Tải bản đầy đủ (.doc) (77 trang)

Điều tra thực trạng và đề xuất một số biện pháp quản lý, xử lý rác thải sinh hoạt trên địa bàn TT Kim Bài, Thanh Oai, Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (383.03 KB, 77 trang )

PHẦN I MỞ ĐẦU
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Nền kinh tế Việt Nam đang có những bước chuyển mình mạnh mẽ.
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đang diễn ra hết sức khẩn trương,
bộ mặt xã hội đã có nhiều chuyển biến tích cực. Cho đến nay, nó không chỉ
phát triển ở các thành phố, khu đô thị lớn của nước ta mà đang mở rộng ra
các huyện lân cận.
Cùng với sự phát triển kinh tế, đời sống của người dân được cải thiện
đáng kể. Mức sống của người dân càng cao thì nhu cầu tiêu dùng các sản
phẩm xã hội càng cao, điều này đồng nghĩa với việc gia tăng lượng rác thải
sinh hoạt. Rác thải sinh hoạt phát sinh trong quá trình ăn, ở, tiêu dùng của
con người, được thải vào môi trường ngày càng nhiều, vượt quá khả năng tự
làm sạch của môi trường dẫn đến môi trường bị ô nhiễm.
Thanh Oai là một huyện nằm liền kề với quận Hà Đông, thành phố Hà
Nội. Huyện có đường giao thông thuận lợi, lại tiếp giáp với thủ đô nên các
cơ sở sản xuất, các khu công nghiệp ngày càng được mở rộng thu hút một
lượng lớn lao động ở các tỉnh, huyện khác. Dân số trong huyện tăng lên nhu
cầu tiêu dùng của người dân cũng tăng theo. Các chợ, quán xá, các dịch vụ
phục vụ người dân cũng ngày càng phong phú và đa dạng. dẫn đến lượng rác
thải tăng lên rất nhiều.
Tuy nhiên, điều đáng quan tâm ở đây là chưa có một giải pháp cụ thể
nào về việc xử lý các nguồn rác thải phát sinh này. Nếu có thì cũng chỉ là rác
thải được thu gom tập trung ở một bãi rác lộ thiên, không tiến hành xử lý,
chôn lấp, làm mất vệ sinh công cộng, mất mỹ quan môi trường, gây ô nhiễm
môi trường đất, nước, không khí. Đặc biệt, những bãi rác này còn là nguy cơ
gây bệnh dịch, nguy hại đến sức khoẻ con người.
Xuất phát từ thực trang trên, nhằm tìm ra biện pháp quản lý, xử lý phù
hợp góp phần giảm thiểu ô nhiễm môi trường do rác thải sinh hoạt, tôi tiến
hành thực hiện đề tài: “Điều tra thực trạng và đề xuất một số biện pháp
quản lý, xử lý rác thải sinh hoạt trên địa bàn thị trấn Kim Bài, huyện
Thanh Oai, Hà Nội”.


1.2 Mục đích nghiên cứu.
+ Điều tra số lượng, thành phần của rác thải sinh hoạt trên địa bàn thị trấn.
+ Điều tra công tác quản lý, vận chuyển, thu gom, công tác tuyên truyền vệ
sinh môi trường và nhận thức của người dân về rác thải sinh hoạt.
+ Đề xuất một số biện pháp quản lý, xử lý rác thải sinh hoạt nhằm góp phần
giảm thiểu ô nhiễm môi trường.
1.3. Yêu cầu.
+ Xác định được khối lượng và thành phần rác thải sinh hoạt hộ gia đình, lượng
rác thải bình quân trên đầu người ( kg/người/ngày ) trên địa bàn thị trấn.
+ Thống kê lượng rác thải sinh hoạt trung bình theo ngày (tấn/ ngày ) ở từng
tổ dân cư trên địa bàn thị trấn.
+ Đề xuất được các biện pháp quản lý, xử lý rác thải để đạt được hiệu quả tốt
nhất.
PHẦN II TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
2.1 Một số khái niệm
2.1.1 Khái niệm rác thải
Rác thải là bất kì loại vật liệu nào ở dạng rắn mà con người loại bỏ mà
không được tiếp tục sử dụng như ban đầu [3].
Rác thải là các loại rác thải không ở dạng lỏng, không hòa tan được
thải ra từ các hoạt động sinh hoạt, công nghiệp. Rác thải còn bao gồm cả bùn
cặn, phế phẩm nông nghiệp, xây dựng, khai thác mỏ…[5].
Rác thải là những vật chất ở dạng rắn do các hoạt động của con người
và động vật tạo ra. Những “sản phẩm” này thường ít được sử dụng hoặc ít có
ít, do đó nó là “sản phẩm” ngoài ý muốn của con người. Rác thải có thể ở
dạng thành phẩm, được tạo ra trong hầu hết các giai đoạn sản xuất và trong
tiêu dùng [4].
2.1.2 Rác thải sinh hoạt
Rác thải sinh hoạt là những chất thải có liên quan đến các hoạt động
của con người, nguồn tạo thành chủ yếu từ các khu dân cư, các cơ quan,
trường học, các trung tâm dịch vụ, thương mại. Rác thải sinh hoạt có thành

phần bao gồm kim loại, sành sứ, thủy tinh, gạch ngói vỡ, đất, đá, cao su,
chất dẻo, thực phẩm dư thừa hoặc quá hạn sử dụng, xương động vật, tre, gỗ,
lông gà lông vịt, vải, giấy, rơm, rạ, xác động vật, vỏ rau quả v.v…[1].
2.1.3 Quản lý chất thải
Quản lý chất thải là hoạt động phân loại, thu gom, vận chuyển, giảm
thiểu, tái sử dụng, tái chế, xử lý, tiêu hủy, thải loại chất thải [6].
2.1.4 Quản lý môi trường
Quản lý môi trường là sự tác động liên tục, có tổ chức, có phương
hướng và mục đích xác định của chủ thể ( con người, địa phương, quốc gia,
tổ chức quốc tế v.v… ) đối với một đối tượng nhất định ( môi trường sống )
nhằm khôi phục, duy trì và cải thiện tốt hơn môi trường sống của con người
trong khoảng thời gian dự định [1].
2.2 Nguồn gốc, phân loại, thành phần rác thải
2.2.1 Nguồn gốc
Khối lượng rác thải sinh hoạt ngày càng tăng do tác động của sự gia
tăng dân số, sự phát triển kinh tế - xã hội, sự thay đổi tính chất tiêu dùng
trong các đô thị và các vùng nông thôn. Trong đó các nguồn chủ yếu phát
sinh chất thải bao gồm:
- Từ các khu dân cư (chất thải sinh hoạt).
- Từ các trung tâm thương mại, các công sở, trường học, công trình
công cộng.
- Từ các hoạt động công nghiệp, nông nghiệp, các hoạt động xây
dựng.
- Từ các làng nghề ..v..v…[1].
Hình 2.1 Sơ đồ nguồn phát sinh chất thải
(Nguồn: Huỳnh Tuyết Hằng, TP Huế, 08/2005)
2.2.2 Phân loại rác thải
Rác thải được thải ra từ các hoạt động khác nhau được phân loại theo
các cách sau:
- Theo vị trí hình thành: người ta phân biệt ra rác thải trong nhà, rác

thải ngoài nhà, rác thải trên đường, chợ…..
Chính quyền
địa phương
Rác thải
Nơi vui chơi,
giải trí
Bệnh viện, cơ
sở y tế
Khu công
nghiệp, nhà
máy, xí nghiệp
Nhà dân, khu
dân cư.
Chợ, bến xe,
nhà ga
Giao thông, xây
dựng
Cơ quan trường
học
- Theo thành phần hóa học và đặc tính vật lý: người ta phân biệt theo
các thành phần vô cơ, hữu cơ, cháy được, không cháy được, kim loại, da, giẻ
vụn, cao su, chất dẻo…
- Theo mức độ nguy hại:
+ Rác thải nguy hại: bao gồm các loại hóa chất dễ gây phản ứng, độc
hại, rác thải sịnh hoạt dễ thối rữa, các chất dễ cháy, nổ hoặc các rác thải
phóng xạ, các rác thải nhiễm khuẩn, lây lan… có thể gây nguy hại tới con
người, động vật và gây nguy hại tới môi trường. Nguồn phát sinh ra rác thải
nguy hại chủ yếu từ các hoạt động y tế, công nghiệp và nông nghiệp.
+ Rác thải không nguy hại: là những loại rác thải không có chứa các
chất và hợp chất có một trong các đặc tính nguy hại trực tiếp hoặc tương tác

thành phần.
2.2.3 Thành phần của rác thải
Thành phần của rác thải rất khác nhau tùy thuộc từng địa phương, tính
chất tiêu dùng, các điều kiện kinh tế và nhiều yếu tố khác. Thông thường
thành phần của rác thải bao gồm các hợp phần sau: Chất thải thực phẩm,
giấy, catton, vải vụn, sản phẩm vườn, gỗ, thủy tinh, nhựa, bụi tro, cát đá,
gạch vụn…
Bảng 2.1 Thành phần rác thải sinh hoạt ở một số vùng năm 2000
(tính theo % trọng lượng)
Thành phần Hà Nội Việt Trì Thái
Nguyên
Đà
Nẵng
Hạ
Long
Chất hữu cơ 53,00 55,0 55,0 45,47 49,20
Cao su, nhựa 9,15 4,52 3,0 13,10 3,23
Giấy, catton, giẻ vụn 1,48 7,52 3,0 6,36 4,6
Kim loại
3,40 0,22 3,0 2,30 0,4
Thủy tinh, gốm, sứ 2,70 0,63 0,7 1,85 3,7
Đất, đá,cát, gạch vụn 30,27 32,13 35,3 - 38,87
Độ trơ 15,9 13,17 17,15 10,9 11,0
Độ ẩm 47,7 45,0 44,23 49,0 46,0
Tỷ trọng (tấn/m
3
) 0,42 0,43 0,45 0,50 0,50
(Nguồn: Báo cáo kết quả khảo sát của CEETIA, 2001)
2.4 Tác hại của rác thải
2.4.1 Tác hại của rác thải sinh hoạt đến môi trường

- Môi trường đất
+ Rác thải sinh hoạt nằm rải rác khắp nơi không được thu gom đều
được lưu giữ lại trong đất, một số loại chất thải khó phân hủy như túi nilon,
vỏ lon, hydrocacbon… nằm lại trong đất làm ảnh hưởng tới môi trường đất:
thay đổi cơ cấu đât, đất trở nên khô cằn, các vi sinh vật trong đất có thể bị
chết.
+ Nhiều loại chất thải như xỉ than, vôi vữa… đổ xuống đất làm cho đất
bị đóng cứng, khả năng thấm nước, hút nước kém, đất bị thoái hóa.
- Môi trường nước
+ Lượng rác thải rơi vãi nhiều, ứ đọng lâu ngày, khi gặp mưa rác rơi
vãi sẽ theo dòng nước chảy, các chất độc hòa tan trong nước, qua cống rãnh,
ra ao hồ, sông ngòi, gây ô nhiễm nguồn nước mặt tiếp nhận.
+ Rác thải không thu gom hết ứ đọng trong các ao, hồ là nguyên nhân
gây mất vệ sinh và ô nhiễm các thủy vực. Khi các thủy vực bị ô nhiễm hoặc
chứa nhiều rác thì có nguy cơ ảnh hưởng đến các loài thủy sinh vật, do hàm
lượng oxy hòa tan trong nước giảm, khả năng nhận ánh sáng của các tầng
nước cũng giảm, dẫn đến ảnh hưởng tới khả năng quang hợp của thực vật
thủy sinh và làm giảm sinh khối của các thủy vực.
+ Ở các bãi chôn lấp rác chất ô nhiễm trong nước rác là tác nhân gây ô
nhiễm nguồn nước ngầm trong khu vực và các nguồn nước ao hồ, sông suối
lân cận. Tại các bãi rác, nếu không tạo được lớp phủ bảo đảm hạn chế tối đa
nước mưa thấm qua thì cũng có thể gây ô nhiễm nguồn nước mặt.
- Môi trường không khí
+ Tại các trạm/ bãi trung chuyển rác xen kẽ khu vực dân cư là nguồn
gây ô nhiễm môi trường không khí do mùi hôi từ rác, bụi cuốn lên khi xúc
rác, bụi khói, tiếng ồn và các khí thải độc hại từ các xe thu gom, vận chuyển
rác.
+ Tại các bãi chôn lấp chất thải rắn vấn đề ảnh hưởng đến môi trường
khí là mùi hôi thối, mùi khí metan, các khí độc hại từ các chất thải nguy hại.
2.4.2 Tác hại của rác thải sinh hoạt đối với sức khỏe con người

- Tác hại của rác thải lên sức khỏe con người thông qua ảnh hưởng của
chúng lên các thành phần môi trường. Môi trường bị ô nhiễm tất yếu sẽ tác
động đến sức khỏe con người thông qua chuỗi thức ăn.
- Tại các bãi rác, nếu không áp dụng các kỹ thuật chôn lấp và xử lý
thích hợp, cứ đổ dồn rồi san ủi, chôn lấp thông thường, không có lớp lót, lớp
phủ thì bãi rác trở thành nơi phát sinh ruồi, muỗi, là mầm mống lan truyền
dịch bệnh, chưa kể đến chất thải độc hại tại các bãi rác co nguy cơ gây các
bệnh hiểm nghèo đối với cơ thể người khi tiếp xúc, đe dọa đến sức khỏe
cộng đồng xung quanh.
- Rác thải còn tồn đọng ở các khu vực, ở các bãi rác không hợp vệ sinh là
nguyên nhân dẫn đến phát sinh các ổ dịch bệnh, là nguy cơ đe dọa đến sức
khỏe con người. Theo nghiên cứu của tổ chức y tế thế giới (WHO), tỷ lệ
người mắc bệnh ung thư ở các khu vực gần bãi chôn lấp rác thải chiếm tới
15,25 % dân số. Ngoài ra, tỷ lệ mắc bệnh ngoại khoa, bệnh viêm nhiễm ở
phụ nữ do nguồn nước ô nhiễm chiếm tới 25 % [7].
2.4.3 Rác thải sinh hoạt làm giảm mỹ quan đô thị
- Rác thải sinh hoạt nếu không được thu gom, vận chuyển đến nơi xử
lý, thu gom không hết, vận chuyển rơi vãi dọc đường, tồn tại các bãi rác nhỏ
lộ thiên… đều là những hình ảnh gây mất vệ sinh môi trường và làm ảnh
hưởng đến vẻ mỹ quan đường phố, thôn xóm.
- Một nguyên nhân nữa làm giảm mỹ quan đô thị là do ý thức của
người dân chưa cao. Tình trạng người dân đổ rác bừa bãi ra long lề đường
và mương rãnh vẫn còn rất phổ biến, đặc biệt là ở khu vực nông thôn nơi mà
công tác quản lý và thu gom vẫn chưa được tiến hành chặt chẽ.
2.5 Các phương pháp xử lý rác thải sinh hoạt
2.5.1 Khái niệm về xử lý rác thải
Xử lý rác thải là dùng các biện pháp kỹ thuật để xử lý các chất thải
nhằm làm giảm ảnh hưởng tới môi trường, tái tạo lại các sản phẩm có lợi
cho xã hội nhằm phát huy hiệu quả kinh tế, xử lý rác thải là một công tác
quyết định đến chất lượng bảo vệ môi trường. Hiện nay, ô nhiễm môi trường

và suy thoái môi trường là nỗi lo của nhân loại: môi trường đất, nước, không
khí ngày càng ô nhiễm nặng nề, nhất là những thành phố lớn tập trung dân
cư đông đúc, tài nguyên môi trường cạn kiệt [8].
2.5.2 Các phương pháp xử lý rác thải sinh hoạt chủ yếu
2.5.2.1 Phương pháp chôn lấp
Phương pháp truyền thống đơn giản nhất là chôn lấp rác. Phương pháp
này có chi phí thấp và được áp dụng phổ biến ở các nước đang phát triển.
Việc chôn lấp được thực hiện bằng cách dùng xe chuyên dụng chở rác
tới các bãi đã xây dựng trước. Sau khi rác được đổ xuống, xe ủi san bằng,
đầm nén trên bề mặt và đổ lên một lớp đất, hàng ngày phun thuốc diệt ruồi
muỗi, rắc vôi bột… theo thời gian, sự phân hủy của vi sinh vật làm cho rác
trở nên tơi xốp và thể tích của bãi rác giảm xuống. Việc đổ rác lại được tiếp
tục cho đến khi bãi rác đầy thì chuyển sang bãi rác mới.
Hiện nay việc chôn lấp rác thải sinh hoạt được sử dụng chủ yếu ở các
nước đang phát triển nhưng phải tuân thủ các quy định về bảo vệ môi trường
một cách nghiêm ngặt. Việc chôn lấp rác có xu hướng giảm dần, tiến tới
chấm dứt ở các nước đang phát triển.
Các bãi chôn lấp rác phải cách xa khu dân cư, không gần nguồn nước
ngầm và nguồn nước mặt. Đáy của bãi rác nằm trên tầng đất sét hoặc được
phủ các lớp chống thấm bằng màn địa chất. Ở các bãi chôn lấp rác cần phải
thiết kế khu thu gom và xử lý nước rác trước khi thải vào môi trường. Việc
thu khí ga để biến đổi thành năng lượng là một cách để tận dụng từ rác thải
rất hữu ích [8].
- Ưu điểm của phương pháp:
+ Công nghệ đơn giản, rẻ tiền và phù hợp với nhiều loại rác thải.
+ Chi phí vận hành bãi rác thấp.
- Nhược điểm của phương pháp:
+ Chiếm diện tích đất tương đối lớn.
+ Không được sự đồng tình của người dân khu vực xung quanh.
+ Nguy cơ gây ô nhiễm môi trường (đất, nước, không khí) cao.

+ Tìm kiếm xây dựng bãi rác mới là việc làm khó khăn.
2.5.2.2 Phương pháp đốt rác
Xử lý rác bằng phương pháp đốt là giảm tới mức tối thiểu chất thải cho
khâu xử lý cuối cùng. Nhờ thiêu đốt dung tích chất thải rắn được giảm nhiều
chỉ còn khoảng 10 % so với dung tích ban đầu, trọng lượng giảm chỉ còn
25% hoặc thấp hơn so với ban đầu. Như vậy sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho
việc thu gom và giảm nhu cầu về dung tích chứa tại chỗ, ngay tại nguồn,
đồng thời cũng dễ dàng chuyên chở ra bãi chôn lấp tập trung nếu cần. Tuy
nhiên phương pháp đốt rác sẽ gây ô nhiễm không khí cho khu vực dân cư
xung quanh, đồng thời làm mất mỹ quan đô thị, vì vậy phương pháp này chii
dùng tại các địa phương nhỏ, có mật độ dân số thấp [1].
Phương pháp này chi phí cao, so với phương pháp chôn lấp rác, chi phí
để đốt một tấn rác cao hơn gấp 10 lần. Công nghệ đốt rác thường sử dụng ở
các quốc gia phát triển vì phải có một nền kinh tế đủ mạnh để bao cấp cho
việc thu đốt rác sinh hoạt như là một dịch vụ phúc lợi xã hội toàn dân. Tuy
nhiên việc đốt rác sinh hoạt bao gồm nhiều chất thải khác nhau sinh khói độc
và dễ sinh khí dioxin nếu không giải quyết tốt việc xử lý khói. Năng lượng
phát sinh khi đốt rác có thể tận dụng cho các lò hơi, lò sưởi hoặc cho ngành
công nghệ nhiệt và phát điện. Mỗi lò đốt phải được trang bị một hệ thống xử
lý khí thải tốn kém nhằm khống chế ô nhiễm không khí do quá trình đốt gây
ra.
Hiện nay tại các nước Châu Âu có xu hướng giảm đốt rác thải vì hàng
loạt các vấn đề kinh tế cũng như môi trường cần phải giải quyết. Việc thu
đốt rác thải thường chỉ áp dụng cho việc xử lý rác thải độc hại, rác thải bệnh
viện hoặc rác thải công nghiệp và các phương pháp khác không xử lý triệt để
được [8].
2.5.2.3 Phương pháp ủ sinh học
Ủ sinh học (compost) là quá trình ổn định sinh hóa các chất hữu cơ để
hình thành các chất mùn, với thao tác sản xuất và kiểm soát một cách khoa
học tạo môi trường tối ưu đối với quá trình.

Quá trình ủ hữu cơ từ rác hữu cơ (sản xuất phân bón hữu cơ) là một
phương pháp truyền thống được áp dụng phổ biến ở các quốc gia đang phát
triển trong đó có Việt Nam. Quá trình ủ được coi như quá trình lên men yếm
khí mùn hoặc hoạt chất mùn. Sản phẩm thu hồi là hợp chất mùn không mùi,
không chứa vi sinh vật gây bệnh và hạt cỏ. Để đạt mức độ ổn định như lên
men, việc ủ đòi hỏi năng lượng để tăng cao nhiệt độ của đống ủ. Trong quá
trình ủ oxy sẽ được hấp thụ hàng trăm lần và hơn nữa so với bể aeroten. Quá
trình ủ áp dụng với chất hữu cơ không độc hại, lúc đầu là khử nước, sau là
xử lý cho đến khi nó thành xốp và ẩm. Độ ẩm và nhiệt độ được kiểm tra
thường xuyên và giữ cho vật liệu ủ luôn ở trạng thái hiếu khí trong suốt thời
gian ủ. Quá trình tự tạo ra nhiệt riêng nhờ quá trình oxy hóa các chất thối
rữa. Sản phẩm cuối cùng là CO
2
, nước và các hợp chất hữu cơ bền vững
như: lignin, xenlulo, sợi…[1].
Công nghệ ủ có thể là ủ đống tĩnh thoáng khí cưỡng bức, ủ luống có
đảo định kỳ hoặc vừa thổi vừa đảo. Xử lý rác làm phân hữu cơ là biện pháp
rất có hiệu quả, sản phẩm phân hủy có thể kết hợp tốt với phân người và
phân gia súc cho ta chất hữu cơ có hàm lượng dinh dưỡng cao, tạo độ tơi
xốp, rất tốt cho việc cải tạo đất
2.5.2.4 Phương pháp xử lý rác bằng công nghệ ép kiện
Phương pháp ép kiện được thực hiện trên cơ sở toàn bộ rác thải tập
trung thu gom vào nhà máy. Rác được phân loại bằng phương pháp thủ công
trên băng tải, các chất trơ và các chất có thể tận dụng được như: kim loại,
nilon, giấy, thủy tinh, nhựa… được thu hồi để tái chế. Những chất còn lại sẽ
được băng tải chuyền qua hệ thống ép nén rác bằng thủy lực với mục đích
làm giảm tối đa thể tích khối rác và tạo thành cac kiện với tỷ số nén rất cao.
Các kiện rác đã nén ép này được sử dụng vào việc đắp các bờ chắn
hoặc san lấp các vùng đất trũng sau khi được phủ lên các lớp đất cát. Trên
diện tích này có thể sử dụng làm mặt bằng các công trình như: công viên,

vườn hoa, các công trình xây dựng nhỏ và mục đích chính là làm giảm tối đa
mặt bằng khu vực xử lý rác.
Hình 2.2 Sơ đồ công nghệ xử lý rác bằng phương pháp ép kiện
(Nguồn: Trần Hiếu Nhuệ, Quản lý chất thải rắn đô thị, 2001)
2.5.2.5 Phương pháp xử lý rác bằng công nghệ Hydromex
Đây là một công nghệ mới lần đầu tiên được áp dụng ở Mỹ (2/1996).
Công nghệ Hydromex nhằm xử lý rác đô thị (kể cả rác độc hại) thành các
sản phẩm phục vụ ngành xây dựng, vật liệu, năng lượng và sản phẩm dùng
trong nông nghiệp hữu ích.
Bản chất của công nghệ Hydromex là nghiền nhỏ rác sau đó polime
hóa và sử dụng áp lực lớn để nén, định hình các sản phẩm.
Rác thải được thu gom (rác hỗn hợp, kể cả rác cồng kềnh) được
chuyển về nhà máy, không cần phân loại và đưa vào máy cắt nghiền nhỏ,
sau đó đưa đến các thiết bị trộn bằng băng tải. Chất thải lỏng pha trộn trong
bồn phản ứng, các phản ứng trung hòa và khử độc thực hiện trong bồn. Sau
đó chất thải lỏng từ bồn phản ứng được bơm vào các thiết bị trộn: chất lỏng
Rác
thải
Phễu
nạp rác
Băng
tải rác
Phân
loại
Máy
ép rác
Băng tải
thải vật liệu
Các khối kiện
sau khi ép

Kim loại
Thủy tinh
Giấy
Nhựa
và rác thải kết dính với nhau sau khi cho thêm thành phần polime hóa vào.
Sản phẩm ở dạng bột ướt được chuyển đến máy ép cho ra sản phẩm mới.
Các sản phẩm này bền, an toàn với môi trường [8].
Hình 2.3 Sơ đồ xử lý rác theo công nghệ Hydromex

(Nguồn: www.scribd.com/doc/6899000/4PP-xl-rac-thai-ran)
2.5.2.6 Xử lý rác bằng công nghệ Seraphin
Ban đầu rác thải được đưa tới nhà máy và đổ xuống nhà tập kết nơi có
hệ thống phun vi sinh khử mùi cũng như ozone diệt vi sinh vật độc hại. Tiếp
đến, băng tải sẽ chuyển rác tới máy xé bông để phá vỡ mọi loại bao gói. Rác
tiếp tục đi qua hệ thống tuyển từ (hút sắt thép và các kim loại khác) rồi lọt
xuống sàng lồng.
CTR chưa
phân loại
Kiểm tra bằng mắt
Cắt, xé,nghiền tơi nhỏ
Làm ẩm
Trộn đều
Ép hay đùn ra
Sản phẩm mới
Chất thải lỏng
hỗn hợp
Thành phần
polyme hóa
Sàng lồng có nhiệm vụ tách chất thải mềm, dễ phân huỷ, chuyển rác vô
cơ (kể cả bao nhựa) tới máy vò và rác hữu cơ tới máy cắt. Trong quá trình

vận chuyển này, một chủng vi sinh ASC đặc biệt, được phun vào rác hữu cơ
nhằm khử mùi hôi, làm chúng phân huỷ nhanh và diệt một số tác nhân độc
hại. Sau đó, rác hữu cơ được đưa vào buồng ủ trong thời gian 7-10 ngày.
Buồng ủ có chứa một chủng vi sinh khác làm rác phân huỷ nhanh cũng như
tiếp tục khử vi khuẩn. Rác biến thành phân khi được đưa ra khỏi nhà ủ, tới
hệ thống nghiền và sàng. Phân trên sàng được bổ sung một chủng vi sinh đặc
biệt nhằm cải tạo đất và bón cho nhiều loại cây trồng, thay thế trên 50%
phân hoá học. Phân dưới sàng tiếp tục được đưa vào nhà ủ trong thời gian 7-
10 ngày.
Do lượng rác vô cơ khá lớn nên các nhà khoa học tục phát triển hệ
thống xử lý phế thải trơ và dẻo, tạo ra một dây chuyền xử lý rác khép kín.
Phế thải trơ và dẻo đi qua hệ thống sấy khô và tách lọc bụi tro gạch. Sản
phẩm thu được ở giai đoạn này là phế thải dẻo sạch. Chúng tiếp tục đi qua tổ
hợp băm cắt, phối trộn, sơ chế, gia nhiệt bảo tồn rồi qua hệ thống thiết bị
định hình áp lực cao. Thành phẩm cuối cùng là ống cống panel, cọc gia cố
nền móng, ván sàn, cốp pha...
Cứ 1 tấn rác đưa vào nhà máy, thành phẩm sẽ là 300-350 kg seraphin
(chất thải vô cơ không huỷ được) và 250-300kg phân vi sinh. Loại phân này
hiện đã được bán trên thị trường với giá 500 đồng/ kg.
Như vậy, qua các công đoạn tách lọc - tái chế, công nghệ seraphin làm
cho rác thải sinh hoạt được chế biến gần 100% trở thành phân bón hữu cơ vi
sinh, vật liệu xây dựng, vật liệu sản xuất đồ dân dụng, vật liệu cho công
nghiệp. Các sản phẩm này đã được cơ quan chức năng, trong đó có Tổng cục
Tiêu chuẩn Đo lường chất lượng kiểm định và đánh giá là hoàn toàn đảm
bảo về mặt vệ sinh và thân thiện môi trường. Với công nghệ seraphin, Việt
Nam có thể xoá bỏ khoảng 52 bãi rác lớn, thu hồi đất bãi rác để sử dụng cho
các mục đích xã hội tốt đẹp hơn [9].
2.6 Tình hình quản lý, xử lý rác thải trên thế giới và Việt Nam
2.6.1 Tình hình quản lý, xử lý rác thải trên thế giới
2.6.1.1 Phát sinh rác thải trên thế giới

Nhìn chung, lượng rác thải sinh hoạt ở mỗi nước trên thế giới là khác
nhau, phụ thuộc vào sự phát triển kinh tế, dân số và thói quen tiêu dùng của
người dân nước đó. Tỷ lệ phát sinh rác thải tăng theo tỷ lệ thuận với mức
tăng GDP tính theo đầu người. Tỷ lệ phát sinh rác thải theo đầu người ở một
số thành phố trên thế giới như sau: Băng Cốc (Thái Lan) là
1,6kg/người/ngày; Singapo là 2kg/người/ngày; Hồng Kông là
2,2kg/người/ngày; NewYork (Mỹ) là 2,65kg/người/ngày [5].
Tỷ lệ chất thải sinh hoạt trong dòng chất thải rắn đô thị rất khác nhau
giữa các nước. Theo ước tính, tỷ lệ này chiếm tới 60-70% ở Trung Quốc
(Gao et al.2002); chiếm 78% ở Hồng Kông; 48% ở Philipin và 37% ở Nhật
Bản, chiếm 80% ở nước ta. Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới, các nước
có thu nhấp cao chỉ có khoảng 25-35% chất thải sinh hoạt trong toàn bộ
dòng chất thải rắn đô thị [11].
+ Các số liệu thống kê gần đây về tổng lượng chất thải ở Anh cho thấy
hàng năm Liên hiệp Anh tạo ra 307 triệu tấn chất thải, trong đó ước tính 46,6
triệu tấn chất thải sinh học và chất thải dạng tương tự phát sinh ở Anh, 60%
số này được chôn lấp, 34% được tái chế và 6% được thiêu đốt. Chỉ tính
riêng rác thải thực phẩm, theo dự án khảo sát được thực hiện từ tháng
10/2006-3/2008, chất thải thực phẩm được thải ra từ hộ gia đình nhiều hơn
tới hàng tấn so với chất thải bao bì, chiếm 19% chất thải đô thị. Tổng số
hàng năm các hộ gia đình ở Anh phát sinh 6,7 triệu tấn chất thải thực phẩm,
chỉ riêng ở England là 5,5 triệu tấn, trong đó 4,1 triệu tấn là thực phẩm vẫn
có thể sử dụng được. Trung bình mỗi hộ gia đình thải ra 276 kg chất thải
thực phẩm/năm hay 5,3 kg/tuần, trong đó 3,2 kg vẫn có thể sử dụng được
[15].
+ Theo số liệu thống kê mới đây của Bộ Môi trường Nhật Bản, hằng
năm nước này có khoảng 450 triệu tấn rác thải, trong đó phần lớn là rác công
nghiệp (397 triệu tấn). Trong tổng số rác thải trên, chỉ có khoảng 5% rác thải
phải đưa tới bãi chôn lấp, trên 36% được đưa đến các nhà máy để tái chế. Số
còn lại được xử lý bằng cách đốt hoặc chôn tại các nhà máy xử lý rác. Với

rác thải sinh hoạt của các gia đình, khoảng 70% được tái chế thành phân bón
hữu cơ, góp phần giảm bớt nhu cầu sản xuất và nhập khẩu phân bón [12].
+ Mỗi ngày Singapore thải ra khoảng 16.000 tấn rác. Rác ở Singapore
được phân loại tại nguồn (nghĩa là nhà dân, nhà máy, xí nghiệp...). Nhờ vậy
56% số rác thải ra mỗi ngày (khoảng 9.000 tấn) quay lại các nhà máy để tái
chế. Khoảng 41% (7.000 tấn) được đưa vào bốn nhà máy thiêu rác để đốt
thành tro. Cuối cùng, mỗi ngày chừng 1.500 tấn tro rác cùng với 500 tấn rác
không thể đốt được sẽ lên sà lan trực chỉ Semakau Landfill. Như vậy về khối
lượng, từ 16.000 tấn rác mỗi ngày, sau khi đốt rác Singapore chỉ cần bãi đổ
rác cho hơn 10% lượng rác đó, xấp xỉ 2.000 tấn. Trong khi đó, mỗi ngày
TP.HCM thải ra khoảng 8.000 tấn rác (chỉ bằng 1/2 Singapore) nhưng lại
phải tìm chỗ chôn lấp cho ngần ấy số rác (gấp bốn lần Singapore).Chưa hết,
nhiệt năng sinh ra trong khi đốt rác được dùng để chạy máy phát điện đủ
cung cấp 3% tổng nhu cầu điện của Singapore [13].
+ Ở Nga, mỗi người bình quân thải ra môi trường 300kg/người/năm
rác thải. Tương đương một năm nước này thải ra môi trường khoảng 50 triệu
tấn rác, riêng thủ đô Matxcova là 5 triệu tấn/năm [4].
Theo Ngân hàng Thế giới, các đô thị của Châu Á mỗi ngày phát sinh
khoảng 760.000 tấn chất thải rắn đô thị. Đến năm 2025, dự tính con số này
sẽ tăng tới 1,8 triệu tấn/ngày.
Bảng 2.1: Phát sinh chất thải rắn đô thị và sinh hoạt ở một số nước Châu Á
Quốc
gia
Năm Dân
số
(triệu
người
)
GDP/
người

Lượng
phát sinh
CTRĐT
(kilôtấn/
năm)
Tỷ lệ
phát sinh
MSW/ng
ười/ngày
Lượng
RTSH
(nghìn
tấn/năm)
Tỷ lệ phát
sinh
RTSH
(kg/người
/ngày)
Trung
Quốc
2000 1267,
4
856 130320 1,70
1
78193
3
1,02
3
Hồng
Kông

2003 6,8 2380
0
3440
4
1,39 2700
4
1,09
Ấn Độ 2002 1052,
0
471 - 0,2-0,5
5
- -
Indone
sia
1995 194,8 1038 - 0,76
6
- -
Hàn
Quốc
2002 47,6 1001
3
18189
7
1,05 - -
Malay
sia
2002 24,5 3868 - 0,88-
1,44
8
- -

Philipi
n
2002 76,5 978 10670
9
0,5-0,7
9
- -
Đài
Loan
2002 22,6 1257
0
7970
10
0,97 - -
Thái
Lan
2002 62,8 5430 14317
11
0,62 - -
Thổ
Nhĩ
Kỳ
2001 68,5 2146 25100
12
1,00 - 0,57
(Nguồn: Waste management and recycling in Asia, IGES, 2005)
Thành phần rác ở các nước trên thế giới là khác nhau tùy thuộc vào thu
nhập và mức sống của mỗi nước. Đối với các nước có nền công nghiệp phát
triển thì thành phần các chất vô cơ trong rác thải phát sinh chiếm đa số và
lượng rác này sẽ là nguyên liệu cho ngành công nghiệp tái chế. Hàng năm

toàn nước Mỹ phát sinh một khối lượng rác khổng lồ lên tới 10 tỷ tấn. Trong
đó, rác thải từ quá trình khai thác dầu mỏ và khí chiếm 75%; rác thải từ quá
trình sản xuất nông nghiệp chiếm 13%; rác thải từ hoạt động công nghiệp
chiếm 9,5%; rác thải từ cặn cống thoát nước chiếm 1%; rác thải sinh hoạt
chiếm 1,5% [14].
Bảng 2.2 Thành phần và tỷ lệ rác thải ở Mỹ
Thành phần Tỷ lệ % các loại rác theo các nguồn khác nhau
Tại bãi rác Colombia Theo EPA Trung bình cả nước
Giấy 41 33 35 - 47
Hữu cơ 21 17 18 - 29
Nhựa 16 12 11 - 21
Kim loại 6 6 4 - 8
Thủy tinh 3 6 2 - 6
Các loại khác 13 24 10 - 15
(Nguồn: tạp chí Waste Management Research. Volum 23 số 1, 2/2005)
(EPA: Environmetal Protection Ageney)
2.6.1.2 Quản lý, xử lý rác thải trên thế giới
Vấn đề quản lý, xử lý rác thải ở các nước trên thế giới đang ngày càng
được quan tâm hơn. Đặc biệt tại các nước phát triển, công việc này được tiến
hành một cách rất chặt chẽ, từ ý thức thải bỏ rác thải của người dân, quá
trình phân loại tại nguồn, thu gom, tập kết rác thải cho tới các trang thiết bị
thu gom, vận chuyển theo từng loại rác. Các quy định đối với việc thu gom,
vận chuyển, xử lý từng loại rác thải được quy định rất chặt chẽ và rõ ràng
với đầy đủ các trang thiết bị phù hợp và hiện đại. Một khác biệt trong công
tác quản lý, xử lý rác thải của các nước phát triển là sự tham gia của cộng
đồng.
+ Có thể nói, ngành tái chế rác ở Đức đang dẫn đầu trên thế giới hiện
nay. Việc phân loại rác đã được thực hiện nghiêm túc ở Đức từ năm 1991.
Rác bao bì gồm hộp đựng thức ăn, nước hoa quả, máy móc bằng nhựa, kim
loại hay carton được gom vào thùng màu vàng. Bên cạnh thùng vàng, còn có

thùng xanh dương cho giấy, thùng xanh lá cây cho rác sinh học, thùng đen
cho thủy tinh.
Những lò đốt rác hiện đại của nước Đức hầu như không thải khí độc ra môi
trường. Das Duele System Deutschland (DSD) – “Hệ thống hai chiều của
nước Đức” - được các nhà máy tái chế sử dụng để xử lý các loại rác thải và
năm vừa rồi, các nhà máy này đã chi khoản phí gần 1,2 tỷ USD để sử dụng
công nghệ trên. Tại các dây chuyền phân loại, các camera hồng ngoại hoạt
động với tốc độ 300.000km/s để phân loại 10 tấn vật liệu mỗi giờ. Những
ống hơi nén được điều khiển bằng máy tính đặt ở các băng chuyền có nhiệm
vụ tách riêng từng loại vật liệu. Sau đó rác thải sẽ được rửa sạch, nghiền nhỏ
và nấu chảy. Quá trình trên sẽ cho ra granulat, một nguyên liệu thay thế dầu
thô trong công nghiệp hoặc làm chất phụ gia.
Giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho trẻ nhỏ bắt đầu từ việc phân loại rác
là một trong những phương pháp mà những nhà quản lý tại Đức đã áp dụng.
Rác được phân loại triệt để là điều kiện để quá trình xử lý và tái chế rác trở
nên thuận lợi và dễ dàng hơn rất nhiều. Từ đó, khái niệm về rác thải dần
được thay thế bằng nguồn tài sản tiềm năng, mang lại lợi nhuận đáng kể với
những ai biết đầu tư vào việc cải tiến công nghệ [16].
Hình 2.4 Sơ đồ hệ thống hoạt động tái chế ở Đức:
chất thải khác
rác thải bao bì

Đầu tư
Đưa ra giá thu gom và
tái chế
+ Tại Nhật, chuyển từ hệ thống quản lý chất thải truyền thống với dòng
nguyên liệu xử lý theo một hướng sang xã hội có chu trình xử lý nguyên liệu
theo mô hình 3R (reduce, reuse, recycle).Về thu gom chất thải rắn sinh hoạt,
các hộ gia đình được yêu cầu phân chia rác thành 3 loại: Rác hữu cơ dễ phân
hủy, rác khó tái chế nhưng có thể cháy và rác có thể tái chế. Rác hữu cơ

được thu gom hàng ngày để đưa đến nhà máy sản xuất phân compost; loại
rác khó tái chế, hoặc hiệu quả tái chế không cao, nhưng cháy được sẽ đưa
đến nhà máy đốt rác thu hồi năng lượng; rác có thể tái chế thì được đưa các
nhà máy tái chế. Các loại rác này được yêu cầu đựng riêng trong những túi
có màu sắc khác nhau và các hộ gia đình phải tự mang ra điểm tập kết rác
của cụm dân cư vào giờ quy định, dưới sự giám sát của đại diện cụm dân cư.
Công ty vệ sinh thành phố sẽ cho ô tô đến đem các túi rác đó đi. Nếu gia
đình nào không phân loại rác, để lẫn lộn vào một túi thì ban giám sát sẽ báo
lại với Công ty và ngay hôm sau gia đình đó sẽ bị công ty vệ sinh gửi giấy
Người tiêu dùng
Chính quyền địa
phương
Đốt rác, chôn lấp
Hệ thống tái chế chất thải
Các công ty sản xuất
và bán
Tái dùng
dụngdụng
Ngời tiêu dùng
Cơ quan trường
học
báo đến phạt tiền. Với các loại rác cồng kềnh như tivi, tủ lạnh, máy giặt,...
thì quy định vào ngày 15 hàng tháng đem đặt trước cổng đợi ô tô đến chở đi,
không được tuỳ tiện bỏ những thứ đó ở hè phố. Sau khi thu gom rác vào nơi
quy định, công ty vệ sinh đưa loại rác cháy được vào lò đốt để tận dụng
nguồn năng lượng cho máy phát điện. Rác không cháy được cho vào máy ép
nhỏ rồi đem chôn sâu trong lòng đất. Cách xử lý rác thải như vậy vừa tận
dụng được rác vừa chống được ô nhiễm môi trường. Túi đựng rác là do các
gia đình bỏ tiền mua ở cửa hàng. Việc thu gom rác ở Nhật Bản không giống
như ở Việt Nam. Rác thải từ hộ gia đình thuộc trách nhiệm quản lý của Nhà

nước, còn từ các công ty, nhà máy... cho tư nhân đấu thầu hoặc các công ty
do chính quyền địa phương chỉ định. Các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất phải
tự chịu trách nhiệm về lượng rác thải công nghiệp của họ và điều này được
quy định bằng các điều luật về bảo vệ môi trường [12].
+ Tại Singapore, nhiều năm qua đã hình thành một cơ chế thu gom rác
rất hiệu quả. Việc thu gom rác được tổ chức đấu thầu công khai cho các nhà
thầu. Công ty trúng thầu sẽ thực hiện công việc thu gom rác trên một địa bàn
cụ thể trong thời hạn 7 năm. Singapore có 9 khu vực thu gom rác. Rác thải
sinh hoạt được đưa về một khu vực bãi chứa lớn. Công ty thu gom rác sẽ
cung cấp dịch vụ “từ cửa đến cửa”, rác thải tái chế được thu gom và xử lý
theo chương trình Tái chế Quốc gia.Có thể nói Singapore được xem là một
quốc gia có môi trường xanh - sạch - đẹp của thế giới, Chính phủ rất coi
trọng việc bảo vệ môi trường. Cụ thể là pháp luật về môi trường được thực
hiện một cách toàn diện là công cụ hữu hiệu nhất để đảm bảo cho môi
trường sạch đẹp của Singapore. Thời gian đầu Chính phủ tổ chức giáo dục ý
thức để người dân quen dần sau đó phạt nhẹ nhắc nhở và hiện nay các biện
pháp được áp dụng mạnh mẽ là là phạt tiền, phạt tù, bắt bồi thường và đối
với những vi phạm nhỏ thì phạt cải tạo lao động bắt buộc. Ở Singapore vứt
rác, hút thuốc không đúng nơi quy định bi phạt tiền từ 500 đô la Sing trở
lên…[13].
Tại các nước đang phát triển thì công tác thu gom rác thải còn nhiều
vấn đề bất cập. Việc bố trí mạng lưới thu gom, vận chuyển rác thải chưa hợp
lý, trang thiết bị còn thiếu và thô sơ dẫn đến chi phí thu gom tăng mà hiệu
quả lại thấp. Sự tham gia của các đơn vị tư nhân còn ít và hạn chế. So với
các nước phát triển thì tỷ lệ thu gom rác ở các nước đang phát triển như Việt
Nam và khu vực Nam Mỹ còn thấp hơn nhiều.
Bảng 2.3 Hoạt động thu gom rác tại một số thành phố ở Châu Á
Thành phố Dân số
(triệu người)
Số trạm trung

chuyển
Số chuyến vận
chuyển trong
ngày
Bombay 8,5 2 2
Bangkok 5,6 - 1,8
Manila 7,6 65 2
Jakarta 7,9 776 3
Scoul 10,3 630 3,4
(Nguồn: Trung tâm quốc gia về phát triển khu vực của Nhật Bản, 2004)
Đối với các nước Châu Á chôn lấp chất thải vẫn là phương pháp phổ
biến để xử lý chất thải vì chi phí rẻ. Các bãi chôn lấp chất thải được chia
thành 3 loại: bãi lộ thiên, bãi chôn lấp bán vệ sinh (chỉ đổ đất phủ) và bãi
chôn lấp hợp sinh. Chất lượng của các bãi chôn lấp liên quan mật thiết với
GDP. Các bãi chôn lấp hợp vệ sinh thường thấy ở các nước có thu nhập cao,
trong khi đó các bãi rác lộ thiên thấy phổ biến ở các nước đang phát triển.
Tuy vậy, các nước đang phát triển đã có lỗ lực cải thiện chất lượng các bãi
chôn lấp, như Thổ Nhĩ Kỳ, Ấn Độ đã hạn chế chôn lấp các loại chất thải khó
phân hủy sinh học, chất thải trơ, các loại chất thải có thể tái chế.
Theo báo cáo Diễn biến môi trường Việt Nam 2004 cho biết, hầu hết
các nước Nam Á và Đông Nam Á rác thải được chuyển đến các bãi chôn lấp
hoặc các bãi lộ thiên để tiêu hủy. Các nước như Việt Nam, Bangladet,
Hongkong, Srilanka Ấn Độ, Trung Quốc và Hàn Quốc có tỷ lệ chôn lấp lớn
nhất lên tới trên 90%. Đối với chất thải hữu cơ, ủ phân compost là phương
pháp tiêu hủy chủ yếu. Một số nước như Ấn Độ, Philippin, Thái Lan… áp
dụng phương pháp này khá phổ biến. Tuy nhiên, chưa có nước nào tận dụng
hết tiềm năng sản xuất phân compost.
Bảng 2.4 Các phương pháp xử lý rác thải của một số nước ở Châu Á
(Đơn vị %)
Nước

Bãi rác lộ
thiên, chôn
lấp
Thiêu đốt Chế biến
phân
compost
Phương pháp
khác
Việt Nam 96 - 4 -
Bangladet 95 - - 5
Hongkong 92 8 - -
Ấn Độ 70 - 20 10
Indonexia 80 5 10 5
Nhật Bản 22 74 0,1 3,9
Hàn Quốc 90 - - 10
Malayxia 70 5 10 15
Philipin 85 - 10 5
Srilanka 90 - - 10
Thái Lan 80 5 10 5
(Nguồn: Viện khoa học thủy lợi, 2006)
2.6.2 Tình hình quản lý, xử lý rác thải ở Việt Nam
2.6.2.1 Phát sinh rác thải ở Việt Nam
Theo số liệu điều tra năm 2007 của Tổng cục Môi trường (Cục Bảo
vệ Môi trường trước đây) chất thải rắn sinh hoạt trong cả nước phát sinh
khoảng 17 triệu tấn, trong đó rác thải sinh hoạt tại đô thị khoảng 6,5 triệu tấn
(năm 2008 là 7,8 triệu tấn theo báo cáo của Bộ Xây dựng).
Ngoại trừ một số ít địa phương như Hà Nội, Thừa Thiên - Huế, TP. Hồ Chí
Minh, Đà Nẵng đang thí điểm phân loại rác thải sinh hoạt tại nguồn theo dự
án 3R, còn lại hầu hết rác thải sinh hoạt vẫn là một mớ tổng hợp các chất
hữu cơ từ các gia đình cho tới nơi xử lý.

Điều đáng lo ngại là tới thời điểm này, việc xử lý chất thải rắn vẫn
chưa đi theo hướng tái chế như mong muốn. Khoảng 70% chất thải sinh hoạt
đô thị được thu gom và khoảng 80% số chất thải này vẫn được xử lý theo
cách chôn lấp. Còn rác thải nông thôn thì hầu như được đổ bừa bãi ra ven
làng, ao hồ, bãi sông, bãi tạm hoặc tự đốt. Hội Xây dựng Việt Nam cảnh
báo, trong số 91 bãi rác lớn trên cả nước chỉ có 17 bãi hợp vệ sinh, chiếm
khoảng 15%.
Lượng chất thải rắn sinh hoạt (CTRSH) tại các đô thị ở nước ta đang
có xu thế phát sinh ngày càng tăng, tính trung bình mỗi năm tăng khoảng
10%. Tỷ lệ tăng cao tập trung ở các đô thị đang có xu hướng mở rộng, phát
triển mạnh cả về quy mô lẫn dân số và các khu công nghiệp, như các đô thị
tỉnh Phú Thọ (19,9%), thành phố Phủ Lý (17,3%), Hưng Yên (12,3%), Rạch
Giá (12,7%), Cao Lãnh (12,5%)... Các đô thị khu vực Tây Nguyên có tỷ lệ
phát sinh CTRSH tăng đồng đều hàng năm và với tỷ lệ tăng ít hơn (5,0%).
Tổng lượng phát sinh CTRSH tại các đô thị loại III trở lên và một số
đô thị loại IV là các trung tâm văn hóa, xã hội, kinh tế của các tỉnh thành
trên cả nước lên đến 6,5 triệu tấn/năm, trong đó CTRSH phát sinh từ các hộ
gia đình, nhà hàng, các chợ và kinh doanh là chủ yếu. Lượng còn lại từ các
công sở, đường phố, các cơ sở y tế. Chất thải nguy hại công nghiệp và các
nguồn chất thải y tế nguy hại ở các đô thị tuy chiếm tỷ lệ ít nhưng chưa được
xử lý triệt để vẫn còn tình trạng chôn lấp lẫn với CTRSH đô thị.
Kết quả điều tra tổng thể năm 2006 - 2007 cho thấy, lượng CTRSH đô
thị phát sinh chủ yếu tập trung ở 2 đô thị đặc biệt là Hà Nội và TP. Hồ Chí
Minh. Tuy chỉ có 2 đô thị nhưng tổng lượng CTRSH phát sinh tới 8.000
tấn/ngày (2.920.000 tấn/năm) chiếm 45,24% tổng lượng CTRSH phát sinh
từ tất cả các đô thị.
Bảng 2.5 Lượng CTRSH phát sinh ở các đô thị Việt Nam đầu năm 2007
STT Loại đô thị Lượng CTRSH bình
quân trên đầu người
(kg/người/ngày)

Lượng CTRSH đô thị phát
sinh
Tấn/ngày Tấn/năm
1 Đặc biệt 0,84 8.000 2.920.000
2 Loại I 0,96 1.885 688.025
3 Loại II 0,72 3.433 1.253.045
4 Loại III 0,73 3.738 1.364.370
5 Loại IV 0,65 626 228.490
Tổng 6.453.930
Nguồn: kết quả khảo sát năm 2006, 2007 và báo cáo của các địa phương
Tính theo vùng địa lý (hay vùng phát triển kinh tế - xã hội) thì các đô
thị vùng Đông Nam bộ có lượng CTRSH phát sinh lớn nhất tới 2.450.245
tấn/năm (chiếm 37,94% tổng lượng phát sinh CTRSH các đô thị loại III trở
lên của cả nước), tiếp đến là các đô thị vùng Đồng bằng sông Hồng có lượng
phát sinh CTRSH đô thị là 1.622.060 tấn/năm (chiếm 25,12%). Các đô thị
khu vực miền núi Tây Bắc bộ có lượng phát sinh CTRSH đô thị thấp nhất
chỉ có 69.350 tấn/năm (chiếm 1,07% ), tiếp đến là các đô thị thuộc các tỉnh

×