Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

tác giả tác phẩm ngữ văn 8

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (620.76 KB, 31 trang )

Tiểu sử
Thanh Tịnh (1917-1988) là một nhà văn, nhà thơ Việt Nam.
Thanh Tịnh tên thật là Trần Văn Ninh, sinh 1917 tại Huế.. Mất ngày 17
tháng 7 năm 1988 tại Hà Nội, hiện phần mộ đặt tại núi Thiên Thai phía Tây
Thành phố Huế. Học chữ nho đến 11 tuổi, rồi học tiếp bậc tiểu học và trung
học ở Huế. Có bằng thành chung. Năm 1933 đi làm ở Sở tư, sau đó làm
nghề dạy học ở Huế. Sau CMTT, ông làm Tổng thư ký Hội văn hóa Trung
bộ. Tham gia bộ đội năm 1948. Từ 1954, chủ nhiệm tạp chí Văn nghệ quân
đội. Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội viên sáng lập Hội Nhà văn
Việt Nam (1957).

Tác phẩm
Quê mẹ (1941)
2. Xuân và Sinh (1944)
3. Thơ ca (1973)
4. Tôi đi học (1941)
1.

5. Chị và em (1942)
6. Sức mồ hôi (1954)
7. Đi giữa mùa sen (1980)


Tiểu sử
Nguyên Hồng (1918 – 1982) là nhà văn có nhiều đóng góp to lớn cho nền
văn học Việt Nam hiện đại.
Tên thật của ông là Nguyễn Nguyên Hồng, sinh ngày 5 tháng 11 năm 1918
ở Nam Định Sinh trưởng trong một gia đình nghèo, mồ côi cha, từ nhỏ theo
mẹ ra Hải Phòng kiếm sống trong các xóm chợ nghèo.
Nguyên Hồng bắt đầu viết văn từ năm 1936 với truyện ngắn "Linh Hồn"
đăng trên Tiểu thuyết thứ 7. Đến năm 1937, ông thực sự gây được tiếng


vang trên văn đàn với tiểu thuyết "Bỉ Vỏ". Nguyên Hồng tham gia phong
trào Mặt trận Dân chủ (1936-1939) ở Hải Phòng. Tháng 9 năm 1939, ông bị
mật thám bắt và bị đưa đi trại tập trung ở Bắc Mê (Hà Giang) năm 1940.
Năm 1943, Nguyên Hồng tham gia Hội Văn hóa Cứu quốc bí mật cùng với
Nam Cao, Tô Hoài, Nguyễn Huy Tưởng... Ông là Đảng viên Đảng Cộng sản
Việt Nam.


Các tác phẩm chọn lọc
• Bỉ vỏ (tiểu thuyết, 1938 )
• Bảy Hựu (truyện ngắn, 1941);
• Những ngày thơ ấu (truyện ngắn, 1941);
• Qua những màn tối (truyện, 1942);
• Cuộc sống (tiểu thuyết, 1942),
• Quán nải (tiểu thuyết, 1943);
• Đàn chim non (tiểu thuyết, 1943);
• Hơi thở tàn (tiểu thuyết, 1943);
• Hai dòng sữa (truyện ngắn, 1943 );
• Vực thẳm (truyện vừa, 1944 );
• Miếng bánh (truyện ngắn, 1945);
• Ngọn lửa (truyện vừa, 1945);
• Địa ngục và lò lửa (truyện ngắn, 1946- 1961);
• Đất nước yêu dấu (ký, 1949);
• Đêm giải phóng (truyện vừa, 1951);
• Giữ thóc (truyện vừa, 1955);
• Giọt máu (truyện ngắn, 1956);
• Trời xanh (thơ, 1960)
• Sóng gầm (tiểu thuyết, 196l);
• Sức sống của ngòi bút (tạp văn, 1963);
• Cơn bão đã đến (tiểu thuyết, 1963);

• Bước đường viết văn của tôi (hồi ký, 197l);
• Cháu gái người mãi võ họ Hoa (truyện thiếu nhi, 1972),
• Thời kỳ đen tối (tiểu thuyết, 1973);
• Một tuổi thơ văn (hồi ký, 1973);
• Sông núi quê hương (thơ, 1973);
• Khi đứa con ra đời (tiểu thuyết, 1976);
• Những nhân vật ấy đã sống với tôi (hồi ký, 1978);
• Thù nhà nợ nước. (tập I, trong bộ tiểu thuyết Núi rừng Yên Thế ,
1981);
• Núi rừng Yên Thế (tiểu thuyết, tập II, 1993 );
• Tuyển tập Nguyên Hồng (3 tập Tập I: 1983, Tập II: 1984, Tập III:
1985).


Tiểu sử
Ngô Tất Tố (1894 - 1954) là một nhà văn, nhà báo, nhà Nho học và
nghiên cứu có ảnh hưởng ở Việt Nam giai đoạn trước 1954.
Ngô Tất Tố sinh năm 1894 ở làng Lộc Hà, tổng Hội Phụ, phủ Từ Sơn, Bắc Ninh (nay là xã Mai
Lâm, huyện Đông Anh, Hà Nội). Lúc còn nhỏ Ngô Tất Tố được thụ hưởng một nền giáo dục Nho
học. Năm 1912, ông bắt đầu tham dự các kỳ thi truyền thống lúc bấy giờ vẫn còn được triều đình nhà
Nguyễn tổ chức. Đến năm 1915, ông đỗ đầu kỳ thi sơ khảo ở cấp địa phương, nên được gọi là đầu xứ
Tố. Trong giai đoạn này, ông còn làm nghề dạy học và nghề y. Ông qua đời ngày 20 tháng 4 năm 1954 tại

Yên Thế, Bắc Giang[2]

Tác phẩm


Ngô Việt Xuân Thu (dịch, 1929)






































Hoàng Hoa Cương (dịch, 1929)
Vua Hàm Nghi với việc kinh thành thất thủ (truyện ký lịch sử, 1935)
Đề Thám (truyện ký lịch sử, viết chung, 1935)
Tắt đèn (tiểu thuyết, báo Việt nữ, 1937), (Mai Lĩnh xuất bản, 1939)
Lều chõng (phóng sự tiểu thuyết, báo Thời vụ, 1939-1944), (Mai Lĩnh
xuất bản, 1952)
Thơ và tình (dịch thơ Trung Quốc, 1940)
Đường thi (sưu tầm, chọn và dịch, 1940)
Việc làng (phóng sự, báo Hà Nội tân văn, 1940-1941), (Mai Lĩnh xuất
bản, 1941)
Thi văn bình chú (tuyển chọn, giới thiệu, 1941)
Văn học đời Lý (tập I) và Văn học dời Trần (tập II) (trong bộ Việt
Nam văn học) (nghiên cứu, giới thiệu, 1942)
Lão Tử (biên soạn chung, 1942)
Mặc Tử (biên soạn, 1942)
Hoàng Lê nhất thống chí (dịch, tiểu thuyết lịch sử, báo Đông Pháp,
1942)
Suối thép (dịch, tiểu thuyết, 1946)
Trước lửa chiến đấu (dịch, truyện vừa, 1946)
Trời hửng (dịch, truyện ngắn, 1946)
Duyên máu (dịch, truyện ngắn, 1946)
Doãn Thanh Xuân (dịch, truyện ngắn, 1946-1954)
Địa dư các nước châu Âu (biên soạn chung với Văn Tân, 1948)
Địa dư các nước châu Á, châu Phi (biên soạn chung với Văn Tân,
1949)

Địa dư Việt Nam (biên soạn, 1951)
Nữ chiến sĩ Bùi Thị Phác (kịch bản chèo, 1951).
Đóng góp (kịch, 1951)
Kinh dịch (chú giải, 1953)
Ngô Tất Tố và tác phẩm (tuyển tập, 2 tập, Nhà xuất bản Văn học,
1971, 1976)
Ngô Tất Tố - Toàn tập (5 tập, Nhà xuất bản Văn học, 1996)
Ngô Tất Tố - Toàn tập, bộ mới (dự kiến 30 tập, Nhà xuất bản Hội nhà
văn - Công ty văn hóa Phương Nam, 2005)


Tiểu sử
Hans Christian Andersen (1805–1875; tiếng Việt thường viết là Anđécxen) là nhà văn
người Đan Mạch chuyên viết truyện cổ tích cho thiếu nhi.
Andersen sinh ra ở Odense, Đan Mạch vào ngày 2 tháng 4 năm 1805.
Andersen đã biểu lộ trí thông minh và óc tưởng tượng tuyệt vời của mình khi còn là một cậu
bé. Năm 1816, cha ông qua đời và cậu bé phải tự đi kiếm sống. Ông làm thợ học dệt vải và
cả thợ may, sau đó thì vào làm trong nhà máy thuốc lá. Tại nơi này, một gã đồng nghiệp đã
hạ nhục ông bằng cách cá rằng ông thực sự là con gái và buộc ông cởi quần ra để kiểm tra.
Năm 14 tuổi, Andersen chuyển tới Copenhagen (tiếng Đan Mạch: København) tìm việc làm
diễn viên trong các nhà hát. Ông có chất giọng cao và đã được kết nạp vào Nhà hát Hoàng
gia Đan Mạch. Sự nghiệp này kết thúc nhanh chóng khi ông vỡ giọng. Một người bạn đã
khuyên ông làm thơ. Từ đó, Andersen chuyển hẳn sang viết văn.
Sau đây là một số tác phẩm truyện thiếu nhi tiêu biểu của Andersen:


Tác phẩm
• Bà chúa tuyết (Sneedronningen)
• Bộ quần áo mới của hoàng đế (Keiserens nye Klæder)
• Cái bóng (Skyggen)

• Cái chuông (Klokken)
• Câu chuyện của một người mẹ (Historien om en
Moder)
• Chú chim họa mi (Nattergalen)
• Chú lính chì dũng cảm (Den standhaftige Tinsoldat)
• Con ngỗng hoang (De vilde Svaner)
• Cô bé bán diêm (Den lille Pige med Svovlstikkerne)
• Cô bé tí hon (Tommelise)
• Cu nhớn và cu con (Lille Claus og store Claus)
• Đôi giầy đỏ (De røde Skoe)
• Gia đình hạnh phúc (Den lykkelige Familie)
• Nàng tiên cá (Den lille Havfrue)
• Nàng công chúa và hạt đậu (Prindsessen paa Ærten)
• Ngôi nhà cổ (Det gamle Huus)
• Thiên thần (Engelen)
• Vịt con xấu xí (Den grimme Ælling)
Ngoài ra Andersen còn viết một số tác phẩm khác như:







Hai bà Nam tước (De to Baronesser, 1848, tiểu thuyết)
Tây Ban Nha (I Spanien, 1853, du ký)
Cuộc đời tôi (Mit Livs Eventyr, 1855, hồi ký)
Thăm Bồ Đào Nha (Et Besøg i Portugal 1866, 1866,
du ký)
Pier may mắn (Lykke-Peer, 1870, tiểu thuyết)



Tiểu sử
O. Henry (tên thật là William Sydney Porter, tên khai sinh là William Sidney Porter; 1862–
1910) là nhà văn nổi tiếng người Mỹ . O. Henry sinh ngày 11 tháng 9 năm 1862 tại
Greensboro, North Carolina, Hoa Kỳ. Ngay từ khi còn bé, Porter đã tỏ ra rất ham đọc. và
ông theo học tại trường tư do bà cô mình,Evelina Maria Porter,làm chủ cho đến năm 1876.
Sau đó ông tiếp tục theo học ở trường trung học Lindsey Street dưới sự bảo trợ của cô mình
tới năm 15 tuổi. Năm 1879, ông làm việc cho hiệu y dược của ông chú, và sau đó, năm 1881,
khi 19 tuổi, ông lấy bằng dược sĩ.
Năm 1882, khi bắt đầu có triệu chứng bệnh lao lây từ bà mẹ, ông được gửi đến sống trong
một trang trại chăn nuôi ở Texas với hy vọng khí hậu nơi đồng nội giúp vượt qua cơn bệnh .
Kế đến, ông làm tại một cơ quan địa chính và lần lượt qua nhiều công việc khác nhau: vẽ kỹ
thuật và kiến trúc, thư ký, đầu bếp nhà hàng, làm nhân viên cho công ty địa ốc, xưởng in,
v.v. Hầu như từ mỗi ngành nghề, O. Henry đều có thể góp nhặt tư liệu cho các truyện ông
viết.


Tác phẩm












After twenty years (Sau hai mươi năm)
A chaparral prince (Hoàng tử đồng xanh): The church with
an overshot-wheel (Ngôi giáo đường với cối xay nước):
The furnished room (Căn phòng đủ tiện nghi):
Georgia's Ruling (Phán quyết của Georgia):
The gift of the Magi (Món quà của các nhà thông thái):
The green door (Cánh cửa mầu lục):
The last leaf (Chiếc lá cuối cùng)
A retrieved reformation (Một cuộc đổi đời):
The dream (Giấc mộng):


Tiểu sử
Phan Bội Châu (26 tháng 12 năm 1867 – 29 tháng 10 năm 1940) là một nhà cách
mạng Việt Nam trong phong trào chống Pháp. Ông đã thành lập phong trào Duy
Tân Hội và khởi xướng phong trào Đông Du.
Phan Bội Châu tên thật là Phan Văn San, tự là Hài Thu, bút hiệu là Sào Nam ,
Thị Hán , Độc Kinh Tử, Việt Điểu, Hàn Mãn Tử, v.v. Theo gia phả họ Phan, ông
sinh ngày 26 tháng 12 năm 1867 tại làng Đan Nhiễm, xã Nam Hòa, huyện Nam
Đàn, tỉnh Nghệ An, cha là Phan Văn Phổ, mẹ là Nguyễn Thị Nhàn. Ông nổi tiếng
thông minh từ bé, năm 6 tuổi học 3 ngày thuộc hết Tam Tự Kinh, 7 tuổi ông đã
đọc hiểu sách Luận Ngữ, 13 tuổi ông thi đỗ đầu huyện. Thuở thiếu thời ông đã
sớm có lòng yêu nước. Năm 17 tuổi ông viết bài "Hịch Bình Tây Thu Bắc" đem
dán ở cây đa đầu làng để hưởng ứng việc Bắc Kỳ khởi nghĩa kháng Pháp. Năm
19 tuổi (1885) ông cùng bạn Trần Văn Lương lập đội nghĩa quân Cần Vương
chống Pháp nhưng việc không thành.


Tác phẩm
Việt Nam vong quốc sử

• Việt Nam Quốc sử khảo (1909)
• Ngục Trung Thư (1913) (loc) – Sài Gòn: NXB Tân Việt, 1950
• Lưu Cầu Huyết Lệ Tân Thư (19??)
• Việt Nam vong quốc sử (1905)
• Việt Nam Quốc sử bình diễn ca (1927)
• Cao Đẳng Quốc Dân Di Cảo (19??) (loc) – Huế: NXB Anh-Minh, 1957
• Chủng diêt dự ngôn(19??) (loc) – Hà Nội: NXB Khoa hoc xã hội, 1991
• Tân Việt Nam (19??) (loc) – Hà Nội: NXB Cục lưu trữ nhà nước, 1989
• Thiên Hồ Đế Hồ (19??) (loc) – Hà Nội: NXB Khoa học xã hội, 1978
• Khuyến quốc dân du học ca (19??)
• Hải ngoại huyết thư (1906)
• Dĩ cửu niên lai sở trì chủ nghĩa (19??)
• Hà thành liệt sĩ ca (19??)
• Truyện Lê Thái Tổ (19??)
• Tuồng Trưng nữ vương (19??)
• Gia huấn ca (19??)
• Giác quần thư (19??)
• Nam quốc dân tu tri (19??)
• Nữ quốc dân tu tri (19??)
• Truyện Chân tướng quân (1917)
• Truyện tái sinh sinh (19??)
• Truyện Phạm Hồng Thái (19??)
Tác phẩm biên khảo, thi ca











Ký niệm lục (19??)
Vấn đề phụ nữ (19??)
Luận lý vấn đáp (19??)
Sào nam văn tập (19??)
Hậu Trần dật sử (19??) (loc) – Hà Nội: NXB Văn hóa-thông tin, 1996
Khổng Học Đăng (19??) (loc) – Houston, TX: NXB Xuân Thu, 1986
Phan Bội Châu Niên Biểu (19??) (loc) – Sài Gòn: Nhóm nghiên-cứu Sử Địa,
1971
Phan Bội Châu Toàn Tập (19??) (loc) – Huế: NXB Thuận hóa: Trung tâm văn
hóa ngôn ngữ Đông Tây, 2001
Trùng Quang Tâm Sử (19??) (loc) Hà Nội: NXB Văn học, 1971


Tiểu sử
Phan Châu Trinh ( còn được gọi Phan Chu Trinh; 1872–1926) là một nhà thơ, nhà văn,
chí sĩ yêu nước thời cận đại của Việt Nam, người mở đầu cho phong trào Duy Tân và có
công lớn trong việc lập Đông Kinh Nghĩa Thục.
Phan Châu Trinh còn có hiệu là Tây Hồ, Hy Mã , tự là Tử Cán. Ông sinh năm 1872, người
làng Tây Lộc, huyện Tiên Phước, phủ Tam Kỳ nay thuộc Xã Tam Lộc Huyện Phú Ninh, tỉnh
Quảng Nam. Thân sinh là Phan Văn Bình, một võ quan nhỏ, từng tham gia phong trào Cần
Vương trong tỉnh, làm chuyển vận sứ phụ trách việc quân lương, nhưng về sau trở thành nạn
nhân của sự chia rẽ nội bộ.
Năm 1885, thân phụ ông mất khi ông mới 13 tuổi. Năm 1892, ông đi học và nổi tiếng học
giỏi. Bạn cùng học với ông là Huỳnh Thúc Kháng (kém ông 4 tuổi).

Tác phẩm









Tây Hồ thi tập,
Santé thi tập (gồm hơn 200 bài thơ);
Thư thất điều (thư vạch 7 tội của vua bù nhìn Khải Định);
Giai nhân kỳ ngộ diễn ca;
Tỉnh quốc hồn ca I, II (thơ hiệu triệu, thức tỉnh đồng bào, tạo dân khí mạnh, đề cao
dân quyền);
Trung Kỳ dân biến tụng oan thủy mạt ký;
Các bức thư gửi Toàn quyền Beau, gửi Nguyễn Ái Quốc, gửi người học trò tên Đông,
và các bài diễn thuyết về "Đạo đức và luân lý Đông Tây", về "Quân trị chủ nghĩa và
dân trị chủ nghĩa".


Tiểu sử
Tản Đà (1888 - 1939) tên thật Nguyễn Khắc Hiếu, là một nhà thơ, nhà văn và nhà viết kịch
nổi tiếng của Việt Nam. Bút danh Tản Đà của ông là tên ghép giữa núi Tản Viên và sông Đà,
hai địa danh gần nơi ông sinh ra.
Trong văn đàn Việt Nam đầu thế kỷ 20, Tản Đà nổi lên như một ngôi sao sáng, vừa độc đáo,
vừa dồi dào năng lực sáng tác. Ông là một cây bút phóng khoáng, xông xáo trên nhiều lĩnh
vực. Đi khắp miền đất nước, ông đã để lại nhiều tác phẩm với nhiều thể loại. Ông đã từng
làm chủ bút tạp chí Hữu Thanh, An Nam tạp chí. Với những dòng thơ lãng mạn và ý tưởng
ngông nghênh, đậm cá tính, ông được đánh giá là người chuẩn bị cho sự ra đời của thơ mới
trong nền văn học Việt Nam, là "gạch nối giữa hai thời kỳ văn học cổ điển và hiện đại".
Ngoài sáng tác thơ, Tản Đà còn giỏi trong việc dịch thơ Đường thành thơ lục bát và được

biết đến như một người dịch thơ Đường ra ngôn ngữ Việt hay nhất.

Tác phẩm:
- Khối tình con I, II (thơ, 1917).
- Giấc mộng con I (tiểu thuyết, 1917).
- Thề non nước (tiểu thuyết, 1920).
- Giấc mộng con II (du kí, 1932).
- Giấc mộng lớn (tự truyện, 1932)


Tiểu sử
Thế Lữ (1907 - 1989) là nhà thơ, nhà văn, nhà hoạt động sân khấu Việt Nam. Thế Lữ nổi
danh trên văn đàn vào những năm 1930, với những tác phẩm Thơ mới, đặc biệt là bài Nhớ
rừng, cùng những tác phẩm văn xuôi, tiêu biểu là tập truyện Vàng và máu (1934). Trở thành
thành viên của nhóm Tự Lực văn đoàn kể từ khi mới thành lập (1934), ông hầu hết hoạt
động sáng tác văn chương trong thời gian là thành viên của nhóm, đồng thời cũng đảm nhận
vai trò một nhà báo, nhà phê bình, biên tập viên mẫn cán của các tờ báo Phong hóa và Ngày
nay.
Từ năm 1937, hoạt động của Thế Lữ chủ yếu chuyển hướng sang biểu diễn kịch nói, trở
thành diễn viên, đạo diễn, nhà viết kịch, trưởng các ban kịch Tinh Hoa, Thế Lữ, Anh Vũ, hoạt
động cho đến sau Cách mạng tháng Tám. Ông tham gia kháng chiến chống Pháp, làm kịch
kháng chiến trong những năm Chiến tranh Đông Dương. Sau Hiệp định Genève, ông tiếp tục
hoạt động sân khấu, trở thành Chủ tịch đầu tiên của Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam (19571977). Ông được coi là một người tiên phong, không chỉ trong phong trào Thơ mới, trong
lĩnh vực văn chương trinh thám, kinh dị, đường rừng, mà còn là người có đóng góp rất lớn
trong việc chuyên nghiệp hóa nghệ thuật biểu diễn kịch nói ở Việt Nam. Thế Lữ đã được
Nhà nước Việt Nam trao tặng danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân năm 1984 và Giải thưởng Hồ Chí
Minh về văn học


Tác phẩm

Thế Lữ đã ra mắt khoảng hơn 50 bài thơ, chủ yếu được sáng tác
trước năm 1945 và in trên hai tờ Phong hóa và Ngày nay, sau tập hợp
vào hai tập thơ: Mấy vần thơ (1935) và Mấy vần thơ, tập mới (1941,
gồm tập thơ cũ được bổ sung thêm một số bài mới)[ . Tập thơ đầu, Mấy
vần thơ được xem là tác phẩm tiêu biểu nhất của phong trào Thơ mới
thời kỳ 1932-1935, với những bài được phổ biến rộng rãi thời kỳ đó.
Bảy bài trong tập thơ đã được đưa vào hợp tuyển thơ Thi nhân Việt
Nam (1942) của Hoài Thanh - Hoài Chân, gồm có Nhớ rừng, Tiếng trúc
tuyệt vời, Tiếng sáo Thiên Thai, Vẻ đẹp thoáng qua, Bên sông đưa
khách, Cây đàn muôn điệu và Giây phút chạnh lòng.


Vũ Đình Liên (sinh ngày 12 tháng 11 năm 1913- mất ngày 18 tháng 1 năm 1996) là một nhà
thơ, nhà giáo nhân dân Việt

Tiểu sử
Ông sinh tại Hà Nội, quê gốc ở thôn Châu Khê, xã Thúc Kháng, huyện Bình Giang, tỉnh
Hải Dương, đỗ tú tài trường Bưởi năm 1932, ông từng dạy học ở các trường tư thục Thăng
Long, Gia Long, Trường nữ sinh Hoài Đức để kiếm sống, ông học thêm trường Luật. Năm
1936 ông được biết đến với bài thơ "Ông đồ" đăng trên báo Tinh Hoa. Ông tham gia giảng
dạy nhiều năm và từng là chủ nhiệm khoa tiếng Pháp trường Đại học Quốc gia Hà Nội [1].
Ngoài thơ ông còn hoạt động trong lĩnh vực lý luận, phê bình văn học và dịch thuật. Ông là
hội viên sáng lập Hội Nhà văn Việt nam

Tác phẩm







Một số bài thơ: Ông đồ, Lòng ta là những hàng thành quách cũ, Luỹ tre xanh, Người
đàn bà điên ga Lưu xá...
Đôi mắt (1957)
Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam (cùng Nhóm Lê Quý Đôn-1957) [2]
Nguyễn Đình Chiểu (1957)
Thơ Baudelaire (dịch-1995)


Tiểu sử
Tế Hanh (1921 - 2009) tên thật là Trần Tế Hanh, quê làng Đông Yên, xã Bình Dương,
huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi. Thuở nhỏ học trường làng, trường huyện sau ra học tại
trường Quốc học Huế. Ông sáng tác thơ từ sớm và đã đứng trong phong trào Thơ mới với
tập Nghẹn ngào giành giải khuyến khích của Tự lực văn đoàn. Tham gia Việt Minh từ tháng
8 năm 1945, Tế Hanh đã trải qua các công tác văn hoá, giáo dục ở Huế, Đà nẵng, là Ủy viên
giáo dục trong Uỷ ban lâm thời thành phố Đà nẵng sau khi Cách mạng tháng Tám thành
công. Năm 1947, ông làm việc trong Ban phụ trách Trường trung học bình dân Trung bộ,
năm 1948, ông ở trong Ban phụ trách liên đoàn văn hoá kháng chiến Nam Trung bộ ủy viên
thường vụ chi hội Văn nghệ Liên khu V. Năm 1957 khi thành lập Hội Nhà văn Việt Nam,
ông là Ủy viên thường vụ Hội khoá I, II, ủy viên thường vụ Hội Liên hiệp Văn học nghệ
thuật Việt Nam (1963), tham gia Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam nhiều khóa, giữ các
chức vụ: Trưởng ban đối ngoại (1968), Chủ tịch Hội đồng dịch thuật (1983), Chủ tịch Hội
đồng thơ (1986).
Ngoài thơ, Tế Hanh còn dịch nhiều tác phẩm của các nhà thơ lớn trên thế giới, viết tiểu luận
phê bình văn học, thơ thiếu nhi. Ông được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ
thuật năm 1996

Tác phẩm:



Nghẹn ngào (1939)




















Hoa niên (1944)
Lòng miền Nam (1956)
Chuyện em bé cười ra đồng tiền (1960)
Hai nửa yêu thương (1967)
Khúc ca mới (1967)
Đi suốt bài ca (1970)
Câu chuyện quê hương (1973)
Theo nhịp tháng ngày (1974)
Giữa những ngày xuân (1976)

Con đường và dòng sông (1980)
Bài ca sự sống
Tuyển tập Tế Hanh (tập I-1987)
Thơ Tế Hanh (1989)
Vườn xưa (1992)
Giữa anh và em (1992)
Em chờ anh (1993)
Tuyển tập Tế Hanh (tập II-1997)


Tiểu sử
Lý Thái Tổ tên húy là Lý Công Uẩn ( 974 – 1028) là vị vua đầu tiên của nhà Lý trong lịch
sử Việt Nam, trị vì từ năm 1009 đến khi qua đời năm 1028.
Lý Công Uẩn là người ở hương Diên Uẩn, châu Cổ Pháp.[1] Mẹ là Phạm Thị. Khi lên ba
tuổi, mẹ ông đem ông cho sư Lý Khánh Văn, trụ trì chùa Cổ Pháp làm con nuôi và được đặt
tên là Lý Công Uẩn. Lý Công Uẩn đi tu từ đó. Lớn lên, với sự bảo hộ của sư Vạn Hạnh - anh
trai sư Lý Khánh Văn, ông vào kinh đô Hoa Lư làm quan nhà Tiền Lê, thăng đến chức Tả
thân vệ Điện tiền Chỉ huy sứ. Là người khoan thứ nhân từ, có lượng đế vương. Các sử gia
ghi chép không thống nhất về nguồn gốc và thân thế của vua.

Tác phẩm:
- Chiếu dời đô.
- Lý triều Thái tổ Hoàng đế ngự chế Bùi gia Thái tổ sự trạng
bi văn.


Tiểu sử
Hưng Đạo Đại Vương (1232? - 1300) là danh tướng thời nhà
Trần và cũng là danh tướng trong lịch sử Việt Nam, có công lớn
trong hai lần kháng chiến chống Nguyên Mông. Ông là tác giả của

bộ Binh thư yếu lược (hay Binh gia diệu lý yếu lược) và Vạn Kiếp
tông bí truyền thư (đã thất lạc). Ông còn được người dân Việt tôn
sùng như bậc thánh, nên còn được gọi là Đức thánh Trần.

Tác phẩm




Hịch tướng sĩ
Binh gia diệu lý yếu lược (hay Binh thư yếu lược)
Vạn Kiếp tông bí truyền thư


Tiểu sử
Nguyễn Thiếp (25 tháng 8 năm Quý Mão 1723-1804), tên hiệu phổ biến là La Sơn phu
tử, huý là Minh, tự là Quang Thiếp, quê làng Mật Thôn, xã Nguyệt Úc hay Nguyệt Áo (tục
gọi là Nguyệt Ao), tổng Lai Thạch, huyện La Sơn. Tổng La Thạch sau này lại thuộc về
huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Nguyễn Thiếp sinh ra trong một gia đình thuộc dòng dõi vọng
tộc, là con cháu Lưu Quận công, Cao tổ của Phu tử là Nguyễn Bật Lạng đậu Bảng nhãn
(dưới Trạng Nguyên, trên Thám Hoa) trong một Chế khoa dưới triều Lê Thần Tông niên
hiệu Thịnh Đức nguyên niên (năm 1633). Năm 20 tuổi (1743) ông đỗ giải Hương, đến năm
26 tuổi, ông đi thi Hội một khoa vào tam trường. Từ đây, ông thề không đi thi nữa, và quyết
tâm dứt bỏ con đường sĩ hoạn, chỉ vì ông thấy rõ lối học từ chương, khoa cử chẳng những vô
ích cho bản thân và quốc gia, mà còn di hại cho tiền đồ Tổ quốc và hậu thế không ít.
Năm 1756, ông làm Huấn đạo rồi năm 1762 thăng Tri phủ. Năm 1768 từ quan về ở ẩn trên
núi Thiên Nhẫn, Hà Tĩnh. Chúa Trịnh Sâm nhiều lần cho mời nhưng ông không ra tham
chính nữa. Đặc biệt là ông có đi thăm mộ Phạm Viên (Tiên ông đắc đạo) và thăm Bạch Vân
Am của Nguyễn Bỉnh Khiêm vào lúc 55 tuổi và 58 tuổi (1777-1780).


Tác phẩm
Ông để lại tác phẩm Lạp Phong văn cảo, Hạnh am thi cảo gồm hơn 100 bài thơ chữ Hán và một số bài từ.
Những di cảo về chữ Nôm còn lại rất ít, trong số đó đáng chú ý là bài “Qua Luỹ Sơn”. Thơ Nguyễn Thiếp
bàn về thế thái nhân tình. Nguyễn Thiếp không tố cáo xã hội, nhưng qua thơ ông cũng thấy nạn tham quan ô
lại đang đục khoét dân lành. Lời thơ mộc mạc, chân chất, ít điển tích, không có hình ảnh độc đáo.


Tiểu sử
(Jean - Jacques Rousseau; 1712 - 78), nhà triết học, nhà văn, nhà sân khấu; một
trong những ngọn cờ tư tưởng của thế kỉ Ánh sáng Pháp. Vì theo đạo Tin Lành nên
tổ tiên của Ruxô phải rời quê, một vùng gần Pari, sang cư trú ở Giơnevơ từ 1549.
Mẹ mất sớm, sống với cha là thợ đồng hồ. Thuở nhỏ, không được học hành chu
đáo. Năm 1728, bỏ Giơnevơ ra đi tìm cuộc sống tự do, lang thang nhiều nơi, kiếm
sống bằng nhiều nghề.

Tác Phẩm:

-

“Luận về nguồn gốc và cơ sở của sự không bình đẳng giữa người và
người” (1755)

-

“Thư gửi cho Đalambe về sân khấu”(1758)
“Khế ước xã hội” (1762)
“Luận về khoa học và nghệ thuật”
Tiểu thuyết “Juyli hay là nàng Êlôidơ mới” (1761),
“Êmin, hay nền về giáo dục” (1762)
tự truyện “Thú tội” (1782 - 1789),

“Những mơ mộng của một người dạo chơi cô độc” (1772 - 1778)
Ruxô còn là tác giả của nhiều vở hài kịch, nhạc kịch, kịch một màn như “Thầy bói nông
thôn” (1752).


Tiểu sử
Nguyễn Trãi (1380 - 1442). Quê gốc làng Chi Ngại, huyện Chí Linh, tỉnh
Hải Dương, sinh ra ở Thăng Long trong dinh ông ngoại là quan Tư đồ Trần
Nguyên Đán, về sau dời về sống ở làng Ngọc Ổi, xã Nhị Khê, huyện
Thường Tín, tỉnh Hà Tây. Ông là con trai của Nguyễn Phi Khanh (trước đây
có tên là Nguyễn Ứng Long), vốn là học trò nghèo thi đỗ thái học sinh và bà
Trần Thị Thái - con quan Tư đồ Trần Nguyên Đán, dòng dõi quý tộc nhà
Trần.

Tác phẩm:
Quốc âm thi tập, Ức Trai thi tập, Quân trung từ mệnh tập, Dư địa chí,
Lam Sơn thực lục,
Phú núi Chí Linh, Lam Sơn Vĩnh lăng thần đạo bi,
Ngọc Đường di cảo, Gia huấn ca ,
Quốc âm thi.


Tiểu sử:
Tố Hữu, tên thật là Nguyễn Kim Thành (1920–2002) là một nhà thơ tiêu biểu của
dòng thơ cách mạng Việt Nam. Ông đã từng giữ các chức vụ quan trọng trong hệ
thống chính trị của Việt Nam như ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Ban chấp hành Trung
ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Phó Chủ tịch thứ nhất Hội đồng bộ trưởng Việt Nam.
Năm 1946, ông là bí thư Tỉnh ủy Thanh Hóa. Cuối 1947, ông lên Việt Bắc làm công
tác văn nghệ, tuyên huấn. Từ đó, ông được giao những chức vụ quan trọng trong công
tác văn nghệ, trong bộ máy lãnh đạo Đảng và nhà nước:

• 1948: Phó Tổng thư ký Hội Văn nghệ Việt Nam;
• 1963: Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Việt Nam;
• Tại đại hội Đảng lần II (1951): Ủy viên dự khuyết Trung ương; 1955: Ủy viên
chính thức;
• Tại đại hội Đảng lần III (1960): vào Ban Bí thư;
• Tại đại hội Đảng lần IV (1976): Ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị, Bí thư Ban
chấp hành Trung ương, Trưởng ban Tuyên truyền Trung ương, Phó Ban Nông
nghiệp Trung ương;
• Từ 1980: Ủy viên chính thức Bộ Chính trị;
• 1981: Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, rồi Phó Chủ tịch thứ nhất Hội đồng Bộ
trưởng cho tới 1986. Ngoài ra ông còn là Bí thư Ban chấp hành Trung ương.
Năm 1996, ông được Nhà nước phong tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học
nghệ thuật (đợt I)


Giải thưởng





Giải nhất giải thưởng văn học Hội Văn nghệ Việt Nam 1954-1955 (tập
thơ Việt Bắc)
Giải thưởng văn học ASEAN (1996)
Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học – nghệ thuật (đợt 1, 1996)

Tác phẩm:












Từ ấy (1946)
Việt Bắc (1954)
Gió lộng (1961)
Ra trận (1962-1971)
Máu và Hoa (1977)
Một tiếng đờn (1992)
Ta với ta (1999)
Xây dựng một nền văn nghệ lớn xứng đáng với nhân dân ta, thời đại ta
(tiểu luận, 1973)
Cuộc sống cách mạng và văn học nghệ thuật (tiểu luận, 1981)

Một số bài thơ tiêu biểu:




Bác ơi
Bài ca xuân 1961
Bài ca quê hương
Bầm ơi!
Có thể nào yên?
Đi đi em!

Đời đời nhớ Ông
Đợi anh về (tập thơ
dịch, 1998)
Em ơi... Ba Lan
Gặp anh Hồ Giáo
Hai đứa trẻ
Hồ Chí Minh



Hãy nhớ lấy lời tôi
















Hoa tím
Hoan hô chiến sĩ
Điện Biên

Kính gửi cụ Nguyễn
Du
Khi con tu hú
Lạ chưa
Lượm
Mẹ Suốt
Mồ côi
Một tiếng đờn
Mưa rơi
Sáng tháng Năm



Ta đi tới































Từ ấy
Tâm tư trong tù
Tương tri
Theo chân Bác
Tiếng chổi tre
Tiếng hát sông
Hương
Tiếng ru
Vườn nhà
Việt Bắc (thơ,
1954)
Việt Nam máu
và hoa
Xuân đang ở
đâu...
Xuân đấy



×