Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Báo cáo nghiên cứu khoa học một số VƯỚNG mắc TRONG VIỆC áp DỤNG điều 230 bộ LUẬT HÌNH sự để xử lý tội CHẾ tạo, TÀNG TRỮ, vận CHUYỂN, sử DỤNG, MUA bán TRÁI PHÉP HOẶC CHIẾM đoạt vũ KHÍ QUÂN DỤNG, p

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (193.86 KB, 7 trang )

TAP CHấ KHOA HOĩC, aỷi hoỹc Huóỳ, Sọỳ 47, 2008

MT S VNG MC TRONG VIC P DNG IU 230
B LUT HèNH S X Lí TI CH TO, TNG TR, VN CHUYN, S
DNG, MUA BN TRI PHẫP HOC CHIM OT V KH
QUN DNG, PHNG TIN K THUT QUN S
Trn Vit Dng
Trng i hc Khoa hc, i hc Hu

TểM TT
Ti ch to, tng tr, vn chuyn, s dng, mua bỏn trỏi phộp hoc chim ot v khớ
quõn dng (VKQD), phng tin k thut quõn s (PTKTQS) c quy nh ti iu 230 B lut
hỡnh s (BLHS) nm 1999. Nhng quy nh ti iu 230 BLHS nm 1999 l c s phỏp lý quan
trng x lý ti ch to, tng tr, vn chuyn, s dng, mua bỏn trỏi phộp hoc chim ot
VKQD, PTKTQS. Tuy nhiờn, trong quỏ trỡnh nghiờn cu chỳng tụi nhn thy cũn mt s vng
mc trong ỏp dng iu 230 BLHS nm 1999 x lý ti ch to, tng tr, vn chuyn, s dng,
mua bỏn trỏi phộp hoc chim ot VKQD, PTKTQS. Bi vit i sõu nghiờn cu ni dung cỏc
quy nh ca iu 230 BLHS nm 1999, a ra nhng kin ngh sa i iu 230 BLHS nm
1999 v hng dn ỏp dng thng nht phỏp lut trong vic x lý ti ch to, tng tr, s dng,
mua bỏn trỏi phộp hoc chim ot VKQD, PTKTQS.

Trong B lut hỡnh s (BLHS) nm 1985, ti ch to, tng tr, s dng, mua bỏn
trỏi phộp hoc chim ot v khớ quõn dng (VKQD), phng tin k thut quõn s
(PTKTQS) c quy nh ti iu 95 Mc B Chng I: "Cỏc ti xõm phm an ninh quc
gia" vi ni dung nh sau:
"1. Ngi no ch to, tng tr, s dng, mua bỏn trỏi phộp hoc chim ot
VKQD, PTKTQS, thỡ b pht tự t mt nm n by nm.
2. Phm ti thuc mt trong cỏc trng hp sau õy, thỡ b pht tự t nm nm
n mi lm nm:
a) Cú t chc;
b) Vt phm phỏp cú s lng ln;


c) Gõy hu qu nghiờm trng;
d) Tỏi phm nguy him.
3. Phm ti trong trng hp c bit nghiờm trng, thỡ b pht tự t mi hai
nm n hai mi nm, tự chung thõn hoc t hỡnh."


Trong quá trình áp dụng pháp luật để xử lý tội chế tạo, tàng trữ, sử dụng, mua bán
trái phép hoặc chiếm đoạt VKQD, PTKTQS đã gặp phải nhiều khó khăn, vướng mắc, do
đó, ngày 7/1/1995, Toà án Nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao, Bộ Nội vụ
đã ban hành Thông tư liên ngành số 01/TTLN hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật
trong việc xử lý tội chế tạo, tàng trữ, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt VKQD,
PTKTQS.
Trong BLHS năm 1999, tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái
phép hoặc chiếm đoạt VKQD, PTKTQS được quy định tại Điều 230 của Chương XIX:
"Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng" với nội dung như sau:
"1. Người nào chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc
chiếm đoạt VKQD, PTKTQS, thì bị phạt tù từ một năm đến bảy năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ năm năm
đến mười hai năm:
a) Có tổ chức;
b) Vật phạm pháp có số lượng lớn;
c) Vận chuyển, mua bán qua biên giới;
d) Gây hậu quả nghiêm trọng;
đ) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười năm
đến mười lăm năm:
a) Vật phạm pháp có số lượng rất lớn;
b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười lăm
năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:

a) Vật phạm pháp có số lượng đặc biệt lớn;
b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu
đồng, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ một năm đến năm năm".
Như vậy, so với Điều 95 BLHS năm 1985, Điều 230 BLHS năm 1999 có những
điểm đổi mới như sau:
- Tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt
VKQD, PTKTQS không còn được quy định tại Chương "Các tội xâm phạm an ninh quốc


gia", mà được quy định tại Chương "Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công
cộng".
- Đã tội phạm hoá hành vi vận chuyển trái phép VKQD, PTKTQS. Điều đó có
nghĩa là mặt khách quan của cấu thành tội phạm cơ bản được quy định tại Điều 230
BLHS năm 1999 có thêm hành vi vận chuyển trái phép VKQD, PTKTQS. Bên cạnh đó
hành vi vận chuyển trái phép VKQD, PTKTQS qua biên giới được quy định tại khoản 2
Điều 230 BLHS năm 1999 là một tình tiết định khung tăng nặng.
- Đã quy định hình phạt tiền, phạt quản chế hoặc cấm cư trú là hình phạt bổ sung
trong phần chế tài của Điều 230 BLHS năm 1999.
- Đã phân chia khoản 3 Điều 95 BLHS năm 1985 thành khoản 3 và khoản 4 Điều
230 BLHS năm 1999, đồng thời thu hẹp khoảng cách giữa mức hình phạt tối đa và tối
thiểu trong các khung hình phạt.
- Bỏ hình phạt tử hình trong phần chế tài của Điều 95 BLHS năm 1985.
Những quy định mới trên hoàn toàn phù hợp với chính sách hình sự của Đảng và
Nhà nước ta trong giai đoạn mới, góp phần đấu tranh phòng chống có hiệu quả tội chế
tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt VKQD, PTKTQS.
Tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu và áp dụng Điều 230 BLHS năm 1999 chúng tôi
nhận thấy một số hạn chế nhất định trong việc quy định tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển,
sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt VKQD, PTKTQS trong BLHS năm 1999
như sau:

- Chiếm đoạt VKQD, PTKTQS bao gồm nhiều hành vi khác nhau như cướp,
cưỡng đoạt, trộm cắp, cướp giật hoặc công nhiên chiếm đoạt... Các hành vi nêu trên có
mức độ nguy hiểm khác nhau. Rõ ràng, cướp là nguy hiểm hơn cưỡng đoạt, trộm cắp,
cướp giật hoặc công nhiên chiếm đoạt...Tuy vậy, những quy định của pháp luật hiện hành
chưa có sự phân biệt trong xử lý các hành vi này. Mặt khác, VKQD, PTKTQS là loại tài
sản đặc biệt, thuộc sự quản lý đặt biệt của Nhà nước, cho nên hành vi chiếm đoạt VKQD,
PTKTQS cần phải được xử lý nghiêm khắc hơn so với hành vi chiếm đoạt các loại tài sản
thông thường khác. Việc quy định chiếm đoạt VKQD, PTKTQS (trong đó có hình thức
cướp) với chế tài ở khoản 1 Điều 230 lại thấp hơn nhiều so với chế tài ở khoản 1 Điều
133 BLHS quy định về tội cướp tài sản là không hợp lý, mâu thuẫn với những phân tích
trên.
- Khi nghiên cứu tình tiết tăng nặng tại điểm b khoản 2 Điều 230 BLHS "vật
phạm pháp có số lượng lớn" chúng tôi nhận thấy rằng cần bổ sung thêm tình tiết "vật
phạm pháp có giá trị lớn" vào điểm b khoản 2 Điều 230 BLHS. Việc chỉ quy định tình
tiết định khung "vật phạm pháp có số lượng lớn" mà không quy định tình tiết "vật phạm
pháp có giá trị lớn" là thiếu, bởi vì có loại VKQD, PTKTQS có số lượng lớn nhưng


không có giá trị bằng một đơn vị của một loại VKQD, PTKTQS khác. Ví dụ: 11 quả lựu
đạn không thể có giá trị bằng 1 khẩu pháo 100 ly.
- Hiện nay, chưa có văn bản pháp luật nào hướng dẫn cụ thể đường lối xử lý đối
với trường hợp những người tàng trữ trái phép VKQD, PTKTQS chưa gây hậu quả
nhưng đã tự nguyện đem nộp chúng cho các cơ quan có thẩm quyền. Tuy vậy, qua thực
tiễn, các cơ quan tiến hành tố tụng đã vận dụng pháp luật để miễn hoặc giảm trách nhiệm
hình sự cho những người này về tội tàng trữ trái phép VKQD, PTKTQS.
Sau khi BLHS năm 1999 có hiệu lực thi hành cho đến nay các cơ quan nhà nước
có thẩm quyền chưa có hướng dẫn mới thay thế cho Thông tư liên ngành số 01/TTLN
ngày 7/1/1995 của Toà án Nhân dân Tối cao, Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao, Bộ Nội
vụ. Hiện nay, khi tiến hành điều tra, truy tố và xét xử tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử
dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt VKQD, PTKTQS các cơ quan tiến hành tố tụng

vẫn áp dụng những hướng dẫn tại Thông tư liên ngành số 01/TTLN ngày 7/1/1995, mặc
dù Thông tư liên ngành này có nhiều hạn chế. Mặt khác, Điều 230 BLHS năm 1999 có
nhiều quy định khác với Điều 95 BLHS năm 1985, do đó, trong quá trình áp dụng pháp
luật các cơ quan tiến hành tố tụng đã gặp phải nhiều khó khăn, vướng mắc như sau:
Thứ nhất: Thông tư liên ngành số 01/TTLN chỉ có hướng dẫn xác định các hành
vi chế tạo, tàng trữ, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt VKQD, PTKTQS, mà
chưa có hướng dẫn xác định hành vi vận chuyển trái phép VKQD, PTKTQS.
Thứ hai: Thông tư liên ngành số 01/TTLN đã quy định số lượng cụ thể vật phạm
pháp đối với một số đối tượng phổ biến như súng, đạn, lựu đạn, thuốc nổ, kíp mìn, nụ
xuỳ, dây cháy chậm, dây nổ để truy cứu trách nhiệm hình sự theo các khoản 1, khoản 2
và khoản 3 Điều 95 BLHS năm 1985. Việc quy định này của Thông tư liên ngành số
01/TTLN còn có nhiều hạn chế như sau:
- Chỉ đề cập đến một số đối tượng phổ biến và cũng chỉ đề cập đến các đối tượng
là VKQD, còn các đối tượng khác, đặc biệt các đối tượng là PTKTQS thì chưa có quy
định.
- Chỉ có quy định số lượng cụ thể vật phạm pháp để xác định thế nào là "vật phạm
pháp có số lượng lớn" chứ chưa có quy định để xác định thế nào là "vật phạm pháp có số
lượng rất lớn" và "vật phạm pháp có số lượng đặc biệt lớn".
Thứ ba: Chưa có hướng dẫn chung về việc phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng
theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 95 BLHS năm 1985 (điểm d khoản 2 Điều 230
BLHS năm 1999) mà chỉ có hướng dẫn một số trường hợp cụ thể như sau:
- Tàng trữ trái phép VKQD mà gây hậu quả làm chết người, gây tổn hại sức khoẻ
cho người khác, gây thiệt hại nghiêm trọng về tài sản thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự
theo điểm c khoản 2 Điều 95 BLHS năm 1985 (điểm d khoản 2 Điều 230 BLHS năm


1999) về tội tàng trữ trái phép VKQD với tình tiết định khung tăng nặng là gây hậu quả
nghiêm trọng.
- Trong trường hợp người có hành vi chế tạo, tàng trữ, sử dụng, mua bán trái phép
hoặc chiếm đoạt VKQD, PTKTQS với mục đích là chuẩn bị công cụ, phương tiện để

thực hiện một tội phạm khác và tội phạm đó đã được thực hiện thì phải bị truy cứu trách
nhiệm hình sự theo điểm c khoản 2 Điều 95 BLHS năm 1985 (điểm d khoản 2 Điều 230
BLHS năm 1999) về tội chế tạo, tàng trữ, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt
VKQD, PTKTQS với tình tiết định khung tăng nặng là gây hậu quả nghiêm trọng và tội
phạm tương ứng đã thực hiện.
Những quy định nêu trên của Thông tư 01/TTLN chưa bao quát hết các trường
hợp phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng đã xảy ra trong thực tế, đặc biệt chưa có quy
định thế nào là "gây hậu quả rất nghiêm trọng" và "gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng"
để xử lý tội phạm theo khoản 3 và khoản 4 Điều 230 BLHS năm 1999.
Từ những lập luận nêu trên, chúng tôi đưa ra một số kiến nghị như sau:
Thứ nhất: Cần sửa đổi những quy định Điều 230 BLHS năm 1999 theo các hướng
sau đây:
- Cần quy định hành vi cướp VKQD, PTKTQS là tình tiết định khung tăng nặng ở
khoản 2 Điều 230 BLHS.
- Cần bổ sung thêm tình tiết "vật phạm pháp có giá trị lớn" vào điểm b khoản 2
Điều 230 BLHS; "vật phạm pháp có giá trị rất lớn" vào điểm a khoản 3 Điều 230 BLHS;
"vật phạm pháp có giá trị đặc biệt lớn" vào điểm a khoản 4 Điều 230 BLHS.
- Để việc áp dụng pháp luật được thống nhất, thể hiện nguyên tắc nhân đạo xã hội
chủ nghĩa của luật hình sự Việt Nam, đồng thời động viên mọi người tự nguyện đem nộp
VKQD, PTKTQS mà họ trót tàng trữ, cần quy định tình tiết "người tàng trữ trái phép
VKQD, PTKTQS mà chưa gây hậu quả, tự nguyện giao nộp chúng cho cơ quan có thẩm
quyền" là tình tiết định khung giảm nhẹ của tội phạm quy định tại Điều 230 BLHS.
Thứ hai: Trong lúc BLHS chưa có những sửa đổi cần thiết, các cơ quan chức
năng có thẩm quyền cần tiếp tục hướng dẫn áp dụng pháp luật theo những hướng sau đây:
- Cần ban hành Thông tư liên ngành mới thay cho Thông tư liên ngành số
01/TTLN ngày 7/1/1995 của Toà án Nhân dân Tối cao, Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao,
Bộ Nội vụ để hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật trong việc xử lý tội chế tạo, tàng
trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt VKQD, PTKTQS theo Điều
230 BLHS năm 1999.
- Cần tiếp tục hướng dẫn thêm về số lượng của từng loại VKQD, đồng thời có

hướng dẫn về số lượng của các loại PTKTQS để làm căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự


đối với người thực hiện các hành vi phạm tội và xác định khung hình phạt cụ thể. Trên
thực tế, khi áp dụng tình tiết định khung tăng nặng: "Vật phạm pháp có số lượng lớn",
"Vật phạm pháp có số lượng rất lớn", "Vật phạm pháp có số lượng đặc biệt lớn" thì
không thể chỉ dựa vào con số một cách đơn thuần mà còn phải căn cứ vào giá trị sử dụng,
tính năng tác dụng, tầm quan trọng của các loại VKQD, PTKTQS khác nhau.
- Trong khi chưa có hướng dẫn cụ thể và đầy đủ số lượng của từng loại VKQD,
PTKTQS để làm căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự và thực tế cũng không thể nào liệt
kê hết số lượng tất cả các loại VKQD, PTKTQS được thì việc hướng dẫn cần dựa trên giá
trị của từng loại đối tượng để làm căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự theo từng khoản
của Điều 230 BLHS.
Ví dụ: "Vật phạm pháp có giá trị từ ... đồng đến ... đồng thì truy cứu trách nhiệm
hình sự theo khoản 1 Điều 230 BLHS.
Vật phạm pháp có giá trị từ ... đồng đến ... đồng thì truy cứu trách nhiệm hình sự
theo khoản 2 Điều 230 BLHS.
Vật phạm pháp có giá trị từ ... đồng đến ... đồng thì truy cứu trách nhiệm hình sự
theo khoản 3 Điều 230 BLHS.
Vật phạm pháp có giá trị từ ... đồng đến ... đồng thì truy cứu trách nhiệm hình sự
theo khoản 4 Điều 230 BLHS".
- Cần có hướng dẫn chung, bao quát các trường hợp phạm tội "gây hậu quả
nghiêm trọng", "gây hậu quả rất nghiêm trọng" và "gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng"
để xử lý tội phạm theo khoản 2, khoản 3 và khoản 4 Điều 230 BLHS năm 1999.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ luật hình sự năm 1985.
2. Bộ luật hình sự năm 1999.
3. Thông tư liên ngành số 01/TTLN ngày 7/1/1995 của Toà án nhân dân tối
cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Nội vụ.



SOME DIFFICULTIES IN THE APPLICATION OF THE ISSUE 230 OF 1999
CRIMINAL CODE FOR HANDLING THE CRIMINALS ON ILLEGAL
MANUFACTURE, STORAGE, TRANSPORT, USAGE, SALE OR
ARROGATE OF MILITARY WEAPON AND EQUIPMENTS
Tran Viet Dung
College of Sciences, Hue University

SUMMARY
Criminals on illegal manufacture, storage, transport, usage, sale or arrogate of military
weapons and equipments are notified at the issue 230 of the 1999 Criminal Code. The provisions
at this article creates a important legal foundation for handling the Criminals on illegal
manufacture, storage, transport, usage, and sale or arrogate of military weapons and
equipments. However, in the studying process, we find some difficulties in practical application of
this ussue. This paper deeply studies the content of the issue 230 of 1999 Criminal Code and
proposes some recommendations for changes in article 230 and guidance for unity legal
application in handling the criminals on illegal manufacture, storage, transport, usage, sale or
arrogate of military weapons and equipments.



×