn từ sơ sinh đến 6 tháng tuổi, là giai đoạn trước khi cai sữa và bê thường
được chăm sóc tốt hơn giai đoạn sau. Từ 6 đến 24 tháng tuổi không có sự khác nhau
giữa 2 giống về khả năng tăng KL, có thể là do khả năng tìm kiếm và thu nhận thức
ăn của bò lai Sind kém hơn bò vàng. Do đó từ sau khi cai sữa (sau 6 tháng tuổi), bê lai
Sind bị thiếu dinh dưỡng, dẫn đến khả năng tăng KL không cao hơn so với bê nội.
Đây là điểm đáng lưu ý trong các chương trình lai tạo giống bò thịt chất lượng cao tại
M’Drak. Nếu các chương trình này chỉ chú ý đến việc tạo giống năng suất cao hơn mà
không lưu ý đến khả năng cung cấp thức ăn cuả đồng cỏ hoặc thức ăn bổ sung thì hiệu
quả của giống mới sẽ không cao, thậm chí có thể còn kém hơn so với bò vàng.
Tăng trọng tuyệt đối của cả con đực và con cái đều có chiều hướng giảm dần qua các
tháng tuổi, điều này hoàn toàn phù hợp với quy luật sinh trưởng chung của gia súc.
HOÀNG THỊ LAN – Kết quả nghiên cứu khả năng sinh sản...
Bảng 8: Biến đổi khối lượng của bò lLai Sind qua các tháng tuổi
Đực
Cái
Tháng tuổi
N
(con)
KL (kg)
Mean ± SE
Tăng KL
(g/ngày)
N
(con)
KL (kg) Mean
± SE
Tăng KL
(g/ngày)
Sơ sinh
10
18,5 ± 3,4
-
9
17,7 ± 2,7
-
1 tháng
8
32,5 ± 3,2
465
12
31,5 ± 2,4
460
3 tháng
12
63,9 ± 5,7
524
10
58,6 ± 3,6
453
6 tháng
11
94,2 ± 4,3
336
8
91,2 ± 5,5
362
12 tháng
9
136,8 ± 7,8
237
10
134,8 ± 7,9
242
18 tháng
10
175,2 ± 13,6
214
11
169,9 ± 12,5
195
24 tháng
9
219,3 ± 12,6
245
9
198,5 ± 12,1
160
Một số đề xuất giải pháp phát triển chăn nuôi bò
Tổng đàn hiện có tại huyện là 29.415 con trong đó tỷ lệ bò lai Sind 24.53%. Theo kế
hoạch của huyện, đến năm 2010 tổng đàn bò đạt 45.000 con, tỷ lệ bò lai chuyên thịt đạt
37%. Như vậy cần có những định hướng và giải pháp thực hiện đồng bộ
1. Công tác giống
- Trên cơ sở đàn bò cái lai Sind, cho lai với các giống bò thịt chất lượng cao (Red
Brahman, Droughmaster, Limousine, Red Angus) nhằm tạo ra những thế hệ con lai có
khả năng cho thịt tốt nhưng vẫn thích nghi với điều kiện tự nhiên tại địa bàn.
- Đào tạo đội ngũ dẫn tinh viên cơ sở, nâng cao hiệu quả thụ tinh nhân tạo cho đàn bò
tại địa phương
2. Công tác thức ăn
- Tập huấn kĩ thuật bảo quản, chế biến các loại phụ phẩm nông nghiệp làm thức ăn
cho đàn bò nhằm giải quyết sự thiếu hụt thức ăn trong những thời điểm khan hiếm
- Nhân rộng các mô hình trồng và sử dụng có hiệu quả các loại cây thức ăn xanh
phục vụ cho nuôi bò cái sinh sản và bò thịt thâm canh
3. Quy trình chăm sóc nuôi dưỡng
- Xây dựng quy trình chăm sóc nuôi dưỡng hợp lý cho từng giống, đối tượng nuôi và
tập huấn phổ biến cho các nông hộ chăn nuôi
- Đầu tư xây dựng các mô hình trang trại chăn nuôi khép kín về con giống, thức ăn,
kĩ thuật nuôi dưỡng và theo hình thức sản xuất hàng hoá để đáp ứng thị trường hiện có và
tương lai
4. Công tác thú y và phòng bệnh
- Triển khai tiêm phòng văccine cho đàn bò theo lịch thú y địa phương. Xây dựng các
xã an toàn dịch bệnh.
- Xây dựng đội ngũ thú y viên địa bàn, hỗ trợ kịp thời khi có dịch bệnh xảy ra
KẾT LUẬN
Trên cơ sở điều kiện tự nhiên và kế hoạch đầu tư hợp lý. Huyện M’Drăk hoàn toàn
có thể cho phép phát triển đàn bò thịt đến qui mô khoảng 45000 con vào năm 2010.
Xu hướng chăn nuôi bò lai đang tăng lên mặc dù tốc độ vẫn còn khá chậm
HOÀNG THỊ LAN – Kết quả nghiên cứu khả năng sinh sản...
Chăn nuôi hộ gia đình qui mô nhỏ vẫn là hình thức chăn nuôi chính và phương thức
nuôi dưỡng vẫn mang tính quảng canh dựa vào đồng cỏ tự nhiên.
Khối lượng bò lai Sind luôn cao hơn bò vàng cùng tuổi nhưng với phương thức nuôi
dưỡng quảng canh truyền thống hiện nay của M’Drak thì hiệu quả chăn nuôi bò lai không
cao hơn nhiều so với bò vàng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Cục thống kê tỉnh Dăk Lăk. 2006. Niên giám thống kê.
Lê Viết Ly. 2001. Bảo tồn quỹ gen bò vàng (Bảo tồn quỹ gen vật nuôi Việt nam - Tập 1 - Phần Gia súc) Viện Chăn nuôi
Phạm Thế Huệ. 1997. Luận án Thạc sỹ Nông nghiệp - ĐHTN
Sở Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Tỉnh Đăk Lăk. 2005. Dự án quy hoạch phát triển ngành chăn nuôi
thuỷ sản tỉnh Dăk Lăk giai đoạn 2005 - 2010
Trung tâm Khí tượng thuỷ văn Tỉnh Đăk Lăk. 2006. Báo cáo diễn biến khí hậu năm 2006./.