Tải bản đầy đủ (.doc) (143 trang)

Phân tích 20 tác phẩm Ngữ văn 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (713.4 KB, 143 trang )

phong cách Hồ Chí Minh
(Lê Anh Trà)
I - Gợi ý
1. Xuất xứ:
Phong cách Hồ Chí Minh
là một phần bài viết "Phong cách Hồ Chí Minh, cái vĩ đại
gắn với cái giản dị" của tác giả Lê Anh Trà, trích trong cuốn sách "Hồ Chí Minh và văn
hoá Việt Nam", Viện Văn hoá xuất bản, Hà Nội, 1990.
2. Tác phẩm:
Mặc dù am tờng và ảnh hởng nền văn hoá nhiều nớc, nhiều vùng trên thế giới nh-
ng phong cách của Hồ Chí Minh vô cùng giản dị, điều đó đợc thể hiện ngay trong đời
sống sinh hoạt của Ngời: nơi ở chỉ là một ngôi nhà sàn nhỏ bé với những đồ đạc mộc
mạc, trang phục đơn sơ, ăn uống đạm bạc.
3. Tóm tắt:
Viết về phong cách Hồ Chí Minh, tác giả đa ra luận điểm then chốt: Phong cách
Hồ Chí Minh là sự kết hợp hài hoà giữa tính dân tộc và tính nhân loại, truyền thống và
hiện đại, giữa vĩ đại và giản dị.
Để làm sáng tỏ luận điểm này, tác giả đã vận dụng một hệ thống lập luận chặt chẽ,
với những dẫn chứng xác thực, giàu sức thuyết phục về quá trình hoạt động cách
mạng, khả năng sử dụng ngôn ngữ và sự giản dị, thanh cao trong cuộc sống sinh hoạt
hằng ngày của Bác.
II - Giá trị tác phẩm
Trong bài thơ
Ngời đi tìm hình của nớc
, Chế Lan Viên viết:
Có nhớ chăng hỡi gió rét thành Ba Lê
Một viên gạch hồng, Bác chống lại cả một mùa băng giá...
Đó là những câu thơ viết về Bác trong thời gian đầu của cuộc hành trình cứu nớc
gian khổ. Câu thơ vừa mang nghĩa tả thực vừa có ý khái quát sâu xa. Sự đối lập giữa
một viên gạch hồng
giản dị với cả


một mùa đông băng giá
đã phần nào nói lên sức
mạnh và phong thái của vị lãnh tụ cách mạng vĩ đại. Sau này, khi đã trở về Tổ quốc,
sống giữa đồng bào, đồng chí, dờng nh chúng ta vẫn gặp đã con ngời đã từng bôn ba
khắp thế giới ấy:
Nhớ Ngời những sáng tinh sơng
Ung dung yên ngựa trên đờng suối reo
Nhớ chân Ngời bớc lên đèo
Ngời đi, rừng núi trông theo bóng Ngời.
(
Việt Bắc
- Tố Hữu)
Còn nhiều, rất nhiều những bài thơ, bài văn viết về cuộc đời hoạt động cũng nh
tình cảm của Bác đối với đất nớc, nhân dân. Điểm chung nổi bật trong những tác phẩm
ấy là phong thái ung dung, thanh thản của một ngời luôn biết cách làm chủ cuộc đời,
là phong cách sống rất riêng: phong cách Hồ Chí Minh.
Với một hệ thống lập luận chặt chẽ và những dẫn chứng vừa cụ thể vừa giàu sức
thuyết phục, bài nghị luận xã hội của Lê Anh Trà đã chỉ ra sự thống nhất, kết hợp hài
hoà của các yếu tố: dân tộc và nhân loại, truyền thống và hiện đại để làm nên sự thống
nhất giữa sự vĩ đại và giản dị trong phong cách của Ngời.
Cách gợi mở, dẫn dắt vấn đề của tác giả rất tự nhiên và hiệu quả. Để lí giải sự
thống nhất giữa dân tộc và nhân loại, tác giả đã dẫn ra cuộc đời hoạt động đầy truân
chuyên, tiếp xúc với văn hoá nhiều nớc, nhiều vùng trên thế giới... Kết luận đợc đa ra
sau đó hoàn toàn hợp lô gích: "Có thể nói ít có vị lãnh tụ nào lại am hiểu nhiều về các
dân tộc và nhân dân thế giới, văn hoá thế giới sâu sắc nh Chủ tịch Hồ Chí Minh... Ng-
ời cũng chịu ảnh hởng tất cả các nền văn hoá, đã tiếp thu cái đẹp và cái hay...". Đó là
những căn cứ xác đáng để lí giải về tính nhân loại, tính hiện đại một vế của sự hoà
hợp, thống nhất trong phong cách Hồ Chí Minh.
Ngay sau đó, tác giả lập luận: "Nhng điều kì lạ là tất cả những ảnh hởng quốc tế đó
đã nhào nặn với cái gốc văn hoá dân tộc không gì lay chuyển đợc ở Ngời, để trở thành

một nhân cách rất Việt Nam, một lối sống rất bình dị, rất Việt Nam, rất phơng Đông,
nhng cũng đồng thời rất mới, rất hiện đại..".
Đây có thể coi là lập luận quan trọng nhất trong bài nhằm làm sáng tỏ luận điểm
chính nói trên. Trong thực tế, các yếu tố "dân tộc" và "nhân loại", "truyền thống" và "hiện
đại" luôn có xu hớng loại trừ nhau. Yếu tố này trội lên sẽ lấn át yếu tố kia. Sự kết hợp hài
hoà của các yếu tố mang nhiều nét đối lập ấy trong một phong cách quả là điều kì diệu,
chỉ có thể thực hiện đợc bởi một yếu tố vợt lên trên tất cả: đó là bản lĩnh, ý chí của một
ngời chiến sĩ cộng sản, là tình cảm cách mạng đợc nung nấu bởi lòng yêu nớc, thơng dân
vô bờ bến và tinh thần sẵn sàng quên mình vì sự nghiệp chung. Hồ Chí Minh là ngời hội
tụ đầy đủ những phẩm chất đó.
Để củng cố cho lập luận của mình, tác giả đa ra hàng loạt dẫn chứng. Những chi
tiết hết sức cụ thể, phổ biến: đó là ngôi nhà sàn, là chiếc áo trấn thủ, đôi dép lốp đã
từng đi vào thơ ca nh một huyền thoại, là cuộc sống sinh hoạt hằng ngày, là tình cảm
thắm thiết đối với đồng bào, nhất là với các em thiếu nhi... cũng đã trở thành huyền
thoại trong lòng nhân dân Việt Nam. Với những dẫn chứng sống động ấy, thủ pháp
liệt kê đợc sử dụng ở đây không những không gây nhàm chán, đơn điệu mà còn có tác
dụng thuyết phục hơn hẳn những lời thuyết lí dài dòng.
2
Trong phần cuối bài, tác giả đã khiến cho bài viết thêm sâu sắc bằng cách kết nối
giữa quá khứ với hiện tại. Từ nếp sống "giản dị và thanh đạm" của Bác, tác giả liên hệ
đến Nguyễn Trãi, đến Nguyễn Bỉnh Khiêm các vị "hiền triết" của non sông đất Việt:
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao...
Đây cũng là một yếu tố trong hệ thống lập luận của tác giả. Dẫu các yếu tố so sánh
không thật tơng đồng (Bác là một chiến sĩ cách mạng, là Chủ tịch nớc trong khi
Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm đợc nói đến trong thời gian ở ẩn, xa lánh cuộc
sống sôi động bên ngoài) nhng vẫn đợc vận dụng hợp lí nhờ cách lập luận có chiều
sâu: "Nếp sống giản dị và thanh đạm của Bác Hồ, cũng nh các vị danh nho xa, hoàn
toàn không phải là một cách tự thần thánh hoá, tự làm cho khác đời, hơn đời, mà đây
là lối sống thanh cao, một cách di dỡng tinh thần, một quan niệm thẩm mĩ về cuộc

sống, có khả năng đem lại hạnh phúc thanh cao cho tâm hồn và thể xác".
Bài văn nghị luận này giúp chúng ta hiểu sâu thêm về phong cách của Bác Hồ vị
lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, danh nhân văn hoá của thế giới.
đấu tranh cho một thế giới hoà bình
(G. G. Mác-két)
I - Gợi ý
1. Tác giả:
Nhà văn Cô-lôm-bi-a G.G. Mác-két (Gabriel Garcia Marquez) sinh năm 1928. Năm
1936, tốt nghiệp tú tài, ông vào học ngành Luật tại trờng đại học Tổng hợp Bô-gô-ta và
viết những truyện ngắn đầu tay.
Ga-bri-en Gác-xi-a Mác-két là tác giả của nhiều tiểu thuyết theo khuynh hớng hiện
thực huyền ảo nổi tiếng. Ông từng đợc nhận giải thởng Nô-ben văn học năm 1982.
G. G. Mác-két có một sự nghiệp sáng tác đồ sộ, nhng nổi tiếng nhất là cuốn
Trăm
năm cô đơn
(1967) - tiểu thuyết đợc tặng Giải Chianchianô của I-ta-li-a, đợc Pháp công
nhận là cuốn sách nớc ngoài hay nhất trong năm, đợc giới phê bình văn học ở Mĩ xếp
là một trong 12 cuốn sách hay nhất trong những năm sáu mơi của thế kỉ XX.
Toàn bộ sáng tác của G. G. Mác-két xoay quanh trục chủ đề chính: sự cô đơn - mặt
trái của tình đoàn kết, lòng thơng yêu giữa con ngời.
2. Tác phẩm:
Văn bản
Đấu tranh cho một thế giới hoà bình
trình bày những ý kiến của tác giả
3
xung quanh hiểm hoạ hạt nhân, đồng thời kêu gọi thế giới nỗ lực hành động để ngăn
chặn, đẩy lùi nguy cơ về một thảm hoạ có thể huỷ diệt toàn bộ sự sống trên trái đất.
3. Tóm tắt:
Đây là một bài văn nghị luận xã hội. Tác giả nêu ra hai luận điểm cơ bản có liên
quan mật thiết với nhau:

Nguy cơ chiến tranh hạt nhân đe doạ cuộc sống trên trái đất.
Nhiệm vụ cấp bách của nhân loại là phải ngăn chặn nguy cơ đó, đồng thời đấu
tranh cho một thế giới hoà bình.
Để làm sáng tỏ hai luận điểm trên, tác giả đã đa ra một hệ thống lập luận chặt chẽ,
đặc biệt là những dẫn chứng rất cụ thể, xác thực, giàu sức thuyết phục.
II - Giá trị tác phẩm
Chúng ta đang sống trong một thế giới mà trình độ khoa học kỹ thuật đang phát
triển với một tốc độ đáng kinh ngạc: những thành tựu của ngày hôm nay, rất có thể chỉ
ngày mai đã thành lạc hậu. Đã từng có những ý kiến bi quan cho rằng: trong khi của
cải xã hội tăng theo cấp số cộng thì dân số trái đất lại tăng theo cấp số nhân, con ngời
sẽ ngày càng đói khổ. Tuy nhiên, nhờ có sự phát triển nh vũ bão của khoa học kĩ thuật,
của cải xã hội ngày càng dồi dào hơn, số ngời đói nghèo ngày càng giảm đi...
Đó là những yếu tố tích cực trong sự phát triển của khoa học mà phần lớn chúng ta
đều nhận thấy. Tuy nhiên, mặt trái của sự phát triển đó thì hầu nh rất ít ngời có thể
nhận thức đợc. Bài viết của nhà văn Gác-xi-a Mác-két đã gióng lên một hồi chuông
cảnh tỉnh nhân loại trớc nguy cơ đang hiện hữu của một cuộc chiến tranh hạt nhân
thảm khốc có khả năng huỷ diệt toàn bộ sự sống trên hành tinh xanh mà phơng tiện
của cuộc chiến tranh ấy mỉa mai thay lại là hệ quả của sự phát triển khoa học nh vũ
bão kia.
Vấn đề đợc khơi gợi hết sức ấn tợng: "Chúng ta đang ở đâu? Hôm nay ngày 8 - 8 -
1986, hơn 50.000 đầu đạn hạt nhân đã đợc bố trí khắp hành tinh. Nói nôm na ra, điều
đó có nghĩa là mỗi ngời không trừ trẻ con, đang ngồi trên một thùng 4 tấn thuốc nổ: tất
cả chỗ đó nổ tung lên sẽ làm biến hết thảy, không phải một lần mà là mời hai lần, mọi
dấu vết của sự sống trên trái Đất".
Sức tác động của đoạn văn này chủ yếu bởi những con số thống kê cụ thể: 50.000
đầu đạn hạt nhân; 4 tấn thuốc nổ; không phải một lần mà là mời hai lần... Thông điệp
về nguy cơ huỷ diệt sự sống đợc truyền tải với một khả năng tác động mạnh mẽ vào t
duy bạn đọc. Không chỉ có thế, trong những câu văn tiếp theo, tác giả còn mở rộng
phạm vi ra toàn hệ Mặt Trời, dẫn cả điển tích trong thần thoại Hi Lạp nhằm làm tăng
sức thuyết phục.

4
Trong phần tiếp theo, tác giả đa ra hàng loạt so sánh nhằm thể hiện sự bất hợp lí
trong xu hớng phát triển của khoa học hiện đại: tỉ lệ phục vụ cho việc nâng cao đời
sống nhân loại quá thấp trong khi tỉ lệ phục vụ cho chiến tranh lại quá cao. Vẫn là
những con số thống kê đầy sức nặng:
100 tỉ đô la cho trẻ em nghèo khổ tơng đơng với 100 máy bay ném bom chiến lợc
B.1B hoặc dới 7.000 tên lửa vợt đại châu;
Giá 10 chiếc tàu sân bay mang vũ khí hạt nhân đủ để thực hiện chơng trình
phòng bệnh trong cùng 14 năm, bảo vệ cho hơn 1 tỉ ngời khỏi bệnh sốt rét;
Hai chiếc tàu ngầm mang vũ khí hạt nhân là đủ tiền xoá nạn mù chữ cho toàn thế
giới...
Đó là những con số vợt lên trên cả những giá trị thống kê bởi nó còn có giá trị tố cáo
bởi điều nghịch lí là trong khi các chơng trình phục vụ chiến tranh đều đã hoặc chắc chắn
trở thành hiện thực thì các chơng trình cứu trợ trẻ em nghèo hay xoá nạn mù chữ chỉ là sự
tính toán giả thiết và không biết đến bao giờ mới trở thành hiện thực. Trong khía cạnh
này thì rõ ràng là khoa học đang phát triển ngợc lại những giá trị nhân văn mà từ bao
đời nay con ngời vẫn hằng xây dựng.
Vẫn bằng phép suy luận lô gích và những con số thống kê nóng bỏng, tác giả đẩy
mâu thuẫn lên đến đỉnh điểm: sự phát triển vũ khí hạt nhân không chỉ đi ngợc lại lí trí
của con ngời mà còn đi ngợc lại lí trí tự nhiên. Sự đối lập khủng khiếp giữa 380 triệu
năm, 180 triệu năm, bốn kỷ địa chất (hàng chục triệu năm) với khoảng thời gian đủ để
"bấm nút một cái" đã phơi bày toàn bộ tính chất phi lí cũng nh sự nguy hiểm của ch-
ơng trình vũ khí hạt nhân mà các nớc giàu có đang theo đuổi. Bằng cách ấy, rất có thể
con ngời đang phủ nhận, thậm chí xoá bỏ toàn bộ quá trình tiến hoá của tự nhiên và xã
hội từ hàng trăm triệu năm qua. Đó không chỉ là sự phê phán mà còn là sự kết tội.
Đó là toàn bộ luận điểm thứ nhất, chiếm đến hơn ba phần t dung lợng của bài viết
này. ở luận điểm thứ hai, thủ pháp tơng phản đã đợc vận dụng triệt để. Ngay sau lời
kết tội trên đây, tác giả kêu gọi:
"Chúng ta đến đây để cố gắng chống lại việc đó, đem lại tiếng nói của chúng ta
tham gia vào bản đồng ca của những ngời đòi hỏi một thế giới không có vũ khí và một

cuộc sống hoà bình, công bằng. Nhng dù cho tai hoạ xảy ra thì sự có mặt của chúng ta
ở đây cũng không phải là vô ích".
Đó không hẳn là một lời kêu gọi thống thiết và mạnh mẽ, tuy nhiên không vì thế
mà nó kém sức thuyết phục. Chính d âm của luận điểm thứ nhất đã tạo nên hiệu quả
cho luận điểm thứ hai này. Những lời kêu gọi của tác giả gần nh những lời tâm sự nh-
ng thấm thía tận đáy lòng. Cha hết, tác giả còn tởng tợng ra tấn thảm kịch hạt nhân và
đề nghị mở "một ngân hàng lu trữ trí nhớ". Lời đề nghị tởng nh rất không thực ấy lại
5
trở nên rất thực trong hoàn cảnh cuộc chiến tranh hạt nhân có thể xảy ra bất cứ lúc
nào.
Trong luận điểm thứ hai này, tác giả hầu nh không sử dụng một dẫn chứng hay
một con số thống kê nào. Nhng cách dẫn dắt vấn đề, lời tâm sự tha thiết mang âm điệu
xót xa của tác giả đã tác động mạnh đến lơng tri nhân loại tiến bộ. Tác giả không chỉ ra
thế lực nào đã vận dụng những phát minh khoa học vào mục đích xấu xa bởi đó dờng
nh không phải là mục đích chính của bài viết này nhng ông đã giúp nhân loại nhận
thức đợc nguy cơ chiến tranh hạt nhân là hoàn toàn có thực và ngăn chặn nguy cơ đó,
đồng thời đấu tranh cho một thế giới hoà bình sẽ là nhiệm vụ quan trọng nhất của
nhân loại trong thế kỉ XXI.
tuyên bố thế giới về sự sống còn,
quyền đợc bảo vệ và phát triển của trẻ em
I - Gợi ý
1. Xuất xứ:
Văn bản
Tuyên bố thế giới về sự sống còn, quyền đợc bảo vệ và phát trỉen của trẻ
em
đợc trích từ Tuyên bố của Hội nghị cấp cao thế giới về trẻ em họp tại Liên hợp
quốc ngày 30-9-1990, in trong cuốn "Việt Nam và các văn kiện quốc tế về quyền trẻ
em", NXB Chính trị quốc gia - Uỷ ban Bảo vệ và chăm sóc trẻ em Việt Nam, 1997.
2. Tóm tắt:
Tuy chỉ là một trích đoạn nhng bài viết này có thể coi là một văn bản khá hoàn

chỉnh về hiện thực và tơng lai của trẻ em cũng nh những nhiệm vụ cấp thiết mà cộng
đồng quốc tế phải thực hiện nhằm đảm bảo cho trẻ em có đợc một tơng lai tơi sáng.
Ngoài hai ý mở đầu, bài viết đợc chia thành ba phần rất rõ ràng:
Phần một (sự thách thức): thực trạng cuộc sống khốn khổ của rất nhiều trẻ em trên
thế giới những thách thức đặt ra với các nhà lãnh đạo chính trị.
Phần hai (cơ hội): những điều kiện thuận lợi đối với việc bảo vệ và phát triển cuộc
sống, đảm bảo tơng lai cho trẻ em.
Phần ba (nhiệm vụ): những nhiệm vụ cụ thể, cấp thiết cần thực hiện nhằm bảo vệ
và cải thiện đời sống, vì tơng lai của trẻ em.
II- Giá trị tác phẩm
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng dạy:
6
Trẻ em nh búp trên cành
Biết ăn ngủ, biết học hành là ngoan.
Trẻ em là tơng lai đất nớc. Suy rộng ra, sự vận động và phát triển của thế giới trong
tơng lai phụ thuộc rất nhiều vào cuộc sống và sự phát triển của trẻ em hôm nay. Càng
ngày, vấn đề đó càng đợc nhận thức rõ ràng hơn trên phơng diện quốc tế. Năm 1990,
Hội nghị cấp cao thế giới về trẻ em đã đợc tổ chức. Tại đó, các nhà lãnh đạo các nớc đã
đa ra bản
Tuyên bố về sự sống còn, bảo vệ và phát triển của trẻ em.
Bài viết này đã
trích dẫn những ý cơ bản nhất của bản
Tuyên bố
đó.
Ngay trong phần mở đầu, bản
Tuyên bố
đã khẳng định những đặc điểm cũng nh
những quyền lợi cơ bản của trẻ em. Từ đó, các tác giả bắt vào mạch chính với những ý
kiến hết sức cơ bản và lô gích.
Trong phần thứ nhất, tác giả nêu ra hàng loạt vấn đề có về thực trạng cũng nh sự vi

phạm nghiêm trọng quyền của trẻ em. Đó là sự bóc lột, đày đoạ một cách tàn nhẫn, là
cuộc sống khốn khổ của trẻ em ở các nớc nghèo. Trong hoàn cảnh ấy, những con số
thống kê rất có sức nặng ("Mỗi ngày, có hàng triệu trẻ em phải chịu đựng những thảm
hoạ của đói nghèo và khủng hoảng kinh tế, của nạn đói, tình trạng vô gia c, dịch
bệnh...; Mỗi ngày có tới 40000 trẻ em chết do suy dinh dỡng và bệnh tật,..."). Những
con số
biết nói
ấy thực sự là lời cảnh báo đối với nhân loại.
Với nội dung nh vậy nhng các tác giả lại đặt tên cho phần này là
Sự thách thức
.
Mới đọc, có cảm tởng giữa đề mục và nội dung không thật thống nhất. Tuy nhiên, đó
lại là yếu tố liên kết giữa các phần trong văn bản này. Tác giả đã sử dụng phơng pháp
"đòn bẩy": hiện thực càng đợc chỉ rõ bao nhiêu thì những vấn đề đặt ra sau đó lại càng
đợc quan tâm bấy nhiêu.
Trong phần tiếp theo, các tác giả trình bày những điều kiện thích hợp (hay những
cơ hội) cho những hoạt động vì quyền của trẻ em. Đó là những phơng tiện và kiến
thức, là sự hợp tác, nhất trí của cộng đồng thế giới cùng sự tăng trởng kinh tế, sự biến
đổi của xã hội... trong đó các tác giả nhấn mạnh đến nhân tố con ngời. Bằng những
hoạt động tích cực, con ngời hoàn toàn có thể làm chủ đợc tơng lai của mình khi quan
tâm thoả đáng đến các thế hệ tơng lai.
Trong phần
Nhiệm vụ
, các tác giả nêu ra tám nhiệm vụ hết sức cơ bản và cấp thiết.
Có thể tóm tắt lại nh sau:
1. Tăng cờng sức khoẻ và chế độ dinh dỡng của trẻ em.
2. Quan tâm săn sóc nhiều hơn đến trẻ em bị tàn tật, trẻ em có hoàn cảnh sống đặc
biệt khó khăn.
3. Đảm bảo quyền bình đẳng nam - nữ (đối xử bình đẳng với các em gái).
7

4. Bảo đảm cho trẻ em đợc học hết bậc giáo dục cơ sở.
5. Cần nhấn mạnh trách nhiệm kế hoạch hoá gia đình.
6. Cần giúp trẻ em nhận thức đợc giá trị của bản thân.
7. Bảo đảm sự tăng trởng, phát triển đều đặn nền kinh tế.
8. Cần có sự hợp tác quốc tế để thực hiện các nhiệm vụ cấp bách trên đây.
Với những ý hết sức ngắn gọn, đợc trình bày rõ ràng, dễ hiểu, bản
Tuyên bố
này
không chỉ có ý nghĩa đối với mỗi ngời, mỗi thành viên trong cộng đồng quốc tế mà
còn có tác dụng kêu gọi, tập hợp mọi ngời, mọi quốc gia cùng hành động vì cuộc
sống và sự phát triển của trẻ em, vì tơng lai của chính loài ngời.
chuyện ngời con gái nam xơng
(Trích
Truyền kì mạn lục
- Nguyễn Dữ)
I- Gợi ý
1. Tác giả:
Nguyễn Dữ (cha rõ năm sinh, năm mất), ngời huyện Trờng Tân, nay là huyện
Thanh Miện, tỉnh Hải Dơng. Nguyễn Dữ sống ở thế kỉ XVI, là thời kì triều đình nhà Lê
đã bắt đầu khủng hoảng, các tập đoàn phong kiến Lê, Mạc, Trịnh tranh giành quyền
bính, gây ra những cuộc nội chiến kéo dài. Ông học rộng, tài cao, nhng chỉ làm quan có
một năm rồi xin nghỉ.
2. Tác phẩm:
Tác phẩm nổi tiếng nhất của Nguyễn Dữ là
Truyền kì mạn lục
, gồm 20 truyện viết
bằng tản văn, xen lẫn biền văn và thơ ca, cuối mỗi truyện thờng có lời bình của tác giả,
hoặc của một ngời cùng quan điểm với tác giả.
Chuyện ngời con gái Nam Xơng
thể hiện niềm cảm thơng của tác giả đối với số

phận oan nghiệt, đồng thời ca ngợi vẻ đẹp truyền thống của của ngời phụ nữ Việt
Nam dới chế độ phong kiến.
... Về mặt nội dung,
Truyền kì mạn lục
chứa đựng nội dung phản ánh hiện thực và
giá trị nhân đạo sâu sắc. Tác phẩm cũng đồng thời cho thấy những phức tạp trong t t-
ởng nhà văn.
Nguyễn Dữ phản ánh hiện thực xã hội thời đại mình qua thể truyền kì nên tác giả
thờng lấy xa để nói nay, lấy cái kì để nói cái thực. Đọc
Truyền kì mạn lục
nếu biết bóc
tách ra cái vỏ kì ảo sẽ thấy cái cốt lõi hiện thực, phủi đi lớp sơng khói thời gian xa cũ,
sẽ thấy bộ mặt xã hội đơng thời. Đời sống xã hội dới ngòi bút truyền kì của nhà văn
8
hiện lên khá toàn diện cuộc sống ngời dân từ bộ máy nhà nớc với quan tham lại nhũng
đến những quan hệ với nền đạo đức đồi phong bại tục.
Nếu khi phê phán, tố cáo hiện thực xã hội, Nguyễn Dữ chủ yếu đứng trên lập trờng
đạo đức thì khi phản ánh số phận con ngời, ông lại xuất phát tự lập trờng nhân văn.
Chính vì vậy,
Truyền kì mạn lục
chứa đựng một nội dung nhân đạo sâu sắc. Về phơng
diện này, Nguyễn Dữ là một trong những nhà văn mở đầu cho chủ nghĩa nhân văn
trong văn học trung đại Việt Nam.
Truyền kì mạn lục
phản ánh số phận con ngời chủ
yếu qua số phận của ngời phụ nữ, đồng thời hớng tới những giải pháp xã hội, nhng
vẫn bế tắc trên đờng đi tìm hạnh phúc cho con ngời". (
Từ điển văn học
- NXB Thế giới,
2005).

3. Thể loại:
Truyện truyền kì
là những truyện kì lạ đợc lu truyền.
Truyền kì mạn lục
của
Nguyễn Dữ là sự ghi chép tản mạn về những truyện ấy. Tác phẩm đợc viết bằng chữ
Hán, khai thác các truyện cổ dân gian, các truyền thuyết lịch sử, dã sử của Việt Nam.
Nhân vật chính trong
Truyền kì mạn lục
phần lớn là những ngời phụ nữ đức hạnh nh-
ng lại bị các thế lực phong kiến, lễ giáo khắc nghiệt xô đẩy vào những cảnh ngộ éo le,
oan khuất. Bên cạnh đó còn có kiểu nhân vật là những ngời trí thức có tâm huyết nhng
bất mãn với thời cuộc, không chịu trói mình vào vòng danh lợi chật hẹp.
4. Tóm tắt:
Câu chuyện kể về Vũ Thị Thiết - ngời con gái quê ở Nam Xơng, tính tình nết na
thuỳ mị. Lấy chồng là Trơng Sinh cha đợc bao lâu thì chàng phải đi lính, nàng ở nhà
phụng dỡng mẹ già và nuôi con nhỏ. Để dỗ con, nàng thờng chỉ bóng mình trên tờng
và bảo đó là cha nó. Khi Trơng Sinh về thì con đã biết nói. Đứa bé ngây thơ kể với Tr-
ơng Sinh về ngời đêm đêm vẫn đến nhà. Trơng Sinh sẵn có tính ghen, mắng nhiếc và
đuổi vợ đi. Phẫn uất, Vũ Thị Thiết chạy ra bến Hoàng Giang tự vẫn. Khi hiểu ra nỗi
oan của vợ thì đã muộn, Trơng Sinh lập đàn giải oan cho nàng.
Cũng có thể tạm chia truyện thành hai phần, lấy mốc là việc Vũ Nơng nhảy xuống
sông tự tử:
- Đoạn 1 (từ đầu đến "và xin chịu khắp mọi ngời phỉ nhổ"): bị chồng nghi oan. Vũ
Nơng tự vẫn.
- Đoạn 2 (còn lại): nỗi oan đợc giải, Vũ Nơng đợc cứu sống nhng vẫn không trở về
đoàn tụ cùng gia đình.
II- Giá trị tác phẩm
Có lẽ ngời Việt Nam chúng ta ai cũng hiểu và biết cách sử dụng cụm từ "oan Thị
Kính" một nỗi oan khuất mà ngời bị oan không có cách gì để thanh minh. Thị Kính

9
chỉ đợc giải oan nhờ Đức Phật hay nói đúng hơn là nhờ tấm lòng bao dung độ lợng,
luôn hiểu thấu và sẵn sàng bênh vực cho những con ngời bé nhỏ, thua thiệt, oan ức
trong xã hội của những nghệ sĩ dân gian.
Ngời phụ nữ trong
Chuyện ngời con gái Nam Xơng
không có đợc cái may mắn nh
Thị Kính mặc dù nỗi oan của nàng cũng không kém gì, thậm chí kết cục còn bi thảm
hơn. Thị Kính đợc lên toà sen trong khi ngời phụ nữ này phải tìm đến cái chết để
chứng tỏ sự trong sạch của mình. Mặc dù vậy, nhân vật này vẫn không đợc nhiều ngời
biết đến, có lẽ bởi phơng thức kể. Ai cũng biết đến Thị Kính vì câu chuyện về nàng đợc
thể hiện qua một vở chèo một loại hình nghệ thuật dân gian quen thuộc, đợc nhân
dân a thích từ xa xa, trong khi
Ngời con gái Nam Xơng
là một tác phẩm văn học viết
thời trung đại (trong điều kiện xã hội phong kiến, nhân dân lao động hầu hết đều
không biết chữ). Ngày nay đọc lại tác phẩm này, chúng ta có thể hiểu thêm rất nhiều
điều về thân phận những ngời phụ nữ trong xã hội phong kiến qua nghệ thuật dựng
truyện, dẫn dắt mạch truyện cũng nh nghệ thuật xây dựng nhân vật, cách thức kết hợp
các phơng thức tự sự, trữ tình và kịch của tác giả.
Trong phần đầu của truyện, trớc khi biến cố lớn xảy ra, tác giả đã dành khá nhiều
lời để ca ngợi vẻ đẹp của ngời phụ nữ, từ nhan sắc cho đến đức hạnh. Hầu nh không
có sự kiện nào thật đặc biệt ngoài những chi tiết (tiễn chồng đi lính, đối xử với mẹ
chồng...) chứng tỏ nàng là một ngời con gái đẹp ngời đẹp nết, một ngời vợ hiền, một
ngời con dâu hiếu thảo. Chỉ có một chi tiết ở đoạn mở đầu: "Song Trơng có tính đa
nghi, đối với vợ phòng ngừa quá sức". Bạn đọc có thể dễ bỏ qua chi tiết này vì với
phẩm hạnh của nàng, dẫu Trơng Sinh có đa nghi đến đâu cũng khó có thể xảy ra
chuyện gì đợc.
Nhng đó lại là một chi tiết rất quan trọng, thể hiện tài kể chuyện của tác giả. Chi
tiết nhỏ đợc cài rất khéo đó chính là sợi dây nối giữa phần trớc và phần sau, xâu chuỗi

các yếu tố trong truyện, đồng thời giúp bạn đọc hiểu đợc nội dung t tởng của tác
phẩm.
Mạch truyện đợc dẫn rất tự nhiên. Sau khi giặc tan, Trơng Sinh trở về nhà, bế đứa
con nhỏ ra thăm mộ mẹ. Thằng bé quấy khóc, khi Sinh dỗ dành thì nó nói:
"Ô hay! Thế ra ông cũng là cha tôi ? Ông lại biết nói, chứ không nh cha tôi trớc kia
chỉ nín thin thít".
Thật chẳng khác gì một tiếng sét bất chợt. Lời con trẻ vô tình đã thổi bùng lên ngọn
lửa ghen tuông trong lòng ngời đàn ông đa nghi (tác giả đã nói đến từ đầu). Nếu coi
đây là một vở kịch thì lời nói của đứa con chính là nút thắt, mở ra mâu thuẫn đồng
thời ngay lập tức đẩy mâu thuẫn lên cao. Sau khi gạn hỏi con, nghe thằng bé nói có
một ngời đàn ông "đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi...",
mối nghi ngờ của Sinh đối với vợ đã đến mức không thể nào gỡ ra đợc.
10
Một lần nữa, chi tiết về tính hay ghen của Sinh phát huy tác dụng triệt để. Nó lí giải
diễn biến câu chuyện, đồng thời giải đáp những thắc mắc của bạn đọc một cách hợp lí.
Tại sao Sinh không chịu nghe lời ngời vợ thanh minh? Tại sao Sinh không nói cho vợ
biết lí do mình tức giận nh thế? (Nếu Sinh nói ra thì ngay lập tức câu chuyện sẽ sáng
tỏ). Đó chính là hệ quả của tính đa nghi. Vì đa nghi nên Sinh không thể tỉnh táo suy
xét mọi việc. Cũng vì đa nghi nên lời nói (dù rất mơ hồ) của một đứa bé cũng trở
thành một bằng chứng "không thể chối cãi" rằng vợ chàng đã ngoại tình khi chồng đi
vắng. Sự vô lí đã trở nên hợp lí bởi sự kết hợp giữa hoàn cảnh và tính cách nhân vật.
Không biết vì sao Sinh lại nghi oan nên ngời vợ không thể thanh minh. Để chứng
tỏ sự trong sạch của mình, nàng chỉ có mỗi cách duy nhất là tự vẫn. Vợ Sinh chết mà
mâu thuẫn kịch vẫn không đợc tháo gỡ, mối nghi ngờ trong lòng Sinh vẫn còn nguyên
đó.
Theo dõi mạch truyện từ đầu, bạn đọc tuy không một chút nghi ngờ phẩm hạnh
của ngời phụ nữ nhng cũng không lí giải nổi chuyện gì đã xảy ra và vì sao đứa bé lại
nói nh vậy. Đây cũng là một yếu tố chứng tỏ nghệ thuật kể chuyện của tác giả. Thủ
pháp "đầu cuối tơng ứng" đợc vận dụng. Đứa trẻ ngây thơ là nguyên nhân dẫn đến bi
kịch thì cũng chính nó trở thành nhân tố tháo gỡ mâu thuẫn một cách tình cờ. Sau khi

vợ mất, một đêm kia, đứa trẻ lại nói:
Cha Đản lại đến kia kìa!
Chàng hỏi đâu. Nó chỉ bóng chàng ở trên vách:
Đây này!
Mâu thuẫn đợc tháo gỡ cũng bất ngờ nh khi nó phát sinh. Đứa trẻ có biết đâu rằng,
nó đã gây ra một sự hiểu lầm khủng khiếp để rồi khi ngời chồng hiểu ra, hối hận thì
đã quá muộn. Ngay cả bạn đọc cũng phải sững sờ: sự thật giản đơn đến thế mà cũng
đủ đẩy một con ngời vào cảnh tuyệt vọng.
Ai là ngời có lỗi? Đứa trẻ đơng nhiên là không vì nó vẫn còn quá nhỏ, chỉ biết thắc
mắc vì những lời nói đùa của mẹ. Vợ Sinh cũng không có lỗi vì nàng biết đâu rằng
những lời nói đùa với con để vợi nỗi nhớ chồng lại gây ra hậu quả đến thế! Có trách
chăng là trách Trơng Sinh vì sự ghen tuông đến mất cả lí trí. Chi tiết này gợi lên nhiều
suy nghĩ: giá nh không phải ở trong xã hội phong kiến trọng nam khinh nữ, giá nh ng-
ời vợ có thể tự bảo vệ cho lẽ phải của mình thì nàng đã không phải chọn cái chết thảm
thơng nh vậy. Tính đa nghi của Sinh đã không gây nên hậu quả xấu nếu nh nó không
đợc nuôi dỡng trong một môi trờng mà ngời phụ nữ luôn luôn phải nhận phần thua
thiệt về mình. ý nghĩa này của tác phẩm hầu nh không đợc tác giả trình bày trực tiếp
nhng qua hệ thống các biến cố, sự kiện đợc sắp xếp hợp lí, đa bạn đọc từ bất ngờ này
đến bất ngờ khác, tác giả đã thể hiện một cách tinh tế sự cảm thông sâu sắc của mình
11
đối với những số phận bất hạnh, đặc biệt là của ngời phụ nữ trong xã hội phong kiến.
Nếu câu chuyện dừng lại ở đây thì có thể cho rằng nó đã đợc sáng tạo theo một lỗi
viết khá mới mẻ và hiện đại. Nhng Nguyễn Dữ lại là ngời nổi tiếng với những câu
chuyện truyền kỳ. Hoang đờng, kì ảo là những yếu tố không thể thiếu trong những
sáng tác thuộc loại này. Mặt khác, tuy là một tác giả của văn học viết trung đại nhng
hẳn Nguyễn Dữ cũng chịu ảnh hởng ít nhiều từ t tởng "ở hiền gặp lành" của nhân dân
lao động. Bản thân ông cũng luôn đứng về phía nhân dân, đặc biệt là những ngời phụ
nữ có hoàn cảnh éo le, số phận oan nghiệt trong xã hội cũ. Bởi vậy, tác giả đã tạo cho
câu chuyện một lối kết thúc có hậu. Tuy không đợc hoá Phật để rồi sống ở miền cực
lạc nh Thị Kính nhng ngời phụ nữ trong truyện cũng đợc thần rùa cứu thoát, tránh

khỏi một cái chết thảm thơng.
Phần cuối truyện còn đợc cài thêm nhiều yếu tố kì ảo khác nữa. Ví dụ nh chi tiết
chàng Phan Lang trở thành ân nhân của rùa, sau lại đợc rùa đền ơn. Trên đờng chạy
giặc, bị đắm thuyền, dạt lên đảo và đợc chính con rùa năm xa cứu thoát. Đó có thể coi
là sự "đền ơn trả nghĩa" những hành động rất phù hợp với lí tởng thẩm mĩ của nhân
dân. Việc ngời phụ nữ trở về gặp chồng nhng không đồng ý trở lại chốn nhân gian có
lẽ cũng nhằm khẳng định t tởng nhân nghĩa ấy. Mặc dù đã đợc cứu thoát, đợc giải oan
nhng vì lời thề với vợ vua biển Nam Hải, nàng quyết không vì hạnh phúc riêng mà bỏ
qua tất cả. Những chi tiết đó càng chứng tỏ vẻ đẹp trong tính cách của ngời phụ nữ,
đồng thời cũng cho thấy thái độ ngỡng mộ, ngợi ca của tác giả đối với ngời phụ nữ
trong câu chuyện này nói riêng và ngời phụ nữ Việt Nam nói chung.
chuyện cũ trong phủ chúa trịnh
(Trích
Vũ trung tuỳ bút
- Phạm Đình Hổ)
I- Gợi ý
1. Tác giả:
Tác giả của
Vũ trung tuỳ bút
là Phạm Đình Hổ (1768-1839), quê huyện Cẩm Bình,
tỉnh Hải Dơng. Ông sinh trong một gia đình khoa bảng, từng dạy học ở nhiều nơi.
Những tác phẩm mà Phạm Đình Hổ để lại gồm nhiều loại, nhiều lĩnh vực, từ biên
soạn cho đến khảo cứu (triết học, lịch sử, địa lí...), sáng tác văn học. Riêng sáng tác văn
học có:
Vũ trung tuỳ bút, Tang thơng ngẫu lục
(viết chung với Nguyễn án),
Đông dã
học ngôn thi tập, Tùng cúc liên mai tứ hữu
, tất cả đều đợc viết bằng chữ Hán.
2. Tác phẩm:

Tuy chỉ là một tác phẩm tuỳ bút với ý nghĩa là những ghi chép tản mạn nhng

trung tuỳ bút
lại có giá trị văn học lớn. Một mặt, tác phẩm phơi bày hiện thực xã hội
12
đen tối lúc bấy giờ đồng thời với nỗi thống khổ của nhân dân, mặt khác, tác phẩm thể
hiện tài năng của tác giả. Dù tác giả không chủ ý xoáy sâu vào một vấn đề nào nhng
qua những từ ngữ gợi tả, qua những lời bình luận tởng nh rất bâng quơ, hiện thực
cuộc sống cứ hiển hiện chân thực, sống động trớc mắt độc giả.
Trong bài văn này, phần đầu tác giả miêu tả cung cách ăn chơi xa hoa của đám
quan quân trong phủ chúa Trịnh, phần sau tác giả đề cập đến nỗi khổ sở của dân
chúng trớc sự nhũng nhiễu của đám quan quân. Phần cuối, tác giả điểm qua một vài ý
về gia đình mình. Mọi chi tiết đều có tác dụng phơi bày sự mục rỗng của chính quyền
phong kiến Lê Trịnh ở vào thời kì sắp suy tàn.
3. Thể loại:
Nói tuỳ bút là thể văn ghi chép sự việc một cách cụ thể, sinh động nhng tuỳ hứng
không có nghĩa là bài văn đợc sắp xếp lộn xộn, không theo trật tự nào. Thực ra, điều
đó chỉ có nghĩa rằng văn tuỳ bút không phụ thuộc vào một khuôn mẫu cố định nào đó
(ví dụ nh thơ Đờng luật). Tuỳ theo từng hoàn cảnh cụ thể, tác giả lựa chọn, sắp xếp các
chi tiết, sự kiện theo những trật tự nhất định nhằm làm nổi bật vấn đề.
4. Tóm tắt:
Đoạn trích
Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh
miêu tả cuộc sống xa hoa ăn chơi xa xỉ,
không màng đến quốc gia đại sự, áp bức, bóc lột nhân dân,... của vua chúa, quan lại
phong kiến thời Thịnh Vơng Trịnh Sâm.
II- Giá trị tác phẩm
Khoảng cuối thế kỉ XVIII, tuy ngoài biên giới không có giặc ngoại xâm nhng trong
nớc lại vô cùng rối ren. Các thế lực phong kiến chia bè kéo cánh thao túng quyền hành,
vừa sát hại lẫn nhau vừa ra sức bóc lột của cải khiến đời sống nhân dân vô cùng cực

khổ. Ngoài Bắc, vua Lê chỉ là bù nhìn, quyền hành thực tế nằm cả trong tay chúa
Trịnh. Trịnh Sâm là ngời nổi tiếng hoang dâm vô độ. Cậy thế lấn át vua, ông ta thả sức
cho xây hàng loạt cung điện, đền đài nhằm phục vụ cho nhu cầu ăn chơi hoang phí.
Trong bài văn này, tuy tác giả không bộc lộ trực tiếp cảm xúc, thái độ của mình nhng
qua hàng loạt chi tiết, qua những cảnh, những việc tởng nh đợc trình bày hết sức ngẫu
hứng của tác giả, bạn đọc có thể hiểu đợc phần nào cuộc sống xa hoa, lãng phí của
đám quan quân phong kiến thời bấy giờ, đồng thời cũng có thể cảm nhận đợc ít nhiều
sự phẫn nộ của tác giả trong hoàn cảnh ấy.
Một điểm rất đáng lu ý khi đọc bài văn này chính là giọng điệu của tác giả một
giọng điệu hầu nh khách quan, không thể hiện một chút cảm xúc, thái độ nào. Khi cần
gọi tên đám quan quân trong phủ chúa, từ chúa Trịnh Sâm, các quan đại thần cho đến
bọn hoạn quan trong cung giám, tác giả luôn tỏ thái độ cung kính. Thủ pháp quen
thuộc thờng đợc sử dụng là liệt kê, hết chúa đến quan, từ quan lớn đến quan bé, từ sự
13
việc này sang sự việc khác. Nếu không tinh ý, thật khó có thể xác định đợc mục đích
của tác giả khi viết đoạn này là gì.
Tuy nhiên, qua hàng loạt sự kiện tởng chừng đợc liệt kê một cách tuỳ hứng, có thể
phát hiện ra những chi tiết giúp chúng ta hiểu đợc nội dung t tởng của bài.
Phần đầu viết về các cuộc dạo chơi của chúa Trịnh. Tác giả không tả cụ thể, cũng
không đa ra một lời bình luận nào, nhng các chi tiết, các sự kiện cứ nh tự biết nói.
Chúng phô bày một cuộc sống phù phiếm, xa hoa với những cuộc dạo chơi liên miên,
rồi thì đình đài xây dựng hết cái này đến cái khác. Theo những cuộc du ngoạn của
chúa là đầy đủ các quan đại thần, binh lính, ngời phục dịch... Nh thế đủ thấy những
sinh hoạt đó tốn kém đến mức nào.
Cớp bóc của cải là việc làm quen thuộc của quan quân thời bấy giờ. Nhân dân ta
từng có câu:
Con ơi nhớ lấy câu này
Cớp đêm là giặc, cớp ngày là quan.
Tác giả viết rất rõ: "Buổi ấy, bao nhiêu những loài trân cầm dị thú, cổ mộc quái
thạch chậu hoa cây cảnh ở chốn nhân gian, Chúa đều sức thu lấy, không thiếu một thứ

gì". Thật là sự cớp bóc trắng trợn của một vị chúa. Bất cứ thứ gì chúa muốn, kể cả cây
đa to đến hàng mấy trăm ngời khiêng cũng đợc đa về phủ... Thật trớ trêu khi ngời
đứng đầu triều đình lại không hề biết tiếc sức ngời sức của, không biết chăm lo cho n-
ớc, cho dân, chỉ biết cớp bóc, vơ vét để thoả lòng tham không đáy.
Liệt kê ra nh vậy nhng tác giả vẫn không đa ra bất cứ một lời bình luận nào. Thậm
chí ông còn viết cả một đoạn văn dài nh là ca ngợi vẻ đẹp của phủ chúa. Mặc dù vậy,
cách miêu tả của tác giả thật đặc biệt: vừa mới viết "hình núi non bộ trông nh bến bể
đầu non", tác giả lại bổ sung: "Mỗi khi đêm thanh cảnh vắng, tiếng chim kêu vợn hót
vang khắp bốn bề, hoặc nửa đêm ồn ào nh trận ma sa gió táp, vỡ tổ tan đàn, kẻ thức
giả biết đó là triệu bất tờng". Câu văn tuy đẹp, lời văn tởng nh mạnh mẽ nhng lại
nhuốm màu u ám, nh báo trớc những điều chẳng lành.
Vua chúa đã vậy, bọn quan lại cũng tha hồ "đục nớc béo cò". Vừa ăn cắp vừa la
làng, chúng không những lấy đi những thứ quý mà còn lập mu vu vạ nhằm doạ nạt để
lấy tiền. Tác giả gọi chúng là "các cậu" ra vẻ trân trọng nhng những hành vi của chúng
thì thật bỉ ổi, táng tận lơng tâm. Tác giả không nói gì thì bạn đọc cũng biết: một xã hội
mà từ vua chúa đến quan lại đều không chăm lo gì đến việc nớc, chỉ biết tìm cách cớp
đoạt của cải của nhân dân thì xã hội ấy hỗn loạn, bất an đến thế nào.
Trong phần cuối, tác giả đa ra những chi tiết về nỗi khổ của nhân dân cũng nh của
chính gia đình mình: "Các nhà giàu bị họ vu cho là giấu vật cung phụng, thờng phải
bỏ của ra kêu van chí chết, có khi phải đập bỏ núi non bộ, hoặc phá bỏ cây cảnh để
14
tránh khỏi tai vạ,... Đó là cảnh chung, còn trong ngôi nhà của tác giả, những cây cảnh
đẹp cũng đợc sai chặt đi.
Đó là những chi tiết rất đắt giá. Tác giả không tả đám quan quân cớp bóc của cải
mà chỉ nói về cây cảnh. Việc nhân dân tự chặt cây cảnh, đập bỏ hòn non bộ đã cho
thấy một xã hội đầy những bất trắc, ngời dân phải phá bỏ chính tài sản của mình để
khỏi bị liên luỵ, phiền hà với đám quan lại xấu xa, tàn ác. Hệ quả đợc rút ra ở đây là:
đến những thứ phù phiếm nh hòn non bộ hay cây cảnh mà chúng còn ngang nhiên c-
ớp đoạt nh vậy thì những thứ quý, hẳn chúng cũng không bỏ qua một cơ hội nào.
Bài tuỳ bút đợc trích tơng đối ngắn, nhng qua những chi tiết, những sự việc đợc

chọn lọc, đợc sắp xếp hợp lí, qua cách hành văn, sử dụng những câu văn đa nghĩa của
tác giả, bạn đọc hiểu đợc rất nhiều điều về thực trạng xã hội phong kiến lúc bấy giờ.
hoàng lê nhất thống chí
(Trích
Hồi thứ mời bốn
- Ngô gia văn phái)
I- Gợi ý
1. Tác giả:
Tác giả của
Hoàng Lê nhất thống chí
là Ngô gia văn phái, một tập thể tác giả thuộc
dòng họ Ngô Thì, ở làng Tả Thanh Oai, nay thuộc huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây. Hai
tác giả chính là Ngô Thì Chí và Ngô Thì Du.
- Ngô Thì Chí (1753-1788) là em ruột Ngô Thì Nhậm, từng làm quan dới thời Lê
Chiêu Thống. Ông tuyệt đối trung thành với nhà Lê, từng chạy theo Lê Chiêu Thống
khi Nguyễn Huệ sai Vũ Văn Nhậm ra Bắc diệt Nguyễn Hữu Chỉnh, dâng
Trung hng
sách
bàn kế khôi phục nhà Lê. Sau đó ông đợc Lê Chiêu Thống cử đi Lạng Sơn chiêu
tập những kẻ lu vong, lập nghĩa binh chống Tây Sơn, nhng trên đờng đi ông bị bệnh,
mất tại huyện Gia Bình (Bắc Ninh). Nhiều tài liệu nói ông viết bảy hồi đầu của tác
phẩm.
- Ngô Thì Du (1772-1840) là anh em chú bác ruột với Ngô Thì Chí, học giỏi nhng
không đỗ đạt gì. Dới triều Tây Sơn, ông ẩn mình ở vùng Kim Bảng (Hà Nam). Thời nhà
Nguyễn, ông ra làm quan, đợc bổ Đốc học Hải Dơng, đến năm 1827 thì về nghỉ. Ông là
tác giả bảy hồi tiếp theo của Hoàng Lê nhất thống chí.
2. Tác phẩm:
Văn bản bài học đợc trích từ Hồi 14 tiểu thuyết chơng hồi của Ngô gia văn phái
tái hiện lại những diễn biến quan trọng trong cuộc đại phá quân Thanh của vua Quang
Trung Nguyễn Huệ. Mặc dù là một tiểu thuyết lịch sử nhng

Hoàng Lê nhất thống
15
chí
(biểu hiện cụ thể ở đoạn trích này) không chỉ ghi chép lại các sự việc, sự kiện mà đã
tái hiện khá sinh động hình ảnh của vị anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ, sự thảm bại của
quân xâm lợc cùng với số phận bi đát của đám vua tôi nhà Lê phản dân, hại nớc.
3. Thể loại:
- Hoàng Lê nhất thống chí
là cuốn sách viết theo thể chí (một thể văn vừa có tính
chất văn học vừa có tính chất lịch sử), ghi chép về sự thống nhất của vơng triều nhà Lê,
vào thời điểm anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ lãnh đạo nông dân Tây Sơn nổi dậy
khởi nghĩa, tiêu diệt nhà Trịnh, trả lại Bắc Hà cho vua Lê. ý nghĩa tiêu đề của tác phẩm
là nh thế nhng sau khi vua Lê dành lại đợc quyền thế từ tay chúa Trịnh, rất nhiều biến
cố lịch sử đã diễn ra, trong đó có cuộc tấn công thần tốc của nghĩa quân Tây Sơn, dới
sự thống lĩnh của vua Quang Trung (tức Nguyễn Huệ) đánh tan hai mơi vạn quân
Thanh xâm lợc. Tất cả đã đợc ghi chép lại một cách khá đầy đủ và khách quan trong
tác phẩm.
4. Tóm tắt:
Đợc tin báo quân Thanh vào Thăng Long, Bắc Bình Vơng rất giận, liền họp các tớng
sĩ rồi tế cáo trời đất, lên ngôi hoàng đế, hạ lệnh xuất quân ra Bắc, thân hành cầm quân,
vừa đi vừa tuyển quân lính. Ngày ba mơi tháng chạp, đến núi Tam Điệp, vua mở tiệc
khao quân, hẹn mùng bảy năm mới vào thành Thăng Long mở tiệc ăn mừng. Bằng tài
chỉ huy thao lợc của Quang Trung, đạo quân của Tây Sơn tiến lên nh vũ bão, quân giặc
thua chạy tán loạn. Tôn Sĩ Nghị sợ mất mật, ngựa không kịp đóng yên, ngời không kịp
mặc áo giáp, chuồn thẳng về biên giới phía Bắc, khiến tên vua bù nhìn Lê Chiêu Thống
cũng phải chạy tháo thân.
II - Giá trị tác phẩm
Một nhân tố quan trọng cần phải xem xét trớc hết trong văn bản này là tác giả. Khi
sáng tạo tác phẩm, tác giả không chỉ tái hiện hiện thực khách quan mà còn thể hiện
những t tởng, tình cảm, quan điểm chính trị, xã hội... của mình. Tác giả của

Hoàng Lê
nhất thống chí
là Ngô gia văn phái một nhóm tác giả rất trung thành với nhà Lê. Nếu
xét theo quan điểm phong kiến thì trong con mắt của Ngô gia, vua Quang Trung là kẻ
nghịch tặc. Thế nhng trong tác phẩm, hình ảnh Quang Trung Nguyễn Huệ lại đợc
miêu tả khá sắc nét với tài cầm quân "bách chiến bách thắng", tính quyết đoán cùng
nhiều phẩm chất tốt đẹp khác. Điều đó một phần bởi triều đại nhà Lê khi đó đã quá
suy yếu, mục nát, dù có là bề tôi trung thành đến mấy thì các tác giả trong Ngô gia văn
phái cũng khó có thể phủ nhận. Mặt khác, có thể chính tài năng và đức độ của vua
Quang Trung đã khiến cho các tác giả này thay đổi quan điểm của mình, từ đó đã tái
hiện lại các sự kiện, nhân vật,... một cách chân thực.
Các chi tiết, sự kiện trong phần đầu đoạn trích này cho thấy vua Quang Trung là
16
ngời rất mạnh mẽ, quyết đoán nhng không hề độc đoán, chuyên quyền. Ông sẵn sàng
lắng nghe và làm theo ý kiến của thuộc hạ, lên ngôi vua để giữ lòng ngời rồi mới xuất
quân ra Bắc. Ngay khi đến Nghệ An, ông lại cho vời một ngời Cống sĩ đến để hỏi về
việc đánh quân Thanh nh thế nào. Chi tiết này cho thấy Quang Trung luôn quan tâm
đến ý dân, lòng dân. Khi vị Cống sĩ nói: "Chúa công đi ra chuyến này, không quá mời
ngày, quân Thanh sẽ bị dẹp tan", ông "mừng lắm", không chỉ vì ngời Cống sĩ nói đúng
ý mình mà chủ yếu là vì chủ trơng của ông, quyết tâm của ông đã đợc nhân dân đồng
tình ủng hộ. Bằng chứng là ngay sau đó ông cho tuyển quân, "cha mấy lúc, đã đợc hơn
một vạn quân tinh nhuệ".
Cách ăn nói của vua Quang Trung cũng rất có sức thuyết phục, vừa khéo léo, mềm
mỏng vừa rất kiên quyết, hợp tình hợp lí. Khi nói với binh sĩ, ông đã cho họ ngồi (một
cử chỉ biểu lộ sự gần gũi mặc dù ông đã xng vơng), từng lời nói đều giản dị, dễ hiểu.
Sau khi lấy lịch sử từ các triều đại trớc ra để cho binh sĩ thấy nỗi khổ của nhân dân dới
ách thống trị ngoại bang, ông không quên tuyên bố sẽ trừng phạt những kẻ phản bội,
ăn ở hai lòng. Điều đó khiến cho binh sĩ thêm đồng lòng, quyết tâm chống giặc.
Đó cũng là cách ứng xử của ông đối với các tớng lĩnh. Khi quân đến Tam Điệp, hai
tớng Sở và Lân mang gơm trên lng đến xin chịu tội, ông thẳng thắn chỉ ra tội của họ

nhng lại cho mọi ngời hiểu họ cũng là ngời đã có công lớn trong việc bảo toàn đợc lực
lợng, chờ đợi thời cơ điều đó không những khiến cho quân ta tránh đợc những th-
ơng vong vô ích mà còn làm cho giặc trở nên kiêu ngạo, chủ quan, tạo điều kiện thuận
lợi để ta đánh chúng sau này.
Những lời nói, việc làm của vua Quang Trung thật hợp tình, hợp lí và trên hết là
hợp với lòng ngời. Vừa mềm dẻo vừa kiên quyết, xét đúng công, đúng tội, đặt lợi ích
của quốc gia và của dân chúng lên trên hết, ông đã khiến cho binh sĩ thêm cảm phục,
càng quyết tâm chống giặc. Đó là một yếu tố rất quan trọng tạo nên những chiến thắng
liên tiếp của quân Tây Sơn dới sự thống lĩnh của vua Quang Trung.
Cuộc tiến quân ra Bắc đại phá quân Thanh của vua Quang Trung thực sự chỉ có
thể diễn tả bằng từ "thần tốc". ở phần tiếp theo của đoạn trích, để diễn tả không khí
chiến trận rất khẩn trơng, quyết liệt, các tác giả đã chú trọng nhiều hơn đến các sự kiện
nhng không vì thế mà làm mờ nhạt hình ảnh tài năng của vị thống lĩnh. Lời hứa chắc
chắn trớc lúc xuất quân của ông đã đợc đảm bảo bằng tài thao lợc, xử trí hết sức nhạy
bén, mu trí trong những tình huống cụ thể: đảm bảo bí mật hành quân, nghi binh tấn
công làng Hà Hồi, dùng ván phủ rơm ớt để tấn công đồn Ngọc Hồi,... Tài dùng binh
khôn khéo đó khiến cho quân Thanh hoàn toàn bị bất ngờ, khi chúng biết đợc tin tức
thì đã không thể chống cự lại đợc nữa, chỉ còn cách dẫm đạp lên nhau mà chạy.
Phần cuối của đoạn trích chủ yếu diễn tả cuộc tháo chạy hỗn loạn, nhục nhã của
đám quan quân nhà Thanh. Ra đi "binh hùng tớng mạnh", vậy mà cha đánh đợc trận
17
nào đã phải tan tác về nớc. Rất có thể sau khi bại trận, quân số của Tôn Sĩ Nghị (trớc
đó là hai mơi vạn) vẫn còn đông hơn quân của vua Quang Trung nhng trớc sức tấn
công nh vũ bão của quân Tây Sơn, dới sự chỉ huy của một vị tớng tài ba và quyết đoán,
chúng đã không còn hồn vía nào để nghĩ đến chuyện chống trả.
Trong đoạn này, giọng điệu của các tác giả tỏ ra vô cùng hả hê, vui sớng. Khi miêu
tả tài "xuất quỷ nhập thần" của quân Tây Sơn, các tác giả viết: "Thật là: "Tớng ở trên
trời xuống, quân chui dới đất lên"... Ngợc lại, khi viết về Tôn Sĩ Nghị thì: "Tôn Sĩ Nghị
sợ mất mật, ngựa không kịp đóng yên, ngời không kịp mặc áo giáp...". Đó không còn
là giọng của một ngời ghi chép lại các sự kiện một cách khách quan mà là giọng điệu

sảng khoái của nhân dân, của dân tộc sau khi đã khiến cho bọn xâm lợc ngoại bang,
vốn trớc ngạo nghễ là thế, giờ đây phải rút chạy nhục nhã.
Đoạn nói về vua tôi nhà Lê càng khẳng định thái độ của các tác giả khi viết tác
phẩm này. Mặc dù luôn đề cao t tởng trung nghĩa nhng trớc sự nhu nhợc, hèn hạ của
đám vua tôi nhà Lê, các tác giả vẫn thể hiện ít nhiều thái độ mỉa mai, châm biếm. Số
phận những kẻ phản dân, hại nớc cũng thảm hại chẳng kém gì những kẻ cậy đông,
đem quân đi xâm lợc nớc khác. Đó là số phận chung mà lịch sử giành cho lũ bán nớc
và lúc cớp nớc.
Cuộc đại phá quân Thanh xâm lợc là một mốc son chói lọi trong lịch sử đấu tranh
bảo vệ Tổ quốc của dân tộc ta. Ngời làm nên kì tích ấy là Quang Trung Nguyễn Huệ,
vị "anh hùng áo vải" vừa có tài thao lợc vừa luôn hết lòng vì dân, vì nớc.
Trang sử hào hùng ấy đã đợc ghi lại bởi Ngô gia văn phái nhóm tác giả đã vợt
qua những t tởng phong kiến cố hữu để tái hiện lại lịch sử một cách chân thực.
chị em thuý kiều
(Trích
Truyện Kiều
- Nguyễn Du)
I - Gợi ý
1. Tác giả:
- Nguyễn Du (1765-1820) tên chữ là Tố Nh, hiệu là Thanh Hiên; quê làng Tiên Điền,
huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh; sinh trởng trong một gia đình đại quí tộc, nhiều đời
làm quan và có truyền thống về văn học. Cha là Nguyễn Nghiễm, đỗ tiến sĩ, từng giữ
chức Tể tớng, anh cùng cha khác mẹ là Nguyễn Khản cũng từng làm quan to dới triều
Lê - Trịnh.
Nguyễn Du sống trong một thời đại có nhiều biến động: cuối thế kỉ XVIII - nửa đầu
thế kỉ XIX, chế độ phong kiến Việt Nam khủng hoảng trầm trọng, bão táp phong trào
nông dân khởi nghĩa nổi lên khắp nơi, đỉnh cao là khởi nghĩa Tây Sơn đánh đổ các tập
18
đoàn phong kiến Lê, Trịnh, Nguyễn, quét sạch hai mơi vạn quân Thanh, rồi phong trào
Tây Sơn thất bại, nhà Nguyễn đợc thiết lập. Những biến cố đó đã in dấu ấn trong sáng

tác của Nguyễn Du, nh chính trong
Truyện Kiều
ông viết:
Trải qua một cuộc bể dâu -
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.
Nguyễn Du từng trải một cuộc đời phiêu bạt: sống nhiều nơi trên đất Bắc, ở ẩn ở
Hà Tĩnh, làm quan dới triều Nguyễn, đi sứ Trung Quốc. Vốn hiểu biết sâu rộng,
phong phú về cuộc sống của Nguyễn Du có phần do chính cuộc đời phiêu bạt, trải
nghiệm nhiều tạo thành.
2. Tác phẩm:
- Sự nghiệp văn học của Nguyễn Du gồm những tác phẩm có giá trị lớn, cả bằng
chữ Hán và chữ Nôm. Thơ chữ Hán có ba tập, gồm 243 bài. Thơ chữ Nôm, xuất sắc
nhất là cuốn truyện
Đoạn trờng tân thanh
, còn gọi là
Truyện Kiều.
- "Có thể tìm thấy một sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ tác phẩm của Nguyễn Du từ
thơ chữ Hán đến
Truyện Kiều, Văn chiêu hồn
. Nguyễn Du vĩ đại chính vì Nguyễn Du
là một nhà thơ nhân đạo chủ nghĩa. Mặc dù xuất thân từ giai tầng quý tộc, nhng
Nguyễn Du lăn lộn nhiều trong cuộc sống của quần chúng, đã lắng nghe đợc tâm hồn
và nguyện vọng của quần chúng, nhà thơ đã ý thức đợc những vấn đề trọng đại của
cuộc đời và, với một nghệ thuật tuyệt vời, ông đã làm cho những vấn đề trọng đại ấy
trở thành bức thiết hơn, da diết hơn, ám ảnh hơn trong tác phẩm của mình. Thơ
Nguyễn Du dù viết bằng chữ Nôm hay chữ Hán đều đạt đến trình độ điêu luyện.
Riêng những tác phẩm viết bằng chữ Nôm của ông, đặc biệt là
Truyện Kiều
là một
cống hiến to lớn của nhà thơ đối với sự phát triển của ngôn ngữ văn học dân tộc. Về

phơng pháp sáng tác, qua
Truyện Kiều,
chúng ta thấy Nguyễn Du đã phá vỡ rất nhiều
nguyên tắc của mĩ học truyền thống, những yếu tố ớc lệ tởng tợng của nghệ thuật
phong kiến phơng Đông để đi đến chủ nghĩa hiện thực. Nhng do những giới hạn về
mặt lịch sử, cho nên mặc dù Nguyễn Du là một thiên tài vẫn không thể phá vỡ đợc
triệt để, vẫn cha thể thực sự đến đợc với chủ nghĩa hiện thực. Cuối cùng, Nguyễn Du
vẫn là một nhà thơ dừng lại trớc ngỡng cửa của chủ nghĩa hiện thực. (Nguyễn Lộc -
Từ
điển văn học
, NXB Thế giới, 2005).
- Khi viết
Truyện Kiều
, Nguyễn Du đã mợn cốt truyện từ một cuốn tiểu thuyết
(
Kim Vân Kiều truyện
) của Thanh Tâm Tài Nhân, một nhà văn Trung Quốc. Khi sáng
tác, Nguyễn Du đã thay đổi, bổ sung nhiều yếu tố trong cốt truyện cho phù hợp với
hoàn cảnh xã hội Việt Nam lúc bấy giờ.
Tác phẩm đợc viết lại bằng chữ Nôm, gồm 3524 câu, theo thể thơ lục bát truyền
thống. Ngoài các yếu tố nh ngôn ngữ, thể loại (vốn đã là những sáng tạo đặc sắc, đóng
góp lớn của Nguyễn Du vào quá trình phát triển ngôn ngữ dân tộc), tác phẩm còn thể
hiện rất rõ hiện thực cuộc sống đơng thời, đằng sau đó là "con mắt trông thấu sáu cõi,
19
tấm lòng nghĩ tới muôn đời" của nhà văn.
Có thể tóm tắt
Truyện Kiều
theo bố cục ba phần:
- Gặp gỡ và đính ớc
: Kiều xuất thân nh thế nào? Có đặc điểm gì về tài sắc? Kiều

gặp Kim Trọng trong hoàn cảnh nào? Mối tình giữa Kiều và Kim Trọng đã nảy nở ra
sao? Họ kiếm lí do gì để gần đợc nhau? Kiều và Kim Trọng đính ớc.
- Gia biến và lu lạc:
Gia đình Kiều bị mắc oan ra sao? Kiều phải làm gì để cứu cha?
Làm gì để không phụ tình Kim Trọng? Kiều bị bọn Mã Giám Sinh, Tú Bà, Sở Khanh
lừa gạt, đẩy vào cuộc sống lầu xanh; Kiều đợc Thúc Sinh cứu ra khỏi lầu xanh; Kiều
trở thành nạn nhân của sự ghen tuông, bị Hoạn Th đày đoạ; Kiều trốn đến nơng nhờ
cửa Phật, Giác Duyên vô tình gửi nàng cho Bạc Bà - Kiều rơi vào lầu xanh lần thứ ha i;
Thuý Kiều đã gặp Từ Hải nh thế nào? Tại sao Từ Hải bị giết? Kiều bị Hồ Tôn Hiến làm
nhục ra sao? Kiều trẫm mình xuống sông Tiền Đờng, đợc s Giác Duyên cứu.
-
Đoàn tụ:
Kim Trọng trở lại tìm Kiều nh thế nào? Tuy kết duyên cùng Thuý Vân
nhng Kim Trọng chẳng thể nguôi đợc mối tình với Kiều; Kim Trọng lặn lội đi tìm
Kiều, gặp Giác Duyên, gặp lại Kiều, gia đình đoàn tụ; Chiều ý mọi ngời, Thuý Kiều
nối lại duyên với Kim Trọng nhng cả hai cùng nguyện ớc điều gì?
Đoạn trích
Chị em Thuý Kiều
nằm ở phần mở đầu tác phẩm.
Đoạn thơ này miêu tả vẻ đẹp của hai chị em Thuý Kiều và Thuý Vân. Với ngòi bút
tài hoa, khả năng vận dụng khéo léo ngôn ngữ dân tộc kết hợp với các điển tích, điển
cố, có thể nói Nguyễn Du đã giúp bạn đọc hình dung đợc những chuẩn mực về vẻ đẹp
của ngời phụ nữ trong xã hội xa, đó cũng có thể coi là chuẩn mực của cái đẹp trong
của văn học trung đại.
Không chỉ miêu tả những hình mẫu, chân dung Thuý Kiều và Thuý Vân trong tác
phẩm còn thể hiện những dụng ý nghệ thuật sâu xa của tác giả. Mặc dù "Mỗi ngời một
vẻ, mời phân vẹn mời" nhng với mỗi nhân vật, sự miêu tả của Nguyễn Du dờng nh đã
dự báo những số phận khác nhau của hai chị em. Điều đó vừa thể hiện bút pháp miêu
tả nhân vật khá sắc sảo của Nguyễn Du nhng đồng thời cũng cho thấy quan niệm "tài
mệnh tơng đố" của ông.

II- Giá trị tác phẩm
Khi nói đến tác giả của
Truyện Kiều
, không chỉ nhân dân lao động mà tất cả các nhà
văn, nhà nghiên cứu đều thống nhất tên gọi: "Đại thi hào dân tộc". Với "con mắt trông
thấu sáu cõi và tấm lòng nghĩ tới muôn đời" (Mộng Liên Đờng), Nguyễn Du nổi tiếng
trớc hết bởi cái tâm của một ngời luôn nghĩ đến nhân dân, luôn bênh vực cho những
cuộc đời, những số phận éo le, oan trái, đặc biệt là thân phận ngời phụ nữ trong xã hội
cũ. Mặt khác, những câu thơ của Nguyễn Du sở dĩ có thể khắc sâu trong lòng nhân dân
20
nh vậy còn bởi trong
Truyện Kiều,
ông đã bộc lộ sự tài hoa, sắc sảo trong việc miêu tả
nhân vật, trong việc khắc hoạ những nét tâm lí nhất quán đến từng chi tiết... Trong phần
mở đầu tác phẩm, đoạn miêu tả hai chị em Thuý Kiều, Thuý Vân có thể coi là một ví dụ
tiêu biểu.
Trong những câu miêu tả khái quát, vẻ đẹp của chị em Thuý Kiều đã có thể xếp
vào hàng "tuyệt thế giai nhân":
Mai cốt cách, tuyết tinh thần
Mỗi ngời một vẻ, mời phân vẹn mời.
Chỉ trong một câu thơ sáu chữ, tác giả đã khẳng định đợc một vẻ đẹp toàn bích, từ
nhan sắc cho đến tính tình của cả hai chị em. Điều kì diệu là cả hai vẻ đẹp đều hoàn
thiện ("mời phân vẹn mời") nhng "Mỗi ngời một vẻ", không ai giống ai.
Đọc những câu thơ tiếp theo, ta càng có thể khẳng định tài năng của Nguyễn Du
trong việc miêu tả nhân vật. Không chỉ phân biệt đợc "Mỗi ngời mỗi vẻ", tác giả còn
chỉ ra sự khác nhau đó đợc biểu hiện cụ thể nh thế nào. Mặt khác, Nguyễn Du tả nhan
sắc nhng dờng nh mục đích của tác giả không dừng lại ở đó. Càng tả càng gợi. Qua
những câu thơ của Nguyễn Du, ngời đọc luôn cảm nhận đợc những suy nghĩ trăn trở
của nhà thơ về cuộc đời, về thân phận ngời phụ nữ trong xã hội phong kiến đầy dẫy
những cạm bẫy:

Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang
Hoa cời, ngọc thốt, đoan trang
Mây thua nớc tóc, tuyết nhờng màu da.
Trong phần tả khái quát, vẻ đẹp của chị em Thuý Kiều đã đợc miêu tả rất toàn vẹn,
tởng khó có thể ca ngợi hơn nữa. Trong bốn câu này, ba câu trên là lời khẳng định vẻ
đẹp "mời phận vẹn mời" kia. Thế nhng câu thơ thứ t thật sự khiến bạn đọc bất ngờ bởi
khả năng sử dụng ngôn ngữ của nhà thơ. Tả một ngời con gái đẹp mà "Khuôn trăng
đầy đặn, nét ngài nở nang" là đã đạt đến chuẩn mực, thêm "Hoa cời, ngọc thốt, đoan
trang" thì nghe chẳng khác gì những tiếng trầm trồ của một ngời đang đợc chiêm ng-
ỡng một vẻ đẹp cha từng có. Thế mà vẫn cha hết, ngời con gái ấy còn đẹp đến mức
"Mây thua nớc tóc, tuyết nhờng màu da" thì vẻ đẹp ấy còn vợt lên trên cả vẻ đẹp của
thiên nhiên. Đó là một sự khác thờng bởi nếu chúng ta đọc lại thơ ca trung đại, thậm
chí đọc cả ca dao dân ca, vẻ đẹp của con ngời cùng lắm cũng chỉ sánh ngàng với vẻ
đẹp của thiên nhiên mà thôi:
Cổ tay em trắng nh ngà
Đôi mắt em sắc nh là dao cau
21
Miệng cời nh thể hoa ngâu
Cái khăn đội đầu nh thể hoa sen...
Rõ ràng là Thuý Vân rất đẹp, một vẻ đẹp khá sắc nét nhng vẫn hồn hậu, thuỳ mị.
Giả sử đợc ngắm một ngời con gái nh vậy, ngời ta thờng nghĩ đến hạnh phúc, đến một
cuộc sống ấm áp, êm đềm.
Đọc đoạn miêu tả Thuý Vân, ta đã có thể thấy đợc cái tài, cái khéo của Nguyễn Du
trong việc sử dụng từ ngữ. Thế nhng việc miêu tả Thuý Vân mới chỉ là bớc đệm để tác
giả miêu tả Thuý Kiều. Một lần nữa, tác giả lại khiến bạn đọc phải sửng sốt vì năng lực
miêu tả của mình:
Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn
Các giá trị thẩm mĩ tởng nh đã đợc đẩy lên đến tận cùng của các giới hạn nhng rồi

lại còn đợc đẩy lên cao thêm nữa:
Làn thu thuỷ, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
Hội hoạ cổ điển phơng Đông có những bút pháp khá độc đáo: "lấy điểm để tả
diện", "vẽ mây nẩy trăng", ý là khi muốn tả một ngời con gái đẹp, không cần tả mọi
đờng nét, chỉ chọn những nét tiêu biểu nhất, hay nh khi muốn tả một vầng trăng
sáng có thể không cần tả vầng trăng, chỉ cần tả đám mây xung quanh mà ngời xem
biết ngay đó là trăng rất sáng. Nguyễn Du đã tả Thuý Kiều qua "Làn thu thuỷ, nét
xuân sơn" những yếu tố nghệ thuật đầy tính ớc lệ, thật khó hình dung nàng Kiều
đẹp nh thế nào nhng ai cũng phải thừa nhận, tả nh thế là tuyệt khéo. Lại thêm "Hoa
ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh" không cần nói nhan sắc của Kiều ra sao, chỉ
cần nói hoa còn phải ghen, liễu còn phải hờn với nhan sắc của Kiều thì tởng nh với
nhan sắc ấy, không lời nào có thể diễn tả nổi nữa.
Tuy nhiên, nếu đọc kĩ lại từng câu, từng lời, ta sẽ thấy dờng nh trong vẻ đẹp của
Kiều đã ẩn chứa những mầm tai hoạ. Nếu nh với vẻ đẹp của Thuý Vân, "Mây thua nớc
tóc, tuyết nhờng màu da", sự "thua" và "nhờng" còn rất hiền hoà thì với vẻ đẹp của
Thuý Kiều, hoa đã phải "ghen" (tức), liễu đã phải "hờn" (giận). Có thể nói, vẻ đẹp của
Thuý Vân tuy có phần trội hơn nhng cha tạo ra sự đố kị, trong khi đó vẻ đẹp của Thuý
Kiều đã vợt hẳn lên, ngạo nghễ thách thức với thiên nhiên, vợt ra khỏi vòng kiềm toả
của tạo hoá.
Không chỉ nhan sắc, tài năng của Kiều cũng hàm chứa một sự thách thức:
Một hai nghiêng nớc nghiêng thành
Sắc đành đòi một, tài đành hoạ hai.
22
Những từ ngữ đầy tính ớc lệ (
làn thu thuỷ, nét xuân sơn, nghiêng nớc nghiêng
thành
) xuất hiện với mật độ cao càng chứng tỏ tài năng của Nguyễn Du trong việc sử
dụng từ ngữ. Một lần nữa, vẻ đẹp của nàng Kiều lại đợc khẳng định dù sự khẳng định
ấy càng tô đậm thêm sự "bất an" của nhan sắc. Vậy mà sự thách thức của nhan sắc vẫn

cha phải là yếu tố duy nhất, tài năng của Kiều còn là một sự thách thức khác nữa:
Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi hoạ đủ mùi ca ngâm
Cung thơng, lầu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trơng.
Trong
Truyện Kiều
, Nguyễn Du không chỉ cho rằng nhan sắc là một cái hoạ tiềm
ẩn đối với ngời phụ nữ ("hồng nhan bạc mệnh") mà còn nhiều lần nhấn mạnh: tài năng
cũng là một cái hoạ khác:
- Trăm năm trong cõi ngời ta
Chữ tài, chữ mệnh khéo là ghét nhau.
- Chữ tài liền với chữ tai một vần.
Tài tình chi lắm cho trời đất ghen...
Thuý Kiều vừa có tài lại vừa có sắc, hơn nữa, cả hai yếu tố đều nổi bật đến mức cây
cỏ còn phải ghen tức, oán giận... Xét trên nhiều yếu tố, có thể nói qua cách miêu tả,
Nguyễn Du đã ngầm báo trớc những điều không may sẽ xảy đến với ngời con gái này.
Hãy nghe tiếng đàn của Kiều, đó không phải là những âm thanh nhàn tản, thảnh thơi:
Khúc nhà tay lựa nên chơng
Một thiên "bạc mệnh" lại càng não nhân.
Có thể cho là Kiều chỉ vô tình, nhng bài nhạc mà nàng đã lựa chọn, đã thể hiện nó
trong tiếng đàn sầu não kia cho thấy rằng, đó là một ngời con gái rất đa sầu đa cảm.
Theo quan niệm từ xa xa, đây cũng là một yếu tố tạo nên số phận đau khổ của con ng-
ời. Những sự biến sau này của cuộc đời Kiều (gặp Đạm Tiên, phải bán mình chuộc
cha, gặp Thúc Sinh, gặp Từ Hải,...) đều chứng tỏ sự miêu tả của Nguyễn Du về Thuý
Kiều là hoàn toàn có ngụ ý.
Đoạn cuối nh lời vĩ thanh, Nguyễn Du để cho lời thơ buông trôi, nhấn mạnh phẩm
chất gia giáo của Thuý Kiều.
Đoạn miêu tả vẻ đẹp của chị em Thuý Kiều, Nguyễn Du dành đến 24 câu thơ,
trong đó có bốn câu tả khái quát, bốn câu tả Thuý Vân, còn đến 16 câu chỉ để nói về

Thuý Kiều. Có thể chúng ta cha hiểu hết quan niệm về nhân sinh, nhất là về ngời phụ
nữ của ông, có thể còn nhiều vấn đề xung quanh t tởng "tài mệnh tơng đố" cần tiếp tục
23
xem xét nhng qua 24 câu thơ, Nguyễn Du không chỉ chứng tỏ một tài năng bậc thầy về
sử dụng ngôn ngữ mà còn cho thấy những nét rất đặc sắc trong nghệ thuật miêu tả con
ngời.
cảnh ngày xuân
(Trích
Truyện Kiều
- Nguyễn Du)
I - Gợi ý
1. Tác giả:
(Xem bài
Chị em Thuý Kiều
).
2. Đoạn trích:
Đây là đoạn trích ở phần đầu tác phẩm (sau đoạn tả tài sắc của chị em Thuý Kiều).
Cơn tai biến đối với gia đình Thuý Kiều cha xảy ra. Hai chị em đang sống những ngày
tháng êm đềm. Nhân tiết Thanh minh, hai chị em đi trảy hội.
Đoạn trích gồm mời tám câu, bốn câu thơ đầu miêu tả cảnh đẹp ngày xuân, tám
câu tiếp theo tả khung cảnh lễ hội trong tiết Thanh minh, sáu câu cuối tả cảnh chị em
Thuý Kiều du xuân trở về.
II - Giá trị tác phẩm
1. Trong bốn câu thơ đầu, Nguyễn Du đã sử dụng rất ít từ ngữ mà vẫn thể hiện đợc
rất nhiều điều, từ phong cảnh (đờng nét, màu sắc, khí trời, cảnh vật) cho đến tâm
trạng của con ngời trớc cảnh vật. Điều đó chỉ có đợc nhờ khả năng sử dụng, phối hợp
từ ngữ đến mức điêu luyện. Những màu sắc tơng phản đợc đặt cạnh nhau, việc đa các
yếu tố ngôn ngữ dân gian vào tác phẩm khiến cho ngôn ngữ thơ thêm hàm súc, giàu
sức diễn tả.
2. Tám câu thơ tiếp theo, tác giả sử dụng rất nhiều từ ghép đôi, từ láy đôi đã đợc tác

giả sử dụng trong các cấu trúc danh từ, động từ, tính từ,... góp phần đắc lực trong việc
thể hiện một khung cảnh lễ hội rộn ràng màu sắc, âm thanh, hình ảnh. Hầu hết các câu
thơ đều đợc ngắt theo nhịp đôi (2/2) cũng là một yếu tố gợi tả khung cảnh nhộn nhịp,
đông vui của lễ hội.
Đó là một lễ hội đã có từ xa xa. Mặc dù ngày nay đã không còn phổ biến nhng qua
những câu thơ tả cảnh của Nguyễn Du, ngời đọc có thể hình dung rất rõ khung cảnh
náo nức, nhộn nhịp của lễ hội ấy.
3. Sáu câu thơ cuối diễn tả cảnh chị em Thuý Kiều trên đờng trở về. Một khung
cảnh yên tĩnh, êm ả, dờng nh đối lập với cảnh lễ hội lúc trớc. Vẫn có những từ láy đôi
24
nhng hầu nh chỉ còn là những tính từ:
tà tà, thanh thanh, nao nao, nho nhỏ,...
Không
gian vì thế trở nên yên tĩnh lạ thờng, không còn cảnh ngời đi kẻ lại tấp nập (đợc thể
hiện chủ yếu qua những danh từ, động từ ở đoạn trớc), không còn ríu rít tiếng nói cời.
Thủ pháp
tả
đã đợc thay bằng thủ pháp
gợi.
Những tính từ
tà tà, thanh thanh, nao
nao, nho nhỏ
không chỉ gợi lên một không gian êm đềm mà còn thể hiện khá rõ tâm
trạng của chị em Thuý Kiều. Có cái gì mơ hồ nh là sự bâng khuâng, nuối tiếc. Lòng ngời
hoà trong cảnh vật, nh đang lắng lại cùng cảnh vật.
4. Qua đoạn thơ tả cảnh chị em Thuý Kiều đi du xuân trong tiết Thanh minh, ta có
thể thấy rất rõ nghệ thuật miêu tả thiên nhiên của Nguyễn Du. Yếu tố quan trọng
trong nghệ thuật miêu tả thiên nhiên ấy là nghệ thuật sử dụng từ ngữ. Bằng cách sử
dụng hệ thống từ ghép, từ láy giàu chất tạo hình, giàu sức gợi tả theo những mật độ
khác nhau và phơng thức khác nhau, Nguyễn Du đã phác hoạ những bức tranh phong

cảnh vô cùng đặc sắc.
kiều ở lầu ngng bích
(Trích
Truyện Kiều
- Nguyễn Du)
I - Gợi ý
1. Tác giả:
(Xem bài
Chị em Thuý Kiều
).
2. Đoạn trích:
Đoạn trích nằm ở phần thứ hai trong
Truyện Kiều
(Gia biến và lu lạc). Gia đình
Kiều gặp cơn nguy biến. Do thằng bán tơ vu oan, cha và em Kiều bị bắt giam. Để
chuộc cha, Kiều quyết định bán mình. Tởng gặp đợc nhà tử tế, ai dè bị bắt vào chốn
lầu xanh, Kiều uất ức định tự tử. Tú Bà (chủ quán lầu xanh) vờ hứa hẹn gả chồng cho
nàng, đem nàng ra giam lỏng ở lầu Ngng Bích, sau đó mụ sẽ nghĩ cách để bắt nàng
phải tiếp khách làng chơi.
Đoạn trích gồm hai mơi hai câu. Sáu câu thơ đầu thể hiện hoàn cảnh cô đơn, tội
nghiệp của Thuý Kiều; tám câu thơ tiếp thể hiện nỗi thơng nhớ của nàng về Kim
Trọng và về cha mẹ; tám câu còn lại thể hiện tâm trạng đau buồn, âu lo của Thuý Kiều.
II - Giá trị tác phẩm
Nguyễn Du là một bậc thầy về tả cảnh. Nhiều câu thơ tả cảnh của ông có thể coi
nh là chuẩn mực cho vẻ đẹp của thơ ca cổ điển:
25

×