Website: Email : Tel : 0918.775.368
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
KHOA MÔI TRƯỜNG
LỚP CAO HỌC K12
********
BÀI TẬP MÔN CÔNG NGHỆ MÔI TRƯỜNG
Đề tài:
NGHIÊN CỨU HỆ THỐNG XỬ LÝ NƯỚC THẢI DỆT NHUỘM THÔN Ỷ
LAN – XÃ DƯƠNG NỘI – HUYỆN HOÀI ĐỨC – TỈNH HÀ TÂY
MỞ ĐẦU
Ở nước ta hiện nay, môi trường ở nhiều đô thị, khu vực công nghiệp
và làng nghề ngày càng bị ô nhiễm nặng nề do quá trình công nghiệp hoá, đô
thị hoá và sự gia tăng dân số. Các cơ sở sản xuất công nghiệp do không có
quy trình và thiết bị xử lý chất thải đã gây ô nhiễm môi trường, đặc biệt là
nguồn nước.
Xã Dương Nội - Hoài Đức - Hà Tây là một xã có ngành nghề sản xuất
vải khá phát triển, kèm theo đó là hiện trạng môi trường đang bị ô nhiễm.
Điều đáng quan tâm ở đây là sự ô nhiễm nguồn nước. Các cơ sở sản xuất dệt
nhuộm với quy mô ngày càng phát triển đã và đang dùng một lượng nước
ngày càng tăng đồng thời cũng thoát ra một lượng nước thải lớn. Nước thải
hầu hết không qua một hệ thống xử lý nào mà thải trực tiếp ra sông hồ.
Lượng nước thải này có đặc tính là độ màu cao, lượng chất hữu cơ lớn. Nhìn
chung các thuỷ vực chứa nước thải dệt nhuộm ở đây ô nhiễm khá nặng.
Hiện nay, các nhà khoa học, các nhà quản lý môi trường và nhân dân
đang rất quan tâm đến vấn đề xử lý nước thải của nghành dệt nhuộm. Những
công trình nghiên cứu của rất nhiều nhà khoa học về vấn đề này đã được
công bố rộng rãi. Rất nhiều dự án cấp nhà nước, cấp tỉnh đã đầu tư cho việc
hỗ trợ nghiên cứu và xử lý nước thải của nghành dệt nhuộm. Tại một số
xưởng, các công ty dệt nhuộm đã áp dụng nhiều công nghệ để xử lý nước
thải rất hiện đại. Tuy nhiên đại đa số các cơ sở dệt nhuộm vẫn chưa có một
công nghệ nào để xử lý triệt để nước thải của nghành này.
Bài tập môn học Công nghệ môi trường nâng cao của học viên được
thực hiện dưới sự hướng dẫn của giáo viên hướng dẫn, dựa trên các kiến
thức học hỏi được và chuyến đi thực tế tại thôn Ỷ Lan - xã Dương Nội –
huyện Hòai Đức - tỉnh Hà Tây. Phương pháp nghiên cứu được sử dụng bao
gồm: phương pháp thu thập số liệu, phương pháp đánh giá nhanh môi
trường, phương pháp so sánh và phương pháp phân tích tổng hợp.
PHẦN 1.
TỔNG QUAN
1.1. Giới thiệu chung về khu vực nghiên cứu
Dương Nội là xã thuộc huyện Hoài Đức, có vị trí liền kề với thị xã Hà
Đông thủ phủ của tỉnh Hà Tây, cách thủ đô Hà Nội 15 km về phía Đông, có
tỉnh lộ 72 chạy qua.
Dương Nội có diện tích đất tự nhiên là 585,31 ha, phía Đông giáp xã
La Khê-thị xã Hà Đông và xã Đại Mỗ- huyện Từ Liêm, phía Tây giáp xã La
Phù và Đông La, phía Nam giáp xã Yên Nghĩa, phía Bắc giáp xã An Khánh.
Với vị trí địa lí như vậy, Dương Nội có một thị trường rộng lớn là Hà
Nội và lợi thế về mặt giao thông cho thông thương hàng hoá, với nhiều loại
sản phẩm nông nghiệp, hàng hoá công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, nhiều
lao động, qua đó thúc đẩy sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và
thương mại của xã phát triển. Nhân dân trong xã cần cù lao động, tiếp cận
với nền kinh tế thị trường nhanh nhạy.
1.2. Lịch sử phát triển của các cơ sở sản xuất dệt nhuộm tại địa
phương
Hàng dệt nhuộm đã có từ nhiều năm, nay được khôi phục và phát
triển do nhân dân mạnh dạn tiếp thu khoa học công nghệ, đầu tư cơ sở vật
chất, phát huy tốt truyền thống của quê hương.
Bên cạnh đó, do yêu cầu của thị trường dệt vải công nghiệp đã được
hình thành, ngành sản xuất dệt nhuộm ngày càng phát triển. Cùng với những
điều kiện thuận lợi của địa phương như giao thông, hệ thống điện phục vụ
sản xuất được đảm bảo, tình hình an ninh chính trị ổn định, trật tự an toàn xã
hội được giữ vững, người sản xuất dám đầu tư và yên tâm sản xuất.
Bước đầu khởi sắc từ cuối năm 1994, cơ sở in hoa trên vải của ông Tạ
Vũ và ông Nguyễn Bá Chính được hình thành rồi sau đó bước sang năm
1995,1996 liên tiếp phát triển trên những cơ sở sản xuất mới. Tới nay, tại
Dương Nội có 11 cơ sở dệt - nhuộm - in hoa.
1.3. Đóng góp của nghề đối với sự phát triển của địa phương
Do sự năng động dám nghĩ dám làm của các hộ kinh doanh, mạnh dạn
nghiên cứu thị trường, tiếp thu công nghệ, đầu tư vào sản xuất kinh doanh
nên nghề dệt nhuộm đã có những đóng góp quan trọng đối với địa phương:
Đã tạo được công ăn việc làm cho số đông nhân lực tại chỗ. Sự
thu hút lao động đã làm giảm số người thất nghiệp, đã phần nào góp phần
làm ổn định tình hình an ninh trật tự ở địa phương.
Khôi phục lại nghề truyền thống cho địa phương và xuất hiện
nhiều nghề mới cho nhân dân.
Nền kinh tế gia đình của các chủ cơ sở tăng cao, nhiều người
dân có thu nhập từ lao động phục vụ ngành nghề. Hàng hoá tiêu dùng ngày
càng nhiều lên gấp bội, các loại dịch vụ cũng phát triển theo để đáp ứng nhu
cầu.
Đóng góp đáng kể cho ngân sách Nhà nước.
Sự phát triển của nghề đã tạo điều kiện cho các ngành nghề
khác phát triển.
1.4. Tác động của các hoạt động dệt nhuộm tới môi trường
Cùng với sự phát triển của xã hội, ngành công nghiệp dệt nhuộm ngày
càng phát triển không ngừng. Nó đã đóng góp cho thị trường tiêu thụ một
lượng lớn sản phẩm. Bên cạnh đó vấn đề môi trường cũng cần phải được
quan tâm, vì công nghiệp dệt nhuộm có tải lượng ô nhiễm cao, đặc biệt ảnh
hưởng đến chất lượng nước.
Môi trường không khí chưa bị ảnh hưởng nghiêm trọng, chủ yếu xảy
ra ở mức độ cục bộ, thường là bụi bông nhỏ lơ lửng trong khu vực dệt, hơi
hoá chất tại các khu vực tẩy nhuộm…
Môi trường nước bị ảnh hưởng nhiều nhất do nước thải sản xuất có
sử dụng nhiều hoá chất, thuốc nhuộm, làm cho nước thải có nồng độ các chất
ô nhiễm cao. Các chất ô nhiễm trong nước thải dệt nhuộm bao gồm các chất
hữu cơ (thuốc nhuộm, tinh bột, tạp chất ) và các chất vô cơ ( các muối trung
tính, các chất trợ nhuộm, chất dùng trong quá trình tẩy… ). Một số chất ô
nhiễm có khả năng tích tụ trong cơ thể sinh vật gây ra những bệnh nguy
hiểm đối với động, thực vật và con người.
Nước thải từ các hoạt động dệt nhuộm có độ màu đậm đặc, hàm lượng
các chất hữu cơ, chất rắn lơ lửng cao, các chỉ tiêu BOD, COD vượt tiêu
chuẩn cho phép rất nhiều lần.
Mức độ ô nhiễm càng ngiêm trọng ở các cơ sở sản xuất tập trung. Một
số cơ sở nằm trong địa bàn dân cư còn chưa quan tâm tới những ảnh hưởng
xấu đến môi trường do cơ sở sản xuất của mình gây ra.
Nhìn chung các hệ cơ sở sản xuất dệt nhuộm của xã đều thải nước thải
của mình vào hệ thống kênh Đan Hoài. Nhờ qúa trình trao đổi nước của hệ
thống kênh này mà các chất ô nhiễm của các cơ sở thải ra đã được phân tán
theo dòng chảy, gây ảnh hưởng tới các vùng lân cận. Đây là một vấn đề bức
xúc của các nhà quản lý môi trường địa phương do chưa có biện pháp quản
lý một cách triệt để nguồn thải, ngăn chặn sự ảnh hưởng của các chất ô
nhiễm tới các vùng thuộc lưu vực sông Nhuệ và sông Đáy.
Ở xã, vấn đề ô nhiễm môi trường đã được đề cập, tuy nhiên xử lý các
chất thải vẫn chưa có biện pháp hiệu quả, hoặc do phải chi phí quá lớn mà
các cơ sở sản xuất không thể thực hiện nổi.
1.5. Quy hoạch phát triển làng nghề
Việc quy hoạch tổng thể đóng vai trò rất quan trọng. Để giảm tác hại
của các chất ô nhiễm, các làng nghề có thể thành lập khu vực mới xa khu dân
cư, diện tích rộng và nằm gần mương thoát nước, ở cuối hướng gió để phục
vụ cho quá trình tẩy, nhuộm. Việc di chuyển này sẽ làm giảm lượng nước
thải sản xuất vào các cống nước thải sinh hoạt hàng ngày. Khi đó việc xử lý
nước thải sẽ tập trung và dễ xử lý hơn.
Hiện tại, chính quyền địa phương đang xây dựng quy hoạch phát triển
cho nghề dệt nhuộm nhằm tránh những ảnh hưởng tới đời sống nhân dân
cũng như sản xuất nông nghiệp. Theo bản quy hoạch này thì toàn bộ các
xưởng sản xuất mới được thành lập sẽ được đặt dọc theo hai bờ kênh Đan
Hoài. Hiện tại các cơ sở đã được thành lập từ lâu thì chính quyền địa phương
đang tìm cách hỗ trợ xử lý môi trường cho từng cở sở. Cơ sở cho quy hoạch
này là do tại hai bờ kênh các chất ô nhiễm sẽ được pha loãng theo dòng chảy.
Điều này sẽ làm giảm mức độ ô nhiễm cho địa phương, tuy nhiên sẽ gây ảnh
hưởng cho các vùng mà dòng nước chảy qua. Để ngăn chặn việc này, các cơ
sở cần phải xây dựng hệ thống xử lý cho riêng cơ sở mình. Hơn thế nữa, bắt
đầu từ tháng 1 năm 2004 nghị định 67CP có hiệu lực sẽ gây ảnh hưởng tới
kinh tế của các cơ sở không có quy trình xử lý nước thải.
Các cơ sở tẩy, nhuộm , dệt công nghiệp cần được bố trí phù hợp về
khoảng cách giữa các hộ sản xuất, giữa các bể giặt, bể ngâm javen, khoảng
cách với lò hơi… nhằm đảm bảo sự thông thoáng nhà xưởng, tránh thất thoát
nước, hoá chất và hạn chế sự lan truyền các chất ô nhiễm khí. Các cơ sở sản
xuất nên phân chia thành các hộ sản xuất có mức độ ô nhiễm nặng, trung
bình và nhẹ nhằm thiết kế được một hệ thống xử lý chất thải tập trung. Các
hộ có mức độ ô nhiễm nặng hơn đặt gần khu vực xử lý hơn sẽ hạn chế được
những ảnh hưởng của hoá chất mang tính kiềm lên hệ thống cống dẫn nước
thải. Với các hộ sản xuất có thể trồng cây xanh xung quanh, tạo bóng mát và
ngăn cản quá trình phát tán khí thải vào môi trường không khí.