Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

Báo cáo nghiên cứu khoa học luật biển quốc tế và lợi ích kinh tế của các quốc gia đang phát triển

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (149.57 KB, 17 trang )

Luật biển quốc tế và lợi ích kinh tế của các quốc
gia đang phát triển

TRẦN PHÚ VINH
Khoa Luật quốc tế ĐH Luật Tp. HCM

1. Luật Biển quốc tế nhìn từ khía cạnh kinh tế
Năm 1974 Đại hội đồng Liên hợp quốc đã thông qua
nghị quyết về việc thiết lập một “trật tự kinh tế thế
giới mới”(New International Economic Order NIEO)1, trong đó chỉ ra rằng việc “thiết lập một trật
tự kinh tế thế giới mới phản ánh một cam kết của tất
cả các quốc gia bảo đảm những quan hệ kinh tế bình
đẳng giữa các quốc gia phát triển và đang phát triển
và một sự nỗ lực trong một thời gian dài và có kế
hoạch để góp phần vào việc phát triển của các quốc
gia đang phát triển”2. Trật tự mới này dựa trên “cơ sở
công bằng” để “sửa lại những bất bình đẳng và bất


công đang tồn tại” và để “làm những gì có thể để loại
bỏ khoảng cách khá xa giữa các quốc gia phát triển
và đang phát triển”3.
Với nghị quyết nói trên, những nguyên tắc mới đã
được hình thành và áp dụng trong thực tiễn của hệ
thống Liên hợp quốc, đặc biệt là nguyên tắc đối xử
ưu đãi dành cho các quốc gia đang phát triển. Vấn đề
đặt ra tại bài viết này là những nguyên tắc của “trật tự
kinh tế thế giới mới” đã được đề cập như thế nào
trong các qui phạm của Công ước của Liên hợp quốc
về luật biển năm 19824. Câu trả lời không chỉ chứng
minh một cách thực tế rằng luật biển đề cập sâu rộng


đến lợi ích kinh tế nói chung mà rất đặc biệt bởi ngay
tại Lời nói đầu của Công ước 1982 đã đặt ra mục tiêu
“sẽ góp phần thiết lập nên một trật tự kinh tế đúng
đắn và công bằng, trong đó có tính đến lợi ích và nhu
cầu riêng của các quốc gia đang phát triển, dù có biển
hay không có biển”5.


2. Lợi ích từ một trật tự kinh tế thế giới mới và Công
ước 1982
Những nguyên tắc của một “trật tự kinh tế thế giới
mới” được thể hiện trong Công ước 1982 trên bốn
lĩnh vực:
Thứ nhất, Công ước 1982 qui định những chế độ
pháp lý cho quyền tài phán của các quốc gia ven biển
đối với các tài nguyên thiên nhiên sinh vật hay không
sinh vật của biển, hạn chế nguyên tắc tự do trên biển,
bảo vệ lợi ích của các quốc gia ven biển, đặc biệt là
các quốc gia đang phát triển.
Thứ hai, Công ước qui định một chế định mới liên
quan đến đáy biển và lòng đất dưới đáy biển nằm
ngoài phạm vi chủ quyền của quốc gia ven biển (gọi
là “Vùng” (Area)) và qui định “vùng và tài nguyên
của nó là di sản chung của nhân loại” (Common
heritage of Mankind)6.


Thứ ba, Công ước đưa ra nhiều qui phạm áp dụng
chung, áp dụng đặc biệt cho lợi ích và sự cần thiết
của các quốc gia đang phát triển.

Thứ tư, Công ước giới thiệu các quyền ưu đãi đặc
biệt (exclusive preferential rights) cho các quốc gia
đang phát triển.
2.1. Quyền tài phán của quốc gia ven biển đối với tài
nguyên biển
Luật biển quốc tế “cũ” - được pháp điển hóa trong hai
Hội nghị của Liên hợp quốc về Luật biển tại Geneva
năm 1958 và 1960 - công nhận quyền tài phán của
quốc gia ven biển rất giới hạn, phần lớn biển và đại
dương được điều chỉnh bởi nguyên tắc tự do trên
biển.
Công ước mới của Liên hợp quốc về luật biển năm
1982, với sự đấu tranh không mệt mỏi của các quốc
gia đang phát triển, đã qui định những nội dung thay
đổi quan trọng sau đây:


Thứ nhất, công nhận lãnh hải thuộc chủ quyền của
quốc gia ven biển có chiều rộng tối đa là 12 hải lý7.
Với việc ghi nhận này đã chấm dứt sự tranh chấp kéo
dài nhiều thập kỷ về chiều rộng của lãnh hải.
Thứ hai, công nhận thềm lục địa pháp lý của các quốc
gia ven biển. Công ước qui định thềm lục địa của
quốc gia ven biển kéo dài cho đến bờ ngoài của rìa
lục địa. Nếu bờ ngoài của rìa lục địa chưa đến 200 hải
lý tính từ đường cơ sở thì được quyền lấy đến 200 hải
lý, nếu bờ ngoài của rìa lục địa ở nằm ngoài giới hạn
200 hải lý thì được kéo dài hoặc tới 350 hải lý hoặc
thêm 100 hải lý kể từ đường đẳng sâu 2500 mét là
đường nối các điểm có độ sâu 2500 mét8.

Thứ ba, công nhận khái niệm vùng đặc quyền kinh tế.
Trong phạm vi giới hạn 200 hải lý tính từ đường cơ
sở, quốc gia ven biển có quyền thuộc chủ quyền về
việc thăm dò và khai thác, bảo tồn và quản lý các tài
nguyên thiên nhiên sinh vật hay không sinh vật, của


vùng nước phía trên đáy biển, của đáy biển và lòng
đất dưới đáy biển, cũng như các hoạt động khác
nhằm thăm dò và khai thác vùng này vì lợi ích kinh
tế, như việc sản xuất năng lượng từ nước, hải lưu và
gió. Quốc gia ven biển còn có quyền tài phán liên
quan đến (1) lắp đặt và sử dụng các đảo nhân tạo, các
thiết bị và công trình; (2) nghiên cứu khoa học về
biển; và (3) bảo vệ môi trường biển. Hơn nữa, quốc
gia ven biển còn có các quyền khác do Công ước qui
định9.
Thứ tư, công nhận khái niệm vùng nước quần đảo và
đường cơ sở quần đảo. Điều này có nghĩa là các quốc
gia được cấu thành bởi một hoặc nhiều quần đảo có
đầy đủ chủ quyền đối với vùng nước được bao bọc
bởi đường cơ sở quần đảo là đường nối các điểm
ngoài cùng của các đảo xa nhất và các bãi đá lúc nổi
lúc chìm của quần đảo với điều kiện tỷ lệ diện tích
nước so với đất ở giữa 1/1 và 9/1. Chiều dài của


đường cơ sở trong trường hợp này không được vượt
quá 100 hải lý, ngoại trừ tối đa 3% của tổng số các
đường cơ sở bao quanh một quần đảo nào đó có chiều

dài lớn hơn nhưng cũng không quá 125 hải lý10. Với
qui định này quốc gia quần đảo có chủ quyền đối với
một khu vực biển rất lớn so với nguyên tắc tự do trên
biển trước đây. Trong thực tế, ngoài một vài ngoại lệ
thì tất cả các quốc gia quần đảo đều là các quốc gia
đang phát triển. Indonesia và Philippines là những ví
dụ rõ nhất.
Nội dung thứ ba và thứ tư nói trên lần đầu tiên được
ghi nhận trong Công ước 1982 đã mang lại nhiều lợi
ích kinh tế cho các quốc gia ven biển mà chủ yếu là
các quốc gia đang phát triển.
2.2. Vùng là di sản chung của nhân loại
Công ước 1982 tuyên bố: “Vùng và tài nguyên thiên
nhiên của Vùng là di sản chung của nhân loại”11.
Trước đây đáy biển (Vùng) bên ngoài giới hạn quyền


tài phán của các quốc gia ven biển được điều chỉnh
bởi nguyên tắc tự do trên biển thì nay nằm dưới sự
quản lý của một Cơ quan quyền lực có trách nhiệm
trong việc thăm dò và khai thác các tài nguyên
khoáng sản của Vùng. Theo tinh thần của Công ước
không một quốc gia nào có quyền đòi chủ quyền hay
các quyền thuộc chủ quyền ở một phần nào đó của
Vùng hoặc đối với tài nguyên của Vùng; không một
quốc gia nào và không một cá nhân hay pháp nhân
nào có thể chiếm đoạt bất cứ một phần nào đó của
Vùng hoặc tài nguyên của Vùng. (…) Toàn thể loài
người, mà Cơ quan quyền lực là người thay mặt, có
tất cả các quyền đối với tài nguyên thiên nhiên của

Vùng12.
Như vậy, tất cả các hoạt động trong Vùng sẽ “được
thực hiện (…) vì lợi ích của toàn thể loài người”, và
Cơ quan quyền lực sẽ “đảm bảo việc phân chia công
bằng, trên cơ sở không phân biệt đối xử, những lợi


ích tài chính và các lợi ích kinh tế khác do các hoạt
động tiến hành trong Vùng”13.
2.3. Những qui định được áp dụng đặc biệt cho các
quốc gia đang phát triển
Công ước 1982 đã dành nhiều qui định đặc biệt quan
tâm đến lợi ích kinh tế của các quốc gia đang phát
triển. Nhiều điều khoản như vậy được tìm thấy tại
Phần XI14 như: những hoạt động trong Vùng sẽ
“thúc đẩy sự hợp tác quốc tế vì sự phát triển toàn
diện của các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia đang
phát triển”15; Cơ quan quyền lực sẽ tránh mọi sự
phân biệt đối xử trong khi thi hành quyền hạn và
chức năng của mình, nhưng lại “dành sự quan tâm
đặc biệt đối với các quốc gia đang phát triển”16; và
Đại hội đồng của Cơ quan quyền lực khi xem xét và
phê chuẩn các qui tắc, qui định và thủ tục liên quan
đến việc phân chia công bằng các nguồn lợi về tài
chính và các nguồn lợi về kinh tế khác thu được từ


các hoạt động tiến hành trong Vùng, sẽ “quan tâm
đặc biệt đến quyền lợi và nhu cầu của các quốc gia
đang phát triển”17.

2.4. Những quyền ưu đãi đặc biệt cho các quốc gia
đang phát triển
Công ước 1982 dành nhiều điều khoản lưu ý đặc biệt
tới lợi ích và sự cần thiết của các quốc gia đang phát
triển như:
2.4.1. Về vùng đặc quyền kinh tế:
Mỗi quốc gia ven biển sẽ tự mình ấn định khối lượng
(khả năng) khai thác đối với các tài nguyên sinh vật
trong vùng đặc quyền kinh tế của mình. Nếu khả
năng khai thác đó thấp hơn tổng khối lượng đánh bắt
có thể chấp nhận được (maximum sustainable yield)
thì quốc gia ven biển cho phép các quốc gia khác,
thông qua điều ước quốc tế hoặc các thỏa thuận, khai
thác số dư của khối lượng cho phép đánh bắt. Trong
trường hợp này, các quốc gia không có biển hoặc bất


lợi về mặt địa lý có quyền tham gia, theo một thể
thức công bằng, khai thác một phần thích hợp số dư
các tài nguyên sinh vật đó. Vấn đề đặt ra ở đây là các
quốc gia đang phát triển không có biển hoặc bất lợi
về mặt địa lý có quyền khai thác như nói ở trên ở bất
cứ đâu, trong vùng đặc quyền kinh tế của cả các quốc
gia phát triển và quốc gia đang phát triển, thì các
quốc gia phát triển không có biển hoặc bất lợi về mặt
địa lý sẽ chỉ có quyền “tham gia khai thác các tài
nguyên sinh vật trong vùng đặc quyền kinh tế của các
quốc gia phát triển ở trong cùng phân khu vực hay
khu vực”18 mà thôi.
2.4.2. Về thềm lục địa:

Qui định những khoản đóng góp bằng tiền hoặc hiện
vật vào việc khai thác thềm lục địa ngoài 200 hải lý.
Khoản đóng góp này tính theo toàn bộ sản phẩm thu
hoạch được ở một điểm khai thác nào đó sẽ bắt đầu
sau 5 năm đầu khai thác. Từ năm thứ 6, mỗi năm tỷ


lệ này tăng lên 1% cho đến năm thứ 12 và bắt đầu từ
năm thứ 12 trở đi tỷ lệ đó ở mức là 7%. Tuy nhiên,
“quốc gia đang phát triển nào là nước chuyên nhập
khẩu một khoáng sản được khai thác từ thềm lục địa
của mình được miễn các khoản đóng góp đối với loại
khoáng sản đó”19.
2.4.3 Về Vùng:
Những hoạt động tiến hành trong Vùng phải nhằm
“bảo vệ các quốc gia đang phát triển khỏi những ảnh
hưởng bất lợi đối với nền kinh tế hay thu nhập về
xuất khẩu của họ do việc hạ giá của một khoáng sản
trong số các khoáng sản khai thác trong Vùng hay do
sự giảm bớt khối lượng xuất khẩu loại khoáng sản
này”20. Vì vậy, trong chính sách sản xuất của mình,
Đại hội đồng của Cơ quan quyền lực sẽ “thiết lập một
hệ thống bù trừ hoặc thi hành các biện pháp trợ giúp
khác (…) để giúp đỡ các quốc gia đang phát triển mà
nền kinh tế và thu nhập xuất khẩu bị ảnh hưởng


nghiêm trọng trước những tác động bất lợi do một
khoáng sản trong số các khoáng sản khai thác được
từ Vùng bị hạ giá hay do khối lượng xuất khẩu các

loại loại khoáng sản này của họ bị giảm sút do các
hoạt động tiến hành trong Vùng gây nên”21.
2.4.4. Về kiểm soát ô nhiễm:
Công ước 1982 qui định một sự đối xử ưu tiên cho
các quốc gia đang phát triển. “Các tổ chức quốc tế
dành sự đối xử ưu tiên cho các quốc gia đang phát
triển để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi
trường biển hoặc để hạn chế đến mức tối thiểu các
ảnh hưởng của nó, trong việc: (a) trợ cấp vốn và các
phương tiện giúp đỡ kỹ thuật thích hợp, và (b) sử
dụng các cơ sở chuyên môn của mình”22.
2.4.5 Về giúp đỡ kỹ thuật và chuyển giao công nghệ:
Thỏa thuận (Agreement) về việc áp dụng Phần XI
của Công ước 1982 qui định: “Nếu các quốc gia đang
phát triển chưa thể nắm được công nghệ khai thác tài


nguyên khoáng sản của Vùng thì Cơ quan quyền lực
yêu cầu tất cả hoặc một số bên trong hợp đồng (các
quốc gia phát triển) chuyển giao công nghệ đó với
các điều kiện và điều khoản công bằng và hợp lý, có
tính tới việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ”23; và mỗi
bên trong hợp đồng sẽ phải vạch ra các chương trình
đào tạo nhân viên của (cơ quan quyền lực) và của các
quốc gia đang phát triển24.
3. Kết luận
Sự đấu tranh lâu dài và liên tục của các quốc gia
thuộc thế giới thứ ba vào việc xây dựng các qui phạm
pháp luật quốc tế đã đạt được những thành tựu đáng
kể. Những nguyên tắc của một “trật tự kinh tế thế

giới mới” đã được thể hiện trong Công ước của Liên
hợp quốc về luật biển 1982 đem lại sự công bằng và
bảo đảm lợi ích kinh tế của các quốc gia đang phát
triển. Nhiều qui phạm của Công ước 1982 đã thể hiện
nội dung của nguyên tắc bảo vệ lợi ích kinh tế của


các quốc gia đang phát triển. Các quốc gia phát triểnthành viên của Công ước không nhận được bất cứ
một khoản bồi hoàn nào từ những quyền ưu đãi đặc
biệt mà họ đã dành cho các quốc gia đang phát triển.
Nhiều đặc quyền mà chỉ quốc gia đang phát triển
được hưởng còn quốc gia phát triển thì không. Điều
đó chứng tỏ rằng đã tồn tại nguyên tắc không có đi có
lại (non-reciprocity) trong mối quan hệ giữa các quốc
gia đang phát triển và quốc gia phát triển trong các
quan hệ do Luật Biển quốc tế điều chỉnh mà phần ưu
đãi được dành riêng cho các quốc gia đang phát triển.

1 Nghị quyết của Đại hội đồng Liên hợp quốc số
3201(S-VI) ngày 01/05/1974.
2 Nghị quyết của Đại hội đồng Liên hợp quốc số
31/178.
3 Nghị quyết của Đại hội đồng Liên hợp quốc số
3201(S-VI) ngày 01/05/1974.


4 Công ước của Liên Hợp quốc về Luật Biển, ký
ngày 10/12/1982, có hiệu lực ngày 16/11/1994 (sau
đây viết tắt là Công ước 1982). Bản dịch sang tiếng
Việt của Lê Minh Nghĩa, Vũ Phi Hoàng, Viễn Đông

và Trần Công Trục, Nhà xuất bản chính trị quốc gia,
Hà Nội 1993.
5 Sđd, tr.16.
6 Sđd, tr.100, Điều 136.
7 Sđd, tr.20, Điều 3.
8 Sđd, tr.69, Điều 76.
9 Sđd, tr.51, Điều 56.
10 Sđd, tr.44, Điều 47.
11 Sđd, tr.100, Điều 136.
12 Sđd, tr.100, Điều 137.1,2.
13 Sđd, tr.102, Điều 140.1,2.
14 Được cụ thể hóa trong Thỏa thuận ngày
28/07/1994 (về việc áp dụng Phần XI của Công ước).


15 Sđd, tr.109, Điều 150.
16 Sđd, tr.117, Điều 152.2.
17 Sđd, tr.126, Điều 160.2(f)(i).
18 Sđd, tr.64, Điều 69.4.
19 Sđd, tr.74, Điều 82.3.
20 Sđd, tr.110, Điều 150(h).
21 Sđd, tr.116, Điều 151.10.
22 Sđd, tr.164, Điều 203.
23 Thỏa thuận ngày 28/07/1994, Điều 5.
24 Sđd, tr.280, Phụ lục III, Điều 15.



×