Tải bản đầy đủ (.docx) (42 trang)

Chi phí ẩn của cháy rừng : Giá trị kinh tế ảnh hưởng đến sức khoẻ con người khi tiếp xúc khói bụi cháy rừng ở miền Nam California

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (389.99 KB, 42 trang )

Liệt kê nội dung có tại Science Direct
Tập chí kinh tế Lâm Nghiệp
Trang chủ tập chí: www.elsevier.de/jfe

Chi phí ẩn của cháy rừng : Giá trị kinh tế ảnh hưởng đến sức khoẻ con người khi
tiếp xúc khói bụi cháy rừng ở miền Nam California
Leslie A. Richardson a,∗, Patricia A. Champ b, John B. Loomis c
a. Khảo sát địa chất Mỹ, Pháo đài Collins Khoa học Center, 2150 Trung tâm Ave., Fort Collins,CO 80526, Hoa Kỳ
b. Hoa Kỳ Rừng Dịch vụ, núi đá trạm nghiên cứu, 2150 Trung tâm Ave., Fort Collins, CO 80526, Đại học Colorado
Nhà nước
c. Hoa Kỳ, Ban của Nông nghiệp và Tài nguyên Kinh tế học, Clark B - 320, Fort Collins, CO 80523, Hoa Kỳ
Thông tin bài báo
Lịch sử bài báo :
Nhận ngày 23 tháng mười hai năm 2010
Bài báo được công nhận ngày 6 tháng năm năm 2011
Từ khoá :
C31 C36 I12 Q51 Q53

Từ khoá : Ảnh hưởng sức khỏe
Giá sẵn lòng trả
Phương pháp hành vi phòng hộ để trả


Chi phí bệnh tật
Trạm chửa cháy
Tóm tắt

Con người ngày càng quan tâm đến các vấn đề về ảnh hưởng sức khỏe con người do tiếp xúc với khói cháy rừng đã bị bỏ
qua trong các ước tính về thiệt hại được quy ra thành tiền từ cháy rừng. Nghiên cứu hiện nay nhấn mạnh nhu cầu cần thu
thập dữ liệu tốt hơn và phân tích ảnh hưởng của các tác động này. Sử dụng dữ liệu chính duy nhất, bài báo này định lượng
chi phí kinh tế của ảnh hưởng sức khoẻ con người từ đám cháy rừng lớn nhất trong lịch sử tính đến thời điểm hiện nay tại


quận Los Angeles. Chi phí bệnh tật ước tính là $9.50 mỗi người bị phơi nhiễm mỗi ngày. Tuy nhiên, lý thuyết và thực
nghiệm của nghiên cứu đã chỉ ra rằng biện pháp này phần lớn đánh giá thấp chi phí kinh tế thực sự của sự ảnh hưởng sức
khỏe do tiếp xúc với các tác nhân gây ô nhiễm trong khi đó phương pháp này lại đã bỏ qua các chi phí của những hành động
phòng hộ được thực hiện cũng như sự không hài lòng của các chi phí bỏ ra. Lần đầu tiên, phương pháp hành vi phòng hộ
được đưa vào để tính giá sẵn lòng trả để làm suy giảm những nguyên nhân gây ra các vụ cháy rừng hằng ngày, và phương
pháp này được ước tính khoảng $84.42 cho mỗi người tiếp xúc với các tác nhân mỗi ngày.
Xuất bản bởi Elsevier GmbH thay mặt cho phân ban khoa Kinh tế học về rừng SLU Umeå, Thụy Điển.
Giới thiệu
Khi các đám cháy rừng ngày càng gia tăng cả cường độ và chiều dài ở nhiều nơi trên thế giới, nó là đang ngày càng trở nên
quan trọng để bao gồm toàn bộ tổng chi phí thiệt hại từ các vụ cháy rừng trong bất kì đánh giá về các chính sách quản lý
cháy rừng tự nhiên trong tương lai. Không một nơi nào gặp phải vấn đề này hơn tại California, tiểu bang này đã có hơn ba
triệu mẫu đất của nó bị ảnh hưởng bởi cháy rừng từ năm 2007 (Cal Fire, 2011).
Gia tăng mức độ quản lý và ngăn ngừa phòng chống cháy, cách thực hiện thường được đề nghị trong bang California như là
một cách để giảm thiểu thiệt hại trong tương lai do cháy rừng trong tự nhiên. Những hoạt động bao gồm các hoạt động quản
lý thực vật như quy định về phòng cháy là tỉa thưa rừng, nâng cao nhận thức cộng đồng và giáo dục, sự sáng tạo của Hội
đồng An toàn cháy địa phương và cộng đồng cùng với sự tham gia chương trình Firewise của Mỹ. Mặc dù cách thực hiện


này có thể giúp ngăn ngừa những thiệt hại từ các vụ cháy rừng trong tương lai mang lại, việc thi hành những việc trên
thường bị hạn chế bởi nguồn kinh phí tài trợ.
Để xác định liệu gia tăng kinh phí cho các hoạt động này hợp lý, các nhà hoạch định chính sách cần có khả năng đánh giá
chính xác sự đánh đổi có liên quan bằng việc sử dụng phân tích các chính sách về kinh tế. Ở cấp liên bang, Chính sách quản
lý phòng cháy ở vùng đất hoang tại Federal năm 1995 nhấn mạnh sự cần thiết phải giải quyết đến là hiệu quả kinh tế của
việc quản lý đám cháy và thông báo cho công chúng về lợi ích kinh tế của các dự án quản lý nhiên liệu và các rủi ro liên
quan khi chúng ta không thực hiện chúng (USDI - Bộ Nông Nghiệp Hoa Kỳ, 1995). Một trong các nguyên tắc chính chỉ đạo
được cập nhật năm 2001, chính sách là "Chương trình quản lý phòng cháy và các hoạt động khả thi về mặt kinh tế có thể
thực hiện được, dựa trên những giá trị: phải được bảo vệ, chi phí, và mục tiêu quản lý đất và nguồn tài nguyên" ( NWCG,
2001 ). Ở cấp độ Nhà nước, Chiến lược tận dụng Lửa (Strategic Fire Plan) tại California năm 2010 kêu gọi việc sử dụng
các dự án phục hồi nhiên liệu có hiệu quả về mặt kinh tế theo quy định về phòng chống cháy rừng và quy định về việc tỉa
thưa cây rừng.

Tuy nhiên, cách duy nhất cho nhà hoạch định chính sách để đánh giá chính các hoạt động quản lý phòng cháy trên dựa vào
tiêu chí hiệu quả kinh tế, dựa trên nhận thức đầy đủ về những lợi ích kinh tế của mỗi hoạt động quản lý trên, trong đó bao
gồm các chi phí kinh tế phát sinh khi không tham gia các hoạt động quản lý phòng cháy. Trong khi chi phí ngăn chặn và
tiền bồi thường thiệt hại được đảm bảo cho phía chủ nhà thường được báo cáo như các chi phí kinh tế chính sinh ra từ các
đám cháy rừng tự nhiên, có một mối quan tâm ngày càng tăng rằng điều này thể hiện một biện pháp rất không đầy đủ các
chi phí của các thiệt hại từ vụ cháy rừng (Butry và những người khác, 2001 ; Morton và những cộng sự, 2003 ; Dale, 2009 ;
Zybach và những cộng sự, 2009). Một trong những vấn đề chính là sức khoẻ con người bị tác động đến từ khói bụi đám
cháy thường bị bỏ qua trong lúc ước tính về thiệt hại để quy ra tiền bồi thường.
Ảnh hưởng sức khỏe con người do tiếp xúc với khói các đám cháy rừng đã được đề cập từ nhiều thập kỷ nhưng hiếm khi
định lượng trong các chính sách. Trong một báo cáo kỹ thuật Lâm nghiệp USDA, Gorte và Gorte (1979) giải thích rằng sự
biện minh kinh tế của chi phí quản lý cháy rừng đã được kêu gọi từ những năm 1920. Họ phác thảo đường lối chỉ đạo kinh
tế để xác định có bao nhiêu nên được sử dụng để bảo vệ rừng khỏi lửa và giải thích rằng mức độ tối ưu về kinh tế tài chính
cho quản lý lửa dựa trên chi phí tối thiểu nhất, phương pháp cộng - mất mát là những hạn chế tối đa trong tổng chi phí, chi
phí phòng cháy và chi phí tổn tài nguyên, bao gồm những thiệt hại đối với sức khỏe con người. Hai mươi hai năm sau, theo
Butry và những cộng sự (2001) giải thích rằng trong khi tiêu chuẩn này được phác thảo bởi Gorte (1979) yêu cầu phải tính


toán có hệ thống về các chi phí có liên quan, những được và mất của một vụ cháy rừng nhất định , không có bất kì tổ chức
nào ở Hoa Kỳ cố gắng định lượng ảnh hưởng tác động kinh tế hoàn chỉnh. Khi đánh giá chương trình phòng cháy chữa
cháy, phân tích chính xác sẽ yêu cầu bao gồm các tác động của chi phí kinh tế về thiệt hại sức khoẻ con người từ một vụ
cháy rừng có thể được bằng cách thực hiện các chương trình nên trên. Lửa lan nhanh điều đó có thể được ngăn chặn bằng
cách triển khai các chương trình này. Bỏ qua những phúc lợi về mặt y tế sức khỏe trong phân tích chi phí - lợi ích của
chương trình như vậy có thể dẫn đến việc thiếu đầu tư vào các biện pháp ngăn ngừa như là quản lý đám cháy hoặc tỉa bớt
cây rừng.
Gần đây hơn , Abt et al. (2008) đã đề xuất cải tiến ngay trong bộ sưu tập dữ liệu được dùng trong đánh giá các ảnh hưởng
tác động kinh tế đối với các chương trình phòng chống cháy rừng của bộ Lâm nghiệp Hoa Kỳ. Họ kêu gọi nghiên cứu thêm
để có được sự đánh giá ước lượng nhất quán trong những tổn thất về tài nguyên khác nhau liên quan đến cháy rừng, trong
đó bao gồm cả tác động ảnh hưởng đến sức khoẻ con người. Tác giả dẫn chứng hai nghiên cứu đã từng được thử nghiệm
trong việc cố gắng định lượng chi phí kinh tế của các tác động ảnh hưởng sức khoẻ từ cháy rừng, Butry et al. (2001) và
Rittmaster et al. (2006), cùng nhau kết luận rằng cần nghiên cứu thêm để thực hiện sâu hơn về việc đánh giá ước lượng sự

tác động của ảnh hưởng sức khoẻ con người từ các hoạt động chương trình phòng chống cháy rừng. Theo Kochi et al.
(2010) đã tiến hành xem xét mở rộng các tài liệu xã hội dựa trên những chính sách về chi phí kinh tế bồi thường thiệt hại
cho sức khỏe con người do việc tiếp xúc khói bụi của đám cháy rừng và kết luận rằng trong khi chi phí này nên được xem
xét trong chính sách quản lý cháy rừng, dựa trên nghiên cứu hiện có sẵn là khan hiếm và không đầy đủ.
Nghiên cứu này tìm cách khắc phục khe hở này trong các tài liệu xã hội bằng cách phác thảo phương pháp thực nghiệm để
định lượng chi phí kinh tế của ảnh hưởng sức khoẻ liên quan đến tiếp xúc khói bụi cháy rừng mà có thể sử dụng trong đánh
giá thiệt hại của cháy rừng trong tương lai. Phương pháp này được chứng minh bằng một nghiên cứu điển hình về định
lượng chi phí cho một mẫu cá nhân tiếp xúc với khói của đám cháy rừng từ Trạm cứu hỏa của bang California năm 2009.
Trong phần dưới đây, các phương pháp sau có thể được điều chỉnh phù hợp với cách tính toán chi phí kinh tế cho sự thiệt
hại sức khỏe con người do việc tiếp xúc với khói bụi từ đám cháy rừng. Cụ thể phương pháp này được ứng dụng vào phác
đồ của trạm cứu hỏa bang California năm 2009, bao gồm mô tả về lĩnh vực nghiên cứu, giải thích dữ liệu thu thập, mức độ
ô nhiễm và thông kê mô tả của mẫu. Cuối cùng, một phương pháp kinh tế lượng để phân tích được trình bày tiếp theo là
cuộc thảo luận về kết quả, hạn chế và các tác động của việc phân tích.
Phương pháp định lượng giá trị kinh tế về sự bồi thường thiệt hại cho sức khỏe


Phần lớn nghiên cứu đã cố định lượng chi phí bồi thường thiệt hại cho sức khoẻ con người từ việc tiếp xúc với khói bụi từ
cháy rừng, việc này được giới hạn trong chi phí bệnh tật (COI) hoặc sự bồi thường cho các chức năng tiếp cận. Chi phí bệnh
tật tiếp cận được tính bằng tổng nguồn tài nguyên và chi phí cơ hội của việc phát bệnh để đạt được kết quả cuối cùng là chi
phí bệnh tật ước tính từ việc tiếp xúc với các tác nhân gây ô nhiễm. Các giá trị này bao gồm chi phí chăm sóc sức khỏe y tế
và tiền thuốc men, chi phí cơ hội của thời gian trong việc chăm sóc y tế và chi phí tiền lương bị mất đi do không thể làm
việc vì mắc bệnh. Các cách tiếp cận chức năng thiệt hại ước tính mức độ khác nhau của một chất gây ô nhiễm như thế nào
ảnh hưởng đến kết quả sức khỏe của con người (được gọi là chức năng đáp ứng liều) và sau đó liên kết những kết quả sức
khỏe và chi phí liên quan thu được trước đó để đi đến một chi phí cuối cùng để dự toán bệnh tật.
Hai phương pháp này đã được áp dụng cho một số vụ cháy rừng trên toàn thế giới. Hon (1999), Shahwahid và Othman
(1999) và Ruitenbeek (1999) tính toán các chi phí kinh tế kết hợp với ảnh hưởng sức khỏe vào năm 1997 khi trận khói mù ở
Đông Nam Á xảy ra. Hon (1999) và Shahwahid và Othman (1999) ước tính chức năng đáp ứng liều lượng ban đầu để có
được dự đoán về kết quả y tế do đám cháy rừng ở Singapore và Malaysia và sau đó kết nối với những kết quả này với chi
phí quốc gia cụ thể là chi phí điều trị để đạt được kết quả là chi phí chung của bệnh tật. Ruitenbeek (1999) áp dụng phương
pháp ước tính chức năng đáp ứng liều lượng từ Shahwahid và Othman (1999) để chuyển đổi mật độ khói bụi ở Indonesia

vào kết quả chuẩn đoán y tế. Các tác giả sau này đã được sử dụng chi phí kinh tế từ các nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới
để tính toán chi phí y tế và giá trị của tiền lương bị mất đi từ đám cháy rừng trong tự nhiên và những trận sương mù. Butry
et al. (2001) đã sử dụng kết quả thu được từ Sorenson et al. (1999) về ảnh hưởng sức khỏe của con người trải qua từ các
đám cháy trong năm 1998 ở Florida (hen suyễn và viêm phế quản) và rồi liên kết với các ước tính thu được trước đó của chi
phí y tế để ước tính tổng chi phí của bệnh từ các đám cháy rừng hoang trong tự nhiên.
Tuy nhiên, phương pháp này đã được hiểu rõ và ghi nhận trong nhiều năm trong các tài liệu kinh tế học là chi phí của bệnh
tật và chi phí tổn thương các chức năng, phương pháp đánh giá thấp chi phí kinh tế kết hợp với ảnh hưởng sức khỏe do tiếp
xúc với các chất ô nhiễm (Dickie, 2003; Freeman, 2003), bao gồm cả những chất chứa trong khói bụi của đám cháy rừng.
Đầu tiên, ảnh hưởng sức khỏe do khói bụi từ những đám cháy gây ra làm suy yếu khả năng nhận thức của con người, chẳng
hạn như đau, khó chịu, hoặc mất những ngày vui chơi giải trí và điều này sẽ không thể đạt được chỉ trong một cách tính chi
phí đơn giản của phương pháp tiếp cận bệnh. Thứ hai, nhiều người dân ở các khu vực dễ bị cháy rừng đã biết về những rủi
ro tiềm ẩn liên quan đến khói bụi từ đám cháy và có những hành động phòng hộ tốn kém để tự bảo vệ mình chống lại nó.
Trong suốt năm 2003 cháy rừng ở miền Nam Californ Kunzli et al. (2006) phát hiện ra rằng trẻ em bị hen suyễn có nhiều


khả năng hành động nhằm phòng ngừa như đeo mặt nạ, ở trong nhà và tối thiểu hóa tiếp xúc với khói bụi. Mott et al. (2002)
nhận thấy rằng trong một vụ cháy rừng năm 1999 ở Bắc California gần dải phân cách thung lũng Valley Quốc gia Ấn Độ,
người dân đã hành động như đeo mặt nạ, sơ tán, dùng hóa chất tẩy sạch không khí trong nhà sau các khuyến nghị trong
thông báo dịch vụ công cộng. Ngay cả nếu họ không biết những rủi ro tiềm tàng này, các cư dân ở các khu vực tiếp xúc với
khói từ đám cháy thường được ban hành cảnh báo về khói, tư vấn và thông báo cho họ về hành động của họ có thể làm và
nên làm để tránh tổn hại sức khoẻ. Theo giải thích của Cropper (1981), cải thiện chất lượng không khí sẽ làm giảm các hành
động phòng ngừa, và chi phí tiết kiệm này cần phải được đưa vào khi xác định giá trị các lợi ích của kiểm soát ô nhiễm.
Xem xét lại một tài liệu nghiên cứu về chi phí kinh tế về thiệt hại sức khỏe từ khói bụi của các đám cháy rừng, Kochi et al.
(2010) đã kết luận rằng một sự hiểu biết tốt hơn về hành động phòng ngừa rút ra từ các đám cháy là cần thiết khi đánh giá
các chi phí liên quan đến sức khỏe của việc tiếp xúc với ô nhiễm khói bụi. Nếu cơ quan được đánh giá chính sách dựa trên
tiêu chí hiệu quả kinh tế, các đo lường mức độ phù hợp của các chi phí thiệt hại sức khỏe do tiếp xúc với khói của các đám
cháy sẽ là chi phí kinh tế đầy đủ của những thiệt hại. Các biện pháp chính xác về mặt lý thuyết kinh tế là giá sẵn lòng trả
(WTP) để tránh thiệt hại vì nó bao gồm tất cả các chi phí cá nhân gặp phải khi tiếp xúc với khói từ các đám cháy: Chi phí y
tế, tiền lương bị mất, đầu tư thời gian và tiền bạc trong việc thực hiện các hoạt động phòng ngừa để giảm tiếp xúc, và suy
giảm liên quan đến các triệu chứng hoặc bị mất trí. Các phương pháp tiếp cận chức năng COI và thiệt hại bỏ qua hai thành

phần cuối cùng này. Các cơ quan như: Cục bảo vệ Môi trường Hoa Kỳ đã nhận ra những bất cập của việc sử dụng chi phí
bệnh tật và thiệt hại chức năng nhưng họ lý giải: “Hiện nay, nhiều triệu chứng bệnh lý quan trọng ít được nghiên cứu từ
quan điểm sẵn lòng trả của người dân... Do đó, lợi ích được ước tính dựa trên cách tiếp cận chức năng thiệt hại trực tiếp
được sử dụng trong nhiều ứng dụng bởi EPA” (U.S. EPA, NCEE).
Chỉ có một số ít các nghiên cứu ước tính các chi phí kinh tế của việc sức khỏe bị các ảnh hưởng từ khói của đám cháy rừng
kết hợp với các giá trị WTP vào dự toán của họ. Tuy nhiên, trên thực tế không có giá trị WTP nào ước tính được thiệt hại về
mặt sức khỏe tránh được từ khói từ cháy rừng. Cả Martin et al. (2007) và Rittmasteret al. (2006) đều sử dụng hàm phản
ứng theo liều lượng để ước tính trong các nghiên cứu trước đây và kết nối các kết quả y tế được ước tính đó vớilo ước tính
COI, và WTP để tính toán chi phí kinh tế của việc sức khỏe bị ảnh hưởng từ một đám cháy giả định trong rừng quốc gia
Kaibab và cháy Chisholm ở Canada năm 2001, tương ứng với nhà khoa học Cardoso de Mendonça et al. (2004) đã sử dụng
hàm phản ứng theo liều lượng và tính toán các chi phí kinh tế của việc thiệt hại sức khỏe từ việc sử dụng lửa của nông dân ở
Amazon, áp dụng các giá trị WTP chuyển từ Seroa da Motta et al. (2000a, b). Cuối cùng, Hon (1999) và Ruitenbeek (1999)
nghiên cứu điều chỉnh dự toán COI bằng việc sử dụng giả định WTP: tỷ lệ COI là 2:1. Tỷ lệ này được lấy từ một loạt các


giả thuyết về WTP và dự toán COI từ các tài liệu của Ngân hàng Phát triển Châu Á (1996) mà cụ thể là những triệu chứng
của chứng bệnh hen suyễn.
Cho đến nay, vẫn chưa có một nghiên cứu nào ước tính chính xác được các chi phí kinh tế lý thuyết của những thiệt hại về
sức khỏe từ khói cháy rừng bằng cách sử dụng dữ liệu sơ cấp. Một phương pháp phổ biến mà có thể được sử dụng để tính
toán giá trị WTP này là phương pháp hành vi phòng hộ. Nghiên cứu này sẽ áp dụng phương pháp hành vi phòng hộ để
tính toán giá trị của việc giảm thiểu các thiệt hại về sức khỏe con người từ khói của vụ cháy Trạm cứu hỏa California năm
2009 và đối chiếu với chi phí ước tính khi bị bệnh.
Phương pháp hành vi phòng hộ
Phương pháp hành vi phòng hộ, còn được gọi là phương pháp hành vi ngăn ngừa, là một phương pháp tiếp cận ưa thích dựa
vào hàm sản xuất sức khỏe được tiết lộ lần đầu bởi Grossman vào năm 1972 với sự mở rộng thành các mô hình được thực
hiện bởi Cropper (1981), Harrington và Portney (1987). Khuôn khổ của mô hình được dựa trên tiền đề rằng một cá nhân đã
mắc phải một số triệu chứng về sức khỏe, chẳng hạn như số ngày ốm, hàm lợi ích của mình, gây ra sự phản hiệu dụng. Biểu
hiện sức khỏe này lần lượt bị ảnh hưởng bởi các yếu tố khác nhau, chẳng hạn như mức độ ô nhiễm, tiền đề sức khỏe tổng
thể của cá nhân, các yếu tố nhân khẩu học, các yếu tố lối sống và cuối cùng, hành động tự vệ được thực hiện bởi các cá
nhân để giảm nguy cơ có một sức khỏe không tốt. Hành động tự vệ được chia thành những hành động ngăn ngừa và giảm

nhẹ, trong đó có các phần khác nhau. Các cựu nhân viên đang hành động để giảm nguy cơ tiếp xúc với các chất ô nhiễm đã
gây ra triệu chứng y tế tiêu cực, chẳng hạn như ở trong nhà hoặc sử dụng một bộ lọc không khí trong gia đình. Các tác động
tiêu biểu được nêu ra sau khi đã trải qua các nỗ lực giảm thiểu các tác động tiêu cực của những triệu chứng sức khỏe, chẳng
hạn như đi bác sĩ hoặc sử dụng thuốc. Tổng chi phí để giảm nhẹ các tác động và tiền lương bị tổn thất do giảm thiểu bệnh
tật là đại diện cho chi phí của bệnh và thường được tính là chi phí thiệt hại sức khỏe do tiếp xúc với khói của đám cháy
rừng.
Mô hình này có thể được sử dụng để tính toán WTP của cá nhân bỏ ra để tránh ô nhiễm nói chung, hoặc các đo lường triệu
chứng mà kết quả từ việc tiếp xúc với các chất gây ô nhiễm. Phương pháp hành vi phòng hộ và các lý thuyết nguyên tắc cơ
bản của nó được giải thích chi tiết theo hai nhà khoa học Dickie (2003) và Freeman (2003). Phần tiếp theo đây chúng tôi sẽ
trình bày một phép tính dựa trên thời gian đã được thiết lập thành các giai đoạn để phân tích thực nghiệm của chúng tôi
đang nghiên cứu. Theo một hàm sản xuất sức khỏe (còn được gọi là một hàm sản xuất triệu chứng) đưa ra một cá nhân sẽ
xuất hiện một số triệu chứng tiêu cực về mặt sức khỏe như sau:


S = S(P, A, M, Z)

(1)

S thể hiện năng lượng sức khỏe của cá nhân, mà chúng tôi chỉ định cho số ngày bị ốm, P mang chức năng đại diện cho việc
tiếp xúc với chất ô nhiễm, A đại diện cho các hoạt động ngăn ngừa dùng để làm giảm tiếp xúc với các chất gây ô nhiễm, từ
đó giảm bớt hoặc tránh tốn thời gian bị ốm, M đại diện cho hoạt động có thể được thực hiện để giảm nhẹ đi thời gian bị
bệnh, và Z đại diện cho một tập hợp các yếu tố ngoại sinh có thể ảnh hưởng đến thời gian dành cho bệnh nhân, chẳng hạn
như nhân khẩu học và tình trạng sức khỏe trước khi tiếp xúc với chất ô nhiễm. Có thể giả định rằng ngày bệnh càng tăng
trong khi việc tiếp xúc với các chất gây ô nhiễm nhiều hơn và giảm trong việc ngăn ngừa và giảm thiểu các hành động tiếp
xúc. Thông tin này sau đó có thể được sử dụng để tính toán các giá trị biên của cá nhân giảm ô nhiễm (theo Freeman, 2003
cho một nguồn gốc đầy đủ):

-PA

(2a)


Hoặc

-PM

(2b)

Giá của bất kỳ hoạt động ngăn ngừa hoặc giảm thiểu nhân với tỷ lệ thay thế biên kỹ thuật giữa mức độ ô nhiễm và ngăn
chặn hay hoạt động giảm nhẹ trong sản xuất một số triệu chứng tiêu cực nhất định của ngày bị ốm. Các giá trị cận biên của
việc giảm thời gian dành cho bệnh bằng:
(3a)
Hoặc có thể tính
(3b)
Sự sẵn lòng trả biên cho việc giảm thời gian bị bệnh có thể được tính toán như giá của bất kỳ hoạt động ngăn ngừa hoặc
giảm nhẹ chia bởi các hiệu ứng cận biên của việc sử dụng các biện pháp ngăn ngừa hoặc giảm nhẹ hoạt động trên thời gian
bị bệnh. Chúng tôi sẽ minh họa về sự thích hợp của mô hình này qua khói thải ra do cháy rừng bằng cách tính toán sự sẵn
sàng chi trả của một cá nhân để giảm bớt việc khói cháy rừng gây ra sẽ làm phát những triệu chứng bệnh ở con người. Một
chi phí đơn giản của ước lượng bệnh sẽ được so sánh bằng giá sẵn lòng trả ở cận biên này để tính toán giá trị định lượng độ


lớn của sự đánh giá quá thấp. Ngoài ra, chúng tôi sẽ tính toán tỷ lệ của WTP: COI đã thể hiện một tỷ lệ dựa trên lý thuyết
mà các cá nhân có thể đo lường được chi phí của bệnh cũng như ước tính được mong muốn sẵn sàng chi trả của cá nhân.
The Station Fire
Không gia nghiên cứu
Được biết như là đám cháy rừng lớn nhất trong lịch sử hiện đại ở Los Angeles và lớn thứ 10 ở California, vụ cháy năm 2009
đã ảnh hưởng đến đời sống của hàng ngàn người. Ngọn lửa bắt đầu bùng phát vào ngày 26 tháng 8 năm 2009 trong rừng
quốc gia Angeles, tiếp giáp với khu vực đô thị của quận Los Angeles, và theo thời gian ngọn lửa ngày càng khó bị dập tắt
do điều kiện thời tiết nóng, cây cối rậm rạp, cũng như địa hình gồ ghề và dốc làm nhân viên cứu hỏa khó tiếp cận. Vào thời
điểm vụ cháy lớn nhất vào ngày 16 tháng 10 năm 2009 nó đã thiêu rụi 160.577 mẫu Anh, hai nhân viên cứu hỏa thiệt mạng,
làm bị thương 22 người, và phá hủy 209 công trình, 89 trong số đó là nhà dân. Trong khi cháy, ngọn lửa đã đe dọa 12.000

ngôi nhà thuộc khu dân cư xung quanh và buộc hàng ngàn cư dân phải di tản khỏi nhà của họ (InciWeb, 2009). Trong suốt
vụ cháy, một số cộng đồng phải đối mặt với mức chất lượng không khí rất kém như đã được khuyến cáo và tư vấn cảnh báo
về khói bởi các cơ quan quản lý chất lượng không khí dọc bờ biển miền Nam và Sở Y tế công cộng ở quận Los Angeles.
Những lời cảnh báo khuyên người dân trong tất cả các khu vực có nguy cơ tiếp xúc trực tiếp với khói nên tránh các hoạt
động ngoài trời không cần thiết, đóng hết cửa và cửa sổ, mở máy điều hòa không khí. Các cá nhân nhạy cảm như những
người có bệnh tim hoặc phổi, người già và trẻ em được khuyến cáo ở trong nhà. Hình 1 cho thấy địa điểm của vụ cháy trạm
cứu hỏa ở Hoa Kỳ.


Hình 1 Vị trí Station Fire
Dữ liệu thu thập
Để thực hiện phương pháp hành vi ngăn chặn, một cuộc khảo sát đã được thực hiện trong mùa hè năm 2009 và đã tập trung
một số nhóm được tổ chức tại Anaheim, bang California vào mùa hè với bài kiểm tra khảo sát được làm trước. Khoảng sáu
tuần sau khi Trạm cháy bắt đầu cuộc điều tra, một mẫu ngẫu nhiên của cư dân trong 5 thành phố trong vùng lân cận của
Station Fire đã được gửi một bảng khảo sát. Năm thành phố được khảo sát bao gồm Duarte, Monrovia, Sierra Madre,
Burbank và Glendora thuộc bang California. Chúng được chọn dựa trên khi đã bảng cảnh báo về chất lượng khói bụi và sự
sẵn có của số liệu quan trắc chất lượng không khí để xác nhận rằng các thành phố có bị ảnh hưởng bởi khói từ đám cháy
rừng tự nhiên hay chưa. (trạm quan trắc chất lượng không khí hiện tọa lạc trong các thành phố Burbank và Glendora, những


trạm còn lại đã tạm ngưng hoạt động). Các thành phố cũng nằm tại vị trí đủ xa so với ngọn lửa từ đám cháy, nhà dân không
bị hư hỏng hay bị phá hủy, cho phép người trả lời khảo sát tập trung vào các tác hại từ khói cháy rừng ảnh hưởng đến sức
khỏe chứ không phải là thiệt hại do cháy gây ra. Cần lưu ý rằng nhiều thành phố khác ở miền Nam California không nằm
trong mẫu nghiên cứu của bảng khảo sát này cũng đã được ban hành khuyến cáo về tình hình của khói lửa. Trong khi quá
trình khảo sát các thành phố, chúng tôi đã không thực hiện việc rút ngẫu nhiên từ dân số toàn thành phố tiếp xúc với khói từ
đám cháy rừng trong năm 2009 từ trạm kiểm soát cháy, chúng tôi hy vọng rằng các cư dân trong năm thành phố này có khả
năng mang tính đại diện cho cư dân khác bị ảnh hưởng bởi vụ cháy. Chúng tôi không cố gắng để suy luận kết quả của toàn
bộ sự việc và những người dân đã tiếp xúc với khói từ đám cháy rừng trong năm 2009 từ Station Fire.
Việc gửi thư khảo sát đầu tiên đã diễn ra trong khoảng sáu tuần sau khi các đám cháy rừng bùng phát. Tại thời điểm này,
khi xảy ra đám cháy có đến gần 99% phản hồi là đã có đủ thời gian để trở về nhà và kiểm tra thư của họ nếu họ đã sơ tán

khỏi ngọn lửa. Điều này giúp ta đảm bảo rằng ngay cả những cá nhân rời nhà để tránh những ảnh hưởng sức khỏe tồi tệ nhất
từ tiếp xúc với khói của đám cháy vẫn còn có trong mẫu của bảng khảo sát. Trong thời gian nhóm tập trung, người tham gia
chỉ ra rằng việc chờ đợi quá lâu để gửi phản hồi khảo sát có thể làm cho nó khó khăn cho người trả lời để nhớ chính xác tất
cả các thông tin cần thiết để thực hiện các phương pháp hành vi phòng hộ. Cuộc khảo sát thứ 2 được thực hiện đã không
mang lại phản hồi tích cực vì ngay sau khi gửi bảng khảo sát cho các hộ dân, ngọn lửa đã tràn lan thư bị thiêu trụi. Cuộc
khảo sát thứ ba diễn ra trong một khoảng thời gian hai tháng.
Một khía cạnh quan trọng của việc áp dụng các phương pháp phòng hộ là để nắm bắt tất cả các cá nhân tiếp xúc với các
chất gây ô nhiễm có trong tay, dù có hoặc không có kinh nghiệm nào về việc ảnh hưởng sức khỏe do tiếp xúc gây ra này.
Để tránh nhận được phản hồi từ chỉ những cá nhân có kinh nghiệm ảnh hưởng sức khỏe do tiếp xúc với khói đám cháy, một
thư xin việc trước việc điều tra ở cả ba thư. Trong thư đầu tiên, thư xin nhấn mạnh bằng chữ đậm rằng điều quan trọng là
được nghe từ mọi người trong khu vực cho dù họ đã bị ảnh hưởng bởi khói đám cháy hay không. Trong thư xin việc thứ hai
tuyên bố này được mở rộng, một lần nữa bằng chữ đậm, nhấn mạnh để người trả lời rằng họ là một trong một số ít hộ gia
đình được khảo sát và điều quan trọng là họ điền vào bảng khảo sát ngay cả khi gia đình của họ cảm thấy sức khỏe không
hề bị ảnh hưởng. Cuối cùng, trong thư xin việc gửi thư thứ ba, một lần nữa trong chữ in đậm, người trả lời đã được nhắc
nhở rằng ngay cả khi gia đình của họ cảm thấy không có ảnh hưởng sức khỏe ở tất cả các khía cạnh từ khói của đám cháy
rừng, chúng tôi muốn biết làm thế nào họ tránh được những ảnh hưởng sức khỏe và họ sẽ chỉ cần điền vào một phần của
cuộc điều tra. Các từ ngữ trên các chữ cái bìa đã được lựa chọn một cách cẩn thận trong một nỗ lực để khuyến khích các


mẫu khảo sát đầy đủ dễ đáp ứng với từng cá nhân, ngay cả khi họ không có kinh nghiệm ảnh hưởng sức khỏe do tiếp xúc
với khói thải ra từ đám cháy rừng tự nhiên.
Trả lời bảng khảo sát, những người không ở nhà từ ngày đầu tiên khi đám cháy rừng đã bắt đầu kéo dài qua hai tuần sau kể
từ ngày bắt đầu này đã được yêu cầu trở lại nhưng không hoàn thành việc khảo sát. Nó là rất khó vì điều này sẽ có cá nhân
bị loại trừ những người sơ tán do thực tế rằng đêm đầu tiên Station Fire xảy ra, nó đã được tiên đoán là có tiềm năng phát
triển, lan rộng thấp và không có mối đe dọa tiềm năng trong tương lai. Khích cỡ cuối cùng của vụ cháy lên đến 15 mẫu Anh
trong khi nó được ước tính đạt đám cháy lan đến diện tích đó vào 1 giờ chiều ngày hôm sau. Mãi cho đến một vài ngày sau
đó, đám cháy rừng đã trở thành khó khăn để dập tắt do thời tiết không thuận lợi và địa hình khu vực. Kết quả dựa theo
những người trả lời cuộc khảo sát những người không có ở nhà trong thời gian này đã có khả năng không có ở nhà vì những
lý do không liên quan đến cháy rừng. Nếu được hỏi rời nhà của họ vào bất kỳ ngày sau ngày đầu tiên ngọn lửa bắt đầu, họ
được yêu cầu hoàn thành toàn bộ cuộc điều tra. Bằng cách này, các cá nhân người sơ tán vẫn có thể giữ. Kích thước mẫu

ban đầu cho nghiên cứu này là 1.000 cá nhân thu được từ khảo sát lấy mẫu quốc tế, 40 cuộc điều tra không thể tiến hành, và
458 cuộc điều tra hoàn chỉnh đã được trả lại cho một tỷ lệ phản ứng tổng thể lên đến 48%. Sau khi loại bỏ các cuộc điều tra
chưa đầy đủ và các cuộc điều tra từ những người trả lời không có ở nhà trong khoảng thời gian cháy, có vẫn còn là một tổng
cộng 413 cuộc điều tra có thể sử dụng.
Để thu thập dữ liệu cho các phương pháp hành vi phòng hộ, các điều tra đặt câu hỏi phỏng vấn về về những ảnh hưởng sức
khỏe mà họ đã trải qua trong khi đám cháy rừng xảy ra, thời gian dành cho việc ngăn ngừa và giảm thiểu những thiệt hại,
cùng với các chi phí của những hành động thích hợp, lịch sử y tế được hỏi, các yếu tố lối sống, và thông tin nhân khẩu học.
Các hoạt động ngăn ngừa và giảm nhẹ khác nhau được trình bày cho người trả lời, và họ có thể chỉ ra hay từng việc họ đã
thực hiện. Trước khi trình bày trả lời với những hành động này, họ đã nói để xác định chỉ những hành động để giảm thiểu
khả năng ảnh hưởng sức khỏe đều là do tiếp xúc với khói từ Station Fire mà không cho là do bất kỳ lý do nào khác. Điều
này đảm bảo rằng tác động biên của việc sử dụng các hành động vào những ngày phát triệu chứng được tính toán chính xác.
Các hoạt động ngăn ngừa được lựa chọn dựa trên các khuyến nghị từ các Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa dịch bệnh và
Cơ quan Bảo vệ Môi trường Hoa Kỳ về những gì phải làm khi một đám cháy xảy ra để tránh tiếp xúc trực tiếp với khói,
cũng như những gì nghiên cứu trước đây đã tìm thấy liên quan đến các hành động của người làm trong thực tế, trong suốt
những trận cháy rừng (Mott et al, 2002;.. Künzli Y et al, 2006). Một mô tả của tất cả các biến nghiên cứu và thống kê tóm
tắt có thể được tìm thấy trong Bảng 1


Mức độ ô nhiễm
Các đám cháy rừng trong tự nhiên đã chiếm phần lớn các chất gây ô nhiễm, cụ thể là hạt vật chất nhỏ chính là vấn đề
ảnh hưởng nguy hiểm đến sức khỏe của con người trong khoảng thời gian tiếp xúc ngắn.
Trong các loại chất được tạo thành từ khói của các chất gây ô nhiễm, thì hạt vật chất mới là mối đe dọa nghiêm trọng
nhất đối với sức khỏe con người do tiếp xúc ngắn hạn. (Lipsett et al., 2008).
Theo cơ quan bảo vệ môi trường Mỹ, các loại hạt gây nguy hiểm thường có kích thước là 10 µm và có đường kính
nhỏ hơn vì vậy chúng có thể dễ dàng xâm nhập vào phổi và gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của con người. Khói
từ các đám cháy tự nhiên bao gồm các hạt có đường kính 2,5 µm và nhỏ hơn thế nữa và cả các hạt có đường kính 10 µm và
nhỏ hơn, gọi tắt là PM 10 (U.S. EPA, Particulate Matter Dựa theo thang đo cụ thể của U.S EPA.).
Khi tiếp xúc với carbon monoxide ở nồng độ thấp (CO) từ các đám cháy rừng có thể gây ra các triệu chứng mệt mỏi
ở một người khỏe mạnh và ảnh hưởng sức khỏe nghiêm trọng hơn như đau ngực ở những người đang bị bệnh tim ( theo
U.S. EPA, Indoor Air Quality).

Trong các vụ cháy xảy ra năm 2009, mức trung bình mỗi ngày của PM 2.5 đạt mức cao nhất 82,9 µg/m 3 ở Glendora
và 38 µg/m3 ở Burbank, vượt quá chuẩn 24-h theo tiêu chuẩn trung bình được Liên Bang đưa ra là 35 µg/m3 trong ba ngày
tại Glendora và một ngày ở Burbank trong suốt tuần đầu tiên khi vụ cháy xảy ra.
Nồng độ hàng ngày cao nhất vào lúc 1h đo được là PM 2.5, ở Glendora lên đến 223 µg/ m3 và 189 µg/ m3 ở Burbank.
Những thông số về chất lượng không khí thu được là PM 10 duy nhất tại thành phố của Glendora nơi mà nồng độ trung
bình hàng ngày đạt như bảng dưới đây:
Bảng 1: Biến định lượng và các số liệu thống kê.
Biến số

Mã hóa

Mean

Std.
dev.

Min

Max

Mức độ ô nhiễm:
- Thời gian khói tồn tại trong nhà

0 = không ngày; 3 = 1-5 ngày; 8 = 6-

3.43

4.21

0


16


- Thời gian khói tồn tại ở môi trường bên
ngoài

10 ngày; 13 = 11-15 ngày;
16 = hơn hơn 15 ngày

7.77

4.91

0

16

ppm

1.47

0.11

1.4

1.8

- Triệu chứng bộc phát vào ban ngày


Count

3.28

6.06

0

45

- Triệu chứng về bệnh tai, mũi, họng

1 = có, 0 = không

0.36

0.48

0

1

- Các triệu chứng về đường hô hấp

1 = có, 0 = không

0.18

0.39


0

1

- Các triệu chứng tim mạch

1 = có, 0 = không

0.4

0.20

0

1

- Các triệu chứng khác

1 = có, 0 = không

0.9

0.28

0

1

- Sơ tán


1 = có, 0 = không

0.06

0.23

0

1

- Đeo mặt nạ bảo hộ

1 = có, 0 = không

0.07

0.26

0

1

- Sử dụng bộ lọc không khí

1 = có, 0 = không

0.21

0.41


0

1

- Tránh đi làm việc

1 = có, 0 = không

0.05

0.21

0

1

- Loại bỏ tro bụi khỏi các vật dụng trong
nhà

1 = có, 0 = không

0.57

0.50

0

1

1 = có, 0 = không


0.60

0.49

0

1

- Chạy điều hòa nhiều hơn

1 = có, 0 = không

0.73

0.44

0

1

- Ở lại trong nhà

1 = có, 0 = không

0.78

0.42

0


1

1 = có, 0 = không

0.06

0.24

0

1

Mục tiêu ô nhiễm:
Lượng CO trung bình tối đa/ ngày
Thông tin bệnh:

Sự ngăn ngừa

- Tránh ra ngoài giải trí, tập thể dục
Giảm bớt các hoạt động:
- Chăm sóc y tế/ sử dụng thuốc theo toa


- Lấy thuốc không theo toa bác sĩ

1 = có, 0 = không

0.13


0.33

0

1

- Đến nơi chăm sóc sức khỏe hiện đại

1 = có, 0 = không

0.01

0.11

0

1

- Tránh làm việc

1 = có, 0 = không

0.04

0.19

0

1


- Tránh các hoạt động vui chơi giải trí

1 = có, 0 = không

0.28

0.45

0

1

- Tình trạng hô hấp hiện tại

1 = có, 0 = không

0.12

0.32

0

1

- Nhịp tim hiện tại

1 = có, 0 = không

0.09


0.28

0

1

- Ảnh hưởng của khói của khí nổ (Wildfire
smoke) đến sức khỏe hiện tại

1 = có, 0 = không

0.24

0.42

0

1

0 = 0 lần/ tuần; 1 = 1-2 lần/ tuần; 2 =
3-5 lần/ tuần; 3 = nhiều hơn 5 lần/
tuần
1 = có, 0 = không

1.62

0.92

0


3

0.08

0.28

0

2

0 = không; 1 = 1-7 đồ uống/ tuần; 2
= 8-14 thức uống/ tuần; 3 = hơn 14
đồ uống/ tuần

0.60

0.73

3

0.29

0.45

1

- Sức khỏe đang trong tình trạng tốt

1 = có, 0 = không


0.55

0.50

1

- Sức khỏe đang trong tình trạng bình
thường

1 = có, 0 = không

0.14

0.35

1

1 = có, 0 = không

0.02

0.14

1

2.95

5.89

91


4.95

7.11

77

0.89

0.31

1

Bệnh sử sức khỏe:

Sức khỏe và đời sống:
- Số lần tập thể dục
- Hút thuốc
- Số lượng sử dụng đồ uống có cồn/ tuần
- Sức khỏe đang trong tình trạng tốt nhất

- Sức khỏe đang trong tình trạng xấu
- Số giờ giải trí trong nhà/ tuần

1 = có, 0 = không

- Số giờ giải trí ngoài trời/ tuần

Liên tục



- Có một bác sĩ thường xuyên

Liên tục
1 = có, 0 = không

Nhân khẩu học:
- Nam
- Đã kết hôn
- Tuổi
- Da trắng
- Tốt nghiệp đại học
- Cao đẳng/ trung cấp nghề
- Làm việc full-time

1 = nam, 0 = nữ

0.60

0.49

0

1

1 = có, 0 = không

0.69

0,46


0

1

Liên tục

59.11

15.37

24

94

0.79

0,41

0

0.20

0.40

0

0.62

0.49


0

0.48

0.50

0

1 = có, 0 = không
1 = có, 0 = không
1 = có, 0 = không
1 = có, 0 = không
1 = có, 0 = không

1
1
1
1
1

- Làm việc part-time

1 = có, 0 = không

0.08

0.27

0


1

- Không làm việc

1 = có, 0 = không

0.42

0.49

0

1

+ Thất nghiệp

1 = có, 0 = không

0.08

0.27

0

1

+ Nghỉ hưu

1 = có, 0 = không


0.35

0.48

0

1

- Có bảo hiểm y tế

Liên tục

0.92

0.27

0

816

- Tháng mã y tế còn hiệu lục

Liên tục

258.66

184.96

7


4

Liên tục

0.43

0,83

0

6

1 = có, 0 = không

0.90

1.27

0

1

1 = có, 0 = không

0.13

0.34

0


1

1 = có, 0 = không

0.20

0.40

0

1

- Số trẻ em dưới 18 tuổi trong gia đình
- Số thành viên trong gia đình
- Sống ở Duarte
- Sống ở Monrovia


- Sống ở Sierra Madre

1 = có, 0 = không

0.08

0.26

0

1


- Sống ở Burbank

1 = có, 0 = không

0.19

0.40

0

1

- Sống ở Glendora

15 = < 19.999; 25 = 20,000-29,999;

0.40

0.49

0

200

- Thu nhập

35 = 30,000-39,999; 45 = 40,00049,999; 55 = 50,000-59,999; 65 =
60,000-69,999; 75 = 70,000-79,999;
85 = 80,000-89,999; 95 = 90,00099,999; 125 = 100,000-149,999;


83.52

53.50

15

175 = 150,000-199,999; 200 = >
200.000


Sự tin cậy:
- Nghe hoặc đọc những thứ ảnh hưởng tốt
đến sức khỏe

1 = có, 0 = không

0.86

0.35

0

1

- Tin rằng khói có thể ảnh hưởng đến sức
khỏe

1 = có, 0 = không


0.90

0.31

0

1

L.A. Richardson et al. / Journal of Forest Economics 18 (2012) 14–35


Hình 2. Nồng độ trung bình hàng ngày của PM 2.5, PM 10 và CO – 24/08 - 09/09/2009
93,8 µg/ m3 vượt quá tiêu chuẩn Nhà nước đưa ra là 24-h chỉ trong vòng ba ngày. Nồng độ đạt đến đỉnh điểm 214,4
µg/ m3 trong một giờ ở Glendora so với tiêu chuẩn quốc tế cảnh báo không được vượt quá đối với carbon monoxide. Những
con số đưa ra đã thể hiện mức độ các hạt vật chất trong khói rất giống với dự báo về những đám cháy rừng lớn.
Ngọn lửa Hayman tại Colorado vào năm 2002 (Sutherland et al. (2005) trong hai ngày liền tăng vọt lên mức dự báo
24-h, tại PM 2,5 nồng độ đạt 63,1 µg/ m3. Một vụ cháy tương tự khác (Vedal and Dutton, 2006), đám cháy xảy theo dự báo
24-h, có nồng độ PM 2.5 đạt 44-48 µg/ m3 và nồng độ cao nhất có thể lên đến là 200 µg/ m3. Theo Wu et al. (2006) ước
tính tại PM 2,5 vụ cháy ở Nam California năm 2003 có nồng độ từ 75-90 µg/ m3.
Đồ thị số 2 cho thấy CO trong các thành phố tại Glendora trung bình hàng ngày ở mức PM 2,5 và Burbank ở mức
PM 10 trong hai tuần từ khi Glendora xảy ra vụ cháy. Hai đồ thị minh họa cho mức 24-h cho tiêu chuẩn trung bình của liên
bang Mỹ EPA tại PM 2.5 và tiêu chuẩn riêng biệt Bộ Tài Nguyên Không Khí tại California Air PM 10. Khoảng một tuần
sau khi đám cháy diễn ra thì tất cả năm thành phố được khảo sát cho nghiên cứu này đã được cảnh báo là chất lượng không
khí không đạt ngưỡng đảm bảo sức khỏe do Khu Quản Lí Chất Lượng Không Khí các vùng duyên hải phía Nam đặt ra.
Thông kê mẫu trả lời của đáp viên
Các số liệu quan trắc chỉ thể hiện chất lượng không khí ở Glendora và Burbank, hiện nay với việc chủ động tìm kiếm
biện pháp, về phía cộng đồng biện pháp xử lý ô nhiễm theo hướng khách quan (Kunzli et al., 2006) là những khảo sát về
cảm nhận của người dân về khói trong nhà và ngoài nhà khi vụ cháy xảy ra trong một tuần. Trong số 413 đáp viên được
khảo sát, 90% cho biết họ tin rằng khói của vụ cháy có thể ảnh hưởng đến sức khỏe của họ, 38% người nói rằng họ đã bệnh
sau khi tiếp xúc với khói.

Bảng 2 tóm tắt số lượng và tỷ lệ phần trăm của tất cả người trả lời khảo sát có kinh nghiệm khi mắc bệnh, cũng như
số lượng và tỷ lệ phần trăm số người được hỏi trải qua từng loại triệu chứng dựa trên số ngày khói tồn tại bên trong và bên
ngoài nhà.
Ví dụ trong 175 bệnh nhân không ngửi thấy khói trong nhà, có 36 người trong số họ (21%) bị bệnh. Một mô hình
được đề xuất thể hiện tỷ lệ phần trăm người mắc bệnh sẽ như thế nào khi số ngày khói gây mùi bên trong hoặc ngoài một


ngôi nhà tăng lên. 42% cá nhân không tiếp xúc với khói trong nhà của họ, 62% không bị ảnh hưởng sức khỏe khi tiếp xúc
với khói. Cuộc điều tra đã chia ra được nhóm những cá nhân bị ảnh hưởng nặng nề bởi khói cũng như những cá nhân ít
được tiếp xúc hoặc ít bị ảnh hưởng bởi khói.
Bảng 2: Ảnh hưởng sức khỏe từ khói của những vụ cháy
Ít nhất là
một triệu
chứng
Tất cả người trả lời (n = 413)

Tai, mũi,
họng

156 (38%) 147 (36%)

Các triệu
chứng khác

Hô hấp

Tim

76 (18%)


18 (4%)

36 (9%)

Số người trả lời
- Không có mùi khói trong nhà: 175

36 (21%)

36 (21%)

11 (6%)

2 (1%)

3 (2%)

- Mùi khói tồn tại trong nhà 1-5 ngày: 138

50 (36%)

48 (35%)

28 (20%)

7 (5%)

13 (9%)

- Mùi khói tồn tại trong nhà 6-10 ngày: 66


43 (65%)

41 (62%)

25 (38%)

5 (8%)

11 (17%)

- Mùi khói tồn tại trong nhà 11-15 ngày: 23

16 (70%)

15 (65%)

9 (39%)

2 (9%)

6 (26%)

8 (73%)

7 (64%)

3 (27%)

2 (18%)


3 (27%)

0 (0%)

0 (0%)

0 (0%)

0 (0%)

0 (0%)

- Mùi khói tồn tại ngoài nhà 1-5 ngày: 137

26 (19%)

26 (19%)

10 (7%)

2 (1%)

4 (3%)

- Mùi khói tồn tại ngoài nhà 6-10 ngày: 133

53 (40%)

48 (36%)


25 (19%)

7 (5%)

12 (9%)

- Mùi khói tồn tại ngoài nhà 11-15 ngày: 67

37 (55%)

35 (52%)

19 (28%)

3 (4%)

7 (10%)

- Mùi khói tồn tại ngoài nhà >15 ngày: 54

40 (74%)

38 (70%)

22 (41%)

6 (11%)

13 (24%)


- Mùi khói tồn tại trong nhà >15 ngày: 11
- Không có mùi khói ngoài nhà: 22

Phương pháp hành vi phòng hộ dựa trên giả định rằng các cá nhân có những hành động ngăn ngừa và giảm nhẹ khi
tiếp xúc với một chất gây ô nhiễm môi trường như khói để đảm bảo cho cuộc sống con người được tốt đẹp, người trả lời
phải tham gia vào hành động trước khi áp dụng phương pháp này (Dickie, 2003). 89% số người được phỏng vấn đã có ít


nhất một hành động ngăn ngừa và 16% có ít nhất một hành động để giảm nhẹ những ảnh hưởng của khói gây ra trong
những tuần sau vụ cháy xảy ra.
Bảng 3 nêu ra số lượng và tỷ lệ phần trăm người được phỏng vấn thực hiện ngăn ngừa và giảm thiểu hành động cùng
với chi phí trung bình khi họ thực hiện hành động đó. Bốn đáp viên đã trả lời họ cắt giảm chi tiêu trung bình, vì vậy bất kì
chi tiêu nào của bốn người lớn hơn 3 độ lệch chuẩn từ giá trị trung bình mẫu sẽ được mã hóa lại với giá trị cao nhất để
không có số liệu bất thường.
Bảng 3 với những số liệu bất thường không được tái mã hóa có thể được tìm thấy trong Phụ lục A, Bảng A.1. Chi phí
y tế của các cá nhân trong bảng 3 không phải là tổng chi phí phát sinh bởi các nhà cung cấp bảo hiểm và các nhà cung cấp y
tế.
Cuối cùng để xác định mẫu đại diện cho các quan sát trong 5 thành phố, bảng 4 của các biến nhân khẩu học. Dữ liệu
về các đặc điểm dân số cộng đồng được lấy từ 2005-2009 của Cục điều tra dân số Mỹ ước tính trung bình trong 5 thành phố
trên. Trường hợp số liệu trung bình có sẵn, một mẫu so sánh trung bình T-test được dùng để kiểm tra sự bằng nhau của phân
phối mẫu và các giá trị dân cư. Các giả thuyết mẫu có cũng một giá trị trung bình như dân số có thể được loại bỏ ở mức 5%
cho tất cả các biến ngoại trừ biến thất nghiệp. Do đó, các mẫu quan sát đại diện là nam giới, kết hôn, da trắng, có trình độ
nhưng không có việc làm trong năm thành phố. Các mẫu của người trả lời khảo sát có khả năng chứa một tỷ lệ nam giới cao
hơn do thực tế cuộc điều tra được gửi đến người đứng đầu gia đình ,vì thế nó được liệt kê như là người đàn ông trong gia
đình .
Bảng 3 Sự ngăn ngừa và giảm thiểu của các đáp viên với chi tiêu trung bình của họ (n = 413)
Số người trả lời khảo Tỷ lệ phần trăm số Chi phí trung bình
sát
người trả lời khảo

sát
Hành động ngăn ngừa:
- Sơ tán

23

5.6 %

$257.95

- Đeo mặt nạ bảo hộ

29

7.0 %

$6.04


- Sử dụng bộ lọc không khí

88

21.3 %

$26.93

- Tránh đi làm việc

19


4.6%

$219.41 (a)

- Loại bỏ tro bụi khỏi các vật dụng trong
nhà

237

57.4 %

$8.67

- Chạy điều hòa nhiều hơn bình thường

249

60.3 %

$27.66 (b)

- Ở lại trong nhà nhiều hơn bình thường

302

73.1 %

N/A


- Tránh ra ngoài giải trí, tập thể dục

321

77.7 %

N/A

- Chăm sóc/ sử dụng thuốc theo toa

26

6.3%

$77.87 (c)

- Sử dụng thuốc không theo toa bác sĩ

52

12.6 %

$16.86

5

1.2%

$33.00


15

3.6%

$691.76

114

27.6 %

N/A

Các hoạt động giảm nhẹ:

- Đi đến nơi chăm sóc sức khỏe hiện đại
- Tránh đi làm việc
- Tránh các hoạt động vui chơi giải trí

a Khoản thu nhập mất đi do đáp viên cung cấp
b Đáp viên không được yêu cầu báo cáo chi phí này. Giá được tính bằng kWh điện mỗi ngày sử dụng trong chạy máy
điều hòa × chi phí cho mỗi kilowatt giờ × số ngày trung bình của người trả lời có hành động ngăn chặn này. Theo Ủy ban
Năng lượng California, cư dân California trung bình sử dụng 27 kW h để chạy máy điều hòa không khí trung tâm trong thời
gian 12 giờ / ngày (giả sử các điều hòa không khí được hoạt động cho 120 ngày trong năm). Theo U.S. Energy Information
Administration các cư dân tại California vào tháng Chín năm 2009 phải trả 15,76 cent cho mỗi kilowatt giờ sử dụng . Đáp
viên sử dụng máy điều hòa không khí nhiều hơn là kết quả của khói sinh ra từ những vụ cháy cho trunh bình là 6.5 ngày,
tốn một khoản chi phí là 27.66$.


c Các chi phí cơ hội trong du lịch và chăm sóc y tế được tính bằng số giờ làm việc trong các hoạt động này x tỷ lệ
tiền lương do đáp viên đề cập.

Ước lượng khả năng mô phỏng tối đa của hàm sản xuất về sức khỏe
Để tính toán các chi phí kinh tế của việc sức khỏe bị ảnh hưởng do tiếp xúc với khói của đám cháy từ rừng, một hàm sản
xuất về sức khỏe như đã nêu ra ở phương trình (1) được ước tính bằng cách sử dụng phân tích hồi quy. Số ngày phát triệu
chứng đã trải qua của người trả lời khảo sát là biến phụ thuộc được quan tâm, biến hồi quy độc lập mà được cho là sẽ ảnh
hưởng. Điều này thì bao hàm tất cả mọi thứ ở phía phải của hàm sản xuất về sức khỏe, gồm mức độ ô nhiễm, ngăn ngừa và
giảm thiểu các tác động, tiền sử sức khỏe của cá nhân, các yếu tố lối sống và các yếu tố nhân khẩu học.
Bảng 4
So sánh các mẫu với nhân khẩu học
Mẫu

Dân số

Kiểm tra thống kê (pvalue)
4.775 (0.001)
7.946 (0.001)
5.012 (0.001)
3.084 (0.002)
6.693 (0.001)
8.211 (0.001)
2.756 (0.038)
1.024 (0.307)
2.579 (0.010)

Giới tính
59.8 %
48.2%
Hôn nhân
69 %
50.7%
Người da trắng

78.8 %
68.5%
Tốt nghiệp đại học
20 %
13.9%
Cao đẳng/đại học kỹ thuật
61.6 %
45.5%
Tốt nghiệp trung học
95.8 %
87.7%
Có việc làm
56.2 %
61.3%
Thất nghiệp
7.7 %
6.3%
Thu nhập
$83,517
$90,586
Thu nhập trung bình
$75,000
$69,071
(L.A. Richardson et al. / Tạp chí Kinh tế Lâm nghiệp 18 (2012) 14-35)

Phát hiện trước đây cho thấy rằng, ngăn ngừa và giảm nhẹ tác động thường xuất hiện cùng nhau với kết quả sức khỏe và sự
điều chỉnh cho biến nội sinh này là quan trọng đối với ước lượng của các tham số hồi quy (Joyce et al., 1989; Alberini et al.,
1996; Dickie, 2005). Các biến nội sinh thường phát sinh do sự tương quan giữa các yếu tố không quan sát được ảnh hưởng



đến cả các kết quả sức khỏe cũng như sự lựa chọn các hành động ngăn ngừa và giảm thiểu tác động (Dickie, 2003). Một giải
pháp điển hình cho vấn đề các biến nội sinh là áp dụng một biến công cụ để tiếp cận, như là bình phương ít nhất hai giai
đoạn. Tuy nhiên, có khuynh hướng cho rằng các biến phụ thuộc trong phân tích của chúng tôi là một biến đếm (số ngày
triệu chứng đã trải qua), việc ngăn ngừa và giảm nhẹ các biến động nội sinh có khả năng là biến nhị phân (có hoặc không
có các hành động được quả quyết), phương pháp hai giai đoạn đơn giản sẽ không cung cấp đủ ước lượng phù hợp
(Wooldridge, 2002; Terza et al., 2008; Staub, 2009). Để kiểm soát các yếu tố nội sinh tiềm tàng trong khuôn khổ phi tuyến
tính, chúng tôi đã áp dụng triệt để mô hình mô phỏng khả năng tối đa được phát triển bởi Partha Deb và Pravin Trivedi.
Theo Deb và Trivedi (2006a, b) các mô hình có các phương trình sau cho kết quả về sức khỏe và các biến nhị phân nội sinh
hồi quy độc lập:

Pr[Yi = yi|xi, di, li] = f (x’iβ + γdi + λli)
Pr[di = 1|zi, li] = g(z’iα + δli)

(4)
(5)

Đối với mục đích của chúng tôi, trong kết quả của phương trình (4), yi đại diện cho tổng số các ngày phát triệu chứng đã trải
qua kể từ khi tiếp xúc với khói đám cháy và xi đại diện cho một vector của các biến ngoại sinh ảnh hưởng đến số ngày phát
bệnh, chẳng hạn như sự đánh giá hoặc nhận thức về mức độ ô nhiễm, loại triệu chứng đã trải qua, tiền sử sức khỏe, nhân
khẩu học và các yếu tố lối sống, với thông số liên quan là β. Những đại diện cho các biến ngoại sinh được tìm thấy đã ảnh
hưởng đến kết quả sức khỏe của một cá nhân (see Dickie, 2003; Freeman, 2003). Mức độ ô nhiễm nhận thức hay kể cả
trong thực tế cao hơn được kỳ vọng sẽ dẫn đến các ngày phát triệu chứng nhiều hơn dự kiến, trong khi các yếu tố khác
không đổi. Cá nhân có các bệnh mãn tính hay có một lối sống tổng thể kém lành mạnh được dự kiến sẽ có nhiều ngày phát
triệu chứng. Đó là không chắc chắn những các yếu tố nhân khẩu học khác được kỳ vọng sẽ xuất hiện trong những ngày phát
triệu chứng dự kiến. Các biến nhị phân hồi quy độc lập có khả năng nội sinh (tức là ngăn ngừa và giảm thiểu các tác động)
được đại diện bởi di với thông số liên quan γ. Các biến này được dự kiến sẽ có tác động tiêu cực đến ngày phát triệu chứng
dự kiến. Phần sai số trong mỗi phương trình được phân chia thành vector của các yếu tố tiềm ẩn li và mỗi số hạng sai số
ngẫu nhiên phân phối độc lập. Các yếu tố tiềm ẩn đại diện cho đặc điểm cụ thể mà cá nhân không quan sát được mà ảnh
hưởng đến cả sự lựa chọn ngăn ngừa / giảm thiểu các tác động cũng như kết quả của sức khỏe. Họ đã liên kết thông số λ
trong phương trình kết quả sức khỏe, được gọi là hệ số tải nhân tố.



Trong phương trình (5), mô hình các biến nhị phân nội sinh hồi quy độc lập, zi đại diện cho một vector của các biến ngoại
sinh mà có thể ảnh hưởng đến việc ngăn ngừa hoặc giảm nhẹ tác động của biến nội sinh, với thông số liên quan α. Đó có thể
là mức độ ô nhiễm độc, loại triệu chứng đã trải qua, tiền sử sức khỏe, nhân khẩu học, các yếu tố lối sống, cũng như lòng tin
về sự ảnh hưởng của khói cháy đối với sức khỏe. Mức độ ô nhiễm cao được dự kiến sẽ có một tác động tích cực đến khả
năng tiến hành các hành động ngăn ngừa hoặc giảm thiểu tác động, cũng như là lòng tin rằng khói cháy rừng có thể ảnh
hưởng đến sức khỏe con người. Đó không chắc chắn là những tác động của các yếu tố khác trong phương trình (4) và (5) có
thể có các biến ngoại sinh y hệt nhau. Tuy nhiên, để những khẳng định chắc chắn hơn, các biến công cụ được dùng trong
các phương trình biến nội sinh nhị phân, nhưng loại ra khỏi phương trình kết quả có thể được sử dụng. Một lần nữa, phần
sai số được phân chia thành các yếu tố tiềm ẩn li với tham số liên δ và sai số ngẫu nhiên được phân phối độc lập.
Các kết quả quan sát ngẫu nhiên biến yi và quan sát nội sinh hồi qui độc lập di được mô hình hóa bằng cách sử dụng hàm
phân phối có điều kiện f (cho một biến đếm) và g (cho một biến nhị phân). Theo Deb và Trivedi (2006a,b), sự phân bố
chung về kết quả sức khỏe và biến nội sinh hồi quy độc lập, tùy theo điều kiện vào các yếu tố tiềm ẩn chung, có thể được
quy định như sau:
Pr[Yi = yi, di = 1|xi, zi, li] = f (x’iβ + γdi + λli) ∗ g(z’iα + δli)

(6)

Mặc dù các yếu tố tiềm ẩn li là chưa xác định, nó được giả định rằng phân phối của nó được biết đến và có thể có hàm mật
độ có điều kiện phụ thuộc. Phương pháp mô phỏng khả năng tối đa (Gourieroux et al., 1984) được áp dụng. Ước tính khả
năng mô phỏng tối đa của một hàm log, đó là tương đương với tối đa hàm log nếu rút ra đủ mô phỏng để sử dụng.
Kết quả
Để tính toán các chi phí kinh tế của việc sức khỏe bị ảnh hưởng do phơi nhiễm với khói cháy từ nhà ga ta sử dụng phương
trình (3a) hoặc (3b), các nhà nghiên cứu cần phải đánh giá ảnh hưởng cận biên của bất kỳ ngăn ngừa hoặc giảm thiểu tác
động vào những ngày phát triệu chứng theo dự kiến, cùng với toàn bộ chi phí của các tác động này. Phân tích sơ bộ cho
thấy rằng “Sử dụng bộ lọc không khí trong nhà” chỉ là ngăn ngừa hoặc giảm nhẹ biến động bên trong và đó là biến số duy
nhất: có tác động tiêu cực và có ý nghĩa thống kê vào các ngày phát triệu chứng theo dự kiến. Kết quả là, biến này được tập
trung cho khả năng mô phỏng tối đa và được dùng để tính toán trong phương trình 3a. Chất làm sạch không khí và máy lọc
không khí được khuyến cáo và nên được thường xuyên sử dụng trong gia đình để giúp giảm mức độ bụi trong nhà từ các vụ



×